1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Tài ngun rừng có vai trị và ý nghĩa hết sức quan trọng đối với cuộc sống
của con người. Ngoài việc cung cấp các sản phẩm phục vụ cho việc phát triển kinh
tế, xã hội; rừng còn giữ một chức năng quan trọng khác đó là khơi phục môi trường
sinh thái, giảm nhẹ thiên tai do biến đổi khí hậu, bảo vệ nguồn nước và cải tạo đất.
Trong những năm trở lại đây, diện tích và chất lượng rừng tự nhiên của Việt Nam và
thế giới ngày một suy giảm ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường sống và khả năng
cung cấp sản phẩm rừng cho phát triển bền vững cũng như nhu cầu hằng ngày của
người dân. Theo báo cáo đánh giá tài nguyên rừng toàn cầu của tổ chức FAO (năm
2015) thì tổng diện tích rừng trên toàn thế giới giảm 3%, từ 4.128 triệu ha vào năm
1990 xuống còn 3.999 triệu ha vào năm 2015, trong đó diện tích rừng tự nhiên giảm từ
3.961 ha xuống 3.721 ha [11]. Ở Việt Nam, Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn, tổng diện tích rừng của cả nước hiện nay là 14,38 triệu ha, trong đó
diện tích rừng tự nhiên là 10,24 triệu ha, rừng trồng chiếm 4,14 triệu ha, độ che phủ
41,19% [13]. Tuy diện tích rừng và độ che phủ có tăng lên trong những năm gần đây
do thực hiện các chương trình trồng rừng, khoanh ni xúc tiến tái sinh tự nhiên...
nhưng chất lượng rừng vẫn tiếp tục bị suy giảm, do nhiều nguyên nhân trong đó có
hoạt động khai thác rừng tự nhiên khơng đúng quy trình, khai thác bất hợp pháp.
Vấn đề cần được giải quyết là làm thế nào quản lý kinh doanh rừng phải vừa
đảm bảo tốt lợi ích kinh tế vừa đem lại lợi ích thiết thực cho cộng đồng dân cư sinh
sống quanh vùng rừng và yếu tố ngày càng được quan tâm hơn là phải đảm bảo về mặt
môi trường sinh thái, không gây tác động xấu đến môi trường sống xung quanh hay
còn gọi là hướng đến quản lý rừng bền vững. Thực tế đã chỉ ra, nếu chỉ có thể quản lý
rừng bằng các biện pháp như luật pháp, cơng ước…thì khó bảo vệ được cả về diện tích
lẫn chất lượng rừng. Một trong những biện pháp quan trọng hiện nay được cộng đồng
quốc tế cũng như nhiều nước đặc biệt quan tâm đó là cùng với những giải pháp truyền
thống đã và đang được thực hiện, cần phải có giải pháp thiết lập quản lý rừng bền
vững(QLRBV) và chứng chỉ rừng(CCR).
2
Chứng chỉ rừng là cần thiết để xác nhận quản lý rừng bền vững (QLRBV) của
chủ rừng với cộng đồng quốc tế, chính phủ, các cơ quan chính phủ, người tiêu dùng
trong và ngoài nước, các chủ rừng chứng minh được nguồn gốc xuất xứ nguồn nguyên
liệu được lấy từ lô rừng được QLBV và hướng tới sản phẩm xanh sạch đảm bảo môi
trường. Theo Đề án thực hiện Quản lý rừng bền vững và Chứng chỉ rừng giai đoạn
2016 - 2020 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã được phê duyệt; mục
tiêu, nhiệm vụ của ngành lâm nghiệp đến năm 2020, có ít nhất có 500.000 ha rừng sản
xuất được cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững vững, trong đó có 350.000 ha là rừng
trồng và 150.000 ha là rừng tự nhiên [16]. Trong chiến lược phát triển lâm nghiệp
Quốc Gia năm 2006 -2020, cần phải quản lý bền vững 8,4 triệu ha rừng sản xuất trong
đó có 4,15 triệu ha rừng trồng bao gồm rừng ngun liệu cơng nghiệp tập trung, lâm
sản ngồi gỗ..., 3,36 triệu ha rừng sản xuất là rừng tự nhiên và 0,62 ha rừng tự nhiên
phục hồi sản xuất nông lâm kết hợp. Bên cạnh đó cịn phải phấn đấu ít nhất có được
30% diện tích rừng sản xuất có chứng chỉ rừng [2].
Chứng chỉ rừng là một công cụ quan trọng trong việc quản lý bền vững rừng,
đặc biệt là rừng kinh doanh, thực chất tương tự đây là chứng chỉ ISO cung cấp cho các
đơn vị kinh doanh rừng, kinh doanh gỗ và lâm sản. Trên thế giới, có khá nhiều nước áp
dụng mơ hình chứng chỉ rừng và đã góp phần quan trọng trong việc quản lý rừng bền
vững, đặc biệt là các khu vực rừng phòng hộ đầu nguồn và rừng đặc dụng, bên cạnh đó
chứng chỉ rừng cịn mang lại các lợi ích về mặt kinh tế, xã hội và môi trường cho con
người. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay, khái niệm về chứng chỉ rừng cịn rất mới mẻ,
có rất ít các cơng ty lâm nghiệp, các tổ chức, cá nhân quan tâm đến nó, có khi có quan
tâm nhưng thực tế chưa biết bắt đầu từ đâu.
Vì vậy việc nghiên cứu, đánh giá mơ hình quản lý rừng bền vững (QLRBV) và
chứng chỉ rừng (CCR) thành công để đề xuất các giải pháp phù hợp nhằm hỗ trợ các
Công ty, doanh nghiệp, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh rừng đạt hiệu quả
và đảm bảo bền vững trên cả ba yếu tố về kinh tế, xã hội và môi trường.
Mặc dù chứng chỉ rừng vừa có thể tăng khả năng tiếp cận thị trường, vừa đem
lại lợi ích về mặt kinh tế, môi trường và xã hội cho người dân nhưng nó cũng địi hỏi
khung chính sách có tính chất hỗ trợ từ các cấp chính quyền địa phương, trung ương
3
đến các cộng đồng quốc tế để nó có thể thực tế hóa các tính năng đó. Q trình áp
dụng QLRBV và CCR tại nước ta cần phải xem xét đánh giá lại một cách có hệ thống
đảm bảo giảm thiểu các tác động tiêu cực và đẩy mạnh công tác quản lý rừng, đảm bảo
sự phối hợp chặt chẻ giữa giữa các bên liên quan. Trên cơ sở đó đúc rút kinh nghiệm
để có thể áp dụng đảm bảo QLRBV và CCR là một trong những công cụ quan trọng
trong việc quản lý rừng bền vững, có trách nhiệm và những giải pháp cho việc xây
dựng khuôn khổ pháp lý nhằm khuyến khích cộng đồng, doanh nghiệp tham gia bảo
vệ và phát triển rừng cần được xác lập như thế nào cho phù hợp.
Công ty TNHH MTV Lâm nghiệp Bình Thuận (sau đây gọi tắt là Cơng ty
Lâm nghiệp Bình Thuận) được thành lập theo quyết định hợp nhất số 3616/QĐ–
UBND, ngày 16 tháng 12 năm 2015 của UBND tỉnh Bình Thuận trên cơ sở hợp nhất
2 Cơng ty là Cơng ty TNHH MTV Lâm nghiệp Bình Thuận (cũ) và Công ty TNHH
MTV Lâm nghiệp Hàm Tân.
Chức năng nhiệm vụ chủ yếu của công ty là quản lý bảo vệ rừng, trồng rừng
và khai thác rừng trồng, chế biến gỗ và cung cấp dịch vụ lâm nghiệp. Những năm
gần đây, Cơng ty đã hồn thành tốt nhiệm vụ sản xuất kinh doanh và dịch vụ lâm
nghiệp, kinh doanh có lãi, thực hiện tốt các nghĩa vụ đối với Nhà nước, đời sống cán
bộ công nhân viên được nâng cao; góp phần phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.
Để phát huy các thành quả đã đạt được, quản lý kinh doanh rừng bền vững là một
mục tiêu quan trọng mà công ty cần đạt đến nhằm thực hiện được các thành tựu về
phát triển kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường. Thực hiện Thông tư 38/2014/TTBNNPTNT, ngày 03/11/2014 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn về
“Hướng dẫn xây dựng phương án quản lý rừng bền vững”, góp phần thực hiện một
trong 3 chương trình trọng điểm của Chiến lược phát triển Lâm nghiệp quốc gia giai
đoạn 2016–2020 là chương trình quản lý rừng bền vững, với mục tiêu cụ thể là phấn
đấu đến năm 2020 phải có ít nhất khoảng 50% diện tích rừng trồng được cấp Chứng
chỉ quản lý rừng bền vững. Công ty là một trong 3 đơn vị lâm nghiệp trên địa bàn
tỉnh Bình Thuận đã được phê duyệt Phương án QLRBV. Hiện nay Công ty đã và
đang triển khai thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh theo đúng định hướng
bền vững trên cả 3 yếu tố: Kinh tế, xã hội và môi trường [14]. Như vậy, QLRBV và
4
CCR sẽ vừa là cơ hội vừa là thách thức cho Cơng ty khi muốn đưa các sản phẩm của
mình thâm nhập vào thị trường trong nước và thế giới một cách thuận lợi và đạt hiệu
quả kinh tế cao, cũng như thực hiện quản lý rừng có trách nhiệm hơn. Tuy nhiên, để
đáp ứng đầy đủ các Chỉ số, Tiêu chí của Bộ nguyên tắc QLRBV theo tiêu chuẩn
Quốc tế thì Cơng ty cịn gặp nhiều khó khăn, trở ngại, địi hỏi phải có sự đánh giá
khách quan, trên cơ sở thực trạng quản lý của Công ty, từ đó giúp Cơng ty đạt được
Chứng chỉ rừng quốc tế về QLRBV.
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, căn cứ vào điều kiện thực tế tại Công ty, đề
tài nghiên cứu: “ Đánh giá hoạt động Quản lý rừng bền vững và chứng chỉ rừng tại
Công ty Lâm nghiệp Bình Thuận, tỉnh Bình Thuận” đã được lựa chọn và thực hiện.
5
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Một số vấn đề cơ bản
1.1.1. Khái niệm về quản lý rừng bền vững
Quản lý rừng bền vững là thuật ngữ mới xuất hiện từ cuối thế kỷ XX , khi cả thế
giới nhận thấy sau vài thế kỷ tăng trưởng kinh tế nóng, tốc độ ngày càng cao, đã huỷ
hoại mơi trường, lạm dụng tài nguyên. Các tổ chức quốc tế danh tiếng về lâm nghiệp
như ITTO, IUFRO, FAO, FSC… khởi động, cổ vũ phong trào SFM - FC cùng với
hội nghị thượng đỉnh tồn cầu về mơi trường và phát triển 1992 tại Brazil .
Quản lý rừng bền vững theo tổ chức gỗ nhiệt đới quốc tế (ITTO):
" QLRBV là quá trình quản lý những lâm phận ổn định nhằm đạt được một hoặc
nhiều hơn những mục tiêu quản lý rừng đã đề ra một cách rõ ràng, như đảm bảo sản
xuất liên tục những sản phẩm và dịch vụ mong muốn mà không làm giảm đáng kể
những giá trị di truyền và năng suất tương lai của rừng và không gây ra những tác
động không mong muốn đối với môi trường tự nhiên và xã hội " [9].
Quản lý rừng bền vững theo Tiến trình Hensinki: : " QLRBV là sự quản lý rừng
và đất rừng theo cách thức và mức độ phù hợp để duy trì tính đa dạng sinh học, năng
suất, khả năng tái sinh, sức sống của rừng và duy trì tiềm năng của rừng trong quá
trình thực hiện và trong tương lai, các chức năng sinh thái, kinh tế và xã hội của rừng
ở cấp địa phương, cấp quốc gia và tồn cầu và khơng gây ra những tác hại đối với hệ
sinh thái khác".
Hai khái niệm này đã mô tả được mục tiêu chung của QLRBV là đạt được sự
ổn định về diện tích, bền vững về tính Đa dạng sinh học, về năng suất kinh tế và đảm
bảo hiệu quả về môi trường sinh thái của rừng. Tuy nhiên, vấn đề QLRBV cũng phải
đảm bảo tính linh hoạt khi áp dụng các biện pháp QLR cho phù hợp với điều kiện cụ
thể của từng địa phương được các quốc gia và quốc tế chấp nhận. Như vậy, QLRBV
được hiểu là hoạt động nhằm ngăn chặn được tình trạng mất rừng, mà trong đó việc
khai thác lợi dụng rừng không mâu thuẫn với việc duy trì diện tích và chất lượng của
rừng, đồng thời duy trì và phát huy được chức năng bảo vệ môi trường sinh thái lâu
6
bền đối với con người và thiên nhiên. Mục tiêu của QLRBV là đồng thời đạt được
bền vững trên cả 3 yếu tố: về kinh tế, môi trường và xã hội.
- Về kinh tế là bảo đảm kinh doanh rừng lâu dài liên tục với năng suất, hiệu
quả ngày càng cao (khơng khai thác lạm vào vốn rừng; duy trì và phát triển diện tích,
trữ lượng rừng; áp dụng các biện pháp kỹ thuật làm tăng năng suất rừng).
- Về mơi trường là bảo đảm kinh doanh rừng duy trì được khả năng phịng hộ
mơi trường và duy trì được tính Đa dạng sinh học của rừng, đồng thời khơng gây tác
hại đối với các hệ sinh thái khác.
- Về xã hội là bảo đảm kinh doanh rừng phải tuân thủ luật pháp, thực hiện tốt
các nghĩa vụ đóng góp cho xã hội, bảo đảm quyền hạn và quyền lợi cũng như mối
quan hệ tốt với nhân dân, cộng đồng địa phương.
1.1.2. Khái niệm về chứng chỉ rừng
Theo ISO (1998) chứng chỉ là cấp giấy xác nhận một sản phẩm, một quá trình
hay một dịch vụ đã đáp ứng các yêu cầu nhất định. CCR có đối tượng chứng chỉ là
chất lượng QLR. Hiện có nhiều định nghĩa khác nhau, nhưng đều bao hàm hai nội
dung cơ bản là: đánh giá độc lập chất lượng QLR theo một bộ tiêu chuẩn quy định
và cấp giấy chứng chỉ có thời hạn.
Như vậy, Chứng chỉ rừng, là sự xác nhận bằng giấy chứng chỉ rằng đơn vị
quản lý rừng được chứng chỉ đã đạt những tiêu chuẩn về quản lý rừng bền vững do
tổ chức chứng chỉ hoặc được uỷ quyền chứng chỉ quy định. Hay nói cách khác
Chứng chỉ rừng là quá trình đánh giá quản lý rừng để xác nhận rằng chủ rừng đạt
các yêu cầu về quản lý rừng bền vững.
Một trong những động lực quan trọng của CCR là thâm nhập thị trường tiêu thụ
sản phẩm rừng đòi hỏi có chứng chỉ. Vì vậy, CCR thường gắn liền với chứng chỉ
chuỗi hành trình (CoC) - là xác nhận sản phẩm có nguồn gốc từ rừng được chứng
chỉ. Lợi ích của CCR thể hiện ở cả ba mặt kinh tế, môi trường và xã hội.
- Về mặt kinh tế: Sản phẩm được chứng chỉ (được dán nhãn FSC) sẽ được
phép lưu thông trên mọi thị trường quốc tế, được hưởng giá bán cao hơn so với gỗ
cùng loại không có chứng chỉ khoảng 20 - 30% (với thị trường Việt Nam hiện nay).
- Về mặt môi trường: Bảo đảm cho mọi người tham gia vào thương mại lâm sản
7
có điều kiện đóng góp vào bảo vệ tài nguyên rừng, bảo tồn Đa dạng sinh học, bảo vệ
các chức năng sinh thái, phòng hộ của rừng,...
- Về mặt xã hội: Bảo đảm sự tham gia của nhiều thành phần có liên quan đến
tài nguyên rừng trong việc sử dụng rừng. Các hoạt động lâm nghiệp tìm được sự
đồng thuận của các nhóm đối tượng khác nhau, hài hồ được lợi ích cá nhân, lợi ích
cộng đồng và lợi ích của quốc gia, quốc tế. Quyền của con người được tôn trọng.
1.2. Tiếp cận chứng chỉ rừng trên Thế giới và ở Việt Nam
1.2.1. Chứng chỉ rừng trên thế giới
Năm 1992 lần đầu tiên Tổ chức gỗ nhiệt đới quốc tế (ITTO) đề ra những tiêu
chí cho quản lý bền vững rừng nhiệt đới. Hiện nay trên thế giới có một số quy trình
cấp chứng chỉ rừng đang hoạt động như Hội đồng quản trị rừng quốc tế (FSC),
Chương trình phê duyệt các quy trình chứng chỉ rừng (PEFC) của Châu Âu, sáng
kiến lâm nghiệp bền vững (SFI) của Bắc Mỹ, Hội tiêu chuẩn Canada (CSA), Quy
trình chứng chỉ quốc gia CertforChile của Chile, Viện nhãn sinh thái Indonesia (LEI)
và Hội đồng chứng chỉ gỗ Mã Lai (MTCC). Hai quy trình đang hoạt động ở cấp tồn
cầu là FSC và PEFS, trong khi đó các quy trình khác chỉ hoạt động ở cấp vùng hoặc
quốc gia.
Trên thế giới chứng chỉ rừng được xem xét từ nhiều khía cạnh nhưng vẫn được
coi là một công cụ hỗ trợ đắc lực cho chính sách và các hoạt động của chính phủ
nhằm kiểm soát việc khai thác gỗ bất hợp pháp đã bị thất bại, đặc biệt với những
cánh rừng nhiệt đới đồng thời đó cũng là một q trình giúp cho cơng tác quản lý
phù hợp với môi trường, xã hội mang lại lợi ích kinh tế. Nhìn chung chứng chỉ rừng
có 02 mục tiêu chính: (1) Cải thiện tình trạng thực tiễn của việc quản lý rừng và (2)
tạo ra những thuận lợi về mặt thị trường cho người sản xuất các sản phẩm được cấp
chứng chỉ. Việc sử dụng các công cụ kinh tế để bảo vệ môi trường được các chuyên
gia về kinh kế và các tổ chức quốc tế lớn trên thế giới (OECD, hoặc WB) khuyến
khích trong gần hai thập kỷ qua. Trong một đánh giá gần đây, tổ chức phát triển quốc
tế (OECD) đã coi chứng chỉ làm một khuyến khích kinh tế gián tiếp với định nghĩa
là: “Bất kỳ một cơ chế nào tạo ra hoặc cải thiện các tín hiệu thị trường và giá cả đối
với tài nguyên sinh học, khuyến khích bảo tồn và sử dụng bền vững tính đa dạng sinh
8
học”.
Tại Đức, chính phủ thơng báo chỉ mua gỗ có nguồn gốc hợp pháp trên cơ sở
quản lý rừng bền vững. Hệ thống cấp chứng chỉ PEFC được sử dụng như một cơng
cụ chứng minh tính hợp pháp của gỗ và các sản phẩm làm từ gỗ. Chính phủ liên bang
đã xây dựng bộ quy chế nhằm chống lại việc khai thác gỗ bất hợp pháp và khẳng
định để ngăn chặn sự suy thối của rừng thì việc áp dụng các phương pháp quản lý
rừng bền vững là một việc làm bắt buộc và rất cần thiết.
Tại Thụy Điển, FSC thành lập một nhóm xây dựng bộ chứng chỉ từ năm 1996,
thành phần của nhóm xây dựng bao gồm đại diện các doanh nghiệp lâm nghiệp,
chính quyền, các viện nghiên cứu, các tổ chức phi chính phủ... và đến năm 1998 nội
dung cơ bản của bộ công cụ đã được hồn thành. Hệ thống chứng chỉ rừng ở đây có
thể được đánh giá là nghiêm khắc nhất trong tất các các hệ thống đang áp dụng cấp
chứng chỉ hiện nay trên thế giới. Nó được xây dựng với mục tiêu bảo tồn thiên nhiên
trong cả các khu vực rừng sản xuất vì vậy những chủ rừng lớn và các cơ quan trong
chính phủ phải lồng ghép những quy định bắt buộc đó vào các văn bản hướng dẫn.
Tại Canada, chính phủ nước này chính thức cam kết quản lý rừng bền vững
bằng việc xây dựng và phê duyệt chiến lược lâm nghiệp quốc gia và quản lý rừng
bền vững vào năm 1992. Hiện nay Canada có tới hơn 20triệu ha rừng đã được cấp
chứng chỉ quản lý rừng bền vững lớn nhất trên thế giới
Tại Châu Á, từ những năm 1990, khi thảo luận về các vấn đề về rừng thì việc
quản lý rừng bền vững và cấp CCR ln được thảo luận sôi nổi hơn cả, việc đưa ra
các tiêu chuẩn cũng được cân nhắc để đảm bảo tính hợp lý và phù hợp với chính sách
của từng nước khác nhau. Tuy nhiên do ở Châu Á có nhiều kiểu rừng khác nhau nên
việc đưa ra một bộ tiêu chuẩn để áp dụng chung vẫn chưa thực hiện được. Cấp CCR
được khẳng định là công cụ quan trọng và là cơng cụ chính sách mạnh mẽ nhất trong
quản lý rừng được các nước trong khu vực Châu Á khẳng định. Để tham gia vào các
hoạt động cấp CCR theo các nước trên thế giới, Châu Á cũng dần dần tham gia vào
các hoạt động cho việc cấp CCR như: tham gia vào các cuộc họp thượng đỉnh trái đất
năm 1992 và là thành viên của tổ chức ITTO. Tuy nhiên thành tựu của các nước Châu
Á còn bị hạn chế nhiều do gặp nhiều khó khăn trong việc cấp chứng chỉ rừng do tính bền
9
vững chưa có, các khó khăn về chính sách đất đai,cấp quản lý, nạn khai thác và buôn bán
gỗ, động vật hoang dã bất hợp pháp vẫn là vấn đề ảnh hưởng lớn đến quản lý rừng và cấp
CCR.
Hai động lực thúc đẩy sự hình thành hệ thống Quản lý rừng bền vững và Chứng
chỉ rừng là xuất phát từ các nước sản xuất các sản phẩm gỗ nhiệt đới mong muốn tái lập
một lâm phận sản xuất ổn định và khách hàng tiêu thụ sản phẩm gỗ nhiệt đới mong
muốn điều tiết việc khai thác rừng để đáp ứng các chức năng sinh thái toàn thái toàn
cầu. Vấn đề đặt ra là phải phải xây dựng những tổ chức đánh giá QLRBV. Trên quy mô
quốc tế, FSC đã được thành lập để xét công nhận tư cách của các tổ chức xét và cấp
CCR. Với sự phát triển của QLRBV, Canada đã đề nghị đặt vấn đề QLRBV trong hệ
thống quản lý môi trường theo tiêu chuẩn ISO 14001 ].
Trên thế giới hiện nay đã có nhiều bộ tiêu chuẩn QLRBV cấp quốc gia như: Canada,
Thụy Điển, Malaysia, Indonesia, …; cấp vùng như Bắc Mỹ (SFI), Đông Nam Á
(ASEAN), …; cấp quốc tế như tiến trình Helsinki, tiến trình Montreal, FSC và ITTO
mặc dù có phạm vi hoạt động khác nhau nhưng đều có mục tiêu chung là hướng đến
QLRBV. Hiện nay “những Tiêu chuẩn và những Tiêu chí QLRBV" của FSC quốc tế đã
được cơng nhận và đã được áp dụng ở nhiều nước trên thế giới. Nhiều tổ chức được FSC
uỷ quyền cấp Chứng chỉ rừng, nhiều quốc gia đã và đang dùng bộ tiêu chuẩn này để
xây dựng Bộ tiêu chuẩn cấp vùng hay cấp quốc gia cho việc đánh giá QLR và cấp CCR
[3].
Tính đến tháng 6 năm 2017, tồn thế giới đã có xấp xỉ 500 triệu ha rừng đạt tiêu
chuẩn QLRBV (FM và FM/CoC) và 43.296 chứng chỉ đạt tiêu chuẩn Chuỗi hành
trình sản phẩm (CoC) được cấp bởi 2 hệ thống CCR Quốc tế là PEFC
(The Programme for the Endorsement of Forest Certification – Chương trình xác
nhận CCR) và FSC (The Forest Stewardship Council – Hội đồng Quản trị rừng thế
giới).
Theo số liệu tháng 3/2018, chứng chỉ FSC đã cấp cho 85 nước với 1.553 chứng
chỉ FM/CoC tương đương diện tích 199.274.841 ha và 33.759 chứng chỉ CoC cho
122 nước. Nước đứng đầu về diện tích rừng được cấp chứng chỉ QLRBV FSC là
10
Canada với 54.586.671 ha và đứng thứ hai là Nga với diện tích được cấp chứng chỉ
là 46.021.489 ha; nước đứng đầu về chứng chỉ FSC CoC là Trung Quốc với 5.599
chứng chỉ và xếp thứ hai là Hoa Kỳ với 2.559 chứng chỉ [17].
Chứng chỉ PEFC đã cấp cho 34 nước chứng chỉ FM/CoC với hơn 750.000 chủ
rừng với diện tích là 300.980.324 ha và 11.105 chứng chỉ CoC cho 70 nước. Nước
đứng đầu về diện tích rừng được cấp chứng chỉ QLRBV PEFC FM là Canada với
131.119,991ha và đứng thứ hai là Hoa Kỳ với diện tích được cấp chứng chỉ là
33.371.408 ha; nước đứng đầu về chứng chỉ PEFC CoC là Pháp với 2.029 chứng chỉ
và xếp thứ hai là Đức với 1.707 chứng chỉ [15].
Hình1.1: Diện tích rừng có chứng chỉ FSC theo Châu lục tính đến tháng 3/2018
Qua Hình 1 cho thấy rằng Châu Âu có diện tích được cấp chứng chỉ nhiều
nhất, kế tiếp là khu vực Bắc Mỹ. Lý do chính là: các nước ở hai châu lục này phần
lớn là những nước đã phát triển, chất lượng QLR đạt trình độ cao và gần như đã đạt
các tiêu chuẩn CCR; Quy mô diện tích rừng thường rất lớn, phần lớn là rừng trồng
nên việc đánh giá cấp chứng chỉ dễ dàng và ít tốn kém hơn so với rừng tự nhiên
nhiệt đới; Sản xuất lâm nghiệp có quy mơ lớn, hàng năm khai thác hàng chục triệu
m3 gỗ, nhu cầu thâm nhập vào thị trường có chứng chỉ rất lớn do vậy làm cho động
lực thị trường gỗ có CCR cao; Quyền sở hữu rừng tại các quốc gia này chủ yếu là
11
sở hữu tư nhân, do vậy tính tự chủ, độc lập của chủ rừng trong mọi hoạt động về
quản lý, tái đầu tư, sử dụng tài chính trong kinh doanh và quản lý rừng rất cao, tạo
điều kiện quan trọng cho việc nâng cao và duy trì quản lý rừng đạt được yêu cầu của
CCR.
Các khu vực khác như: Châu Á, Châu Phi, Châu Đại Dương và Nam Mỹ Caribe, diện tích được cấp chứng chỉ cịn thấp (chiếm tỷ lệ 15,9% trong tổng diện
tích do FSC cấp chứng chỉ trên toàn cầu). Nguyên nhân chủ yếu là: Các nước trong
khu vực này phần lớn là kém phát triển, công tác quản lý rừng cịn ở trình độ thấp,
các chủ rừng khơng có đủ nguồn lực cải thiện QLR để đạt tiêu chuẩn QLRBV theo
tiêu chuẩn FSC; Đối tượng rừng chủ yếu là rừng tự nhiên, phân bố trên các địa hình
đồi núi phức tạp và chi phí cho CCR cũng là một yếu tố hạn chế cản trở tiến trình
cấp chứng chỉ rừng
Hình 1.2: Diện tích rừng các nước ASEAN được FSC cấp chứng chỉ rừng tính
đến tháng 3/2018
Ở khu vực ASEAN, diện tích rừng được FSC cấp chứng chỉ đã tăng lên
đáng kể trong những năm gần đây, hiện tổng diện tích rừng được cấp chứng
chỉ là 4.075.738 ha với 104 giấy chứng chỉ cho 6 quốc gia, Indonesia là nước
đứng đầu về diện tích được cấp chứng chỉ với 3.003.251 ha. (trong khi đó,
năm 2007, diện tích được cấp chứng chỉ là 859.983 ha với 15 giấy chứng chỉ
cho 5 quốc gia) [17].
12
1.2.2. Chứng chỉ rừng tại Việt Nam
Việt Nam đã tham gia hoạt động cấp CCR từ những năm 1998 cho tới
nay, cụ thể các giai đoạn như sau:
Từ năm 1998, Quỹ quốc tế về bảo vệ thiên nhiên (World Wide Fund for
Nature - WWF) đã phối hợp chặt chẽ với Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn, cục Phát triển Lâm nghiệp, Cục Kiểm lâm và một số cơ quan trong ngành
lâm nghiệp trong việc tổ chức các hội thảo quốc gia về quản lý rừng bền vững.
Từ đó đến nay, WWF Đông dương là tổ chức giúp đỡ chủ yếu về tài chính và
kỹ thuật cho Tổ cơng tác quốc gia Việt Nam trong việc xây dựng bộ tiêu chuẩn
quốc gia về quản lý rừng bền vững dựa theo các nguyên tắc và tiêu chuẩn của
FSC.
Giai đoạn 1998 - 2003 hoạt động thúc đẩy Quản lý Bảo vệ rừng chủ yếu
là do tổ công tác Quốc gia (NWG) cùng với sự phối hợp của các tổ chức khác
như TFT(Tropical Forest Trust), dự án REFAS, WWF Đơng Dương góp phần
đẩy mạnh q trình cải thiện quản lý rừng thơng qua các dự án hỗ trợ kỹ thuật
cho một số chủ rừng xây dựng mơ hình Chứng chỉ rừng. Từ năm 2004, các tổ
chức này đã đẩy mạnh các hoạt đông theo từng chương trình riêng trong việc
hỗ trợ các đơn vị quản lý rừng, thường là đơn vị lâm trường tiếp cận các tiêu
chuẩn Quản lý bảo vệ rừng của FSC.
Năm 2002, FSC đã khởi xướng một chương trình gọi là “Tăng khả năng
tiếp cận tới chứng chỉ FSC cho các khu rừng quản lý quy mô nhỏ và kém tập
trung”, được biết như là “Sáng kiến SLIMF”. Và chứng chỉ nhóm được thiết kế
nhằm giảm bớt các chi phí và tăng cơ hội cho các chủ rừng tham gia vào chứng
chỉ FSC thơng qua việc đóng góp các chi phí chứng chỉ giữa các chủ rừng.
Việc cấp chứng chỉ rừng tại Việt Nam ban đầu đã nhận được sự ủng hộ
của các cấp chính quyền địa phương, sự hăng hái và tự nguyện của các chủ
rừng và tiến trình đi đến quản lý rừng bền vững để đạt được chứng chỉ rừng đã
đạt được một số tiến bộ nhất định, nhất là tại các khu vực khai thác chế biến
13
xuất khẩu gỗ hoặc các cơng ty lâm nghiệp có liên quan đến xuất khẩu gỗ. Việc
áp dụng chứng chỉ rừng như một công cụ để quản lý bền vững rừng và tài
nguyên thiên nhiên thực sự đang là vấn đề cần thiết ở các cấp độ chính quyền
địa phương, các công ty lâm nghiệp, các đơn vị cá nhân là các chủ rừng quy
mô nhỏ lẻ. Đặc biệt trong bối cảnh kinh tế chung hiện nay trên toàn thế giới,
nếu chúng ta không theo kịp yêu cầu thị trường thế giới thì sẽ bị loại bỏ, điều
đó khẳng địnhnhư sản phẩm lâm sản của chúng ta sản xuất từ các sản phẩm gỗ
khơng có chứng chỉ thì chúng ta không thể xuất sang các thị trường lớn trên
thế giới như Châu Âu, Châu Mỹ được. Do vậy việc áp dụng công cụ hoặc
phương pháp/tiêu chuẩn trong quản lý rừng để đạt được đến cấp chứng chỉ
rừng là mục tiêu hàng đầu của các công ty lâm nghiệp của cả khối nhà nước và
khối tư nhân và hộ gia đình trồng rừng.
Về lý luận cũng như thực tiễn, QLRBV và CCR ở Việt Nam vẫn cịn khá
mới mẻ, cịn có nhiều khoảng trống chưa được đề cập. Mặc dù, tính đến tháng
3/2018, cả nước đã có hơn 234.856 ha rừng được cấp chứng chỉ FSC [17],
nhưng diện tích được cấp chứng chỉ là rừng trồng chiếm 56% và được triển
khai một cách tự phát từ một số doanh nghiệp có tiềm năng. Về quản lý rừng
tự nhiên ở Việt Nam cho đến nay mới chỉ xây dựng được 10 mô hình thí điểm
về QLRBV rừng tự nhiên là rừng sản xuất. Đến tháng 6 năm 2017, có 5 mơ
hình QLRBV đối với rừng tự nhiên với quy mô lớn của Tổng công ty Lâm
nghiệp Việt Nam (VINAFOR) với 17.549 ha rừng tự nhiên; Công ty Lâm
nghiệp Đắc Tô, Kon Tum (hơn 15.700 ha rừng tự nhiên); Công ty lâm nghiệp
Nam Trường Sơn (31.800 ha rừng tự nhiên) thuộc Tổng công ty Lâm Nơng
Cơng nghiệp Long Đại, Quảng Bình; Cơng ty Đại Thành, Đắk Nông
(18.590,30 ha rừng tự nhiên) và Công ty lâm nghiệp Hương Sơn, Hà
Tĩnh(19.749 ha rừng tự nhiên) được cấp chứng chỉ FSC [15].
Hiện tại, Việt Nam là một nước xuất khẩu đồ gỗ ngoài trời hàng đầu thế
giới nhưng thị trường cung cấp nguồn nguyên liệu có chứng chỉ rừng hiện nay
14
chưa đáp ứng được yêu cầu xuất khẩu, doanh nghiệp trong nước đang khát
nguồn gỗ CCR. Do vậy việc tìm kiếm các nguồn gỗ có chứng chỉ với giá thành
đáp ứng được yêu cầu ngày càng được các đơn vị kinh doanh về lâm sản quan
tâm hàng đầu. Đây cũng có thể được đánh giá là một động cơ để khuyến khích
các cơ sở kinh doanh, các cơng ty lâm nghiệp bắt tay làm cầu nối thị trường
bền vững với các chủ rừng để tiến hành thực hiện các hoạt động cấp chứng chỉ
rừng, đáp ứng được yêu cầu của các nước nhập khẩu đề ra và cải thiện được
tình trạng quản lý rừng hiện tại của nước ta cũng như tăng được các lợi ích về
mơi trường, kinh tế, xã hội cho các chủ rừng, các cấp chính quyền địa phương
và người dân.
1.3. Thảo luận về tổng quan nghiên cứu.
Tổng quan những vấn đề liên quan đến tiến trình xây dựng Quản lý rừng
bền vững và Chứng chỉ rừng trên thế giới và ở Việt Nam cho thấy nổi lên một
số nội dung như sau:
- Các chính sách lâm nghiệp ở Việt Nam cũng như của các quốc gia khác
trên thế giới được xây dựng từ trước đến nay đều nhằm hướng đến đạt được 3
mục tiêu chính là: 1. Bảo vệ và phát triển diện tích và chất lượng rừng, bảo tồn
ĐDSH và chống suy thối mơi trường sống; 2. Duy trì và phát triển nguồn
cung cấp sản phẩm rừng cho phát triển kinh tế và đáp ứng nhu cầu hàng ngày
của nhân dân; 3. Giải quyết các vấn đề xã hội như việc làm, tăng thu nhập cho
người dân, góp phần xóa đói giảm nghèo, ổn định tình hình dân sinh, kinh tế,
xã hội.
- Xu hướng Quản lý rừng bền vững và Chứng chỉ rừng hiện đang là giải
pháp quan trọng được toàn thể cộng đồng thế giới nói chung và Việt Nam nói
riêng đặc biệt quan tâm nhằm đảm bảo cho việc quản lý, sử dụng, xây dựng và
phát triển rừng bền vững vì những mục tiêu về kinh tế, môi trường và xã hội.
- Nhiều Doanh nghiệp lâm nghiệp trong nước (Trong đó có các Doanh
nghiệp khu vực từ Bình Thuận trở vào) chưa tích cực tham gia tiến trình này
15
bởi nhiều lý do: thiếu thông tin, thiếu cơ sở khoa học cũng như hành lang
pháp lý, cơ chế chính sách cho hoạt động này.
- Mặc dù các cơ sở về mặt pháp lý đã cơ bản đầy đủ, song để Quản lý
rừng bền vững và Chứng chỉ rừng phát triển ở Việt Nam, địi hỏi Chính phủ,
các Bộ ngành và các cấp chính quyền địa phương cần ban hành các chính
sách mới có tác dụng thúc đẩy Quản lý rừng bền vững và Chứng chỉ rừng,
nghiên cứu sửa đổi các chính sách cũ, loại bỏ các chính sách gây cản trở cho
thực hiện tiêu chuẩn Quản lý rừng bền vững.
- Mặc dù Quản lý rừng bền vững và Chứng chỉ rừng tiến triển còn chậm
tại Việt Nam. Tuy nhiên hiện nay đã có nhiều đơn vị chủ rừng trong cả nước
đang triển khai hoạt động này thông qua các chương trình, dự án quốc tế hỗ trợ
nhằm đánh giá trình độ quản lý rừng làm cơ sở để lập kế hoạch cải thiện quản
lý rừng tiến tới cấp Chứng chỉ rừng. Đặc biệt là sự quan tâm của các cấp ban
ngành Trung ương liên quan đến công tác Quản lý rừng bền vững và Chứng
chỉ rừng thông qua việc xây dựng ban hành một sô văn bản chỉ đạo, hướng dẫn
liên quan (Thông tư: 38/2014/TT-BNNPTNT ngày 03/11/2014 của Bộ Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn về “ Hướng dẫn về Phương án quản lý rừng
bền vững”; Quyết định số 2810/QĐ-BNN-TCLN ngày 16/7/2015 của Bộ
Nông nghiệp & PTNT về việc “Phê duyệt kế hoạch hành động về quản lý
rừng bền vững và chứng chỉ rừng giai đoạn 2015 – 2020…), đây là một động
lực lớn nhằm thúc đẩy các doanh nghiệp lâm nghiệp trong cả nước thực hiện
chương trình Quản lý rừng bền vững và Chứng chỉ rừng.
Qua phân tích tổng quan cho thấy trên thế giới và ở Việt Nam trong giai
đoạn vừa qua đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm để phát triển Quản lý rừng
bền vững và Chứng chỉ rừng. Đã có sự quan tâm kịp thời của các cơ quan ban
ngành tư Trung ương tới địa phương về Quản lý rừng bền vững và Chứng chỉ
rừng. Đây là những cơ sở quan trọng cho những nghiên cứu tiếp theo nhằm
giúp cho các doanh nghiệp lâm nghiệp, chủ rừng cộng đồng hoặc hộ gia đình
16
từng bước tiếp cận với công tác quản lý rừng theo hướng bền vững, đảm bảo
tuân thủ các tiêu chí quản lý rừng của quốc tế, tiến tới được cấp Chứng chỉ
rừng. Tuy nhiên, chưa có những đánh giá đầy đủ khả năng đáp ứng và những
thiếu hụt của các chủ rừng nhằm thực hiện Quản lý rừng bền vững và Chứng
chỉ rừng. Do vậy, đề tài này tập trung nghiên cứu đánh giá khả năng đáp ứng
đó và chỉ ra những tồn tại, vướng mắc, thiếu sót, từ đó đề ra những giải pháp
để cải thiện cả về 3 mặt kinh tế, xã hội và môi trường để tiến đến quản lý rừng
bền vững đáp ứng bộ tiêu chuẩn Quản lý rừng bền vững của quốc tế, tiến tới
cấp chứng chỉ rừng cho các Công ty lâm nghiệp.
17
CHƯƠNG II
ĐẶC ĐIỂM ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN
VÀ KINH TẾ XÃ HỘI KHU VỰC NGHIÊN CỨU
Hình 2.1. Bản đồ hiện trạng rừng của Cơng ty LN Bình Thuận
2.1. Điều kiện tự nhiên
2.1.1. Vị trí địa lý
Tổng diện tích rừng và đất rừng của Cơng ty Lâm nghiệp Bình Thuận quản lý
phân bố trên 4 Xí nghiệp Lâm nghiệp: Xí nghiệp LN Hàm Thuận Bắc (nằm trên địa
bàn huyện Hàm Thuận Bắc), Xí nghiệp LN Bắc Bình (nằm trên địa bàn huyện Bắc
18
Bình), Xí nghiệp LN Hàm Thuận Nam (nằm trên địa bàn huyện Hàm Thuận Nam) và
Xí nghiệp LN Hàm Tân (nằm trên địa bàn huyện Hàm Tân, TX.Lagi).
Ranh giới hành chính theo từng Xí nghiệp như sau:
a/ Xí nghiệp LN Bắc Bình
Khu vực Dự án trồng rừng nguyên liệu thuộc địa bàn xã Lương Sơn (nay là Thị
trấn Lương Sơn, xã Hịa Thắng và xã Sơng Bình) và xã Sơng Lũy - thuộc huyện Bắc
Bình. Có vị trí địa lý như sau:
+ Phía Bắc giáp khu vực rừng phịng hộ Cà Giây
+ Phía Nam giáp khu vục đất sản xuất chun canh màu trên cát của dân;
+ Phía Đơng giáp sơng Ma Hý;
+ Phía Tây giáp sơng Cà Tót đổ về Sơng Lũy.
b/ Xí nghiệp LN Hàm Thuận Nam
+ Phía Bắc giáp ranh giới rừng phịng hộ Sơng Móng- Ca Pét;
+ Phía Nam giáp đất nơng nghiệp chun canh màu của dân;
+ Phía Đơng giáp đất nơng nghiệp của dân, sơng Kơ t;
+ Phía Tây giáp Núi Đền, ranh giới rừng phịng hộ Sơng Móng- Ca Pét.
c/ Xí nghiệp LN Hàm Thuận Bắc
+ Phía Bắc giáp Ban QLRPH Hàm Thuận – Đa Mi;
+ Phía Nam giáp Sơng La Ngà;
+ Phía Tây giáp đất Xã La Dạ;
+ Phía Đơng giáp đất Xã La Dạ.
d/ Xí nghiệp LN Hàm Tân
+ Phía Bắc giáp huyện Tánh Linh;
+ Phía Nam giáp Biển Đơng;
+ Phía Đơng giáp huyện Hàm Thuận Nam;
+ Phía Tây giáp tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu và Đồng Nai.
2.1.2. Địa hình
* Độ cao bình quân so với mặt nước biển.
- Từ 60 – 80 m đối với XN Bắc Bình và XN Hàm Thuận Nam;
- Từ 350 - 400 mét đối với XN Hàm Thuận Bắc.
19
* Độ dốc bình quân
- Từ 0 - 8 độ đối với XN Bắc Bình và XN Hàm Thuận Nam;
- Từ 8 - 10 độ đối với XN Hàm Thuận Bắc.
* Tình trạng xói mịn: trung bình.
* Địa hình.
- Tương đối bằng phẳng đối với XN Bắc Bình và XN Hàm Thuận Nam;
- Tương đối dốc, theo kiểu đồi bát úp đối với XN Hàm Thuận Bắc;
- Đối với Xí nghiệp LN Hàm Tân : Diện tích Xí nghiệp quản lý có địa hình khá
thuận lợi, thuộc dạng địa hình chính là vùng đồi thoải lượn sóng; có độ cao so với
mực nước biển khoảng 70 m, nghiêng dần từ Bắc xuống Nam với độ dốc nhỏ hơn 5 0.
Vùng này có địa hình thoải phẳng, rất thuận lợi cho việc sản xuất và kinh doanh nghề
rừng.
2.1.3. Đặc điểm đất đai
Cơng ty Lâm nghiệp Bình Thuận phân bố trên các nhóm đất chính như: i) Đất
cát đỏ, cát trắng, độ dầy tầng dất từ 70–100cm; độ dốc từ 0- 5 độ, tầng mùn ít, độ kết
dính rời rạc, khả năng giữ nước kém, bốc hơi mạnh, ảnh hưởng lớn đến sinh trưởng
và phát triển của cây trồng trong mùa khô; ii) Đất Feralít, đất xám trên đá phiến xa.
Độ dốc từ 3 – 8 độ, độ dầy tầng đất từ 30 – 50 cm, tỷ lệ mùn tầng mặt ít, độ cao so
với mặt nước biển từ 70 m trở lên. Là lọai đất ít mùn, thành phần dinh dưỡng thấp;
iii) Đất Sialit-Feralit phát triển trên mẫu chất phù sa cổ (ISF V b1). Đất có thành phần
cơ giới từ cát pha đến thịt nhẹ, màu nâu đậm, tầng đất dày trên 50 cm, độ dốc từ 0-8
độ, diện tích chiếm khoảng 85 % diện tích tự nhiên khu vực; nằm ở vùng giáp ranh
đất nông nghiệp của dân. Loại đất này tương đối phù hợp với việc trồng cây gây
rừng; iv) Đất Feralit phát triển trên đá mẹ Granit (IFTa1), có màu nâu đỏ, thành phần
cơ giới là cát pha, cát tơi, rời, khơ. Là loại đất ít mùn, thành phần dinh dưởng thấp, ít
thích hợp cho cơng tác trồng cây gây rừng; v) Đất Feralit phát triển trên Gơlalit (F^),
mẫu phù sa cổ (SFu). Độ dốc từ 0 đến 8 độ, thành phần cơ giới là đất cát pha đến thịt
nhẹ, tầng đất dày trên 50cm, hàm lượng mùn trung bình; vi) Đất phù sa mùn gley
(Gley - Umbric Fluvisols): phân bố ở xã Tân Thắng, Thắng Hải, Tân Phước. Thành
phần cơ giới đất từ trung bình đến nặng, tỷ lệ sét cao, hàm lượng mùn cao, đất chua,
20
lân tổng số nghèo, kali tổng số giàu; vii) Đất phù sa được bồi (UmbriHumi - Eutric
Fluvisols): Phân bố ở các hạ lưu sơng, suối có tỉ lệ sét tương đối cao, khả năng giữ
nước, giữ chất dinh dưỡng khá. Đất chua (pHKCl 4,5), giàu mùn (>4%) và độ phân
giải yếu (C/N =15), hàm lượng đạm 0,15 - 0,16%, P205 dễ tiêu 15 mg/100g đất; viii)
Đất xám trên phù sa cổ (Veti - Haplic Acrisols): Có thành phần cơ giới từ nhẹ đến
trung bình, độ giữ nước và hấp thụ cation thấp, đất thường chua, nghèo mùn, độ phì
thấp, hàm lượng đạm và lân tổng số nghèo.
2.1.4. Khí hậu thủy văn
Điều kiện khí hậu ảnh hưởng trên tồn bộ lâm phận quản lý của Cơng ty
phân hóa theo mùa và khu vực theo hướng tăng dần về phía Nam. Có thể phân
chia thành 2 khu vực địa lý như sau:
- Vùng ven biển phía Đơng, phạm vi bao gồm tồn huyện Bắc Bình. Đây là
vùng chịu ảnh hưởng chủ yếu của khí hậu ven biển Nam Trung Bộ, lượng mưa ít,
thiếu ẩm và khô hạn nhất tỉnh, đất đai kém dinh dưỡng, thực vật nghèo nàn, có
khoảng 70.000 ha đất cát ven biển khô hạn thiếu nước...
- Vùng giữa theo hướng Tây Bắc - Đông Nam thuộc phạm vi huyện Hàm
Thuận Bắc, Hàm Thuận Nam và Hàm Tân. Đây là vùng mưa vừa, có lượng mưa
ổn định, đất đai tương đối khá, nếu có nước tưới có thể thích hợp để phát triển
nhiều loại cây công nghiệp ngắn ngày hàng năm và lúa.
Sự phân hóa mạnh mẽ về điều kiện khí hậu giữa 2 khu vực có tác động và
chi phối rất lớn đến cơng tác bố trí sản xuất kinh doanh cũng như năng suất chất
lượng rừng của Công ty. Xác định được đặc thù khí hậu mỗi vùng sẽ là tiền đề
quan trọng để đưa ra những giáp pháp hợp lý trong công tác nâng cao chất lượng
công tác sản xuất, quản lý bảo vệ rừng.
2.1.5. Tài nguyên rừng và đất lâm nghiệp
Tổng diện tích Cơng ty Lâm nghiệp Bình Thuận hiện nay được giao quản lý
17.745,22 ha. Trong đó ở địa bàn huyện Hàm Thuận Nam là 7.634,09 ha, huyện
Hàm Thuận Bắc là 1.659,48 ha, huyện Bắc Bình là 1.508,38 ha, huyện Hàm Tân,
TX.Lagi là 6.940,77 ha và khu vực TP. Phan Thiết: 2,5 ha (đất phi nơng nghiệp).
Diện tích theo hiên trạng được phân bố như sau:
21
- Đất có rừng là 12.880,81 ha, chiếm 72,6% diện tích quản lý của Cơng ty.
Trong đó, rừng trồng: 9.940,8 ha, rừng tự nhiên: 2.940,01 ha;
- Đất khơng có rừng quy hoạch cho lâm nghiệp, đất khác là 2.954,51 ha,
chiếm 16,6%;
-
Đất dân sản xuất ổn định (quy hoạch trả về địa phương quản lý) là
1.886,87 ha, chiếm 10,6%;
- Đất trụ sở, nhà xưởng, Vườn ươm là 23,03 ha chiếm 0,2 %.
2.1.6. Đánh giá tổng quát về đất đai
Đặc trưng cơ bản của đất trong khu vực Công ty Lâm nghiệp Bình Thuận
quản lý này là tầng đất mỏng đến trung bình; thành phần cơ giới từ cát pha đến
thịt nhẹ, hàm lượng mùn từ nghèo đến trung bình, đất hơi chua với độ pH từ 5,56,0; các chất khoáng, vi lượng đạt thấp; hàm lượng đạm, lân nghèo; đất tương đối
khơ. Thậm chí có khu vực đất được hình thành từ q trình xói mịn, rửa trơi
mạnh trong thời gian dài, ở vùng khí hậu nhiệt đới có lượng mưa tương đối lớn và
tập trung, khi lớp phủ thực vật đã bị cạn kiệt. Thường phân bố trên địa hình lượn
sóng nhẹ, thoải, mức độ chia cắt mạnh hơn so với khu vực phân bố đất xám và đất
xám bạc màu trên phù sa cổ, tập trung ở hầu hết các xã.
Đặc điểm của đất như vậy dẫn đến khả năng canh tác Nơng – Lâm nghiệp
gặp nhiều khó khăn. Do đó, khi chọn lựa cây trồng cần chọn những cây cải tạo
đất, cây có khả năng chịu khơ hạn và có khả năng chống chịu sâu bệnh đã mọc tốt
trên vùng này để cải tạo đất, cải thiện môi trường.
Qua kinh nghiệm sản xuất nhiều năm qua nhận thấy 2 lồi cây trồng có khả
năng thích ứng cao với khu vực là keo và bạch đàn. Nhất là khi sử dụng cây con
hom hoặc mơ có xuất xứ từ các dịng thích hợp đã qua tuyển chọn. Cũng có thể
lựa chọn một số loài cây bản địa phù hợp với vùng sinh thái theo khuyến cáo của
Tổng cục Lâm nghiệp.
2.2. Tình hình kinh tế - xã hội
2.2.1. Đặc điểm chung về kinh tế
Những năm gần đây tình hình kinh tế của các khu vực thuộc vùng dự án của
Công ty Lâm nghiệp Bình Thuận có sự tăng trưởng khá. Cơ cấu kinh tế có nhiều
22
thay đổi phù hợp với xu thế chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh, tăng dần tỷ trọng
các ngành phi nông nghiệp (đặc biệt là lĩnh vực dịch vụ). Ngành lâm nghiệp tuy
chiếm tỷ trọng nhỏ trong cơ cấu giá trị sản xuất nhưng lại có ý nghĩa rất lớn về
mặt môi trường và phát triển các dịch vụ du lịch.
Ngành Nơng – Lâm cũng có rất nhiều thay đổi, hiệu quả kinh tế từ trồng
rừng là khá cao đã tác động tích cực để người dân trong vùng mạnh dạn chuyển
đổi cơ cấu cây trồng từ cây ngắn ngày sang trồng keo lai. Nhờ chọn được giống
tốt và áp dụng đúng kỹ thuật trồng, chăm sóc nên năng suất rừng trồng của người
dân đạt khá cao. Với giá bán như hiện nay, trừ hết chi phí, mỗi ha còn được lãi từ
60 - 70 triệu đồng sau 4-5 năm. Đây cũng là điều kiện để những gia đình kinh tế
khó khăn có cơ hội vươn lên phát triển kinh tế và thoát nghèo bền vững.
2.2.2. Đặc điểm xã hội
* Khu vực Hàm Tân – La Gi
Tổng dân số trên địa bàn thị xã La Gi và huyện Hàm Tân là 182.035 người,
chiếm 15,1% dân số toàn tỉnh. Dân số phân bố không đều giữa các phường nội thị
và các xã vùng ven, giữa các xã, thị trấn.
Thị xã La Gi dân số 108.849 người, phân bố tập trung đơng ở các
phường ven biển, nơi có nhiều lợi thế về phát triển kinh tế biển và cơ sở hạ tầng
tương đối hoàn thiện; sinh sống trên địa bàn chủ yếu là dân tộc kinh. Mật độ dân
số bình quân toàn thị xã 590,7 người/km2,
Huyện Hàm Tân dân số 73.186 người đa số tập trung với mật độ cao tại các
xã, thị trấn ở phía Đơng của huyện, dọc theo Quốc lộ 1A và Quốc lộ 55, là nơi có
nhiều điều kiện thuận lợi trong sinh hoạt đời sống cũng như phát triển kinh tế;
sinh sống trên địa bàn chủ yếu là dân tộc Kinh và một số dân tộc thiểu số như dân
tộc Chăm sống ở xã Tân Thắng, dân tộc Răclay sống tập trung ở xã Sông Phan,
Tân Hà, Tân Xn.
Tình trạng phân bố dân cư khơng đồng đều đã ảnh hưởng đến phát triển kinh
tế trên địa bàn, áp lực về dân số, nơi thiếu, nơi thừa đất canh tác, đòi hỏi phải đầu
tư xây dựng kết cấu hạ tầng cũng như bố trí dân cư hợp lý trong tương lai.
* Khu vực Hàm Thuận Nam, Hàm Thuận Bắc, Bắc Bình
23
- Hàm Thuận Nam
Dân số toàn huyện là 102.686 người, trong đó: thành thị 13.225 người, nơng
thơn 89.461 người. Trình độ văn hóa, chun mơn và quản lý của người lao động
chưa cao nên việc chuyển giao và ứng dụng những tiến bộ kỹ thuật mới vào thực
tiễn sản xuất việc thực hiện, hiện đại hóa nơng nghiệp nơng thơn cịn nhiều bất
cập, gặp nhiều khó khăn. Số liệu thống kê cho thấy dân số vùng nông thôn chiếm
tới 87,12 % so với dân số của huyện. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng đối với
việc cải thiện đời sống và cơ hội giải quyết việc làm cho một bộ phận lao động rất
quan trọng trong cơ cấu dân số và lao động của huyện.
Huyện Hàm Thuận Nam có nhiều dân tộc khác nhau sinh sống như Kinh,
Rarai, Chăm, K’Ho … trong đó dân tộc Kinh chiếm đa số với trên 95%. Cộng
đồng dân cư thiểu số chủ yếu là người K’Ho, Chăm, Rarai sống tập trung ở các xã
vùng cao với tập quán sản xuất làm nghề rừng, làm nương rẫy, một bộ phận nhỏ
trồng lúa nước và được tổ chức thành những buôn làng, các luật tục, lễ thức gắn
chặt với buôn làng. Cộng đồng người Kinh tập trung ở vùng đồng bằng, ven quốc
lộ nơi có điều kiện thuận tiện buôn bán, trồng lúa nước, cây Thanh Long. Các
cộng đồng dân cư của huyện theo một số tơn giáo chính như: Phật giáo, đạo Bà La
Mơn, Thiên chúa giáo, Tin lành và Lương giáo.
- Hàm Thuận Bắc
Huyện Hàm Thuận Bắc được hình thành vào khoảng thế kỷ 19, địa giới của
huyện đã nhiều lần thay đổi với các tên gọi như quận Thiện Giáo (trước giải
phóng), huyện Hàm Thuận (sau giải phóng) và đến năm 1993 được tách thành hai
huyện là: Hàm Thuận Bắc và Hàm Thuận Nam. Hiện nay có 173.740 người đang
làm việc trong các ngành kinh tế trong đó lao động nữ có 92.777 người chiếm
53,4%.
- Huyện Bắc Bình
Khu vực quản lý của Cơng ty tại Bắc Bình nằm giáp ranh với khu vực sản
xuất nông nghiệp của người địa phương trong vùng, cách thành phố Phan Thiết
khoảng 50km. Dân số toàn huyện là 118.014 người, phân bố trên địa bàn 18 xã,
thị trấn trong toàn huyện, chủ yếu là dân tộc Kinh chiếm trên 93%. Ngồi ra, cịn
24
có 1 số dân tộc thiểu số khác như dân tộc Chăm, Raglay, Hoa và một số dân tộc
khác. Dân số của huyện phân bố khơng đều, khu vực có mật độ dân số cao nhất là
1.053 người/km2 và khu vực có mật độ thấp nhất là 64 người/km2. Họ chủ yếu
sống bằng nghề sản xuất nông nghiệp. Phần lớn nhân dân trong vùng dự án có
trình độ dân trí tương đối thấp. Do đó nhận thức cịn nhiều hạn chế về pháp luật
nhất là trong lĩnh đất đai, quản lý bảo vệ rừng. Các cộng đồng dân cư của huyện
theo một số tơn giáo chính như: Phật Giáo , Đạo Bà La Môn, Đạo Bà Ni, Thiên
chúa giáo, Tin lành và Lương giáo.
2.3. Kết cấu hạ tầng
2.3.1. Giao thông
Một số tuyến đường giao thơng trong khu vực có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt
động của Công ty:
- Quốc lộ 1A: có 2 tuyến đường ảnh hưởng trực tiếp: từ văn phịng Cơng ty đến
Hàm Thuận Nam với chiều dài 19 km; từ văn phịng Cơng ty đến Bắc Bình với chiều
dài 47 km;
- Đường đi Mỹ Thạnh, đoạn từ Km 14 – Xí nghiệp LN Hàm Thuận Nam với
chiều dài 9 km (tuyến đường rải nhựa liên xã);
- Quốc lộ 28: tuyến đường: từ văn phịng Cơng ty đến Xí nghiệp LN Hàm
Thuận Bắc với chiều dài 21 km; đi tiếp tỉnh lộ 714 đến xí nghiệp 39km.
- Đường giao thơng Nơng thơn: Từ các xí nghiệp LN trực thuộc đến các trạm
QLBVR, với chiều dài trung bình từ 1 – 6 km;
- Quốc lộ 1A: Chiều dài qua địa bàn XN LN Hàm Tân: 30 km;
- Quốc lộ 55: Chiều dài qua khu vực từ thị trấn Tân Nghĩa đến xã Thắng Hải
là 50 km;
- Tỉnh lộ 719: Chiều dài qua khu vực từ thị xã La Gi đến xã Tân Hải là 18 km.
2.3.2. Các cơng trình hạ tầng cơ sở khác
- 100% xã trên địa bàn cơng ty đóng qn đều đã có điện lưới và trạm y tế xã;
- Các xã đều có hệ thống trường học đến cấp PT cơ sở, huyện có trường PT
Trung học;
- Hệ thống chợ và thị trường tiêu thụ Nơng – Lâm sản đều cơ bản hồn thiện;
25
- Hệ thống bưu điện và Ngân hàng phục vụ trong vùng đáp ứng được nhu cầu
của nhân dân;
- Hệ thống giao thơng cơng cộng và vận tải hàng hóa xuống đến cấp xã.
Nhận xét: Hệ thống giao thông đa dạng với mật độ cao, tạo điều kiện thuận lợi
cho Công ty trong việc quản lý sản xuất, kinh doanh rừng, trồng rừng, khai thác, vận
chuyển tiêu thụ lâm sản. Tuy nhiên, điều đó cũng tạo ra áp lực đối với công tác bảo
vệ rừng, ngăn chặn lấn chiếm đất đai của Cơng ty.
2.4. Đánh giá chung về tình hình kinh tế xã hội
2.4.1.Thuận lợi
Nhìn chung trong những năm qua kinh tế của các địa phương thuộc địa bàn của
Công ty Lâm nghiệp Bình Thuận đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể, đời sống vật
chất, tinh thần của nhân dân ngày càng được cải thiện. Hệ thống cơ sở hạ tầng đã được
các cấp ủy đảng, chính quyền địa phương quan tâm đầu tư như giao thông, cấp điện,
trường học, trạm y tế,... Các chính sách phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước
đã thực sự đi vào cuộc sống, đóng góp quan trọng trong việc ổn định và phát triển kinh
tế xã hội, an ninh, quốc phòng của địa phương. Những thành tựu trong quá trình phát
triển kinh tế xã hội của địa phương là điều kiện rất thuận lợi, đồng thời cũng là đòn bẩy
thúc đẩy Công ty thực hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ đã được UBND tỉnh giao cho.
2.4.2. Hạn chế và khó khăn
Mặc dù vậy, với xuất phát điểm cịn ở mức thấp, nên thực tế nền kinh tế - xã hội của
địa phương cũng bộc lộ một số hạn chế, ảnh hưởng không nhỏ đến các hoạt động của
Công ty Lâm nghiệp Bình Thuận trong việc thực hiện các mục tiệu nhiệm vụ được giao.
Những hạn chế này cần được khắc phục trong thời gian tới, cụ thể:
- Cơ cấu kinh tế khu vực nơng lâm nghiệp cịn chiếm tỷ lệ lớn, sự chuyển dịch
cơ cấu kinh tế giữa các ngành diễn ra chậm và chưa theo chiều hướng phát triển đặc
biệt là khu vực đô thị.
- Kinh tế dịch vụ thương mại và du lịch được xác định là một trong những
ngành trọng điểm, đặc biệt là địa bàn thị xã Lagi, tuy nhiên hiệu quả và tốc độ phát
triển của ngành chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế, chưa tạo được bước đột
phá trong phát triển kinh tế xã hội.