THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến: "Nâng cao chất lượng rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh
lớp 5”
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Môn Tiếng Việt.
3. Tác giả:
Họ và tên: Nguyễn Thị Hảo
Nam (nữ): Nữ
Ngày tháng năm sinh: 8 tháng 01 năm 1971
Trình độ chuyên môn: CĐSP
Chức vụ, đơn vị công tác: Giáo viên trường Tiểu học Vĩnh Hồng
Điện thoại: 0395415438
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Trường Tiểu học Vĩnh Hồng, xã Vĩnh Hồng,
huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Điện thoại 03203777807
5. Đơn vị áp dụng sáng kiến lần đầu: Trường Tiểu học Vĩnh Hồng, xã Vĩnh
Hồng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Điện thoại 03203777807;
năm học: 2020-2021;
6. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: Nhà trường - HS là điều kiện
cần thiết để sáng kiến được áp dụng hiệu quả. Ngồi ra, thầy cơ và các phương pháp
dạy học … cũng góp phần khơng nhỏ tạo nên sự thành công của sáng kiến.
7. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: Từ đầu năm học 2020 – 2021.
TÁC GIẢ
(ký, ghi rõ họ tên)
XÁC NHẬN CỦA ĐƠN VỊ ÁP
DỤNG SÁNG KIẾN
Nguyễn Thị Hảo
1
TĨM TẮT SÁNG KIẾN
Tiếng Việt có vai trị quan trọng trong đời sống con người. Nó là cơng cụ để giúp
con người giao tiếp và tư duy. Ở bậc tiểu học Tiếng Việt càng quan trọng hơn, vì đó là
tiếng phổ thơng dùng trong giao tiếp chính thức hàng ngày của các em. Bên cạnh đó,
Tiếng Việt cịn có nhiệm vụ hình thành năng lực hoạt động ngơn ngữ cho học sinh.
Năng lực hoạt động ngôn ngữ này được thể hiện ở bốn dạng hoạt động tương ứng với
bốn kỹ năng “nghe, nói, đọc, viết”. Trong đó đọc là một dạng hoạt động ngơn ngữ, là
q trình chuyển dạng nhận thức chữ viết sang âm thanh và thơng hiểu nó. Đọc được chủ
yếu hình thành trong phân mơn Tập đọc và Tập đọc là một phân mơn có vị trí đặc biệt
trong chương trình Tiếng Việt cấp Tiểu học vì nó đảm nhiệm việc hình thành và phát
triển cho học sinh kĩ năng đọc, một kĩ năng quan trọng hàng đầu của học sinh ở cấp học
đầu tiên này.Biết đọc, con người có khả năng tiếp nhận những kinh nghiệm của đời sống,
những thành tựu văn hoá, khoa học, những tinh hoa văn hố nhân loại.Đọc tốt có tác
dụng trở lại tư duy. Đọc có ý nghĩa rất to lớn. Nó bao hàm các mặt giáo dục, giáo dưỡng
và phát triển (mỗi ngày một hiểu biết, trí tuệ phát triển hơn, đạo đức, tình cảm được hình
thành). Đọc để thâu tóm nội dung của tác phẩm, đọc bài để hiểu rõ tư tưởng chủ đề của
bài. Đọc tốt tức là truyền được nội dung và cảm xúc của bài văn, bài thơ tới người nghe
một phần lớn mà chưa cần giảng giải. Đọc tốt là năng lực ngôn ngữ và năng lực văn học
đã được hình thành. Chính vì vậy mà quan tâm đến việc rèn đọc cho học sinh ở bất kì
lớp nào là điều hết sức cần thiết.
Đối với học sinh lớp 5, trên cơ sở kĩ năng đọc đã được rèn luyện ở các lớp dưới,
các em sẽ được tiếp tục củng cố và nâng cao kĩ năng đọc một cách toàn diện để đảm
bảm yêu cầu đọc trơn, đọc thầm với tốc nhanh hơn, nâng cao hơn về kĩ năng đọc diễn
cảm và kĩ năng đọc hiểu văn bản. Qua thực tế nhiều năm dạy học trên lớp, tôi nhận
thấy chất lượng đọc của học sinh còn thấp đặc biệt là đọc diễn cảm. Còn nhiều em đọc
ngọng, ngắt nghỉ hơi chưa đúng và còn nặng về đọc vẹt; nhiều học sinh đọc rất nhỏ,
chưa rõ ràng lưu lốt, phát âm cịn sai, chưa biết đọc diễn cảm văn bản. Đọc để thâu
tóm nội dung của tác phẩm, đọc bài để hiểu rõ tư tưởng chủ đề của bài còn hạn chế.
Trước những yêu cầu đặt ra cho sự nghiệp giáo dục, vì những lí do như đã nêu trên, để
góp phần nâng cao chất lượng đọc cho học sinh, tơi xin trình bày sáng kiến "Một số
biện pháp nâng cao chất lượng rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5".
Sáng kiến này có thể được áp dụng trong suốt năm học này và các năm học tiếp
theo đối với các đối tượng học sinh lớp 3, 4, 5 để giúp các em sẽ hiểu rõ hơn và có thể
2
đọc, viết đúng và nâng cao dần chất lượng đọc diễn cảm. Cũng từ đó giúp các em chủ
động, tự tin hơn trong giao tiếp.
Với sáng kiến này, ngoài việc giúp học sinh cải thiện kĩ năng đọc và tiến tới đọc
đúng, đọc hay, đọc diễn cảm, tôi muốn chỉ rõ ra các sai lầm cơ bản mà học sinh mắc
phải. Từ đó sẽ có những biện pháp cụ thể, thiết thực, cung cấp cho học sinh một số kĩ
năng cơ bản để các em sẽ khắc phục được những sai sót của mình.
Sau khi sáng kiến được áp dụng vào giảng dạy tại lớp 5A do tôi phụ trách, tôi nhận
thấy tất cả học sinh trong lớp tôi chất lượng đọc được nâng lên một cách đáng kể. Đa
số các em đọc đúng, rõ ràng, lưu lốt, trơi chảy, diễn cảm văn bản của học sinh tăng lên
rõ rệt. Đặc biệt số học sinh đọc chậm, đọc nhỏ, đọc đánh vần giảm hẳn và cịn giúp học
sinh u thích môn học, hứng thú, sôi nổi tham gia vào các hoạt động của giờ học: chơi
mà học, học mà chơi mơn học mang đến bao điều bổ ích, niềm vui của thiên nhiên và
cuộc sống quanh ta.
Để giúp áp dụng và mở rộng sáng kiến này đòi hỏi giáo viên phải là người có
chun mơn vững vàng, có tâm huyết với nghề. Ngoài ra phải được đầu tư tốt về thời
gian,trang thiết bị phục vụ cho quá trình giảng dạy.
Với những kết quả đã đạt được sau khi vận dụng sáng kiến"Một số biện pháp
nâng cao chất lượng rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5" chất lượng phân môn
Tiếng Việt (Phần đọc) của lớp tôi phụ trách đã được nâng lên rõ rệt. Tôi hy vọng sáng kiến
này sẽ được các thầy cô giáo nghiên cứu bổ sung và vận dụng đạt hiệu quả cao hơn trong
thời gian tới, góp phần nâng cao chất ượng mơn Tiếng Việt nói chung phân mơn Tập đọc
nói riêng.
3
MƠ TẢ SÁNG KIẾN
1. Hồn cảnh nảy sinh sáng kiến
Để đáp ứng yêu cầu khoa học của thời đại trong bối cảnh Việt Nam hội nhập vào
cộng đồng, khu vực và quốc tế, việc đổi mới nội dung và phương pháp dạy học là yêu
cầu bức thiết của thực tế dạy học hiện nay trong các nhà trường. Trong các môn học ở
Tiểu học, Tiếng Việt là môn học hết sức đặc biệt. Nó gồm nhiều phân mơn như: Tập
đọc, Luyện từ và câu, Tập làm văn, Chính tả, Kể chuyện, Tập viết… Mỗi phân mơn
đều có vai trị, nhiệm vụ khác nhau. Trong mơn Tiếng Việt thì Tập đọc là phân môn cơ
sở chiếm nhiều số tiết dạy. Phân mơn Tập đọc mang tính tổng hợp, nó có vai trị rất
quan trọng vì thơng qua việc học mơn Tập đọc học sinh không chỉ đơn giản biết đọc
một văn bản, biết giao tiếp, nắm bắt được những thông tin đang diễn ra hàng ngày
trong xã hội… mà các em còn được trau dồi các kiến thức về Tiếng Việt, về đời sống,
tình cảm và thẩm mĩ. Đặc biệt phân môn Tập đọc không chỉ tập trung rèn kỹ năng đọc
cho học sinh mà còn giúp các em được tiếp xúc với một thế giới mới để nâng cao tầm
hiểu biết, nâng cao về những xúc cảm tình cảm với cuộc sống con người, hơn nữa trong
chương trình mới, phân mơn Tập đọc với loại hình văn bản (ngữ liệu bài học) mới đa
dạng, phong phú gồm các văn bản nghệ thuật được trích ra từ các tác phẩm văn học
trong nước và ngoài nước. Các loại văn bản khác thuộc phong cách báo chí, khoa học,
hành chính sẽ là cơ hội để giúp các em hiểu thêm về các vấn đề xã hội, kinh tế, văn hoá
phù hợp với môi trường và lứa tuổi các em. Mặt khác, khi đọc các tác phẩm văn
chương học sinh không chỉ được thức tỉnh về nhận thức mà còn rung động về tình cảm,
nảy nở những ước mơ tốt đẹp. Qua các bài văn, bài thơ các em được hiểu thêm về các
vùng miền của đất nước, hiểu được công sức của các tầng lớp nhân dân đang ra sức xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, hiểu được truyền thống quý báu của dân tộc. Phân mơn Tập
đọc góp phần rất lớn vào quá trình hình thành và phát triển các năng lực đặc thù của
mơn Tiếng Việt. Chính vì lẽ đó mà việc dạy đọc ở tiểu học có ý nghĩa to lớn, nó trở
thành một địi hỏi cơ bản đầu tiên đối với mỗi người đi học, nó cịn là công cụ để học
sinh học tập các môn học khác. Học sinh đọc tốt, đọc một cách có ý thức sẽ giúp các
em hiểu biết nhiều hơn, bồi dưỡng cho các em lòng yêu cái đẹp, cái thiện, dạy các em
biết suy nghĩ một cách lôgic, biết sử dụng từ chính xác ...
Đối với lớp 5, trên cơ sở củng cố, nâng cao kĩ năng đọc trơn, đọc thầm được phát
triển từ các lớp dưới, phân môn Tập đọc hướng tới kĩ năng mới là đọc diễn cảm. Do kĩ
năng đọc trơn, đọc thầm đã được phát triển và nâng cao, học sinh lớp 5 có khả năng
4
hiểu, cảm thụ được nội dung và giá trị của bài tập đọc một cách sâu hơn, việc tìm hiểu,
phát hiện giá trị một số biện pháp nghệ thuật trong các văn bản văn chương vừa giúp
học sinh trau dồi năng lực cảm thụ văn học để chuẩn bị cho học ở các lớp trên, vừa trực
tiếp phục vụ cho yêu cầu đọc diễn cảm ở lớp 5. Nội dung các bài tập đọc ở lớp 5 vừa
mở rộng vốn hiểu biết, bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, nhân cách cho học sinh, vừa thể
hiện tính tích hợp phục vụ cho yêu cầu học tập các môn học khác.
Trên thực tế hiện nay, qua quá trình dạy học trên lớp, tơi nhận thấy chất lượng đọc
của học sinh cịn thấp đặc biệt là đọc diễn cảm. Còn nhiều em đọc ngọng, ngắt nghỉ hơi
chưa đúng, chưa đọc đúng ngữ điệu bài văn, bài thơ, chưa đọc phân biệt lời các nhân
vật trong bài và còn nặng về đọc vẹt. Vậy cần phải làm như thế nào để học sinh đọc
đúng, đọc nhanh, đọc hay hơn, diễn cảm hơn ? Làm thế nào để các em hiểu được văn
bản đọc, để cho những gì các em đọc được tác động chính vào cuộc sống của các em...
đó là trăn trở của mỗi giáo viên trong mỗi giờ dạy tập đọc.
Trước những yêu cầu đặt ra cho sự nghiệp giáo dục, với mong muốn nho nhỏ giúp
các em học sinh lớp 5 đọc chính xác từ ngữ, mạch lạc cụm từ, câu văn, tôi cố gắng học
hỏi đồng nghiệp, đọc sách tham khảo, sách hướng dẫn giáo viên, tìm tịi nghiên cứu,
thử nghiệm và bước đầu đã rút ra cho mình được sáng kiến nhỏ: "Một số biện pháp
nâng cao chất lượng rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5".
2. Thực trạng của vấn đề cần nghiên cứu
Như chúng ta đã biết, việc dạy tập đọc hiện nay được tiến hành một cách có hệ
thống mang tính chủ động, khoa học hơn. Đặc biệt với các bài Tập đọc - học thuộc
lòng ở lớp 5 được giới thiệu trong sách giáo khoa đã thể hiện được tính khoa học rất
cao. Các bài đều có cấu trúc chặt chẽ, nội dung đa dạng phong phú gồm nhiều thể loại,
nhiều chủ đề khác nhau xung quanh cuộc sống, xã hội con người thuộc nhiều lĩnh vực
từ những mảng gần gũi với đời sống hàng ngày của các em như: Con người với thiên
nhiên, Giữ lấy mầu xanh, ... đến những điều thiêng liêng, rộng lớn như: Tổ quốc, Hồ
bình. Hạnh phúc con người........
Những năm trực tiếp giảng dạy ở các lớp 4 + 5 đặc biệt là lớp 5, qua những buổi
đi dự giờ thăm lớp cũng như trực tiếp kiểm tra đánh giá học sinh ở những đợt khảo sát
chất lượng (phần đọc), tơi nhận thấy có khơng ít học sinh đọc bài còn ấp úng, phát âm
chưa chuẩn, ngắt nghỉ hơi chưa chính xác và đặc biệt là có rất ít học sinh đọc diễn cảm
kể cả những em khá, giỏi. Cụ thể khi đọc các bài tập đọc có các tên riêng nước ngồi
cịn nhiều em đọc chưa được lưu lốt hoặc đọc chưa đúng. Ví dụ ở bài: “Những con
5
sếu bằng giấy, Sự sụp đổ của chế độ a-pác-thai, Một vụ đắm tàu,… Ngồi ra, vẫn cịn
khơng ít học sinh chưa thể hiện được ngữ điệu khi đọc, chưa nhấn giọng đúng các từ
ngữ, đặc biệt là chưa đọc phân biệt lời của các nhân vật, nhất là khi đọc các văn bản
nghệ thuật. Ví dụ khi đọc bài: “ Về ngôi nhà đang xây” – Tiếng Việt 5, Tập I/ trang
148. Vì đây là bài thơ được viết theo thể thơ tự do nên khi đọc cần ngắt nghỉ đúng giữa
các dịng thơ mà khơng ngắt nghỉ theo nhịp thơ do vậy hầu hết học sinh mới chỉ đọc
với giọng đều đều mà chưa đọc đúng ngữ điệu bài thơ, chưa ngắt nghỉ đúng giữa các
dòng thơ và đặc biệt chưa biết nhấn giọng những từ ngữ gợi tả, gợi cảm trong bài thơ
để làm nổi bật hình ảnh ngôi nhà đang xây. Hay khi đọc các bài là đoạn trích của một
vở kịch: Lịng dân – Tiếng Việt 5, tập I/ trang 24; Người công dân số Một – Tiếng Việt
5, tập II/ trang 4 hoặc những bài có lời đối thoại của các nhân vật như: “Thái sư Trần
Thủ Độ”- Tiếng Việt 5, tập I/ trang 15; “Phân xử tài tình” – Tiếng Việt 5, tập I/ trang
46; “Tác phẩm của Si-le và tên phát xít” – Tiếng Việt 5, Tập I/ trang 58 … học sinh hầu
như chưa đọc phân biệt lời của từng nhân vật; chưa thể hiện được tình cảm, thái độ qua
giọng đọc sao cho phù hợp với tính cách, tâm trạng của mỗi nhân vật. Mặt khác, khi
đọc – học thuộc lòng các đoạn văn, bài thơ hầu hết các em mới chỉ dừng lại ở mức độ
đọc thuộc mà chưa chú ý đến việc nhấn giọng khi đọc, chưa đọc đúng nhịp thơ, đọc
đúng ngữ điệu… nên dẫn đến ngắt nghỉ cịn sai.
Ngồi ra vẫn cịn một số học sinh chưa thực sự hứng thú khi đọc bài, đọc vẫn còn
nhỏ và chưa rõ ràng và ngọng các phụ âm l/n, vần anh, inh, ênh... ; dấu hỏi, ngã.
Tôi đã tiến hành tìm hiểu, trao đổi trực tiếp với các đồng nghiệp trong tổ, khối và nhận
thấy nguyên nhân dẫn đến tình trạng nêu trên là do:
2.1. Đối với giáo viên:
- Phần luyện đọc đúng, nhiều giáo viên cho là dễ nhưng thực ra là phần khó nhất, là
nội dung trọng tâm và rất quan trọng trong mỗi tiết Tập đọc. Song thực tế vẫn có khơng
ít giáo viên cịn hay sa đà quá và dành nhiều thời gian cho phần tìm hiểu bài mà chưa
chú trọng đến việc rèn đọc cho học sinh như thế nào cho có hiệu quả để phát huy tính
tích cực, sáng tạo của mỗi học sinh.
- Giáo viên chưa để ý đến tốc độ đọc của từng em. Đây là điểm vướng mắc khá phổ
biến mà nhiều giáo viên chưa tìm ra cách tháo gỡ.
- Phần hướng dẫn học sinh đọc thầm còn mang tính hình thức, chưa có nhiều hình thức
đọc khác nhau để gây hứng thú học tập cho học sinh.
6
- Trong q trình dạy tập đọc, giáo viên cịn xem nhẹ việc rèn luyện cảm thụ văn học
cho học sinh, chưa dẫn dắt từng bước để học sinh thâm nhập và tự khám phá về cái
hay, cái đẹp trong bài văn, chưa khuyến khích học sinh đọc thêm sách báo ở nhà, chưa
rèn cho các em thói quen tìm đọc sách ở thư viện, thói quen dùng sách cơng cụ (như từ
điển, sổ tay từ ngữ, ngữ pháp …) và thói quen ghi chép những thơng tin cần thiết khi
đọc …
- Việc phân bố thời gian trong mỗi tiết học tập đọc cịn chưa hợp lí, có phần dạy q
sâu dài dịng khơng cần thiết (phần tìm hiểu bài), có phần lại hời hợt, chỉ dạy lướt
(phần rèn đọc diễn cảm ).
- Một số giáo viên khi đọc mẫu còn phát âm chưa chuẩn phụ âm đầu l/n; sử dụng đồ
dùng chưa hợp lí, lạm dụng đồ dùng làm phân tán sự tập trung chú ý của học sinh vào
bài dạy. Tranh ảnh minh hoạ còn phụ thuộc vào sách giáo khoa, chất lượng không cao
dẫn đến việc khai thác nội dung bài qua tranh còn hạn chế.
- Việc hướng dẫn, rèn đọc diễn cảm cho học sinh, giáo viên mới chỉ dừng lại ở các tiết
học tập đọc cịn ở các tiết học khác thì hầu như chưa được quan tâm chú ý đến.
2.2. Đối với học sinh:
- Các em chưa thực sự tập trung vào bài học, chưa nắm được cách đọc, cách ngắt nghỉ
hơi ở những câu dài và cách ngắt nhịp thơ.
- Ý thức tự học, tự chuẩn bị bài trước khi đến lớp của học sinh chưa tốt. Qua trao đổi
với học sinh trong lớp, tơi nhận thấy hầu hết các em khơng có thói quen đọc trước bài
tập đọc ở nhà.
- Tỉ lệ học sinh đọc chậm, ấp úng, đọc ngọng còn nhiều. Ít học sinh hiểu và cảm thụ
được nội dung bài đọc. Một số em đọc diễn cảm nhưng chưa có khả năng thể hiện
được tính chất của từng thể loại văn bản. Khi trả lời câu hỏi các em phụ thuộc nhiều
vào sách giáo khoa (đọc cả câu, đoạn) chứ không chọn lọc ra ý để trả lời. Chưa biết
diễn đạt thành câu văn, các em tiếp thu bài không đầy đủ, hiểu bài hời hợt không sâu,
chưa cảm thụ được cái hay cái đẹp của tác phẩm, chưa vận dụng được kiến thức đã
học vào cuộc sống.
- Học sinh chưa tự giác, chưa kiên trì luyện đọc ở mọi lúc, mọi nơi, ở trong tất cả các
giờ học…
Từ những thực tế nêu trên dẫn đến kết quả đọc của các em không cao. Tôi đã tiến
hành khảo sát chất lượng đọc của lớp lớp 5A và lớp 5D, với đề bài cụ thể như sau:
7
Bắt thăm và đọc một trong các bài đọc và trả lời câu hỏi về nội dung đoạn, bài vừa
đọc.
Bài 1: Thư gửi các học sinh.
Bài 2: Một chuyên gia máy xúc.
Bài 3: Những người bạn tốt
Bài 4: Những co sếu bằng giấy
Bài 5: Một chuyên gia máy xúc
(Thời gian: Cuối tháng 9)
Vì việc khảo sát tồn bộ số học sinh của cả 2 lớp cần nhiều thời gian do đó tơi
tiến hành kiểm tra trong 2 tuần ở các tiết: Tiếng Việt (T), Tập đọc (phần kiểm tra bài
cũ) và trong giờ truy bài. Trong thời gian đó, tơi đã nắm bắt được khả năng đọc của tất
cả học sinh của 2 lớp. Hình thức khảo sát này khơng gây ảnh hưởng đến tâm lí và thời
lượng học các môn học khác của các em. Giáo viên kiểm tra, theo dõi, đánh giá chính
xác từng em. Nếu em nào mà còn chưa bộc lộ hết năng khiếu hoặc sai sót thì kiểm tra
lại một đến hai lần, phát hiện ưu nhược điểm của học sinh đó.
Kết quả đạt được cụ thể như sau:
Lớp 5A(31em) Lớp 5D(31em)
Mức độ đọc
SL
%
SL
%
Đọc lưu lốt, trơi chảy, bước đầu có biểu cảm
5em
16
5 em
16
Đọc đúng, rõ ràng, rành mạch
16 em
52
17 em
55
Đọc nhỏ, chưa rõ ràng, phát âm sai
10 em
32
9 em
29
Thông qua việc khảo sát tôi thấy lỗi phát âm (đọc) của các em cũng một phần là
do ảnh hưởng của phương ngữ địa phương. Những sai sót khi đọc thành tiếng của các
em được chia thành ba loại phổ biến như sau:
+ Loại 1: Đọc ngọng các phụ âm đầu dễ lẫn (l/n, r/d/gi, tr/ch/ s/x,..) Đọc sai về dấu
thanh (sắc với ngã; ” hỏi” với “ nặng”);
+ Loại 2 Đọc vấp hoặc lặp từ, đọc dời dạc các tiếng của một từ phức;
+ Loại 3: Đọc ngắt nghỉ chưa đúng, giọng đọc chưa có sắc thái biểu cảm.
Đó là một số thực trạng trong thực tế dạy và học của một số giáo viên và của học
sinh lớp 5A và 5D.
3. Các biện pháp nâng cao chất lượng rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh
lớp 5.
3.1 . Nghiên cứu kĩ nội dung, chương trình khi dạy phân mơn Tập đọc lớp 5.
8
Tập đọc là phân môn thực hành, nhiệm vụ quan trọng nhất là hình thành năng lực
đọc cho học sinh. Năng lực đọc được tạo nên từ các kĩ năng: đọc đúng, đọc nhanh (đọc
lưu lốt, trơi chảy), đọc có ý thức (còn gọi là đọc hiểu) và đọc diễn cảm. Các kĩ năng
này được hình thành qua hai hình thức đọc: đọc thành tiếng và đọc thầm. Chúng được
rèn luyện, tác động hỗ trợ lẫn nhau, vì vậy khi dạy tập đọc khơng được xem nhẹ yếu tố
nào. Ngồi ra dạy tập đọc cịn góp phần giáo dục lịng ham đọc sách, hình thành
phương pháp và thói quen làm việc với văn bản, làm việc với sách cho học sinh; hình
thành năng lực tự học. tự giải quyết vấn đề, năng lực nghiên cứu tài liệu và tự học cho
các em.
Ở lớp 5, phân môn Tập đọc rèn cho học sinh các kĩ năng đọc, nghe, nói. Việc dạy
kĩ năng đọc cho học sinh được thực hiện thông qua hệ thống văn bản thuộc các loại
hình nghệ thuật, báo chí, khoa học được tuyển chọn phù hợp và đưa vào Sách giáo
khoa Tiếng Việt (hai tập) với các chủ điểm đã học bao gồm 40 bài văn xuôi, 2 vở kịch
(trích), 18 bài thơ. Cũng như ở các lớp dưới, thơng qua việc luyện đọc và tìm hiểu nội
dung bài đọc, học sinh có thêm hiểu biết về thiên nhiên, xã hội và con người, được mở
rộng vốn từ, nâng cao khả năng diễn đạt, trang bị một số hiểu biết ban đầu về tác phẩm
văn học (như đề tài, cốt truyện, nhân vật…) và góp phần rèn luyện nhân cách cho học
sinh. Tuy nhiên, các bài tập đọc ở lớp 5 có số lượng từ nhiều hơn, việc luyện đọc đã
chú ý nhiều hơn đến yêu cầu biểu cảm và câu hỏi tìm hiểu bài cũng chú trọng khai thác
các chi tiết có giá trị nghệ thuật nhiều hơn. Cụ thể là đối với những bài đọc thuộc loại
hình nghệ thuật, bên cạnh những câu hỏi yêu cầu học sinh tìm thơng tin, nhận biết từng
phần nội dung của bài, sách đã đưa ra các câu hỏi để học sinh tập dượt kĩ năng đọc –
hiểu ở mức độ cao hơn, từ đó nhằm nâng cao trình độ văn hóa nói chung và trình độ
Tiếng Việt nói riêng cho học sinh.
Nội dung chương trình phân mơn tập đọc lớp 5 được giảng dạy trong 33 tuần của
năm học, mỗi tuần có 2 bài, được xây dựng theo10 chủ điểm cụ thể là:
- Việt Nam - Tổ quốc em.
- Nam và nữ.
- Con người và thiên nhiên.
- Người công dân.
- Giữ lấy màu xanh.
- Nhớ nguồn.
- Vì hạnh phúc con người
- Cánh chim hồ bình.
- Vì cuộc sống thanh bình.
- Những chủ nhân tương lai.
Nội dung của các bài Tập đọc đa dạng, phong phú đề cập tới những vấn đề khác
nhau ngoài việc phản ánh một số vấn đề đạo đức, phẩm chất con người còn đề cập đến
9
các đề tài về trẻ em, quyền trẻ em, bảo vệ mơi trường, giáo dục dân số, giới tính, ca
ngợi tình đồn kết giữa các dân tộc... Các bài tập đọc đều có tác dụng giáo dục tư
tưởng, tình cảm và trau dồi nhân cách cho học sinh. Hệ thống chủ điểm của các bài Tập
đọc vừa mang tính khái qt cao, vừa có tính hình tượng góp phần cung cấp cho học
sinh những hiểu biết về thiên nhiên, xã hội, con người trong nước và thế giới. Việc nắm
chắc nội dung chương trình sẽ giúp giáo viên chủ động trong việc lập kế hoạch bài học,
xác định đúng yêu cầu cần đạt được từng bài, từng chủ điểm. Tích hợp các nội dung
giáo dục phù hợp, hiệu quả.
3.2. Điều tra, phân loại để nắm chắc các đối tượng học sinh.
Sau khi khảo sát,nắm bắt dọc khả năng của từng học sinh, tôi đã tiến hành phân
loại học sinh lớp 5A thành các nhóm theo các lỗi sai cơ bản mà học sinh hay mắc để
giờ Tập đọc có điều kiện giúp các em thực hành sửa chữa, ghi tên các em vào từng
nhóm cụ thể:
- Nhóm đọc ngọng các phụ âm đầu dễ lẫn: l/n; r/d/gi, ch/tr:12 em.
- Nhóm đọc ngọng thanh ngã, sắc, thanh hỏi: 2 em.
- Nhóm đọc nhỏ, chưa rõ ràng rành mạch, lặp: 8 em.
- Nhóm đọc ngắt nghỉ chưa đúng: 17 em
Có một số em có tên trong nhiều nhóm.
- Đối với những em kĩ năng đọc còn nhỏ (do ngại, xấu hổ), những em đọc chưa rõ
ràng, rành mạch ngoài việc rèn đọc trong giờ Tập đọc tơi cịn chú ý bồi dưỡng thêm ở
các tiết bồi dưỡng hoặc các tiết học khác bằng cách thường xuyên gọi các em đọc yêu
cầu của các bài tập trước lớp, rèn cho các em mạnh dạn, tự tin khi đọc, trình bày trước
đơng người. Đối với những học sinh có năng khiếu tơi ln tạo điều kiện để các em
phát huy năng lực học tập của mình trong phần đọc mẫu hoặc phần thi đọc diễn cảm
hoặc phân vai…
- Với những em hay đọc sai các phụ âm đầu dễ lẫn: l/n; tr/ch; r/d/gi trước tiên tôi hướng
dẫn các em tập phát âm các phụ âm đầu mà các em hay sai.
Ví dụ 1: + Phát âm “n”: Trước khi phát âm, đầu lưỡi đặt ở mặt sau của răng làm điểm
cản hoàn toàn luồng hơi đi ra từ phổi qua khoang miệng, sau bật nhẹ hơi ra, lưỡi thẳng,
đầu lưỡi hơi tụt lại, tạo thành âm nờ
+ Phát âm “l”: trước khi phát âm, lưỡi đặt ở vị trí lợi hàm trên làm điểm cản
một phần luồng hơi đi ra từ phổi qua khoang miệng, thoát ra hai bên cạnh của lưỡi, đầu
lưỡi cong lên, lưỡi chuyển động theo chiều đi xuống tạo thành âm lờ. Để giúp học sinh
10
dễ nhớ, dễ hiểu, tôi chỉ cần nêu: Khi phát âm “l” các em “đưa đầu lưỡi lên” chạm lợi,
rồi thả lưỡi xuống, bật hơi; khi phát âm “n” lưỡi thẳng ra. Tôi phát âm lại nhiều lần để
học sinh quan sát và làm theo.Tương tự các phụ âm khác tôi cũng hướng dẫn cụ thể để
học sinh năm được cách phát âm và phát âm đúng.Sau đó giao các bài tập có chứa các
tiếng, từ có chứa phụ âm dẽ lẫn, kết hợp giúp các em hiểu nghĩa để nắm chắc hơn về tiếng ,
từ và phát âm chính xác. Khi các em đọc đúng tiếng, từ, tôi yêu cầu các em tập đọc câu,
đoạn văn, đoạn thơ rồi tập kể chuyện, hát những bài hát có chứa các phụ âm đầu cần luyện
để rèn kĩ năng cho các em.
- Đối với những em đọc ngọng thanh "ngã" thành thanh "sắc" tôi hướng dẫn học
sinh như sau:
+ Âm tiết mở đầu phần vần là nguyên âm đơn.
Khi đọc ta đọc đúng các âm vị của âm tiết chuẩn nhưng mang thạnh nặng, âm tiết
thứ 2 là nguyên âm của âm tiết thứ nhất nhưng mang thanh sắc:
Ví dụ 2: đỗ = độ + ố = đỗ - quả đỗ
mã = mạ + á = mã – đẹp mã
dễ = dệ + ế = dễ - bài dễ
+ Âm tiết mở đầu bằng nguyên âm đôi:
Khi đọc ta đọc âm tiết đầu là tất cả các âm vị của âm tiết chuẩn nhưng mang thanh
nặng; âm tiết thứ 2 là là nguyên âm /ơ/ nhưng mang thanh sắc /ớ/
Ví dụ 3: chữa = chựa + ớ = chữa - chữa bài
Đĩa = địa + ớ = đĩa – cái đĩa
- Những học sinh đọc sai dấu câu, ngắt nghỉ chưa hợp lí hoặc sai từ, tách dời các
tiếng của một từ hoặc lặp từ thì ln được giao việc đọc trước bài tập đọc, tự cảm nhận,
tự ghi âm để tự thấy được sai sót của mình, các bạn này cũng được các bạn có năng
khiếu hoặc giáo viên nhận xét, chỉ ra sai sót. Từ đó các bạn ấy tiến bộ rất nhanh.
- Những học sinh đọc nhỏ, chưa rõ ràng tơi ln khuyến khích học sinh cố gắng
luyện đọc mỗi ngày một to hơn, đọc rõ hơn. Đầu tiên tập phát âm thật to những âm có
độ mở rộng như: a,e,ê,… sau đó đến từ, câu, đoạn,…
- Cịn với những em có năng khiếu về mơn học tơi yêu cầu học sinh luyện đọc bằng
cách tìm đọc các bài văn, bài thơ, câu chuyện ngoài các bài học trong sách giáo khoa để
tập đọc, tập kể và cố gắng thể hiện giọng đọc, giọng kể kết hợp với cử chỉ, điệu bộ cho
phù hợptrong các tiết Kể chuyện; Tập làm văn...
3.3. Nâng cao chất lượng đọc diễn cảm qua việc rèn đọc đúng:
11
3.3.1. Rèn kỹ năng đọc thành tiếng:
Muốn học sinh đọc tốt (đọc lưu lốt, trơi chảy), trước hết cần phải rèn cho các em
phát âm chuẩn, rõ ràng; biết ngắt nghỉ hơi đúng và đảm bảo được tốc độ đọc tối thiểu
(khoảng 100 – 120 tiếng/ phút). Khi học sinh luyện đọc, giáo viên cần hướng dẫn các
em đọc rõ ràng từng tiếng, không đọc kéo liền từ tiếng này sang tiếng khác, không tách
dời các tiếng của một từ. Đối với các bài khó, câu văn dài, có nhiều tên nước ngoài…
cần yêu cầu học sinh đọc đi đọc lại nhiều lần. Nếu trong quá trình luyện đọc học sinh
nào phát âm sai phải cho học sinh đó đọc lại, tự phát hiện lỗi sai và sửa ngay. Trường
hợp học sinh đó khơng tự sửa được cần có sự trợ giúp kịp thời của các bạn trong lớp
hoặc của trực tiếp giáo viên. Để khắc phục tình trạng học sinh phát âm sai, tôi đã tiến
hành như sau:
Phân loại các lỗi sai cơ bản thành từng nhóm. Lập bảng theo dõi việc phát âm của
học sinh. Hàng tháng ghi rõ mức độ tiến bộ, những khuyết điểm của học sinh cịn mắc
để có biện pháp hướng dẫn học sinh khắc phục.
Khi hướng dẫn học sinh phát âm, tôi luôn phân tích cho các em thấy sự khác biệt
của phát âm đúng, phát âm sai.
Ví dụ: Dạy bài"Những con sếu bằng giấy" (Tiếng Việt 5 tập 1 trang 36) phần luyện đọc từ
ngữ khó, tơi tập cho học sinh phát âm, đọc đúng các từ: Hi- rô- si- ma, Ma- ga- da- ki, Xa- dacô, lặng lẽ. Hoặc bài: "Sự sụp đổ của chế độ a-pac-thai" (Tiếng việt 5 tập 1 trang 54) tôi cho
học sinh luyện phát âm, đọc đúng các từ:: Nen-xơn Man-đê-la, a-pác- thai, nhân loại...Đây là
những bài tập đọc có tên riêng nước ngồi. Khi dạy những bài tập đọc này tôi cho học sinh
luyện đọc từ khó trước khi học sinh luyện đọc đoạn bài bằng cách: Tơi chiếu những từ đó lên
màn hình gọi học sinh năng khiếu đọc sau đó gọi học sinh nhận xét cụm từ, từ bạn vừa
đọc có gì cần lưu ý về cách đọc? Theo em bạn đọc, phát âm như vậy đúng chưa? Cần
phát âm phụ âm đầu "l/n" như thế nào? Học sinh trả lời đúng tức là đã hiểu rõ cách đọc,
cách phát âm từ đó đọc và phát âm sẽ chính xác. Nếu học sinh đọc chưa đúng thì tơi
đọc mẫu phân tích sau đó yêu cầu học sinh đọc lại.
Đối với các em đọc ngọng thanh ngã và thanh sắc, hoặc thanh hỏi, .., ví dụ "những " - học
sinh đọc và nói "nhứng", "sụp đổ" thì học sinh đọc "sụp độ" ... tiến hành như ví dụ 1, ví dụ
2, ví dụ 3 mục 3.2
Bên cạnh việc rèn lỗi do phát âm, các lỗi về ngắt nghỉ hơi khi đọc cũng không kém
phần quan trọng. Giáo viên phải giúp học sinh nắm chắc các dấu hiệu để ngắt nghỉ hơi
đúng: dựa vào dấu câu, dựa vào các quan hệ ngữ pháp…
12
Ví dụ 1: Khi dạy bài “Phong cảnh đền Hùng”- Tiếng Việt 5, tập II/ trang 68 có câu:
“ Trước mặt là Ngã Ba Hạc, nơi gặp gỡ giữa ba dịng sơng lớn tháng năm mải miết
đắp bồi phù sa cho đồng bằng xanh mát.”
Ngoài việc hướng dẫn học sinh ngắt nghỉ hơi sau các dấu câu (dấu phẩy, dấu chấm),
giáo viên cần hướng dẫn học sinh ngắt nghỉ sau tiếng “mặt” và sau tiếng “lớn” vì câu
này tương đối dài. Như vậy học sinh sẽ ngắt nghỉ hơi câu trên như sau:
“ Trước mặt/ là Ngã Ba Hạc, nơi gặp gỡ giữa ba dịng sơng lớn/ tháng năm mải
miết đắp bồi phù sa cho đồng bằng xanh mát.”
Ví dụ 2: Khổ thơ.
+ Có vị phù sa
Của sơng Kinh Thầy
+ Những trưa tháng sáu
Nước như ai nấu
Chết cả cá cờ
Bài: "Hạt gạo làng ta"
Ở dòng thơ thứ nhất và dòng thơ thứ hai, dòng thơ thứ tư và dòng thơ thứ năm các
em cần đọc vắt hai dòng thơ như tôi đã đánh dấu ở trên không được ngắt ở cuối dịng thơ
nó sẽ rời rạc khơng thể hiện được nhịp điệu của bài thơ. Hoặc đoạn: Bất bình với chế độ apác-thai, / người da đen đã đứng lên địi bình đẳng. // Cuộc đấu tranh dũng cảm và bền bỉ
của họ / được sự ủng hộ của những người u chuộng tự do và cơng lý trên tồn thế
giới,// cuối cùng đã giành được thắng lợi. (Bài: Sự sụp đổ của chế độ a- pác- thai).
Khi học sinh đọc, giáo viên cần chú ý lắng nghe và hướng dẫn học sinh theo dõi
bạn – dùng kĩ thuật bể cá - để tìm ra lỗi sai, chỉ ra cách sửa cho từng học sinh khi đọc
cá nhân. Ví dụ Học sinh đọc kém do trình độ chưa đạt "chuẩn" ở lớp dưới, tơi ln kiên
trì giúp đỡ và phụ đạo thêm trong các tiết bồi dưỡng, hoặc trong các tiết học khác bằng
nhiều cách khác nhau: cho học sinh luyện đọc nhiều tiếng, từ, cụm từ, câu trong các tiết
tập đọc, Luyện từ và câu và Tập làm văn hoặc đọc lệnh trong các bài tập ở các môn học
khác để xác định yêu cầu, nhiệm vụ của học sinh.
Việc hướng dẫn học sinh biết đọc nhấn giọng những từ ngữ gợi tả, gợi cảm trong
bài, đọc phân biệt các kiểu câu, phân biệt lời các nhân vật… đúng dấu câu (có chấm
hỏi, chấm than, chấm lửng,…) đọc đúng ngữ điệu các kiểu câu cũng là việc làm cần
thiết và khơng kém phần quan trọng.
Ví dụ: Bài "Tiếng rao đêm"
13
Câu "Bánh…..giò…..ò….ò…!" phải đọc kéo dài và hạ giọng ở phần cuối câu.
Hay các câu: "Cháy! Cháy nhà!..." - đọc gấp gáp, hoảng hốt.
Ô…..này! - đọc giọng thảng thốt, ngạc nhiên.
Hay trong bài: "Cái gì quý nhất" – Tiếng Việt 5 tập 1 trang 85 có câu:
"Theo tớ,quý nhất là lúa gạo. Các cậu có thấy ai khơng ăn mà sống được
không?". - đọc giọng sôi nổi, hào hứng đọc đúng ngữ điệu của câu hỏi hơi cao giọng ở
cuối câu vì đây là cuộc thuyết trình tranh luận.
Hay câu: - Ơi, chữ cơ giáo này! nhìn kìa!
- A, chữ, chữ cơ giáo!
(Bài: Bn Chư Lênh đón cơ giáo)
thì đọc với giọng vui, hồ hởi.
Ở lớp 5 các em được học các thể loại văn bản rất đa dạng: báo chí, khoa học, văn
bản kịch, văn bản luật, … Khi hướng dẫn học sinh đọc các thể loại này tôi cũng đặc
biệt chú ý.
- Đối với văn bản kịch: Trước khi hướng dẫn học sinh đọc tôi giúp học sinh nắm
được đặc điểm trình bày của văn bản kịch và khi học sinh đọc diễn cảm tôi luôn chú ý
hướng dẫn các em:
+ Đọc lời giới thiệu về nhân vật, cảnh trí, thời gian…với giọng khách quan.
+ Đọc ngắt giọng đủ để phân biệt tên nhân vật và lời nói nhân vật.
+ Đọc đúng ngữ điệu các kiểu câu trong lời nói nhân vật.
+ Thay đổi giọng linh hoạt phù hợp với tính cách từng nhân vật và diễn tả được
tình huống xảy ra trong vở kịch.
+ Đọc phân biệt rõ lời nhân vật và lời chú thích về thái độ, hành động của nhân vật.
Ví dụ: Cai….để coi (quay sang lính) // "Trói nói lại cho tao" // (chỉ dì Năm).Cứ
trói đi. Tao ra lịnh mà // (lính trói dì Năm lại).
An: (Ơm dì Năm, khóc ồ) // Má ơi má!
Bài: "Lòng dân"- Tiếng Việt 5 tập 1 trang 29
Khi đọc cần phân biệt giọng Cai (hống hách, xấc xược), giọng An (giọng một đứa
trẻ đang khóc), hạ giọng ở những từ ngữ trong ngoặc đơn và nghỉ hơi (//) để phân biệt
lời chú thích với lời nhân vật.
- Đối với các văn bản thuộc loại truyện, kí: Tơi hướng dẫn các em phải đọc
đúng được giọng nhân vật theo tình huống trong truyện và đúng cách đọc kiểu câu theo
14
mục đích nói. Ví dụ khi đọc các câu: “ Ai sai cháu đi mua ?”; “Cháu có bao nhiêu
tiền?” (Bài Chuỗi ngọc lam – Tiếng Việt 5, Tập 1/ trang 134) cần đọc cao giọng ở từ
dùng “Ai” ; “bao nhiêu” vì đây là câu hỏi nên cần đọc cao giọng ở những từ dùng để
hỏi. Tuy nhiên cũng là câu hỏi nhưng khi đọc câu: “Mày đã dặn lão Sáu Bơ tối đánh xe
ra bìa rừng chưa?” (Bài Người gác rừng tí hon – Tiếng Việt 5, Tập I/ trang 124) cần
hướng dẫn học sinh đọc đúng ngữ điệu câu hỏi gian giảo của một tên trộm nên không
đọc cao giọng ở từ dùng để hỏi mà đọc hạ giọng thì thào, bí mật.
- Đối với những văn bản mang tính thời sự, phi nghệ thuật: Tơi ln hướng dẫn
các em xác định ngữ điệu đọc sao cho phù hợp với mục đích thơng báo, nhấn mạnh các
từ ngữ chứa đựng thông tin quan trọng, cần thiết, không để học sinh đọc "diễn cảm"
tuỳ tiện. Đối với văn bản khoa học này thì phải hướng dẫn học sinh tồn bài đọc với
giọng thơng báo, lưu lốt, rõ ràng, ràng mạch phù hợp với nội dung một văn bản khoa
học.
Ví dụ bài "Trồng rừng ngập mặn"
Để học sinh có giọng đọc bài văn, bài thơ thật diễn cảm, tôi hướng dẫn học sinh
điều chỉnh sắc thái, nhịp độ của giọng đọc sao cho phù hợp. Xuất phát từ bài văn bài
thơ để xác định giọng đọc (vui tươi, hồ hởi, nhí nhảnh, trang trọng, trong sáng, nhẹ
nhàng, hóm hỉnh, gay gắt, châm biếm hay buồn rầu,…), để lựa chọn cách ngắt giọng,
lựa chọn đúng nhịp đọc, để biết cách nhấn giọng vào chỗ cần nhấn. Có thể cho học sinh
nắm được cách đọc, giọng đọc thông qua việc cho một học sinh đọc tốt hoặc giáo viên
đọc và yêu cầu học sinh tìm giọng đọc phù hợp với nội dung đoạn, bài, tính cánh nhân
vật,…Tơi hướng dẫn bằng một số câu hỏi. Ví dụ: Cơ (bạn) đọc với giọng như thế nào?
Đã phù hợp với nội dung đoạn hoặc tính cách nhân vật chưa?
Tức là hình thức đánh giá thường xuyên là thể thiếu trong mỗi bài tập đọc.Với
mục đích đánh giá là để học tập, tơi đã sử dụng phương pháp quan sát và dùng công cụ
bảng kê khi đánh giá học sinh để giúp học sinh tự nhận ra sai sót của mình, của bạn.
Khi đã nhận xét được bạn thì các em sẽ tìm ra cách đọc đúng và hay nhất.
3.3.2. Rèn kỹ năng đọc thầm:
Đây là việc làm mà lâu nay các giáo viên còn xem nhẹ trong các giờ tập đọc. Đọc
thầm giúp học sinh dễ cảm nhận nội dung bài học hơn. Để tránh đọc thầm chỉ là hình
thức, mang tính câu lệ, tôi đã yêu cầu học sinh đọc thầm kết hợp với việc tìm hiểu một
số câu hỏi. Ví dụ: Em hãy đọc thầm đoạn văn (đoạn thơ) và cho biết đoạn văn (đoạn
thơ) nói về ai ? hoặc miêu tả cái gì ?...
15
Với học sinh Tiểu học việc đọc thầm khó hơn đọc thành tiếng do các em chưa có
sự tập trung cao để theo dõi bài đọc.Thường các em dễ bị sót từ, bỏ dịng trong bài. Khi
giáo viên cho học sinh đọc thầm một số em khơng có ý thức thức thường làm một cách
chiếu lệ. Để hướng dẫn học sinh đọc thầm tốt tôi đã làm một số việc như sau:
- Yêu cầu học sinh tập trung vào bài, phải đọc đầy đủ các tiếng trong câu. Đọc thầm
là đọc bằng mắt, học sinh phải bỏ thói quen đọc lầm rầm hay dùng tay, que tính để chỉ
theo từng dịng. Khi học sinh đọc thầm tơi thường kiểm tra bằng cách hỏi các em đọc
đến đâu? đối với những em khi kiểm tra không chỉ được hoặc chỉ vào chỗ đọc quá
nhanh tôi kịp thời nhắc nhở.Tôi thường xuyên kiểm tra, đánh giá kết quả hoạt động đọc
thầm của học sinh bằng phương pháp quan sát để giúp đỡ, uốn nắn. Khi yêu cầu học
sinh đọc thầm (câu, đoạn, bài) tôi thường giao kèm "nhiệm vụ" nhằm định hướng "đọc
hiểu" (đọc để biết- hiểu- nhớ điều gì?). Ví dụ: Đọc thầm khổ thơ thứ nhất của bài "Hạt
gạo làng ta" và cho biết hạt gạo được làm nên từ những gì? Hoặc đọc thầm khổ thơ
cuối của bài và cho biết nội dung chính của khổ thơ là gì? Hay với bài "Cái gì q
nhất" tơi u cầu học sinh đọc thầm đặt tên khác cho bài thơ ... Từng bước hình thành
cho học sinh thói quen tập trung chú ý khi đọc thầm để thu nhận thông tin, để "nhập
tâm" và cảm thụ văn bản nghệ thuật. Cũng có khi yêu cầu học sinh đọc thầm (lướt) để
nắm nội dung, tóm tắt ý hay chọn ý. Tơi đã từng bước đề ra nhiệm vụ, yêu cầu từ dễ
đến khó để học sinh làm quen với cách đọc thầm nhanh (mở rộng trường nhìn, đọc
lướt tồn câu hay cả bài). Ví dụ: Đọc thầm thật nhanh để tìm những sự vật trong bài có
màu vàng( Bài: "Quang cảnh làng mạc ngày mùa" Hay bài :" Đất Cà Mau" tôi yêu cầu
học sinh đọc thầm thật nhanh đoạn 1 và tìm từ ngữ nào được nhắc lại nhiều lần trong
đoạn văn.( mưa) Hoặc tôi yêu cầu học sinh đọc lướt tồn bài để tìm ra những hành
động thể hiện rõ tính cách nhân vật trong bài: " Trí dũng song tồn".......
Có như vậy các em mới tập trung chú ý cao độ mỗi khi đọc thầm. Những việc
làm đó đã dần hình thành cho các em thói quen và ý thức tự giác mỗi khi đọc thầm mà
không cần đến sự kiểm tra nhắc nhở của giáo viên.
3.4. Nâng cao chất lượng đọc diễn cảm qua việc đọc mẫu của giáo viên:
Khác với các lớp 1+2+3, lên đến lớp 4 + 5 đặc biệt là lớp 5, giáo viên không đọc
mẫu toàn bài khi bắt đầu hướng dẫn học sinh luyện đọc mà chỉ nên thực hiện sau khi
học sinh đã được luyện tập, củng cố kĩ năng đọc trơn, trước khi tiến hành tìm hiểu bài
và luyện đọc diễn cảm. Vì đến lớp 5, một số học sinh đã có kĩ năng đọc khá tốt nên
trước khi luyện đọc đúng có thể cho một vài em đọc mẫu trước lớp mà không cần phải
16
giáo viên đọc. Tuy nhiên, việc đọc mẫu của giáo viên cũng cần được vận dụng một
cách linh hoạt, tuỳ thuộc vào điều kiện dạy học cũng như trình độ của học sinh. Đối với
học sinh lớp tôi đang dạy, tôi thường tiến hành đọc mẫu khi:
+ Các em đọc chưa chính xác các tiếng, từ do ảnh hưởng của cách phát âm địa
phương ( lẫn lộn cặp âm đầu, vần , thanh) hoặc đọc chưa đúng các cụm từ (ngắt hơi
chưa hợp lí) … Đối với học sinh khá, giỏi tôi thường gợi ý cho các em tự sửa hoặc bạn
bè sửa giúp, cịn với học sinh yếu tơi đọc mẫu thật chính xác các từ, cụm từ mà học
sinh đã đọc sai để các em đươc “trực quan” và đọc đúng.
+ Hướng dẫn, gợi ý hoặc tạo tình huống để học sinh nhận xét, giải thích, tự tìm ra
cách đọc đúng, đọc diễn cảm đoạn văn, đoạn thơ (với các văn bản nghệ thuật), tôi đã
đọc mẫu câu, đoạn để học sinh học đọc qua cảm nhận bằng tai. Trong trường hợp này
cần kết hợp đọc mẫu với biện pháp gợi mở, nêu vấn đề nhằm kích thích được tư duy
sáng tạo và tích cực hóa hoạt động của học sinh trong q trình luyện đọc.
Ví dụ: Dạy bài “Mùa thảo quả” (Tiếng Việt 5 – tập I/ trang 113)
Trước khi đọc mẫu đoạn 2: “Gió tây lướt thướt bay qua rừng … nếp áo, nếp khăn”,
giáo viên có thể nêu vấn đề, sử dụng kĩ thuật động não để học sinh suy nghĩ: Khi đọc
đoạn văn cần ngắt nghỉ hơi như thế nào? Nhấn giọng ở những từ ngữ nào? Vì sao cần
đọc như vậy? …
+ Đọc mẫu toàn bài sau khi học sinh được luyện đọc đúng và rõ ràng, tạo hứng thú để
các em tìm hiểu bài và luyện đọc diễn cảm. Cũng có thể đọc mẫu tồn bài trước khi
củng cố, dặn dị, kết thúc tiết học …
Việc đọc mẫu của giáo viên trong mỗi giờ tập đọc là việc làm cần thiết và vô cùng
quan trọng. Nhưng trước hết muốn đọc mẫu hay, giáo viên cần phải phát âm chuẩn, rõ
ràng. Vì vậy hàng ngày tơi ln tự rèn luyện cho mình thói quen luyện phát âm những
tiếng có âm, vần dễ lẫn như: âm l/n, s/x, ch/tr…vần ưt/ưc, ưu/ươu/iu… Mặt khác để
gây sự chú ý của học sinh, tạo hứng thú trong học tập thì việc đọc mẫu của giáo viên
địi hỏi khơng phải chỉ chuẩn mực, chính xác mà giọng đọc phải thể hiện được ngữ
điệu, phân biệt lời kể của tác giả với lời nhân vật, thể hiện được thái độ, cảm xúc của
tác giả… Do đó trước khi dạy mỗi bài Tập đọc – học thuộc lịng, tơi đều đọc đi, đọc lại
thật nhiều lần bài đọc; tìm hiểu thật kĩ cách đọc, các từ cần nhấn giọng, chỗ ngắt nghỉ
giọng phù hợp… để luyện giọng đọc của mình sao cho sau mỗi lần nghe giáo viên đọc
mẫu, học sinh cảm nhận được một phần cái hay, cái đẹp của bài Tập đọc, các em sẽ
thấy hào hứng, phấn khởi, muốn tìm hiểu, khám phá bài đọc hơn.
17
3.5. Nâng cao chất lượng đọc diễn cảm qua việc hướng dẫn tìm hiểu bài:
Trong mỗi tiết Tập đọc, hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài nhằm trau dồi kĩ năng
đọc – hiểu, góp phần nâng cao năng lực cảm thụ văn học và tạo cơ sở cho học sinh đọc
diễn cảm tốt. Để hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài đạt hiệu quả tốt, giảng giải thêm một
số từ ngữ khơng có trong phần chú giải, giúp các em hiểu nghĩa một số từ có tác dụng
góp phần nâng cao kĩ năng đọc – hiểu như: các từ chú giải trong SGK, từ địa phương,
một số từ khác liên quan đến nội dung bài, nhất là đối với những từ khó nhưng lại là từ
“chìa khóa” của bài.
Ví dụ với từ “phũ” trong bài “Đất cà Mau” – Tiếng Việt 5, tập I/ trang 89. Ở phần
luyện đọc đúng, giáo viên cần gợi ý để học sinh hiểu được nghĩa của từ “phũ” là dữ
dội, thô bạo đến mức tàn nhẫn. Nhưng sang phần đọc hiểu (tìm hiểu bài) cần giúp các
em hiểu được nghĩa của từ “phũ” trong câu “Mưa rất phũ, một hồi rồi tạnh hẳn” là tác
giả muốn sử dụng từ “phũ” để miêu tả cơn mữa ở Cà Mau kéo đến rất nhanh, đột ngột,
rất dữ dội, mưa to và nhiều … Như vậy với việc hiểu nghĩa của từ “ phũ” ở phần luyện
đọc đúng đã giúp học sinh hiểu được hết ý nghĩa của từ “phũ” trong câu “Mưa rất phũ,
một hồi rồi tạnh hẳn” khi tìm hiểu bài.
Hay với từ “săm soi” trong bài “Chuyện một khu vườn nhỏ” – Tiếng Việt 5, Tập I/
trang 102. Khi luyện đọc đúng giáo viên cần cho học sinh giải nghĩa để hiểu “ săm soi”
là ngắm đi, ngắm lại kĩ càng, tỉ mỉ. Đến phần tìm hiểu bài giáo viên mới giúp học sinh
thấy được cái hay của việc dùng từ “săm soi” trong câu “Nó săm soi, mổ mổ mấy con
sâu rồi thản nhiên rỉa cánh, hót lên mấy tiếng líu ríu.” dựa trên cơ sở học sinh đã hiểu
được nghĩa của từ “săm soi” đã giúp các em hiểu được: khu vườn nhỏ nhà bé Thu rất
đẹp khiến cho chú chim lông xanh biếc sà xuống cành lựu, nó săm soi tìm sâu rồi ngắm
nghía khu vườn, càng ngắm nó càng thấy khu vườn đẹp và cất tiếng hót líu ríu đẹp q!
Đẹp q!
Như vậy thơng qua việc tìm hiểu nghĩa của từ khó ở phần luyện đọc đúng và phần
tìm hiểu bài giúp cho học sinh hiểu rõ nghĩa của từ trong từng văn cảnh cụ thể. Từ đó
các em biết thể hiện tình cảm, cảm xúc của mình trong phần đọc diễn cảm. Ngoài việc
hướng dẫn học sinh hiểu nghĩa các từ được chú giải trong SGK, tơi cịn hướng dẫn cho
học sinh hiểu thêm các từ ngữ khác có trong bài để các em nắm chắc hơn nội dung ý
nghĩa của từng ý cũng như nội dung ý nghĩa của toàn bài.
18
Bên cạnh việc giúp học sinh hiểu nghĩa từ khó, khi học sinh tìm hiểu nội dung bài,
giáo viên cần phải thường xuyên chú ý đến việc làm phong phú vốn từ cho học sinh
bằng cách cho các em tìm từ trái nghĩa, từ cùng nghĩa… với từ có trong bài.
Mặt khác, học sinh tiểu học khả năng tư duy trực quan, cụ thể chiếm ưu thế, do vậy
tuỳ từng bài, từng câu hỏi và từng đối tượng học sinh, giáo viên có thể dùng nguyên
văn câu hỏi, chẻ nhỏ câu hỏi hoặc bổ sung các câu hỏi phụ… Hệ thống câu hỏi đặt ra ở
mỗi bài đọc phải được nâng dần từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp… và được
chốt lại ở phần củng cố bài, mở rộng liên hệ và giáo dục đạo đức cho học sinh.
Ví dụ: Khi dạy bài: “ Cái gì q nhất ?” Tiếng Việt 5 – tập 1/ trang 85, để mọi đối
tượng học sinh kể cả những học sinh trung bình yếu đều dễ trả lời tơi đã tách câu hỏi 2:
Mỗi bạn đưa ra lí lẽ như thế nào để bảo vệ ý kiến của mình ? thành 3 ý nhỏ như sau:
+ Hùng đưa ra lí lẽ như thế nào để bảo vệ ý kiến của mình ?
+ Quý đưa ra lí lẽ như thế nào để bảo vệ ý kiến của mình ?
+ Nam đưa ra lí lẽ như thế nào để bảo vệ ý kiến của mình ?
Cịn ở bài: “ Chuyện một khu vườn nhỏ” - Tiếng Việt 5 – tập 1/ trang 102. Trước
khi cho học sinh trả lời câu hỏi 2: Mỗi lồi cây trên ban cơng nhà bé Thu có những đặc
điểm gì nổi bật ? Tơi đã u cầu học sinh đọc thầm đoạn 2 và trả lời câu hỏi phụ: Ban
cơng nhà bé Thu trồng những cây gì ?
Sau khi học sinh nêu được tên 4 lồi cây, tơi mới yêu cầu học sinh nêu các đặc
điểm nổi bật của mỗi lồi cây đó.
Một ví dụ khác, để giúp học sinh dễ trả lời được câu hỏi 3 trong bài “ Tác phẩm
của Si-le và tên phát xít” – Tiếng Việt 5, Tập I/ trang 58: Em hiểu thái độ của ông cụ
đối với người Đức và tiếng Đức như thế nào ? . tôi gợi ý bằng 2 câu hỏi phụ sau:
+ Không đáp lời tên sĩ quan phát xít bằng tiếng Đức, có phải ơng cụ ghét tiếng Đức
khơng ?
+ Ơng cụ có ghét người Đức khơng ?
Bằng nhiều hình thức, kĩ thuật dạy học khác nhau, giáo viên cần tạo điều kiện
cho học sinh tìm hiểu nội dung bài đọc một cách tích cực. Đối với những câu hỏi khó,
tơi sử dụng kĩ thuật khăn trải bàn- cho học sinh thảo luận nhóm để các em có điều
kiện trao đổi, giúp đỡ nhau thực hiện nhiệm vụ, yêu cầu giáo viên giao.
Ví dụ: Câu hỏi 4 bài: "Hạt gạo làng ta"
+ Vì sao tác giả gọi hạt gạo là "hạt vàng"? (Vì hạt gạo làm ra khơng chỉ để ni
sống chính những người sản xuất mà cịn gửi ra tiền tuyến góp phần đánh thắng giặc
19
Mĩ mà hạt gạo cịn góp phần làm nhiệm vị Quốc tế cao cả gửi về phương xa để giúp đỡ
các nước anh em ) Đây là câu hỏi khó tơi u cầu các em thảo luận theo nhóm 4 học
sinh để tìm câu trả lời. Cũng có khi câu hỏi khó, phức tạp được giữ nguyên để học sinh
năng khiếu có điều kiện phát huy năng lực sở trường. Những câu hỏi dễ dành cho học
sinh trung bình yếu để phát huy được khả năng học tập, cảm thụ của các đối tượng học
sinh. Ví dụ bài: "Nghìn năm vă hiến" với câu hỏi 2 là câu hỏi thu thập thông tin bằng
cách lựa chọn: Dựa vào bảng thống kê số liệu trong bài em hãy cho biết:Triều đại nào
tổ chức nhiều khoa thi nhất, Triều đại nào có ít tiến sĩ nhất? Với câu hỏi này tôi dành
cho học sinh nhút nhát, khả năng diễn đạt còn hạn chế để các em tự tin trình bày ý kiến
trước lớp .
Trong hoạt động tìm hiểu bài, học sinh cịn phát triển được năng lực nói và ghi
chép vì vậy tôi chú ý học hướng dẫn các em cách diễn đạt gọn lời, rõ ý, dùng từ đúng.
Sau đó, giáo viên sơ kết ngắn gọn, chốt ý chính để các bạn ấy nắm được và tự ghi được
vào vở ghi chép của mình nội dung chính của bài hoặc ý nghĩa câu chuyện hay những
điều học được, … theo khả năng cảm thụ văn học và khả năng nghe ghi của các em.
3.6. Nâng cao chất lượng đọc diễn cảm qua việc bồi dưỡng năng lực cảm
thụ văn học cho học sinh:
Mục tiêu hàng đầu của môn Tiếng Việt ở tiểu học là hình thành và phát triển cho
học sinh các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết) để học tập và giao tiếp.
Lên lớp 5, học sinh bước đầu cảm nhận được vẻ đẹp của một số bài văn, bài thơ, màn
kịch của Việt Nam và của thế giới, cụ thể là nhận biết được các câu văn, hình ảnh, chi
tiết có giá trị nghệ thuật trong các bài văn, thơ, màn kịch đã học. Có năng lực cảm thụ
văn học tốt, các em sẽ cảm nhận được nhiều nét đẹp của bài văn, bài thơ, được phong
phú thêm về tâm hồn… Để giúp học sinh cảm thụ văn học tốt, tôi sử dụng kĩ thuật
động não hoặc kĩ thuật tia chớp dẫn dắt các em từng bước từ mức độ dễ đến khó. Trong
mỗi bài Tập đọc, ở phần tìm hiểu bài, tơi thường u cầu học sinh nêu nhận xét của
mình về nhân vật, chi tiết, biện pháp nghệ thuật trong bài văn, bài thơ, đoạn kịch …
nhằm phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Qua đó học sinh
biết bộc lộ cảm nghĩ của mình trước những vấn đề của cuộc sống. Ví dụ sau khi hướng
dẫn học sinh trả lời các câu hỏi trong SGK, thường đặt câu hỏi thêm nhằm bồi dưỡng
năng lực ngôn ngữ và cảm thụ văn học của các em:
+ Em có suy nghĩ gì về hành động của chú Mo-ri-xơn ? ( Bài Ê-mi-li, con – Tiếng
Việt 5, tập I/ trang 49)
20
+ Hãy nêu cảm nghĩ của em về hai nhân vật chính trong truyện ? ( Bài Một vụ
đắm tàu – Tiếng Việt 5, tập II/ trang 108)
+ Thảo quả báo hiệu vào mùa bằng cách nào ? Cách dùng từ, đặt câu ở đoạn đầu
có gì đáng chú ý ? ( Bài Mùa thảo quả – Tiếng Việt 5, tập I/ trang 113)
+ Phép nhân hoá ở khổ thơ cuối giúp tác giả nói lên điều gì về “tấm lịng” của
cửa sơng đối với cội nguồn ? ( Bài Cửa sông – Tiếng Việt 5, tập II/ trang 74)
Với những câu hỏi, những yêu cầu nêu trên, học sinh ln được đặt trong những
tình huống có vấn đề, từ đó khuyến khích các em bộc lộ cách hiểu, cách nghĩ, đánh giá
của mình về một vấn đề nào đó của cuộc sống phù hợp với lứa tuổi của các em.
Ngồi ra sau mỗi bài tập đọc, tơi cũng giúp cho học sinh biết chia sẻ tình cảm, cảm
xúc của mình với tác giả, có ý thức tìm hiểu, khám phá những điều tác giả kí thác trong
mỗi tác phẩm. Ví dụ khi hướng dẫn cho học sinh trả lời được các câu hỏi: + Bài văn
thể hiện tình cảm gì của tác giả đối với quê hương ? ( Bài Quang cảnh làng mạc
ngày mùa – Tiếng Việt 5, Tập I/ trang 10)
+ Đặt hình ảnh người chiến sĩ đi tuần bên hình ảnh giấc ngủ yên bình của học
sinh, tác giả bài thơ muốn nói lên điều gì ? ( Bài Chú đi tuần – Tiếng Việt 5, Tập II/
trang 51) … như vậy bước đầu hình thành ở các em năng lực đồng cảm, sẻ chia với
những nỗi niềm, những tâm sự của tác giả nói riêng và của mọi người xung quanh nói
chung.
Đặc biệt khi dạy các bài là đoạn trích kịch hoặc những bài có lời đối thoại của nhân
vật, sau khi giúp học sinh hiểu được nội dung của bài Tập đọc giáo viên cần nêu những
câu hỏi để giúp học sinh hiểu được tính cách, tâm trạng của mỗi nhân vật trong bài để
từ đó các em có thể tự phát hiện cách đọc, giọng đọc thể hiện được tính cách, tâm trạng
của các nhân vật đó.
Ví dụ bài: Người cơng dân số Một – Tiếng Việt 5, tập II/ trang 4. Trên cơ sở học
sinh đã hiểu được nội dung bài, giáo viên có thể hỏi thêm:
+ Vở kịch gồm có mấy nhân vật, là những nhân vật nào ?
+ Nhân vật anh Thành là người như thế nào ? (là người có lịng u nước sâu sắc,
ln nghĩ, lo lắng đến việc cứu nước, cứu dân)
+ Nhân vật anh Lê là người như thế nào? (Là người cũng có tinh thần yêu nước,
nhiệt tình với bạn bè, chỉ nghĩ đến cuộc sống hằng ngày).
Sau khi học sinh đã hiểu rõ được tình cách, tâm trạng của anh Thành, anh Lê trong
vở kịch, giáo viên mới hỏi tiếp:
21
+ Muốn đọc diễn cảm vở kịch, giọng anh Thành cần đọc như thế nào? Giọng anh
Lê cần đọc như thế nào?
Lúc này học sinh dễ dàng nhận thấy, để đọc diễn cảm vở kịch cần đọc phân biệt lời
hai nhân vật: Giọng anh Thành: Chậm rãi, trầm tĩnh, sâu lắng, thể hiện được tâm
trạng đang trăn trở suy nghĩ về vận nước. Giọng anh Lê: hồ hởi, nhiệt tình, thể hiện
tính cách của một người có tinh thần u nước, nhiệt tình với bạn bè nhưng suy nghĩ
cịn đơn giản, hạn hẹp.
Thông qua việc cảm thụ các bài tập đọc như: biết nêu nhận xét của mình về nhân vật,
về các biện pháp nghệ thuật trong bài văn, bài thơ, đoạn kịch; biết chia sẻ tình cảm,
cảm xúc của mình với tác giả; nắm được tác dụng của một số biện pháp nghệ thuật
cũng như giọng đọc của mỗi nhân vật trong mỗi bài đọc,các em hiểu, cảm nhận được
nội dung, ý nghĩa, thông điệp của văn bản mà tác giả gửi gắm trong tác phẩm, Điều đó
đã có tác động rất tốt đến quá trình đọc diễn cảm của các em.
3.7. Nâng cao chất lượng đọc diễn cảm qua việc tổ chức trị chơi luyện đọc:
Để kích thích hứng thú luyện đọc của học sinh, tôi đã tổ chức các trò chơi luyện đọc
vào cuối mỗi tiết học (nếu cịn thời gian) nhằm tạo khơng khí nhẹ nhàng, vui tươi, phấn
khởi cho học sinh trong học tập; bên cạnh đó cịn góp phần rèn tư duy linh hoạt, luyện
tác phong nhanh nhẹn, tháo vát cho các em; hoặc tổ chức trò chơi khi luyện đọc diễn
cảm, khi học thuộc lịng dưới các hình thức: thi đọc tiếp sức, thi đọc thuộc, thi đọc hay,
diễn cảm…
Ví dụ khi dạy bài: Chuỗi ngọc lam – Tiếng Việt 5, Tập I/ trang 134, sau khi hướng
dẫn học sinh nắm được cách đọc diễn cảm đoạn 2 trong bài, tôi tổ chức thi đọc diễn
cảm theo cách phân vai như sau:
+ Chọn đội tham gia thi: 2 đội, mỗi đội 3 học sinh tham gia đọc phân vai (người dẫn
chuyện, chú Pi-e, chị cô bé Gioan).
+ Nêu yêu cầu cuộc thi: Đọc diễn cảm đoạn 2 của bài với giọng kể chậm rãi, nhẹ
nhàng; đọc phân biệt lời các nhân vật.
+ Cử tổ trọng tài theo dõi cuộc thi.
+ Cách tiến hành: giáo viên cho đại diện 2 đội tham gia thi lên bốc thăm thứ tự đọc sau
đó từng đội lên thi đọc phân vai đoạn 2 trước lớp.
+ Tổng kết cuộc thi: trọng tài cùng cả lớp bình chọn đội đọc hay nhất để tuyên dương,
có thể chấm điểm theo tiêu chí sau:
1) Đọc to, lưu lốt, phát âm đúng, rõ ràng: 5 điểm
22
2) Đọc đúng ngữ điệu, đúng tốc độ, ngắt nghỉ hợp lí: 2 điểm
3) Đọc phân biệt được lời các nhân vật (lời chú Pi-e: điềm đạm, nhẹ nhàng, tế nhị;
lời chị cô bé: lịch sự, thật thà): 2 điểm
4) Thể hiện được tình cảm, thái độ qua giọng đọc phù hợp với tính cách nhân vật
(chú Pi-e và chị cơ bé): 1 điểm .
Tuy nhiên để trị chơi luyện đọc đạt hiệu quả cao, mỗi khi tổ chức các trò chơi luyện
đọc, giáo viên cần chú ý:
- Nội dung trò chơi phải gắn với bài học, phục vụ cho yêu cầu về kiến thức, kĩ năng của
bài học.
- Hình thức tổ chức trò chơi cần gọn nhẹ, tiến hành đơn giản để tất cả học sinh đều có
thể tham gia. Cần phải có “luật chơi” rõ ràng, chặt chẽ và đảm bảo tính cơng bằng khi
đánh giá.
- Trị chơi cần đem lại những tác dụng lành mạnh, thiết thực đối với học sinh như: Kích
thích hứng thú đọc; rèn tư duy linh hoạt; luyện tác phong nhanh nhẹn, tháo vát, tự tin;
giáo dục những tư tưởng, tình cảm tốt đẹp ...
4. Hiệu quả của sáng kiến:
Trên đây là: "Một số biện pháp nâng cao hiệu quả rèn đọc diễn cảm cho học
sinh lớp 5" mà tôi đã áp dụng trong dạy học tập đọc ở lớp 5A từ đầu năm học đến nay.
Để kiểm nghiệm tính hiệu quả của các biện pháp đã nêu ở mục 3, tôi tiến hành khảo
sát chất lượng đọc của học sinh lớp 5A- lớp áp dụng biện pháp và lớp 5D - lớp đối
chứng. Đề bài như sau:
HS bắt thăm đọc đoạn (bài) trong các bài tập đọc sau và trả lời câu hỏi về nội
dung đoạn bài đó:
Bài 1: Chuyện một khu vườn nhỏ
Bài 2: Mùa thảo quả
Bài 3: Buôn Chư Lênh đón cơ giáo.
Bài 4: Hạt gạo làng ta.
Bài 5: Thầy thuốc như mẹ hiền.
Để đảm bảo nguyên tắc khách quan và công bằng khi đánh giá, tôi tiến hành ghi
âm sản phẩm đọc đồng thời dùng bảng kê ghi các sai sót,các tiến bộ của từng học sinh.
Qua khảo sát tôi đã thu được kết quả như sau:
Mức độ đọc
Lớp 5 A ( 31 em)
Lớp 5 D ( 31 em)
23
SL
%
SL
%
- Đọc lưu loát, diễn cảm
9 em
29
5 em
16
- Đọc đúng , rõ ràng, rành mạch
20 em
65
20 em
65
- Đọc nhỏ, phát âm sai
2 em
9
6 em
19
Từ kết quả đạt được, đối chiếu với kết quả khi điều tra thực trạng của hai lớp 5A và
5D tơi thấy sang kiến của mình có hiệu quả rõ rệt, cụ thể:
Đợt 1
Đợt 2
Mức độ đọc
5A
5D
5A
5D
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
- Đọc lưu loát, diễn cảm
5em
16 5 em
16
9 em
29
5 em 19
- Đọc đúng, rõ ràng, rành
16 em 52 17 em 55 20 em 65 19 em 62
mạch
- Đọc nhỏ, phát âm sai
10 em 32 9 em
29
2 em
9
6 em 19
Bảng số liệu trên cho thấy các chất lượng đọc của học sinh lớp 5A được nâng lên
một cách đáng kể, đó là: học sinh đọc lưu loát diễn cảm tăng 13%; học sinh đọc nhỏ
phát âm sai giảm từ 32 % còn 9%. Đặc biệt trong các giờ học Tập đọc, học sinh rất
hào hứng và thích học phân mơn này. Hầu hết các em đều tập trung học tập sôi nổi hơn.
Đa số các em đọc bài trơi chảy, lưu lốt, rõ ràng, phát âm chuẩn và ngắt nghỉ hơi hợp lí;
giọng đã đọc tự nhiên, truyền cảm hơn. Đối với những bài có lời đối thoại của các nhân
vật, các em đã đọc phân biệt được lời các nhân vật, thể hiện được tình cảm, cảm xúc
phù hợp với tính cách, tâm trạng của các nhân vật.
Đối chiếu với lớp 5D - lớp đối chứng thì số tượng học sinh đọc lưu lốt, diễn cảm
khơng tăng, số lượng học sinh đọc nhỏ, phát âm sai giảm khơng nhiều. Từ đó tơi có thể
khẳng định các biện pháp dạy học Tập đọc tôi đã áp dụng ở trên đã phát huy tác dụng
và thu được kết quả tích cực. Đó là điều minh chứng thuyết phục cho các biện pháp
dạy học tập đọc mà tơi đã thực hiện trong q trình dạy học mơn tập đọc là khả thi và
có tính thực tế cao.
5. Điều kiện để sáng kiến được nhân rộng:
Qua nghiên cứu về rèn đọc cho học sinh lớp 5 tôi thấy việc nâng cao chất lượng
đọc cho học sinh có một ý nghĩa rất lớn khơng chỉ với mơn Tiếng Việt mà nó cịn tác
động, hỗ trợ đắc lực cho các môn học khác nữa kể cả môn Tốn, Khoa học; Lịch sử và
địa lí; Âm nhạc,.. Đọc để xác định yêu cầu của bài; để tìm hiểu nội dung các em đọc
đúng, rành mạch, lưu loát hơn, kể chuyện hay hơn, nói năng trơi chảy, giao tiếp tự tin
24
hơn. Đặc biệt là ý thức tự học tự rèn luyện của học sinh được nâng cao. Học sinh học
tập tự tin, chủ động lĩnh hội tri thức, các em đã biết đánh giá và tự đánh giá được giữa
bạn và mình. Giáo viên thực sự đóng vai trị là người tổ chức, là nhà đạo diễn giúp các
khắc sâu và mở rộng vốn tri thức và tầm hiểu biết của bản thân, việc học tập thật sự
mang lại hứng thú cho các em.
Từ kết quả trên tôi khẳng định các biện pháp mà tơi đã trình bày ở trên thực sự
có hiệu quả và có tính khả thi khi dạy rèn đọc cho học sinh lớp 5
Các biện pháp trên không chỉ được áp dụng cho đối tượng học sinh lớp 5 mà
giáo viên cịn có thể áp dụng một số biện pháp khi dạy rèn đọc cho cả bậc học tiểu
học. Việc vận dụng các biện pháp vào giảng dạy khơng địi hỏi giáo viên phải đầu tư
tốn kém kinh phí, khơng mất q nhiều thời gian mà giáo viên chỉ cần nghiên cứu kĩ
các biện pháp thực hiện và áp dụng một cách linh hoạt trong giảng dạy sao cho phù hợp
với đối tượng học sinh cửa lớp, tích cực tự học, tự bồi dưỡng nâng cao kiến thức và
không ngừng đổi mới phương pháp dạy học. Trong khi dạy nên tổ chức thi đua học tập
để gây hứng thú cho học sinh, động viên khuyến khích, khen thưởng kịp thời đối với
mỗi học sinh dù học sinh tiến bộ nhiều hay ít.Trước khi lên lớp cần nghiên cứu, chuẩn
bị bài thật kĩ. Phải có sự quan tâm đặc biệt đến những học sinh còn chậm và đề ra
những cách dạy riêng để các em có thể tiếp thu được.
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận
Việc nâng cao kĩ năng đọc cho học sinh là một công việc hết sức tỉ mỉ đòi hỏi giáo
viên và học sinh phải kiên trì rèn luyện một cách thường xuyên, liên tục. Rèn cho học
sinh cách đọc đúng, phát âm đúng là trách nhiệm của mỗi thầy cô giáo. Học sinh đọc
đúng thì các em sẽ viết đúng đó chính là niềm vui của thầy cô giáo, là niềm vui của các
em và là niểm tự hào của cha mẹ các em. Trong các biện pháp rèn đọc nêu trên, muốn
đạt được kết quả như mong muốn thì cần phải kết hợp hài hoà giữa các biện pháp. Vận
dụng sáng tạo linh hoạt giữa các phương pháp. Bên cạnh đó cần phải chuẩn bị bài chu
đáo, chi tiết bám sát u cầu bài dạy, khéo léo xử lí mọi tình huống sư phạm.Cần tạo
điều kiện để các em tự tìm ra, chiếm lĩnh kiến thức bằng khả năng của mình.Người thầy
đóng vai trị là người tổ chức, hướng dẫn các em học tập. Nhưng người thầy phải biết mở
rộng bài đọc bằng cách cho các em học sinh tự tìm từ, câu, đoạn văn, các em tự viết, tự
đọc. Có như vậy các em mới say mê, hứng thú học tập. Để kích thích sự say mê luyện
25