Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (726.19 KB, 116 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span>Ngày soạn : 11/09/2011 Ngày dạy : 13/09/2011 Buổi 1 A. VĂN BẢN I. Chủ đề 1. Chủ đề là gì? Là đề tài chính và đối tượng mà văn bản biểu đạt, là tư tưởng, tình cảm thể hiện trong văn bản. VD: Chủ đề của truyện “Lục Vân Tiên” là trung, hiếu, tiết, nghĩa. - Bức thư của bố: “mẹ tôi” trong “những tấm lòng cao cả có chủ đề như sau: “Qua bức thư, bố nghiêm khắc phê phán hành vi vỗ lễ của con đối với mẹ; chỉ cho con thấy công ơn to lớn và tình thương bao la của mẹ hiền, khuyên con phải thành khẩn xin lỗi mẹ” - Chủ đề bài thơ “Tiếng gà trưa” của Xuân Quỳnh là: Tình yêu gia đình và quê hương dào dạt trong tâm hồn người lính trẻ trên đường hành quân ra trận thời đánh Mĩ. 2. Chuyện với chủ đề - Không được lầm lẫn giữa chuyện với chủ đề VD: “Buổi học cuối cùng” - Đô đê Tác giả kể chuyện : Em bé Phrăng kể lại chuyện buổi dạy học cuối cùng của thấy Ha – men ở vùng An-dát của nước Pháp bị Đức chiếm đóng. Chủ đề của truyện đó là : nỗi đau của nhân dân dưới ách thống trị của ngoại bang; biết yêu tiếng mẹ đẻ là yêu nước; biết giữ lấy tiếng nói của dân tộc mình là nắm được chìa khoá để giải phóng, để giành lại tự do. - Vậy “chuyện” và “chủ đề” của truyện “lão Hạc” là gì? + Chuyện về lão Hạc- một người nông dân vì nghèo đói quá nên đã tìm đến cái chết bằng cách ăn bả chó tự tử sau khi đã bán chó, dành dụm tiền cho đứa con trai đang làm thuê ở đồn điền cao su. + Chủ đề: Số phận đau thương của người nông dân trong xã hội cũ và phẩm chất cao quý tiềm tàng của họ. Đồng thời truyện còn cho thấy tấm lòng yêu thương, trân trọng của nhà văn đối với người nông dân. 3. Đại ý: Đại ý là ý lớn trong một đoạn thơ, một tình tiết, một đoạn, một phần của truyện. Một đoạn thơ, một tình tiết, một đoạn, một phần của truyện thì chưa hình thành được chủ đề. Cần phân biệt đại ý với chủ đề. VD: Bài thơ “Qua Đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan - 4 câu thơ đầu, đại ý là tả cảnh Đèo Ngang lúc bóng xế tà. - 4 câu thơ cuối (2 câu luận + 2 câu kết) ; nỗi buồn cô đơn của nữ sĩ (đại ý) => Chủ đề: tâm trạng buồn, cô đơn của li khách khi bước tới Đèo Ngang trong ngày tàn..
<span class='text_page_counter'>(2)</span> 4. Đa chủ đề: một tác phẩm có thể chỉ có một chủ đề. Một tác phẩm cũng có thể có nhiều chủ đề (đa chủ đề) VD: Bài thơ “Ngắm trăng” (Vọng nguyệt) rút trong “Nhật kí trong tù” có chủ đề tình yêu trăng (thiên nhiên) và phong thái ung dung tự tại của người chiến sĩ cách mạng trong cảnh tù đầy. - “Nhật kí trong tù” là một tập thơ đa chủ đề + Những khổ cực đày đoạ của thân tù + ý chí kiên cường bất khuất, lạc quan + Lòng khao khát tự do + Lòng yêu nước +Lòng thương người +Tình yêu thiên nhiên +Phong thái ung dung, tự tại … Đó là những phẩm chất cao đẹp của người chiến sĩ vĩ đại + Hiện thực chế độ nhà tù tăm tối, vô nhân đạo. - Những bộ tiểu thuyết đồ sộ hàng nghìn trang như “tam quốc chí”, “tây du kí”, “thuỷ hử”, “chiến tranh và hoà bình”… đều có đa chủ đề là một điều dễ hiểu. Nhưng có những tác phẩm quy mô nhỏ vẫn có thể có nhiều chủ đề. VD: Bài thơ “Bánh trôi nước” có các chủ đề sau: + Tự hào về một loại bánh ngon của dân tộc + Ca ngợi phẩm chất người phụ nữ Việt Nam (nhan sắc, thuỷ chung…) + Cảm thông với thân phận, số phận người phụ nữ trong xã hội cũ. - Bài thơ “bạn đến chơi nhà” của Nguyễn Khuyến có người bảo chỉ có một chủ đề: tình bạn cố tri chân thành, chung thuỷ. Có người lại cho rằng có hai chủ đề: + Tình bạn đẹp, chân thành + Hai cuộc đời thanh bạch của một nhà nho. Ý kiến của em thế nào? 5. Tính thống nhất của chủ đề Nếu các câu thơ, đoạn thơ, đoạn văn, các tình tiết.. là xương thịt của tác phẩm, thì chủ đề là linh hồn của bài thơ, của truyện. Nếu không nắm được toàn bộ các chi tiết của văn bản thì khó hình dung được chủ đề, tính tư tưởng của tác phẩm. Các chi tiết bộ phận của tác phẩm liên kết chặt chẽ với nhau tạo thành chủ đề. Tựa như nền, móng, cột kèo, xà, tường, nóc, ngói, tranh… hợp thành mới ra cái nhà. Tính thống nhất của chủ đề là sự liên kết chặt chẽ, sự hoà hợp gắn bó của các bộ phận tác phẩm như nhan đề, lời đề từ (nếu có), từ ngữ hình tượng, giọng điệu (thơ), cốt truyện, nhân vật, diễn biến, câu trữ tình ngoại đề (nếu có)- tạo thành một chỉnh thể. Sự thừa, thiếu trong tác phẩm là hiện tượng biểu lộ sự non yếu của tác giả đã phá vỡ tính thống nhất của chủ đề. VD: Truyện ngắn “cuộc chia tay của những con búp bê” của Khánh Hoài, từ nhan đề đến cốt truyện, các tình tiết đều mang tính liên kết khá chặt chẽ: - Thuỷ và Thành đau khổ khóc suốt đêm - Sáng sớm Thành đau buồn đi ra vườn ngồi một mình, thì em gái theo ra. - Hai anh em chia đồ chơi.
<span class='text_page_counter'>(3)</span> - Thành dẫn Thuỷ về trường cũ, chào giã biệt cô giáo Tâm và các bạn lớp 4B. - Trước lúc lên xe, Thuỷ để lại cho anh trai cả hai con búp bê…. Thành nhìn theo bóng em gái rối khóc. => Qua đó, ta rút ra chủ đề của truyện là: - Sự đau khổ của tuổi thơ trước bi kịch gia đình (cha mẹ bỏ nhau) - Tình thương yêu của anh em, của bè bạn trong bi kịch gia đình. *BÀI TẬP Bài 1 1. Phân tích bố cục bài “Rừng cọ quê tôi” (trang 13 –sách ngữ văn 8) 2. Giới thiệu hai câu văn biểu cảm trực tiếp 3. Chủ đề văn bản “Rừng cọ quê tôi” là gì? Gợi ý: Đây là một văn bản biểu cảm rất đặc sắc Phần I: Câu mở đầu tác giả tự hào giới thiệu cảnh “rừng cọ trập trùng”, là vẻ đẹp của sông Thao quê tôi không có nơi nào đẹp bằng Phần II: gồm 3 đoạn văn tả cây cọ, rừng cọ và lợi ích của nó +Đoạn 1: tả cụ thể cây cọ: thân cao vút thẳng, rất dẻo dai “gió bão không thể quật ngã”. Búp cọ “như thanh kiếm sắc vung lên”. Cây non… “lá đã xoà sát mặt đất”. Lá cọ tròn xoe “như một rừng tay vẫy”. Rừng cọ là nơi trú ngụ ca hót của đàn chim khi mùa xuân về. Tất cả các chi tiết : thân cọ, búp cọ, cây non, lá cọ, rừng cọ mùa xuân, đều thể hiện rừng cọ rất đẹp, cây cọ có một sức sống vô cùng mạnh mẽ. + Đoạn 2: Nói rừng cọ với tuổi thơ tác giả. Tâm hồn tác giả đã gắn bó thiết tha với rừng cọ. Căn nhà “núp dưới rừng cọ”. Ngôi trường “khuất trong rừng cọ”. Con đường đi học “đi trong rừng cọ”. Ngày nắng, ngày mưa có bóng cọ chở che. + Đoạn 3: Rừng cọ gắn bó với đời sống vật chất của người dân sông Thao. Cha làm chổi cọ, mẹ lấy móm lá cọ đựng hạt giống. Chị đan lá cọ, làm mành cọ, lán cọ để xuất khẩu. Trẻ chăn trâu nhặt trái cọ đem về om, “ăn vừa béo vừa bùi” - Phần 3, tác giả nhắc lại câu hát: “cơm nắm lá cọ là người sông Thao”, rồi khẳng định một tình yêu thuỷ chung của người sông Thao: “đi đâu rồi cũng nhớ về rừng cọ quê mình” 2. Có hai câu văn biểu cảm trực tiếp nói lên tình cảm của tác giả, của người sông Thao đối với rừng cọ quê nhà - Chẳng có nơi nào đẹp như sông Thao quê tôi, rừng cọ trập trùng - Người sông Thao đi đâu, rồi cũng nhớ về rừng cọ quê mình 3. Chủ đề “rừng cọ” quê tôi là gì? - Rừng cọ là vẻ đẹp của vùng sông Thao - Tình yêu mến quê nhà của người sông Thao. Bài 2: Hãy nêu xuất xứ, chủ đề của truyện ngắn “tôi đi học” của Thanh Tịnh? Hãy chỉ ra tính thống nhất về chủ đề của văn bản đó? Gợi ý 1. Xuất xứ, chủ đề Truyện “tôi đi học” như một trang hồi kí ghi lại những hoài niệm, kỉ niệm đẹp của tuổi thơ trong buổi tựu trường, truyện được in trong tập “Quê mẹ”, xuất bản năm 1941.
<span class='text_page_counter'>(4)</span> “Tôi đi học” đã thể hiện những tình cảm hồn nhiên, ngây thơ và trong sáng, tâm trạng bâng khuâng, hồi hộp của một em bé trong buổi tựu trường. Em “như một con chim con đứng bên bờ tổ, nhìn quãng trời rộng muốn bay, nhưng còn ngập ngừng e sợ” 2. Tính thống nhất về chủ đề của truyện “Tôi đi học” Truyện ngắn “tôi đi học” gồm có các chi tiết, tình tiết diễn tả tâm trạng của chú bé (nhân vật “tôi”) trong buổi tựu trường. - Mẹ âu yếm nắm tay tôi dẫn đi tren con đường làng dài và hẹp trong một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh. Lòng tôi “có sự đổi thay lớn”… nên tôi thấy cảnh vật thân quen trở nên “lạ” - Thấy các bạn nhỏ cầm sách vở, bút, thước… tôi rất “thèm” và đòi mẹ đưa bút thước cho cầm thử để thử sức mình. - Thấy trường làng Mĩ Lí oai nghiêm như đình làng Hoà Ấp, đông đặc cả người, ai cũng áo quần sạch sẽ, gương mạt vui tươi sáng sủa. Lòng tôi “đâm ra lo sợ vẩn vơ”. Học trò mới “thèm vụng và ước ao thầm”… được như những học trò cũ, biết lớp, biết thầy đề khỏi “rụt rè” trong cảnh lạ - Nghe tiếng trống trường dội vang, nghe ông đốc đọc tên, các học sinh mới đều khóc, còn tôi cũng nức nở theo. Nghe gọi đến tên minh, tôi “giật mình và lúng túng”, quên cả mẹ đang đứng sau. Khi thấy giáo trẻ dẫn vào lớp, tôi cảm thấy “trong thời thơ ấu tôi chưa lần nào thấy xa mẹ tôi như lần này”. - Vào ngồi trong lớp, tôi thấy một mùi hương lạ xông lên; tôi bâng khuâng ngắm nhìn xung quanh, nhìn bạn… rồi vòng tay lên bàn, nhìn thầy viết và lẩm nhẩm đánh vần đọc bài tập viết: “Tôi đi học” => Các chi tiết trên không chỉ thể hiện diễn biến sự việc, cảnh vật và tâm trạng nhân vật “tôi” trong buổi tựu trường mà còn gắn kết với nhau trong một thời gian (buồi sớm đầy sương thu và gió lạnh), trong ba không gian: con đường làng dài và hẹp, sân trường làng Mĩ Lí, phòng học lớp Năm. Cảnh vật và tâm trạng đều diễn biến, hoà quyện, không thừa. Ví dụ con chim nhỏ đậu trên cửa sổ lớp học rồi vụt cách bay đi. Qua đó ta thấy tính thống nhất của chủ đề truyện “tôi đi học”: tâm trạng hồi hộp, bâng khuâng, tình cảm trong sáng hồn nhiên của tuổi thơ trong buổi tựu trường (đầu tiên của đời mình) Bài 3: Cho đề văn sau: “Kể lại kỉ niệm ngày đầu tiên đi học lớp Một của em”. Có hai bạn triển khai hai hướng như sau: Hướng 1: a,Chú em cho em một chiếc cặp sách rất đẹp khi em sắp vào năm học lớp Tám. Chiếc cặp đã gợi nhớ kỉ niệm ngày đầu tiên đi học lớp Một b, Cách đây tám năm, ngày đầu tiên đi học lớp Một, bà nội đưa em đi, vì bố mẹ em đi công tác xa. c, Bà đã già nên không kịp ra phố mua cặp mới cho em, em đựng sách trong túi vải rất to của bà, trông rất ngộ. d, Hai bà cháu đi dò qua sông, sang trường học. Trên đò rất nhiều các bạn và các vị phụ huynh. Không khí như ngày hội, ai cũng mặc quần áo đẹp. Giá như mọi ngày em sẽ gấp chiếc thuyền giấy thả trôi sông. Nhưng hôm nay, em đứng thật nghiêm chỉnh trên đò..
<span class='text_page_counter'>(5)</span> e, Ấn tượng của buổi học đầu tiên là hình ảnh cô giáo của em. Cô rất dịu dàng và đặc biệt có hai bím tóc dài tới tận khoeo chân. Lời nói của cô: “con đưa mũ để cô cất nào” và nụ cười của cô- đến tận bây giờ em vẫn không quên. Hướng 2: a. Hôm em sang trường dự khai giảng năm học lớp Tám, em đã tự đi xe đạp một mình. Em bỗng mỉm cười nhớ lại cái ngày đầu tiên ở lớp Một mẹ đưa em đến lớp b. Từ nhà em ở phố Mai Hắc Đế, đi qua phố Tô Hiến Thành, đi thẳng rất lâu mới đến trường cấp I, II Vân Hồ. Em rất ghét mấy chị lớn hơn em một chút, thấy em lũn cũn cắp cặp đi học, cứ đùa doạ bắt trói em và đem nhốt. Cái năm “ngớ ngẩn” ấy, em rất sợ các chị. c. Vào lớp học, cô giáo đi thu mũ nón của các bạn trong lớp để gọn gàng một góc lớp. Em đã thật thà hỏi cô: “lát nữa con về, cô có trả mũ nón không ạ?”. Cô giáo bật cười, xoa đầu em và bảo: “Có chứ, con!” d, Cô giáo em có giọng nói rất hay, cô viết chữ mẫu trên bảng rất đẹp, nhưng cô lại có tên không hay. Em nghe các bạn gọi là cô Chưng e, Khi về nhà, sau buổi học đầu tiên, em đã hãnh diện nói với bố mẹ và chị của em là em học lớp cô Chưng. Lập tức em đã bị chị em cười rất to và giễu: “Đó là cô Hưng. Thật là ngớ ngẩn. Tên cô giáo cũng nghe nhầm” (Chị em học lớp ba cùng trường mà). Thật là ngượng nhớ đời! Theo em, hai hướng triển khai của hai bạn học sinh trên về đề văn đã cho, bạn nào đúng, bạn nào sai? Vì sao? Có điểm nào ai bạn cùng giống nhau không ? Em thích khai triển theo hướng nào? Hãy trình bày hướng triển khai đề văn của riêng em và viết thành bài cụ thể. Gợi ý: Cả hai hướng triển khai của hai bạn học sinh đều đúng. Vì các sự việc, các chi tiết nêu ra đều hướng tới làm rõ ý cơ bản của đề bài là về kỉ niệm buổi đi học đầu tiên của em (tức là bài văn đã xác định được sự thống nhất của chủ đề văn bản) 6. Bài tập về nhà: Hoàn thành phần bài tập trên lớp Ngày soạn : 18/09/2011 Ngày dạy : 20/09/2011 Buổi 2 BỐ CỤC CỦA VĂN BẢN XÂY DỰNG ĐOẠN VĂN TRONG VĂN BẢN 1. Ghi nhớ : - Bố cục của văn bản là sự tổ chức các đoạn văn để thể hiện chủ đề. Văn bản thường có bố cục 3 phần: Mở bài, thân bài, kết bài + Phần mở bài có nhiệm vụ nêu ra chủ đề của văn bản. + Phần thân bài thường có một số đoạn nhỏ trình bày các khía cạnh của chủ đề. + Phần kết bài tổng kết chủ đề của văn bản. - Nội dung phần thân bài thường được trình bày theo một thứ tự tuỳ thuộc vào kiểu văn bản, chủ đề, ý đồ giao tiếp của người viết. Nhìn chung, nội dung ấy thường được sắp xếp theo trình tự thời gian và không gian, theo sự phát triển của sự việc hay theo.
<span class='text_page_counter'>(6)</span> mạch suy luận, sao cho phù hợp với sự triển khai chủ đề và sự tiếp nhận của người đọc. VD: a. Văn miêu tả - Mở bài: giới thiệu chung về ấn tượng cảm xúc đối với cảnh vật - Thân bài: tả từng phiên cảnh cụ thể, tả khái quát toàn cảnh - Kết bài: nêu cảm xúc, ý nghĩ b. Văn tự sự - Mở bài: giới thiệu câu chuyện - Thân bài: kể diễn biến câu chuyện - Kết bài: kết cục câu chuyện, hoặc nói lên suy nghĩ, cảm nghĩ Câu chuyện: Con chim hồng 1. Một người đi săn ở Thiên Tân đem bẫy vào rừng đánh bắt được một con chim hồng mái rất đẹp. Bỏ chim vào lồng, đem về. Con chim trống cứ bay theo, cất tiếng kêu rất ai oán. Con trống bay theo về tận nhà người đi săn, kêu khóc như van xin cho đến tối mịt mới chịu bay đi. 2. Mờ sáng hôm sau, người đi săn dậy mở cửa đã nhìn thấy con chim trống đậu trước sân. Chim vẫy cánh nhịp nhàng như có ý ra hiệu gì. Người đi săn lại gần định bắt lấy cho được cả đôi. Chim trống vươn cao cổ, nhả ra một cục vàng rất to, sáng lấp lánh. Người đi săn chợt hiểu, hỏi: “muốn chuộc vợ sao?” Bèn thả con chim mái ra. Đôi chim mừng mừng tủi tủi, quanh quẩn mãi, chưa nỡ bay đi. 3. Người đi săn cân vàng. Được hai lạng sáu đồng cân. Cầm cục vàn trên tay, anh ta xúc động nghĩ : “ Cầm thú không biết gì mà còn chung tình thế? Có nỗi buồn nào bằng nỗi buồn của đôi lứa phải chia li. Loài cầm thú cũng thế ư?..” (Theo “liêu trai chí dị”) c. Văn nghị luận - Mở bài: nêu vấn đề - Thân bài: giải quyết vấn đề. Có thể lần lượt dùng lí lẽ hoặc dẫn chứng để giải thích, hay chứng minh, hay bình luận từng luận điểm, từng khía cạnh của vấn đề - Kết bài: khẳng định vấn đề. Liên hệ cảm nghĩ VD: Bài “tinh thần yêu nước của nhân dân ta” của Hồ Chí Minh - Mở bài: Tác giả nêu vấn đề: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước”. Lòng yêu nước của nhân dân ta là một truyền thống quý báu, có sức mạnh vô địch để chiến thắng thù trong, giặc ngoài. - Thân bài:tác giả chứng minh tinh thần yêu nước của nhân dân ta + Những trang sử vẻ vang thời đại Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung… + Tinh thần yêu nước của nhân dân ta được thể hiện trong cuộc kháng chiến chống Pháp: đủ các lứa tuổi, các thành phần giai cấp, tôn giáo, khắp mọi miền đất nước (miền ngược, miền xuôi, tiền tuyến, hậu phương, những hành động yêu nước…) - Kết bài: tác giả nêu lên nhiệm vụ của toàn dân là phải phát huy tinh thần yêu nước để kháng chiến và kiến quốc. 2. Cách bố trí, sắp xếp nội dung phần thân bài.
<span class='text_page_counter'>(7)</span> Thân bài là phần chính trung tâm, phần trọng tâm của bài văn, của văn bản. Mỗi loại văn bản ở phần thân bài có cách bố trí, sắp xếp nội dung khác nhau. a. Thân bài văn miêu tả: có thể sắp xếp bố trí từ cảnh này đến cảnh khác, từ bộ phận này đến bộ phận khác theo thời gian và không gian, có cảnh chính và cảnh phụ. b. Thân bài văn tự sự, có thể sắp xếp, bố trí các tình tiết, các sự việc, các nhân vật nối tiếp hoặc xen kẽ nhau xuất hiện theo diễn biến tự nhiên của câu chuyện. VD: truyện “Ông lão đánh cá và con cá vàng” có 5 tình tiết sau hình thành cốt truyện và diễn biến câu chuyện: - Mụ vợ ông lão đánh cá bảo chồng ra biển xin con cá vàng một cái máng lợn - Mụ vợ sai chồng ra biển xin con cá vàng cho mụ một cái nhà mới - Mụ vợ bắt chồng đi gặp con cá vàng xin cho mụ làm nhất phẩm phu nhân - Mụ vợ bắt chồng đòi cá vàng để mụ được làm nữ hoàng - Mụ vợ ông lão đánh cá đòi được làm Long Vương ngự trên mặt biển c. Thân bài văn nghị luận: chất liệu làm nên bài văn nghị luận là lí lẽ, dẫn chứng và cách lập luận. Thân bài của một bài văn nghị luận là hệ thống các luận điểm, luận cứ. Qua các luận điểm, luận cứ, người viết dùng lí lẽ, dẫn chứng để giải thích, chứng minh, bình luận để làm nổi bật luận đề (vấn đề đã nêu ra) VD: trong bài “thế nào là học tốt”, ông Trường Chinh đã nêu lên 4 căn cứ, 4 luận điểm sau: - Học tốt trước hết là học sinh phải đi học cho đều, chăm chú nghe giảng… - Hai là học phải gắn với hành, với lao động…. - Ba là học sinh phải chăm lo học tập và rèn luyện về các mặt trí dục, đức dục, mĩ dục, thể dục để phát triển toàn diện con người mới xã hội chủ nghĩa - Bốn là, học sinh phải kính trọng thầy, cùng gánh trách nhiệm với thầy trong việc xây dựng nhà trường xhcn…. 3. Xây dựng đoạn văn trong văn bản. a. Đoạn văn là gì? Một văn bản gồm có nhiều đoạn văn hợp thành. Vậy, đoạn văn là một phần của văn bản. Đoạn văn chỉ có một câu văn, hoặc do một số câu văn tạo thành. Đoạn văn biểu đạt một ý tương đối trọn vẹn của văn bản. Về hình thức, chữ đầu đoạn văn phải viết hoa, lùi vào độ một ô tính từ lề. Kết thúc đoạn văn bằng dấu chấm xuống dòng. b. Câu chủ đề của đoạn văn Câu chủ đề (còn gọi là câu chốt) mang nội dung khái quát lời lẽ ngắn gọn, thường đủ hai thành phần chính C- V; nó có thể đứng đầu đoạn văn (đoạn diễn dịch) cũng có thể đứng cuối đoạn (đoạn quy nạp) VD1 : Đảng ta vĩ đại thật. Trong lịch sử ta có ghi chuyện anh hùng dân tộc là Thánh Gióng đã dùng gốc tre đánh đuổi giặc ngoại xâm. Trong những ngày đầu kháng chiến, Đảng ta đã lãnh đạo hàng nghìn, hàng vạn anh hùng noi gương Thánh Gióng dùng gậy tầm vông đánh thực dân Pháp. (Hồ Chí Minh) VD2: Cách mạng tháng Tám thành công mở ra một kỉ nguyên mới độc lập, tự do của dân tộc. Tuổi trẻ VN được cắp sách đến trường, được hưởng thụ một nền giáo dục hoàn toàn tự do. Một chân trời tươi sáng bao la mở rộng trước tầm mắt thanh, thiếu niên nhi đồng. Học không phải để làm quan. Học để làm người, người lao động sáng tạo, có.
<span class='text_page_counter'>(8)</span> trình độ văn hoá, khoa học, kĩ thuật để phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Người người học tập, nhà nhà học tập để nâng cao dân trí. Vì vậy, học tập là nghĩa vụ của chúng ta. c. Quan hệ giữa các câu trong đoạn văn Trong một đoạn văn các câu có quan hệ ý nghĩa chặt chẽ với nhau. Có thể bổ sung ý nghĩa cho nhau; có thể liên kết, phối hợp với nhau về ý nghĩa. 4. Cách trình bày nội dung trong đoạn văn: - Dựng đoạn diễn dịch ( là cách thức trình bày ý đi từ ý chung, khái quát đến các ý cụ thể chi tiết. Đoạn diễn dịch thì câu chốt đứng đầu đoạn, các câu đi kèm sau nhằm minh hoạ câu chốt. VD: Em rất kính yêu mẹ. Bố thì nghiêm, mẹ thì hiền. Mẹ giống bà ngoại, từ nét mặt, nụ cười đôn hậu đến đôi bàn tay nhỏ nhắn, khéo léo. Mẹ đã về hưu được vài năm nay. Mẹ thức khuya, dậy sớm lo cho các con được ăn ngon, mặc đẹp, được học hành giỏi giang. Đứa con nào bị ốm, mẹ thở dài lo lắng, chăm sóc từng viên thuốc, từng bát cháo… Mẹ luôn dặn các con: “nhà ta còn khó khăn, các con phải ngoan và chăm chỉ học hành”. Mỗi lần đi xa một hai ngày, em nhớ mẹ lắm! - Dựng đoạn quy nạp ( là cách trình bầy nội dung đi từ các ý chi tiết, cụ thể đến ý chung khái quát. Trong đoạn quy nạp, các câu mang ý chi tiết, cụ thể đứng trước, câu chủ đề đứng cuối đoạn. Chú ý: đoạn diễn dịch có thể đảo lại thành đoạn quy nạp, hoặc ngược lại VD: Tình bạn phải chân thành, tôn trọng nhau, hết lòng yêu thương, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Lúc vui, lúc buồn, khi thành đạt, khi khó khăn, bạn bè phải san sẻ cùng nhau. Có bạn chí thiết, có bạn tri âm, tri kỉ… Nhân dân ta có nhiều câu tục ngữ rất hay nói về tình bạn như : “giàu vì bạn, sang vì vợ” hay “Học thầy không tày học bạn”, nhà thơ Nguyễn Khuyến có bài “bạn đến chơi nhà” được nhiều người yêu thích. Trong đời người, hầu như ai cũng có bạn. Bạn học thời tuổi thơ, thời cắp sách là trong sáng nhất, hồn nhiên nhất. Thật vậy, tình bạn là một trong những tình cảm cao đẹp của chúng ta. - Dựng đoạn song hành (là đoạn văn được sắp xếp các ý ngang nhau, bổ sung cho nhau, phối hợp nhau để diễn tả ý chung. Đoạn song hành không có câu chủ đề. VD: Đi giữa Hạ Long vào mùa sương, ta cảm thấy những hòn đảo vừa xa lạ, vừa quen thuộc, mờ mờ, ảo ảo. Chung quanh ta, sương buông trắng xoá. Còn thuyền bơi trong sương như bơi trong mây. Tiếng sóng vỗ loong boong trên mạn thuyền. Tiếng gõ thuyền lộc ộc của bạn chài săn cá, âm vang mặt vịnh. Thỉnh thoảng mấy con hải âu đột ngột hiện ra trong màn sương…. ( Vịnh Hạ Long) - Dựng đoạn móc xích ( là đoạn văn trong đó cách sắp xếp ý nọ tiếp theo ý kia theo lối móc nối vào ý trước (qua những từ ngữ cụ thể) để bổ sung, giải thích cho ý trước. VD: Muốn xây dưng chủ nghĩa xã hội thì phải tăng gia sản xuất. Muốn tăng gia sản xuất tốt thì phải có kĩ thuật cải tiến. Muốn sử dụng tốt kĩ thuật cải tiến thì phải có văn hoá. Vậy, việc bổ túc văn hoá là cực kì cần thiết. BÀI TẬP Bài 1: Nhận diện đoạn văn ( trang 33, 34, 35 sách “cảm thụ ngữ văn THCS 8; bài 13 tr 17, 18 sách “các dạng tập làm văn và cảm thụ thơ văn lớp 8).
<span class='text_page_counter'>(9)</span> Bài 2: Cho câu chủ đề sau: a.“Em quên sao được kỉ niệm ngày đầu tiên đi học lớp Một”. 1. Viết tiếp câu chủ đề trên để có một đoạn văn diễn dịch khoảng từ 10 đến 12 câu. 2. Sau đó, hãy chuyển đổi đoạn văn diễn dịch thành đoạn văn quy nạp. Nêu cách chuyển đổi. b. Ca dao và tục ngữ Việt Nam đã diễn tả sâu sắc tình cảm yêu thương cộng đồng. Hãy viết tiếp câu chủ đề trên để có một đoạn văn nghị luận chứng minh kết cấu theo kiểu tổng – phân - hợp c. Viết đoạn văn tổng phân hợp cho sẵn câu chủ đề. Cái tình của lão Hạc đối với “cậu Vàng” thật là hiếm có và Nam Cao đã ghi lại trong những dòng chữ xúc động. Bởi không còn là con chó thường, cậu “vàng” đã trở thành người thân, niềm vui, niềm an ủi đối với cuộc sống cô đơn, lủi thủi một mình của lão. Lão “gọi nó là cậu Vàng như bà mẹ hiếm hoi gọi đứa con cầu tự. Thỉnh thoảng không có việc gì làm, lão lại bắt rận cho nó hay đem nó ra ao tắm, cho nó ăn cơm trong một cái bát như một nhà giầu(…) Lão cứ nhắm vài miếng lại gắp cho nó một miếng như người ta gắp thức ăn cho con trẻ. Rồi lão chửi yêu nó, lão nói với nó như nói với một đứa cháu bé về bố nó”. Tình thế cùng đường khiến lão phải tính đến việc bán ‘cậu Vàng” thì trong lão diễn ra một sự dằn vặt đau khổ. Lão kể lại cho ông giáo việc bán “cậu vàng” với tâm trạng vô cùng đau đớn: “lão cười như mếu, đôi mắt ầng ậc nước”. Đến nỗi ông giáo thương lão quá “muốn ôm chầm lấy lão mà oà lên khóc”. Khi nhắc đến việc cậu Vàng bị lừa rồi bị bắt, lão Hạc không còn nén nổi nỗi đau đớn cứ dội lên : “mặt lão đột nhiên co dúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc. Lão Hạc đau đớn đến thế khỏng phải chỉ vì quá thương con chó, mà còn vì lão không thể tha thứ cho mình vì đã nỡ lừa con chó trung thành của lão. Ông lão “quá lương thiện” ấy cảm thấy lương tâm đau nhói khi thấy trong đôi mắt của con chó bất ngờ bị trói có cái nhìn trách móc… Thì ra tôi già bằng này tuổi đầu rồi còn đánh lừa một con chó, nó không ngờ tôi nỡ tâm lừa nó. Phải có trái tim vô cùng nhân hậu và trong sạch thì mới bị dày vò lương tâm đau đớn đến thế, mới cảm thấy có lỗi với một con chó như vậy. Bài 3: Một bạn học sinh đã có dự định sắp xếp dàn ý phần thân bài như sau và mỗi ý bạn ấy sẽ triển khai thành một đoạn văn: a. Kỉ niệm khi ở nhà, chuẩn bị đến trường b. Kỉ niệm khi kết thúc buổi học c, Kỉ niệm suốt dọc đường đến lớp d, Kỉ niệm trong buổi lễ khai giảng e, Kỉ niệm trong lớp, buổi học đầu tiên 1. Theo em, dàn ý thân bài mà bạn học sinh dự kiến như trên đã hợp lý chưa? Vì sao? Nếu chưa hợp lý, hãy sửa lại. 2. Chọn một ý của dàn ý thân bài đã sửa, viết thành một đoạn văn diễn dịch hoặc quy nạp. Bài 4: Đề chuẩn bị cho bài viết số 1 về văn tự sự trong tuần sau, cô giáo đã hướng dẫn cả lớp tôi làm đề văn số 2 (ngữ văn 8, tập một) như sau:.
<span class='text_page_counter'>(10)</span> - Các em có thể chọn “người ấy” là một người bạn, hoặc một thầy giáo, cô giáo, hoặc một người thân trong gia đình như ông, bà, cha, mẹ, anh, chị, em.. - “Sống mãi” có nghĩa là để lại những kỉ niệm sâu sắc, không thể quên. Không nên quan niệm về sống chế, hoặc hiểu lầm là viết về người đã khuất. - Tôi đã chọn viết về bà nội yêu quý của mình. Dự kiến phần thân bài của tôi như sau: 1. Một vài nhận xét nhanh về bà từ hình dáng, đến công việc hằng ngày 2. Kỉ niệm khi em mới sinh, bà đã giúp mẹ chăm sóc em (nghe mẹ kể lại) 3. Kỉ niệm khi em chập chững biết đi, bà đã chăm em. 4. Kỉ niệm khi em lớn lên và đi học, bà vẫn chăm sóc và dạy bảo em. - Các bạn có trùng dự định như tôi không? Nếu đồng cảm, mời các bạn hãy triển khai mỗi ý của dàn ý thành một đoạn văn và hoàn thành đề văn số 2. 5. Chuyển đoạn văn trong văn bản a. Mục đích của việc chuyển đoạn văn Mỗi văn bản do nhiều đoạn văn hợp thành. Người viết và nói phải chuyển đoạn văn để liên kết lại thành một khối chặt chẽ, tránh rời rạc, lộn xộn. b. Các phương tiện chuyển đoạn. Muốn chuyển đoạn, liên kết đoạn, người ta có thể sử dụng từ ngữ hoặc dùng câu văn * Dùng từ ngữ để liên kết đoạn, chuyển đoạn, có thể: - Dùng các quan hệ từ - Dùng từ ngữ chỉ sự liệt kê - Dùng từ ngữ thể hiện ý tiểu kết, tổng kết, khái quát sự việc - Dùng từ ngữ chỉ sự tiếp diễn, nối tiếp - Dùng từ ngữ chỉ ý tương phản, đối lập - Dùng từ ngữ thay thế (các đại từ…) * Dùng câu nối để chuyển đoạn văn Có lúc, người viết phải sử dụng một câu văn để nối hai đoạn văn. Nhờ thế, sự vật với sự vật, tình thế với tình thế, thời gian với thời gian, không gian với không gian được nối kết liền mạch, chặt chẽ. VD: “Học thơ ca dân gian và thơ cổ điển cho vững chãi nghề thơ, thà biết rất sâu rất thạo rồi sau đó không dùng không theo, vì mình thấy cái lối mới của mình hay hơn nhiều, khong theo một cách tự giác, chứ không phải vì chưa hiểu biết. Trở lại với vần thơ dân gian. Trong bài “Biển” (1961), tôi đã dùng nhiều vần theo lối hát dặm Nghệ Tính: Bờ đẹp đẽ cát vàng Thoai thoải hàng thông đứng Như lặng lẽ mơ màng Suốt ngàn năm bên sóng..” (Tiếp nhận ảnh hưởng của thơ truyền thống – Xuân Diệu) Bài tập về nhà: Hãy viết một số đoạn văn phân tích tấm lòng nhân hậu và lương thiện của lão Hạc. Sau đó, hãy phân tích các phương tiện chuyển đoạn văn được sử dụng. ( Tham khảo bài “Lão Hạc”).
<span class='text_page_counter'>(11)</span> Ngày soạn : 25/09/2011 Ngày dạy : /09/2011 Buổi 3. VĂN TỰ SỰ I. Định nghĩa 1. Chuyện là gì? Là các sự việc do nhân vật gây ra, cũng gọi là các tình tiết, diễn biến liên tục trong một thời gian nhất định, trên không gian nhất định, thể hiện tư duy và phẩm chất con người mang ý nghĩa đời sống. 2. Thế nào gọi là văn tự sự? Văn tự sự là loại văn trong đó tác giả giới thiệu, thuyết minh, miêu tả nhân vật, hành động và tâm tư tình cảm của nhân vật, kể lại diễn biến câu chuyện… sao cho người đọc, người nghe hình dung được diễn biến và ý nghĩa của câu chuyện ấy. II- Cách xây dựng truyện 1. Truyện là một thể loại… là văn bản kể được tác giả sáng tác. VD: truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn…. Cái được kể trong văn bản truyện thì gọi là câu chuyện, được viết là “ch” 2. Xây dựng nhân vật - Trong truyện phải có nhân vật. Nhân vật có ngoại hình, có ngôn ngữ hành động, tâm lí- tính cách, có xung đột, có tình huống… giữa các nhân vật mới có “chuyên” xẩy ra trong thời gian và không gian nhất định. Nhân vật phải cụ thể, cá tính hoá, tiêu biểu cho một lớp người nào đó trong xã hội. Viết truyện phải biết xây dựng nhân vật. Đọc truyện phải biết nghệ thuật xây dựng nhân vật của tác giả. 3. Xây dựng tình tiết truyện: Tình tiết truyện là những mạch, những chặng, những sự việc diễn biến của câu chuyện được kể trong tác phẩm truyện. Tình tiết có thú vị thì truyện mới hay. Bằng phẳng quá thì nhạt nhẽo, vô vị. VD: Truyện “Tấm lụa và cây roi” có mấy tình tiết sau: - Một là, thân mẫu Trần Bích San nhận được tấm lụa con đi làm quan xa gửi về tặng mẹ, bà buồn và giận lắm. - Hai là, bà trả lại con tấm lụa kèm theo cái roi - Ba là, Án San lập bàn thờ lạy sống mẹ và nghiêm khắc tự xử phạt mình 4. Tình huống của truyện Tình huống được thể hiện qua các tình tiết, sự cố bất ngờ, giầu kịch tính đem đến cho người đọc nhiều lí thú, hấp dẫn. Cô bé hái nấm Hai em bé gái trên đường về nhà, mang theo một giỏ đầy nấm vừa hái trong rừng. Chúng phải đi ngang qua đường tàu. Tưởng rằng tàu hoả còn xa, chúng băng ngang đường ray. Không ngờ tàu hoả xuất hiện. Em gái lớn nhảy lùi lại, con em nhỏ đánh đổ giỏ nấm và cúi xuống nhặt. Tàu hoả đã đến quá gần. Em lớn kêu lê: “Bỏ hết nấm, chạy đi!”. Nhưng em nhỏ không nghe thấy và tiếp tục nhặt nấm. Người lái tầu không thể dừng lại được và tàu chẹt em gái nhỏ. Em gái lớn gào khóc sướt mướt. Hành khách đổ xô đến.
<span class='text_page_counter'>(12)</span> cửa sổ các toa tầu. Khi tàu chạy qua, người ta thấy em gái nhỏ nằm bất động giữa các thanh ray mặt úp xuống. Một lúc sau, cô bé nhổm dậy, đứng lên nhặt hết nấm vào giỏ và chạy đến chỗ chị. - Em bé đánh đổ nấm cúi xuống nhặt. Tàu chạy qua chẹt lên em bé nhỏ. Chị khóc. Hành khách vô cùng lo sợ, thương cảm. Tàu chạy qua, em bé nằm bất động giữa các thanh ray, mặt úp xuống. Ai cũng ngỡ là em đã bị chết. => Đó là tình huống thứ nhất. - Ai ngờ, “một lúc sau cô bé nhổm dậy, đứng lên nhặt hết nấm bỏ vào giỏ và chạy đến chỗ chị”. => Đó là tình huống thứ hai. Từ lo âu, sợ hãi mà người đọc vui mừng vì em bé may mắn, do khôn ngoan mà thoát chết. Hai tình huống trên đã tạo nên tính hấp dẫn của truyện. Đồng thời giá trị nhân bản của truyện được tô đậm. III- Lập dàn bài cho một bài văn tự sự 1. Mở bài: Có thể giới thiệu nhân vật và tình huống xẩy ra câu chuyện.. Cũng có lúc người ta bắt đầu từ một sự cố nào đó, hoặc kết cục câu chuyện, số phận nhân vật rồi ngược lên kể lại từ đầu. 2. Thân bài: Kể các tình tiết làm nên câu chuyện. Nếu tác phẩm truyện có nhiều nhân vật thì tình tiết lồng vào nhau, đan xen nhau theo diễn biến của câu chuyện 3. Kết bài: câu chuyện kể đi vào kết cục. Sự việc kết thúc, tình trạng và số phận nhân vật được nhận diện khá rõ. IV. Phương pháp cụ thể 1. Miêu tả trong văn tự sự Miêu tả không chỉ làm nổi bật ngoại hình mà còn có thể khắc hoạ nội tâm nhân vật, làm cho chuyện kể trở nên đậm đà, lí thú Trong văn tự sự thường có 4 yếu tố miêu tả đan xen vào các tình tiết theo diễn biến của câu chuyện: - Miêu tả cảnh vật- không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật ( Dế Mèn phiêu lưu kí - đoạn miêu tả vùng cỏ may, võ đài diễn ra cuộc thì đấu giữa Trũi và Mèn) - Miêu tả ngoại hình nhân vật ( Miêu tả Dế Mèn) - Miêu tả hành động nhân vật: ( hành động của tên cai lệ và người nhà lí trưởng, hành động của chị Dậu…) - Miêu tả tâm lí, tâm trạng nhân vật (tâm trạng nhân vật chị Dậu trong cảnh bán con) 2.Biểu cảm trong văn tự sự a. Sự biểu hiện và giá trị của yếu tố biểu cảm trong văn tự sự - Trong văn tự sự, ngoài các yếu tố tình tiết, yếu tố miêu tả cảnh vật, nhân vật… còn có yếu tố biểu cảm. Những yếu tố biểu cảm (vui, buồn, giận, hờn, lo âu, mong ước, hi vọng, nhớ thương….) luôn luôn hoà quyện vào cảnh vật, sự việc đang diễn ra, đang được nói đến. - Các yếu tố biểu cảm trong văn tự sự thường được biểu hiện qua 3 dạng thức sau đây: + Tự thân cảnh vật, sự việc diễn biến mà cảm xúc tràn ra, thấm vào lời văn, trang văn do người đọc cảm nhận được. + Cảm xúc được bày tở, được biểu hiện qua các nhân vật, nhất là qua ngôi kể thứ nhất..
<span class='text_page_counter'>(13)</span> - Cảm xúc được tác giả bày tỏ trực tiếp. Đó là đoạn trữ tình ngoại đề mà ta thường bắt gặp trong một số truyện. Chú ý: lúc đọc, lúc cảm thụ, lúc phân tích tác phẩm, phân tích nhân vật (tiểu thuyết, truyện ngắn, truyện thơ, nhất là tuỳ bút…) ta phải đặc biệt lưu ý tới các yếu tố biểu cảm. Luyện tập: Cho sự việc và nhân vật sau đây: Sau khi bán chó, lão Hạc sang báo cho ông giáo biết. Hãy đóng vai ông giáo và viết một đoạn văn kể lại giây phút lão Hạc sang báo tin bán chó với vẻ mặt và tâm trạng đau khổ. Lão Hạc ra về rồi. Nước mắt ứa ra nơi hai hõm mắt. Như một kẻ mất hồn. Thương lão quá. Cảnh già cô đơn chỉ có con chó làm bạn sớm khuya, giờ lại bán đi. Cảnh cậu Vàng bị thằng Xiên, thằng Mục bất ngờ túm lấy hai chân sau dốc ngược lên rồi trói lại, đôi mắt đờ ra, dại đi, rên ư ử như khóc như van… cứ hiện ra trước mắt tôi. Và hình ảnh lão Hạc, sau khi báo tin “cậu Vàng đi đời rồi, ông giáo ạ!, “Mặt co rúm lại, cái đầu ngọeo về một bên, cái miệng móm mém cất tiếng khóc hu hu của lão làm cho tôi đau đớn và xúc động vô cùng. Tôi nghĩ về kiếp chó, kiếp cậu Vàng, nghĩ về kiếp người. Câu nói của lão Hạc làm tôi day dứt và thảng thốt mãi: “thì ra tôi già bằng ngần này tuổi đầu rồi còn đánh lừa một con chó, nó không ngờ tôi nỡ tâm lừa nó!”. Ngày soạn : 16/10/2011 Ngày dạy : /10/2011 Buổi 4 A. Kh¸i qu¸t ch¬ng tr×nh ng÷ v¨n 8 I. Cụm văn bản truyện ký việt nam hiện đại(Văn học hiện thực 1930-1945) 1. T«i ®i häc – Thanh TÞnh 2. Trong lßng mÑ – Nguyªn Hång 3. Tøc níc vì bê – Ng« TÊt Tè 4. L·o H¹c – Nam cao II. Cụm văn bản thơ hiện đại 1. V¨n th¬ yªu níc ®©u thÕ kû 20 Vµo nhµ ngôc Qu¶ng §«ng c¶m t¸c – Phan Béi Ch©u Hai ch÷ níc nhµ Đập đá ở Côn Lôn 2. Phong trµo th¬ míi Ông đồ – Vũ Đình Liên Nhí rõng Que h¬ng 3. V¨n häc c¸ch m¹ng(1930-1945) - Khi con tu hó – Tè h÷u - Tøc c¶nh P¾c Bã – Hå ChÝ Minh - NhËt ký trong tï – Hå ChÝ Minh III. Côm v¨n b¶n nghÞ luËn Chiếu dời đô - Lý Công Uẩn HÞch tíng sü – TrÇn Quèc TuÊn Níc §¹i ViÖt ta – NguyÔn Tr·i ThuÕ m¸u – NguyÔn ¸i Quèc IV. Côm v¨n b¶n níc ngoµi C« bÐ b¸n diªm – An- dÐc xen §¸nh nhau víi cèi xay giã – XÐc van tÐt ChiÕc l¸ cuèi cïng – O Hen – ri Hai c©y phong – Ai ma tèp.
<span class='text_page_counter'>(14)</span> §i bé ngao du – Rót x« ¤ng Giuèc §anh mÆc lÔ phôc – M« li e V. Côm v¨n b¶n nhËt dông. - Thông tin về ngày trái đất năm 2000. - ¤n dÞch thuèc l¸ - Bµi to¸n d©n sè. B. V¨n b¶n T«i ®i häc I/ Mét vµi nÐt vÒ t¸c gi¶ - T¸c phÈm II/ Ph©n tÝch t¸c phÈm 1. T¸c gi¶. - Thanh TÞnh sinh n¨m 1911, mÊt n¨m 1988. Tªn khai sinh lµ TrÇn V¨n Ninh. Tríc n¨m 1946 «ng võa d¹y häc, võa lµm th¬. ¤ng cã mÆt ë trªn nhiÒu lÜnh vùc : Th¬, truyÖn dµi, ca dao, bót ký....nhng thµnh c«ng h¬n c¶ lµ truyÖn ng¾n TruyÖn ng¾n cña «ng trong trÎo mµ ªm dÞu. V¨n cña «ng nhÑ nhµng mµ thÊm s©u, mang d vÞ man m¸c buån th¬ng, võa ngät ngµo, võa quyÕn luyÕn Ông để lại sự nghiệp đáng quý: về thơ: Hận chiến trờng, sức mồ hôi, đi giữa mùa sen. TruyÖn: NgËm ng¶i t×m trÇm, Xu©n vµ Sinh 2. T¸c phÈm: - T«i ®i häc in trong tËp truyÖn ng¾n Quª mÑ(1941) thuéc thÓ lo¹i håi ký ghi l¹i nh÷ng kỷ niệm đẹp của tuổi thơ trong buổi tiu trờng II/ Néi dung : 1. T©m tr¹ng cña nh©n vËt T«i trong buæi tùu trêng : Truyện đã thể hiện tình cảm trong sáng , hồn nhiên , tâm trạng hồi hộp bâng khuâng cña mét em bÐ trong buæi tùu trêng .( HS nªu ) a. Trên đờng tới trờng: - Là buổi sớm đầy sơng thu và gió lạnh chú bé cảm thấy mình trang trọng và đứng đắn trong chiếc áo vải dù đen dài – Lòng chú tng bừng, rộn rã khi đợc mẹ âu yếm nắm tay dắt di trên con đờng dài và hẹp – Cậu bé cảm thấy mình xúc động, bỡ ngỡ, lạ lùng – Chú suy nghĩ về sự tahy đổi – Chú bâng khuâng thấy mình đã lớn b. Tâm trạng của cậu bé khi đứng trớc sân trờng - Ngạc nhiên, bỡ ngỡ, vì sân trờng hôm nay thật khác lạ, đông vui quá - Nhớ lại trớc đâythấy ngôi trờng cao ráo sạch sẽ hơn các nhà trong làng. Nhng lần này lại thấy ngôi trờng vừa xinh xắn, oai nghiêm đĩnh đạc hơn – Chú lo sợ vẩn vơ, sợ hãi khép nép bên ng ời thân – Chú cảm thấy trơ trọi, lúng túng, vụng về.... – Khi nghe ông đốc gọi tên, chú bÐ giËt m×nh, lóng tóng , tim nh ngõng ®Ëp ... oµ khãc nøc në c. T©m tr¹ng cña cËu bÐ khi dù buæi häc ®Çu tiªn. - Khi vµo líp häc, c¶m xóc b©ng khu©ng, håi hép d©ng lªn man m¸c trong lßng cËu . CËu c¶m thÊy mét mïi h¬ng l¹ bay lªn. ThÊy g× trong líp còng l¹ l¹ hay hay råi nh×n bµn ghế rồi lạm nhận đó là của mình 2. H×nh ¶nh ngêi mÑ : - Ngêi mÑ lµ h×nh ¶nh th©n th¬ng nhÊt cña em bÐ trong buæi tùu trêng . ngêi mÑ hiÒn in ®Ëm trong nh÷ng kØ niÖm m¬n man mµ nh©n vËt t«i m·i m·i kh«ng bao giê quªn . + Từ ngôi nhà yên ấm tuổi thơ đến mái trờng , đi trên con đờng làng thân thuộc “ dài và hẹp “ trong một buổi sáng mùa thu “ đầy sơng thu và gió lạnh “ chú bé đợc mẹ hiền âu yÕm n¾m tay dÉn ®i , chó bÐ v« cïng h¹nh phóc , c¶m thÊy mäi c¶nh vËt chung quanh đều thay đổi vì trong lòng mình đang có sự thay đổi lớn +Khi thÊy c¸c b¹n nhá quÇn ¸o t¬m tÊt, nhÝ nh¶nh trao s¸ch vë cho nhau xem, cßn «m nhiều sách vở lại kèm cả bút , thớc nữa mà không để lộ vẻ khó khăn gì hết , nhân vật tôi cũng muốn thử sức mình đòi mẹ đợc cầm bút, thớc . Lần thứ hai t/g nhắc đến hình ảnh ngêi mÑ víi cö chØ “ cói ®Çu nh×n” con th¬ víi cÆp m¾t thËt ©u yÕm , víi tiÕng nãi dÞu dàng : “ thôi để mẹ cầm cũng đợc “ ..
<span class='text_page_counter'>(15)</span> +Bàn tay mẹ là biểu tợng cho tình thơng , sự săn sóc ,vỗ về an ủi ,động viên khích lệ . Mẹ lúc nào cũng đi sát bên cậu con trai , lúc thì bàn tay mẹ dịu dàng đẩy con lên phía tr ớc , lúc thì bàn tay mẹ nhẹ vuốt tóc con . Hình ảnh ngời mẹ đã làm cho trang văn Tôi đi học dạt dào cảm xúc , trơt thành một kỉ niệm êm đềm tuổi thơ không thể phai mờ . 3. ChÊt th¬ cña truyÖn : Chất thơ là nét đẹp tạo nên giá trị t tởng và nghệ thuật của truyện .Chất thơ đợc biểu hiện một cách đậm đà qua những cảnh vật , tình tiết , tâm trạng dạt dào cảm xúc . - Cảnh một buổi mai” đầy sơng thu và gió lạnh “, mẹ âu yếm dẫn con trai bé nhỏ đến trờng trên con đờng làng thân thuộc “dài và hẹp “ . cảnh mấy cậu học trò áo quần tơm tất , nhí nhảnh gọi tên nhau , trao sách vở cho nhau xem. Con đờng tựu trờng của tuổi thơ đông vui nh ngày hội . Cảnh học trò mới bỡ ngỡ nép bên ngời thân , ngập ngừng e sợ nhiều mơ ớc nh con chim con đứng bên bờ tổ , nhìn quãng trời rộng muốn bay …. - Chất thơ toả ra từ giọng nói ân cần , cặp mắt hiền từ của ông đốc đến hình ảnh thầy giáo lớp Năm đón 28 học trò mới với gơng mặt tơi cời . - ChÊt th¬ ë lßng mÑ hiÒn rÊt th¬ng yªu con . Bèn lÇn Thanh TÞnh nãi vÒ bµn tay mÑ “ Mẹ tôi âu yếm nắm bàn tay tôi dẫn đi trên con đờng làng dài và hẹp “ ; bàn tay mẹ cầm thớc bút cho con . Lúc đứng xếp hàng , đứa con cảm thấy “ có một bàn tay dịu dàng “ của mẹ đẩy con tới trớc nh khích lệ . Lúc đứa con trai bé bỏng “ nức nở khóc “thì bàn tay mẹ hiền “ một bàn tay quen nhẹ vuốt mái tóc “ con . Có thể nói hình tợng bàn tay mẹ hiền đợc thể hiện một cách tinh tế và biểu cảm tình thơng con của mẹ . - Chất thơ của truyện còn đợc thể hiện ở các hình ảnh so sánh đầy thi vị , ở giọng văn nhÑ nhµng , trong s¸ng ,gîi c¶m .( Hai c©u ®Çu ) . ThËt vËy “ T«i ®i häc “ lµ nh÷ng dßng hồi ức về ngày tựu trờng của tuổi thơ rất thơ và xúc động . III. Ph©n tÝch chi tiÕt: GV: Văn bản đợc tái hiện theo dòng hồi tởng của ký ức, bao gồm một chuỗi các sự kiÖn, yÕu tè xuyªn suèt lµ dßng c¶m xóc thiÕt tha, cã vai trß kÕt nèi vµ duy tr× søc sèng cho các sự kiện, đồng thời còn là yếu tố kích thích trí tởng tợng vận hành theo một quy luật thẩm mĩ. Từ thời điểm hiện tại với h/ả điển hình (các em nhỏ đi học) đã định híng cho nh÷ng liªn tëng, më ra c¸c t×nh huèng vµ chi tiÕt cô thÓ, më ra t©m tr¹ng theo tr×nh tù thêi gian. 1.Tâm trạng của nhân vật Tôi trong buổi đầu đến trờng: +Tr×nh tù: Tõ hiÖn t¹i nhí vÒ dÜ v·ng. -Trên đờng cùng mẹ tới trờng. -Khi ë trêng. -Khi ngåi trong líp häc. a.Khi cùng mẹ trên con đờng tới trờng: -Con đờng, cảnh vật quen thuộc: tự nhiên thấy lạ. -Cảm thấy có sự thay đổi lớn trong lòng. -Thấy mình trang trọng, đứng đắn... => H«m nay: T«i ®i häc. -Hành động: Ghì chặt sách vở. -Suy nghÜ: Muèn thö søc, ý nhgÜ non nít, ng©y th¬... tho¸ng qua nh mét lµn m©y lít ngang trªn ngän nói. ->Håi tëng, miªu t¶( c¶nh, t©m tr¹ng ). So sánh sinh động, ngôn từ hấp dẫn. -> Sự thay đổi của cảnh vật đợc cảm nhận theo sự biến đổi tâm lý. => Tâm trạng hồi hộp, bỡ ngỡ, muốn đợc chững chạc nh bạn bè. => C¶m nhËn tinh tÕ, ch©n thùc vÒ t©m tr¹ng bì ngì, håi hép trong buæi ®Çu tiªn ®i häc. b- Khi đến trờng: + C¶m nhËn: - Sân trờng dày đặc ngời. - Ai còng ¸o quÇn s¹ch sÏ... t¬i vui....
<span class='text_page_counter'>(16)</span> - Ng«i trêng võa xinh x¾n, võa oai nghiªm, + T©m tr¹ng: - C¶m thÊy m×nh bÐ nhá. - Lo sî vÈn v¬. * Khi đợc gọi tên vào lớp: - Qu¶ tim ngõng ®Ëp. -Tù nhiªn giËt m×nh, lóng tóng... -> Miªu t¶, biÓu c¶m. =>Sự lo lắng sợ hãi lên đến đỉnh cao. * Khi ph¶i rêi tay mÑ vµo líp: - Ngêi nÆng nÒ mét c¸ch l¹. - Dói ®Çu vµo lßng mÑ khãc nøc në. - Cha lÇn nµo thÊy xa mÑ nh lÇn nµy. -> Miªu t¶, so s¸nh. => Sî h·i khi mét m×nh bíc vµo m«i trêng míi. *. Khi ngồi trong lớp đón nhận giờ học đầu tiên: - ThÊy l¹ vµ hay hay... - L¹m nhËn chç ngåi... - Kh«ng c¶m thÊy xa l¹. - Sù quyÕn luyÕn... kh«ng d¸m tin lµ cã thËt, -> Miªu t¶, biÓu c¶m. => H×nh ¶nh so s¸nh ngÇm cã ý nghÜa tîng trng (Èn dô). => Võa xa l¹, võa gÇn gòi víi c¶nh vËt, víi b¹n bÌ, nhanh chãng hoµ nhËp, thÝch häc tập, coi trờng lớp nh gia đình mình. Bình: tác giả đã thể hiện khả năng vận dụng khá nhuần nhuyễn các h/ả so sánh sinh động, độc đáo. Các h/ả gợi cảm đó góp phần làm cho câu văn trở nên nhẹ nhàng, l·ng m¹n, phï hîp víi viÖc thÓ hiÖn dßng c¶m xóc thÊm ®Ém nh÷ng kû niÖm th¬ ng©y. §Æc biÖt, h/¶ so s¸nh ë cuèi bµi (T8) lµ h/¶ kh¸ch quan, võa t¶ thùc, võa lµ h/¶ so s¸nh ngÇm cã ý nghÜa tîng trng: Con chim non Êy hay chÝnh ngêi häc trß Êy trong một buổi mai đầy sơng thu và gió lạnh đã ngập ngừng cất cánh vào bầu trời với bao nhiªu hi väng vµ m¬ íc. 2- Thái độ của ngời lớn: + MÑ: (§¹i diÖn cho c¸c bËc phô huynh). - ¢u yÕm n¾m tay. - CÇm bót thíc. - CÆp m¾t thËt ©u yÕm. -> Tù sù, miªu t¶. => Chuẩn bị chu đáo cho con, lo lắng, hồi hộp, quan tâm đến việc học tập của con. + Ông đốc: - CÆp m¾t hiÒn tõ... t¬i cêi, nhÉn n¹i... => ngời đứng đầu nhà trờng, quan tâm, thân ái, bao dung. + ThÇy gi¸o: - TrÎ, vui tÝnh, giµu t×nh th¬ng yªu. => Ba h×nh ¶nh so s¸nh: + Tôi quên thế nào đợc... nh mấy cành hoa tơi... quang đãng. + ý nghÜ Êy tho¸ng qua... nh mét lµn m©y lít ngang trªn ngän nói. + Họ nh con chim con đứng trên bờ tổ... => Các so sánh trên xuất hiện ở các thời điểm khác nhau để diễn tả tâm trạng, cảm xúc của nh/v. => cách so sánh giàu h/ả. Giàu sức gợi cảm, đợc gắn với những cảnh sắc thiên nhiªn trong s¸ng, tr÷ t×nh. => Béc lé c¶m xóc t©m tr¹ng cña nh/v râ rµng, cô thÓ h¬n. - T¨ng chÊt tr÷ t×nh cho t¸c phÈm. GV tãm t¾t: Lµ nh÷ng biÓu hiÖn cña ký øc håi quang nªn thêi gian vµ kh«ng gian trong truyÖn lµ thêi gian vµ kh«ng gian t©m tr¹ng.§ång thêi nh÷ng kû niÖm ngät ngào của buổi đầu tiên đến lớp ấy cũng đợc chuyển hoá thành những cảm giác bay bæng vµ l·ng m¹n, lung linh vµ t¬i t¾n s¾c mµu, tha thiÕt gîi vÒ mét ký øc tng bõng.
<span class='text_page_counter'>(17)</span> rén r· chÊt th¬. KhÐp l¹i trang v¨n cña Thanh TÞnh, dêng nh mçi ngêi cßn båi håi xao xuyến khi đợc sống lại những kỷ niệm trong sáng của tuổi học trò. III/ C¸ch x©y dùng truyÖn 1. Phơng thức biểu đạt 2. Bè côc : §o¹n 1: Tõ ®Çu ...... rén r· (Håi tëng kû niÖm ngµy ®Çu tiªn tíi trêng) Đoạn 2: Tiếp ......... ngọn núi(Kỷ niệm trên đờng tới trờng) §o¹n 3: TiÕp ....... ngµy n÷a (Kû niÖm tríc s©n trêng) §o¹n 4: Cßn l¹i (Nhí l¹i kû niÖm trong buæi häc ®Çu tiªn) IV/ ChÊt th¬ trong truyÖn ng¾n a. Chất thơ đợc thể hiện trong cốt truyện: Dòng hồi tởng, tâm trạng của nhân vật tôi ë nh÷ng thêi ®iÓm kh¸c nhau b. Chất thơ đợc thể hiện đậm đà qua những cảnh vật , tâm trạng, chi tiết dạt dào cảm xóc. c. Giäng v¨n nhÑ nhµng, trong s¸ng, gîi c¶m . d. ChÊt th¬ cßn thÓ hiÖn ë nh÷ng h×nh ¶nh so s¸nh t¬i míi giµu c¶m xóc........ V/ Những đề thờng gặp Qua v¨n b¶n “T«i ®i häc”, em h·y kÓ l¹i kû niÖm ngµy ®Çu tiªn ®i häc. Ngày soạn : 23/10/2011 Ngày dạy : /10/2011 Buổi 5 TRONG LÒNG MẸ Nguyên Hồng I - Giới thiệu Quãng đời ấu thơ là quãng đời ngọt ngào và nhiều kỷ niệm nhất của con người. Đó là những năm tháng tràn đầy hạnh phúc trong tình thương của cha mẹ và những người thân. Song không phải ai cũng có một thời thơ với những kỷ niệm ngọt ngào như vậy. Nhà văn Nguyên Hồng của chúng ta đã phải nếm trải một tuổi thơ đầy cay đắng, uất hận và buồn tủi, đói khổ, lam lũ … Quãng đời thơ ấu ấy được nhà văn ghi lại đầy cảm động qua những trang tự truyện đầm đìa nước mắt và sự căm giận trong “Những ngày thơ ấu”. Cuốn tiểu thuyết này được nhà văn viết năm 20 tuổi gồm 9 chương thấm đẫm tinh thần nhân đạo sâu sắc đã làm rung động bao tâm hồn bạn đọc vì “Nó là sự rung động cực điểm của một linh hồn trẻ dại”. Chương 4 của cuốn hồi ký này là đoạn trích “trong lòng mẹ” II – Vài nét về tác giả, tác phẩm 1) Tác giả: Nguyên Hồng (1918 – 1982) ở Nam định. - Mồ côi bố vì bố bị ho lao nên mất sớm, nghà nghèo, người mẹ trẻ nghèo khổ bị khinh rẻ phải tha phương cầu thực. NH phải thôi học khi vừa đậu xong tiểu học và bắt đầu cuộc đời đói khổ, lam lũ, lang thang đầu đường xó chợ, chung đụng với đủ các hạng trẻ em nghèo đói, du đãng … trong xã hội cũ. - Lớn lên lại bị đày đoạ, tù tội, lại thêm cảnh đói khổ do thất nghiệp kéo dài, NH tưởng như là sẽ chết đau đớn ở cái tuổi 16. Nhưng anh nghĩ, dù có chết đi cũng phải để lại cho cõi đời mà anh yêu mến một cái gì vừa tinh khiết, trong sáng, vừa tha thiết yêu thương nhất của tâm hồn. Và anh bắt đầu viết – viết suốt ngày suốt đêm, viết một cách đau khổ.
<span class='text_page_counter'>(18)</span> say mê, bất chấp “cái đói ê ẩm thấm thía vô cùng trong đêm mưa lạnh hoang vắng. (Với anh, viết văn là một lẽ sống) - Ngay từ những trang viết đầu tay, ông đã hướng ngòi bút của mình vào những người nghèo khổ, bất hạnh. Và ông thuỷ chung với con đường văn học đó trong suốt cuộc đời cầm bút của mình. Với trái tim nhân đạo dào dạt thắm thiết, NH đã nói lên thật cảm động số phận đầy đau khổ ở các thành phố lớn như Hà nội, Hải Phòng, Nam định … Truyện ngắn của ông chứa chan tinh thần nhân đạo sâu sắc. - Trong số những người cùng khổ đó, ông quan tâm và thể hiện thành công những nhân vật phụ nữ và nhi đồng. - Đó là những người phụ nữ lao động nghèo khổ, cần cù tần tảo mà cả cuộc đời chỉ là vất vả, lo nuôi chồng con. Họ còn bị những lề thói khắc nghiệt của XH cũ vùi dập, đầy đoạ. Nhưng đó cũng là những người phụ nữ có vẻ đẹp tâm hồn đáng quý như yêu thương chồng con tha thiết, sống ân tình, thuỷ chung, đồng thời có trái tim khao khát hạnh phúc và biết yêu một cách sôi nổi.. Trong đời sống văn học đương thời thì NH là một trong ít nhà văn có quan điểm tiến bộ về vấn đề phụ nữ trong lĩnh vực tình yêu hôn nhân. Nhà văn dứt khoát bênh vực người phụ nữ - Từ cuộc đời của mình, giống như nhà văn nga Gorki, NH đã viết nhiều và cảm động về những trẻ em nghèo,về những nỗi khổ nhiều mặt trong cảnh sống lầm than của chúng, và nhất là về những nỗi đau trong trái tim nhạy cảm dễ tổn thương của tuổi thơ. Đồng thời nhà văn hầu như bao giờ cũng phát hiện và miêu tả những nét đẹp trong sáng, cảm động trong những tâm hồn non trẻ đó. 2) Tác phẩm: - Tác phẩm viết năm 1938 và đến năm 1940 thì được in trọn vẹn thành sách. Đó là một tập hồi ký gồm 9 chương ghi lại một cách trung thực những năm tháng tuổi thơ cay đắng của tác giả. Đó là một tuổi thơ có quá ít những kỷ niệm êm đềm, ngọt ngào, mà chủ yếu là những kỷ niệm đau buồn, tủi cực của một “đứa bé côi cút, cùng khổ” sinh ra trong một gia đình sa sút, bất hoà, sớm phải sống lêu lổng, bơ vơ giữa sự ghẻ lạnh cay nghiệt của họ hàng và thái độ dửng dưng một cách tàn nhẫn của xã hội. - “Trong lòng mẹ” là chương 4 của tập hồi ký 3.Tóm tắt: - Gần đến ngày giỗ đầu bố, mẹ của bé Hồng ở Thanh Hoá vẫn chưa về. Một hôm người cô gọi bé Hồng đến bên cười hỏi là bé Hồng có muốn vào Thanh Hoá chơi với mẹ không... Biết những rắp tâm tanh bẩn của người cô, bé Hồng đã từ chối và nói cuối năm thế nào mẹ cũng về. Cô lại cười nói. Cô hứa cho tiền tàu vào thăm mẹ và thăm em bé. Nước mắt bé Hồng ròng ròng rớt xuống, thương me vô cùng. Người cô nói với em các chuyệ về người mẹ ở Thanh Hoá : mặt mày xanh bủng, người gầy rạc... ngồi cho con bú bên rổ bóng đèn, thấy người quen thì vội quay đi, lấy nón che... Bé Hồng vừa khóc vừa căm tức những cổ tục muốn vồ ngay lấy mà cắn, mà nhai, mà nghiến cho kì nát vụn mới thôi. Cô nghiêm nghị đổi giọng bảo bé Hồng đánh giấy cho mẹ về để rằm tháng Tám « giỗ đầu cậu mày, mợ mày về dù sao cũng đỡ tủi cho cậu mày » - Bé Hồng chẳng phải viết thư cho mẹ đến ngày giỗ đầu của bố, mẹ về một mình, mua cho bé Hồng và em Quế bao nhiêu là quà. Chiều tan học ở trường ra, thoáng thấy một người đàn bà ngồi trên xe kéo giống mẹ, bé chạy theo và gọi : « Mợ ơi ! Mợ ơi ! Xe chạy chậm lại, mẹ cầm nón vẫy lại. Con nức nở, mẹ sụt sùi khóc. Em thấy mẹ vẫn tươi sáng,.
<span class='text_page_counter'>(19)</span> nước da mịn, gò má màu hồng. Miệng xinh xắn nhai trầu thơm tho. Bé Hồng ngả đầu vào cánh tay mẹ. Mẹ xoa đầu con và dỗ : « Con nín đi ! Mợ đã về với các con rồi mà ». Chương hồi ký này là nỗi đắng cay, uất nghẹn về tình yêu thương vô bờ bến của Bé Hồng đối với người mẹ nhân từ, tần tảo mà cuộc đời đầy bất hạnh. Có hai sự kiện đã trở thành kỷ niệm không thể phai mờ được nhà văn ghi lại trong chương này. Đó là những sự kiện gì ? + Sự kiện 1: Cuộc trò chuyện giữa bé Hồng và bà cô. + Sự kiện 2: Mẹ bé Hồng trở về – cuộc gặp gỡ đầy nước mắt của niềm vui và hạnh phúc III – Phân tích chương “trong lòng mẹ” A: Kh¸i qu¸t chung: * Hoµn c¶nh nghiÖt ng· chia l×a hai mÑ con : - Nçi khæ cña ngêi mÑ : Chång chÕt, con nhá, li h¬ng, kiÕm sèng . - DÊu Ên cña thµnh kiÕn x· héi cay nghiÖt in ®Ëm trong t©m hån non nít cña bÐ Hång, tạo suy nghĩ cảm xúc già trớc tuổi nỗi bất hạnh của đứa trẻ thiếu bàn tay chăm sóc của mẹ. Sự nghiệt ngã trớ trêu của số phận diễn ra ngay trong mối quan hệ gia đình; ngời cô cay nghiệt đầy định kiến dành cho chị dâu goá bụa trẻ trung. Lí do để cho bà cô khinh miÖt ruång rÉy ngêi chÞ d©u lµ “go¸ bôa, nî nÇn cïng tóng, bá con c¸i ®i tha ph¬ng cÇu thùc” . - ấn tợng đáng sợ về bà cô là giọng nói và nụ cời rất kịch, giả vờ thản nhiên nhng nhẫn tâm đến vô tình, gieo rắc lòng thù hận nghi kị cho đứa con với chính ngời mẹ ruột của m×nh. §ãi lµ h×nh ¶nh tiªu biÓu cña lßng Ých kØ, nhÉn t©m, lµm tæn th¬ng s©u s¾c t©m hån trÎ th¬. * CËu bÐ Hång : - Một em bé có hoàn cảnh đáng thơng : bị bao bọc bởi lòng ganh ghét và đố kị , bị tổn thơng sâu sắc . Cuộc sống căng thẳng vì luôn phải chịu đựng áp lực từ chính ngời thân . - Bé Hồng có một tâm hồn đáng quí : luôn giữ tình thơng yêu và lòng kính mến với ngời mẹ đau khổ của mình . - Căm tức thành kiến tàn ác , phản ứng tự vệ , quyết tâm bảo cệ ngời mẹ đến cùng không để bị cuốn vào những ý nghĩ tội lỗi xấu xa . Đó là tấm lòng của một đứa con hiếu thảo .Diễn biến tâm trạng đợc diễn giải cụ thể : nụ cời tin tởng thơ ngây -> lòng thắt lại , khoé mắt cay cay -> nớc mắt ròng ròng rớt xuống hai bên mép rồi chan hoà đầm đìa ở c»m vµ cæ -> cêi dµi trong tiÕng khãc -> nghÑn ø khãc kh«ng ra tiÕng . Sím cã ý thøc bªnh vùc kÎ yÕu thÕ c« , t×nh c¶m ch©n thùc kh«ng giÊu giÕm .. - Đoạn văn đặc tả phút gặp mẹ đem lại những xúc động cho ngời đọc . Tiếng gọi mẹ thống thiết và nỗi sợ hãi mơ hồ diễn giải đầy đủ khao khát cháy bỏng trong tâm hồn đứa trÎ thiÕu thèn t×nh th¬ng . + NiÒm h¹nh phóc trong lßng mÑ : - Sự trở về của ngời mẹ làm vơi đi mặc cảm tủi cực . Cuộc gặp gỡ cảm động , hai mẹ con hoµ chung hai tiÕng khãc . - Hình ảnh ngời mẹ đợc diễn tả bằng tất cả sự xúc động và tình thơng vô bờ bến của đứa con dành cho mẹ + T×nh th¬ng cña mÑ vµ c¶m nhËn cña bÐ Hång : Mẹ là hình ảnh đẹp giản dị vô cùng thân thơng trong tâm trí non nớt của đứa con yêu mÑ ..
<span class='text_page_counter'>(20)</span> - Cậu bé cảm nhận đợc niềm hạnh phúc trong vòng tay mẹ : đợc bảo bọc , ôm ấp , đợc c¶m thÊy bÐ báng , yÕu ®uèi cÇn chë che , tho¶ m·n kh¸t khao , lÊp ®Çy thiÖt thßi , thiÕu thốn .” tôi ngồi trên đệm xe, đùi áp đùi mẹ tôi , đầu ngả vào cánh tay mẹ tôi , tôi thấy những cảm giác ấm áp đã bao lâu mất đi bỗng lại mơn man khắp da thịt … Phải bé lại và lăn vào lòng một ngời mẹ , áp mặt vào bầu sữa nóng của ngời mẹ , để bàn tay ngời mẹ vuèt ve tõ tr¸n xuèng c»m vµ g·i r«m ë sèng lng cho , míi thÊy ngêi mÑ cã mét ªm dÞu v« cïng .” B. Ph©n tÝch: 1)Sự kiện 1: Tình cảnh đáng thương và nỗi đau của bé Hồng Qua đoạn 1 và qua lời tự thuật của nhân vật “tôi”, ta thấy chú bé Hồng có tình cảnh đáng thương như thế nào ? * Tình cảnh đáng thương của Hồng - Hồng mồ côi cha gần 1năm - Mẹ Hồng do bị mọi người hắt hủi, khinh ghé, xa lánh nên phải đi vào Thanh hoá tha phương kiếm sống. Người mẹ khốn khổ ấy một phần vì túng bấn, một phần khác vì chưa hết tang chồng mà lại có con, nên không thể sống nổi với cái xã hội đầy những thành kiến, hủ tục độc ác, đã phải bỏ nhà đi xa. => Chú bé đã mất bố, lại xa mẹ, sống cuộc sống côi cút, bơ vơ đói rách giữa sự ghẻ lạnh của những người họ hàng giầu có mà ích kỉ, cay nghiệt. Em thiếu một mái ấm gia đình, một chỗ dựa cho tuổi ấu thơ, thiếu một tình thương yêu đích thực. Song nỗi đau khổ sâu xa không chỉ dừng lại ở sự thiếu tình thương mà Hồng còn phải chịu những nỗi đau khác nữa do người khác xúc xiểm một cách độc ác về mẹ chú. Nỗi đau ấy được thể hiện rõ nhất trong cuộc đối thoại giữa bé Hồng và bà cô của bé. Em hãy lược thuật lại cuộc đối thoại giữa bà cô với bé Hồng? Qua đoạn đối thoại, em thấy chú bé Hồng phải chịu thêm những nỗi đau như thế nào ? Hãy phân tích tâm trạng đau đớn ấy của Hồng ? - Cuộc trò chuyện với bà cô là kỷ niệm không thể quên về một nỗi đau uất nghẹn mà tuổi thơ NH đã phải trải qua. Đã xa mẹ, nhớ mẹ, bé Hồng lại luôn luôn phải nghe những lời nói xấu cay nghiệt về mẹ. Những lời nói cay nghiệt của bà cô chính là những nhát dao cứa sâu vào trái tim thơ trẻ của chú bé. + Đầu tiên, bà cô gợi ý cho bé Hồng vào thăm mẹ. Nỗi nhớ mẹ của đứa tre từng nhiều phen “rớt nước mắt” vì “thiếu thốn một tình thương ấp ủ” lại được khơi dậy. Chú bé “im lặng cúi đầu không đáp.” “chú bé nhận ra ý nghĩa cay độc trong giọng nói rất kịch của bà ta. + Rồi bà cô lại ngọt ngào giả dối “Mẹ mày dạo này phát tài lắm” trong khi bà ta thừa biết tình cảnh khốn khổ của mẹ nơi tha hương. => một lần nữa, bé Hồng lại “im lặng cúi đầu xuống đất”. Nỗi nhớ vừa phải giấu kín, bé Hồng đã phải nuốt thêm vào lòng niềm thương và nỗi đau. Cho nên lần này bé không thể giả cười để đáp lại bà cô. Cậu bé cảm thấy lòng “càng thắt lại” và “khoé mắt đã cay cay”. + Rồi bà cô giục bé Hồng vào Thanh hoá để đòi mẹ “may sắm và thăm em bé”. Bà ta cố ngân dài từ “em bé” thật ngọt. Đấy là những tiếng đầy dụng ý xấu xa. Thấy mẹ bị xúc phạm, Hồng không thể tiếp tục ghìm nén nỗi tủi cực. Chú bé từ chỗ “im lặng cúi đầu” đến “nước mắt ròng ròng rớt xuống hai bên mép rồi chan hoà đầm đìa ở cằm và ở cổ. Một trạng thái tình cảm phức tạp vừa đau đớn, vừa uất nghẹn nảy sinh trong tâm hồn thơ trẻ, khiến bé Hồng “cười dài trong tiếng khóc”. Bé Hồng cười vì hiểu thấu tâm địa độc.
<span class='text_page_counter'>(21)</span> hiểm của bà cô, khinh bỉ thái độ lèo lá, giả dối, độc ác, nhẫn tâm của bà. Em “Khóc” vì thương nhớ mẹ, tiếng khóc uất ức, căm ghét những hủ tục phong kiến đã chôn vùi, đày đoạ bao số phận người phụ nữ. Nỗi đau đớn tủi cực và cả nỗi căm giận buộc phải nén lại của chú bé sâu sắc biết chừng nào. + Dường như chưa cho thế là đủ, bà cô còn “tươi cười” kể cho chú bé nghe rằng “mẹ chú ăn vận rách rưới, mặt mày xanh bủng, ngồi cho con bú ở chợ ….” => chú bé chưa nghe hết câu đã nghẹn họng “khóc không ra tiếng”. Chú đau đớn vô cùng, tình cảm dâng trào mạnh mẽ, cuồng nhiệt đến mức bật thành giả thiết: “Giá những cổ tục là một vật như hòn đá hay cục thuỷ tinh, đầu mẩu gỗ, tôi quyết vồ ngay lấy mà cắn, mà nhai, mà nghiến cho kì nát vụn mới thôi”. Câu văn có vẻ dồn dập, xô bồ, nhiều thành phần đồng vị ngữ quen gặp ở Nguyên Hồng mỗi khi gặp cảm xúc trào dâng ào ạt. Hồng căm ghét cực độ những hủ tục đã đầy đoạ mẹ mình. Lòng căm phẫn cao độ ấy được NH diễn tả bằng những hình ảnh cụ thể, gợi cảm, nhịp văn dồn dập, gấp gáp tựa như sự uất hận của bé ngày một tăng tiến. Hồng muốn “cắn, nhai, nghiến” một cách nát vụn những hủ tục ấy. Ba động từ ấy chỉ ba trạng thái phản ứng của Hồng ngày càng dữ dội để thể hiện nỗi căm phẫn tới cực điểm - Trong lòng chú bé Hồng luôn có hình ảnh người mẹ có “vẻ mặt rầu rầu và hiền từ”. Mặc dù mẹ Hồng bỏ nhà ra đi giữa sự khinh miệt của đám họ hàng cay nghiệt, mặc dù non một năm mẹ chú không gửi cho chú một lá thư, một lời nhắn hỏi, một đồng quà, chú bé vẫn đầy lòng yêu thương và kính mến đối với mẹ mình. - Đúng là “rắp tâm ranh bẩn” của bà cô không thể xâm phạm đến tình thương yêu và lòng kính mến mẹ của bé Hồng, chú không hề mảy may dao động. - Bà cô càng cố khoét sâu vào nỗi đau thì lòng yêu thương mẹ và nỗi căm ghét những hủ tục phong kiến vô lý tàn ác càng dâng lên dào dạt và mãnh liệt trong tâm hồn bé. Với chú, mẹ chú hoàn toàn vô tội. => Vậy là chú bé không chịu ảnh hưởng của những thành kiến đạo đức phong kiến, do có một tình cảm tự nhiên, mạnh mẽ đối với người mẹ mà chú vô vàn yêu thương kính mến. Thật là hồn nhiên, thật là trẻ con, và cũng thật là mãnh liệt, lớn lao cái ý nghĩ đó của chú bé! Sự căm ghét dữ dội ấy chính là biểu hiện đầy đủ của lòng yêu thương dào dạt của chú bé đối với mẹ chú. Có thể nói chương truyện là bài ca bất diện của tình mẹ con - tình cảm thiêng liêng muôn đời không một thế lực nào có thể ngăn cản, tàn phá. * Tóm lại, đây là những trang miêu tả hay và tinh tế của nhà văn về tâm trạng của bé Hồng. Những nét thay đổi nhỏ nhất, sâu kín nhất trong tâm hồn bé Hồng đã được tác giả ghi lại bằng những câu văn bình dị, rất trẻ thơ nhưng chính xác và gợi cảm. Bé Hồng đã hiện lên qua những dòng miêu tả là một em bé giầu tình cảm, đặc biệt là lòng thương mẹ, một đứa trẻ thông minh và cũng rất quả quyết. Nguyên Hồng muốn nói to lên nỗi bất hạnh của phụ nữ và trẻ em trong xã hội cũ, qua đó kết án đanh thép sự tàn nhẫn, bất công của xã hội ấy. Qua đoạn đối thoại, ta thấy bà cô bé Hồng là người như thế nào ? * Bà cô: - Bên ngoài: đóng vai người cô tốt + Nói cười ngọt ngào, làm ra vẻ quan tâm..
<span class='text_page_counter'>(22)</span> + Có lúc bà ta tỏ sự ngậm ngùi thương xót Hồng và người cha bất hạnh của em. Lúc nào bà ta cũng nhân danh vì quyền lợi của Hồng “sao lại không vào ? mợ mày phát tài lắm …vào đi, tao chạy tiền tầu cho).. - Thâm tâm: Bà ta cố ý, tìm mọi cách nói xấu mẹ Hồng, rắp tâm tanh bẩn là gieo rắc vào đầu óc chú bé những hoài nghi để chú bé khinh miệt và ruồng rẫy người mẹ. Đặc điểm nổi bật của người đàn bà này là sự tàn nhẫn và độc ác. Là người trong gia đình, chắc chắn bà ta không lạ gì nỗi khổ xa mẹ, tình cảm của đứa cháu mồ côi cha đối với mẹ, và chắc chắn bà ta thừa thấu hiểu Hồng là một chú bé dễ xúc cảm và rất mau nước mắt. Và bà ta cũng biết rõ về tình cảnh khốn khổ của chị dâu mình. Đáng lẽ trong hoàn cảnh ấy, bà ta sẽ phải chăm sóc, an ủi đứa cháu, giúp nó dịu bớt nỗi đau mất cha và nhất là nỗi đau xa mẹ. Nhưng bà ta hoàn toàn khác, bà ta tìm mọi cách hành hạ, giễu cợt nỗi đau xa mẹ của Hồng, rắp tâm chia lìa tình cảm mẹ con, huỷ diệt niềm yêu thương kính trọng của chú bé Hồng đối với người mẹ khốn khổ. đồng thời bà ta cũng lấy làm hả hê thích thú trước tình cảnh khốn khổ của chị dâu. => Nhân vật bà cô được thể hiện khá sắc sảo, sinh động. Chỉ cần ghi lại một cuộc trò chuyện, đối thoại bằng mấy câu nói, có kèm theo vài chi tiết gợi tả giọng điệu, cử chỉ, nhà văn dựng lại khá sinh động chân dung nhân vật bà cô tiêu biểu cho một hạng người. Bà ta chẳng những tiêu biểu cho cái thành kiến cổ hủ, phi nhân đạo của xã hội khi đó, mà còn là người đàn bà có tâm địa đen tối khi cố ý khoét sâu vào nỗi đau rướm máu trong tâm hồn nhạy cảm của đứa cháu mồ côi, cố ý gieo vào lòng nó thái độ khinh miệt, ruồng rẫy đối với người mẹ mà nó vô vàn yêu thương. 2)Sự kiện hai: Cuộc gặp gỡ đầy nước mắt của niềm vui và hạnh phúc Phần cuối của chương hồi ký thuật lại cảnh bé Hồng bất ngờ được gặp mẹ. Niềm vui, niềm hạnh phúc tuyệt vời được trở về “trong lòng mẹ” của đứa trẻ “thiếu thốn một tình thương ấp ủ “là kỷ niệm sâu sắc nhất, ngọt ngào nhất của cuộc gặp gỡ ấy Niềm vui sướng cao độ của Hồng khi gặp mẹ được diễn tả bằng những chi tiết nào ? Hãy tìm và phân tích ? Tác giả đặc biệt miêu tả những cảm xúc bên trong của Hồng, đó là những cảm xúc gì ? - Không những thương mẹ, Hồng còn hiểu nỗi lòng mẹ, do đó bé tin thế nào mẹ bé cũng trở về. Có lẽ chính vì tình thương và niềm tin mãnh liệt ấy nên bé Hồng có sự linh cảm hết sức nhạy bén chính xác. - Hồng đã gặp lại mẹ một cách bất ngờ sau buổi học. Chỉ cần thoáng qua + Thoáng nhìn thấy -> cuống quýt gọi mẹ một cách thất thanh, thảng thốt, bối rối, mừng rỡ, hy vọng. Nhưng do quá sung sướng, bất ngờ nên Hồng nghĩ “mình đã lầm” nhưng em vẫn gọi và chạy theo. Nếu người quay lại mà là người khác thì thật là điều tủi cực, là thất vọng to lớn cho Hồng. Chính em cũng nói “thực sự nếu em nhầm lẫn thì khác nào người bộ hành đang sắp gục ngã đi giữa sa mạc mênh mông bắt gặp ảo ảnh của bóng râm và dòng suối”. Có đặt cái thất vọng cùng cực trước khi chết khát như vậy, mới thấy niềm vui sướng, hạnh phúc trần gian vô hạn của đứa con đang khao khát tình mẹ được gặp mẹ, nhất là được “nằm trong lòng mẹ”. Nỗi khắc khoải mong mẹ tới cháy ruột của Hồng đã được thể hiện thật thấm thía, xúc động bằng hình ảnh so sánh đó. - Nỗi sung sướng đến cuống quýt của bé Hồng được thể hiện ở những hành động: “Thở hồng hộc”, “Trán đẫm mồ hôi”, “ríu cả chân lại”, “oà lên khóc, khóc nức nở khi mẹ kéo.
<span class='text_page_counter'>(23)</span> tay, xoa đầu em”. Biết bao hồi hộp sung sướng, đau khổ toát lên từ những cử chỉ cuống quýt ấy.Dường như bao nhiêu sầu khổ dồn nén không được giải toả trong chú bé suốt thời gian xa mẹ dài đằng đẵng, lúc này bỗng vỡ oà. Đó còn là tiếng khóc sung sướng, vỡ oà. Ai biết được trong cuộc đời mình, NH đã khóc bao nhiêu lần ? Nhưng tiếng khóc của bé Hồng chẳng lần nào giống nhau cả. Lần này là tiéng khóc của niềm vui và hạnh phúc tràn ngập. Có thể nói mỗi dòng mỗi chữ ông viết ra là một dòng nước mắt nóng bỏng tình xót thương, ép thẳng ra từ trái tim vô cùng nhạy cảm của mình. - Dưới cái nhìn vô vàn thương yêu của đứa con mong mẹ, mẹ chú hiện ra thật đẹp, thật phúc hậu, thật hiền: “vẫn tươi sáng với đôi mắt trong và nước da mịn, làm nổi bật mầu hồng của hai gò má”. Em đã có một phán đoán rất người lớn và cũng rất trẻ thơ “hay tại sự sung sướng bỗng được trông nhìn và ôm ấp cái hình hài máu mủ của mình mà mẹ tôi lại tươi đẹp như thuở còn sung túc”. Cảm xúc này là kết quả của tâm trạng Hồng sau những cuộc đối thoại đầy cay đắng với bà cô. - Cảm giác khi nằm trong lòng mẹ được hình dung rất tỉ mỉ, cụ thể: “tôi ngồi trên đệm xe, đùi áp đùi mẹ tôi, đầu ngả vào cánh tay mẹ tôi. Cảm giác ấm áp đã bao lâu mất đi bỗng lại mơn man khắp da thịt. Hơi quần áo mẹ tôi và những hơi thở ở khuôn miệng xinh xắn nhai trầu phả ra lúc đó thơm tho lạ thường”. Có thể nói, tác giả đã mổ xẻ, tách bạch từng cảm giác sung sướng đến mê li, rạo rực cả người khi được hít thở trong bầu không khí của tình mẹ con tuyệt vời. - Từ những cảm giác đê mê sung sướng của chú bé khi nằm “trong lòng mẹ”, nhà văn nêu lên nhận xét khái quát đầy cảm động về sự êm dịu vô cùng của người mẹ trên đời: “Phải bé lại và lăn vào lòng một người mẹ, áp mặt vào bầu sữa nóng của người mẹ, để bàn tay người mẹ vuốt ve từ trán xuống cằm và gãi rôm ở sống lưng cho, mới thấy người mẹ có một êm dịu vô cùng” Dường như tất cả mọi giác quan của chú bé đều thức dậy và mở ra để cảm nhận tận cùng những cảm giác rạo rực, sung sướng cực điểm khi nằm trong lòng mẹ, tận hưởng cái “êm dịu vô cùng” đó của người mẹ. Chú không nhớ mẹ chú đã hỏi những gì và chú đã trả lời những gì. Hồng lúc ấy chỉ là chú bé con trở về trong lòng người mẹ yêu dấu, rất thơ ngây và trong trắng. => Tóm lại, khi gặp mẹ, Hồng đã tỏ rõ những cảm xúc mãnh liệt của mình. Có lẽ chưa nhà văn nào diễn tả tình mẹ con một cách chân thật và sâu sắc, thấm thía như dưới ngòi bút của Nguyên Hồng. Ông đã viết những dòng miêu tả tâm lí trẻ thơ rất hay, xúc động có thể xếp vào những trang miêu tả tâm lí đặc sắc nhất của văn chương Việt Nam. Đằng sau những dòng chữ, những câu văn trên đã là “những rung động cực điểm của một linh hồn trẻ dại” (Thạch Lam) IV – TỔNG KẾT 1) Nội dung: - Là chương cảm động về tình cảm mẹ con, tình cảm của Hồng khi xa mẹ và niềm hạnh phúc lớn lao của Hồng khi được ngồi trong lòng mẹ. Qua đó NH thể hiện thái độ cảm thông, tôn trọng đối với Phụ nữ và trẻ em, và luôn khẳng định những phẩm chất tốt đẹp, cao quý của họ ngay cả khi trong những tình huống khắc nghiệt của cuộc sống. 2) Nghệ thuật - Nhà văn đã thành công trong việc miêu tả tâm lý nhân vật, tâm trạng nhân vật trong nhiều tình huống. Diễn biến tâm trạng đau đớn, căm giận ngày càng tăng của chú bé Hồng…. Trong cuộc đối thoại với bà cô …. Đến đoạn tả cảnh chú bé gặp lại, nhào vào.
<span class='text_page_counter'>(24)</span> lòng mẹ, ngòi bút phân tích cảm xúc, cảm giác của tác giả đã đạt tới độ sâu sắc, tinh tế, hiếm có. Tâm lý, tính cách bà cô được khắc hoạ thật sinh động, sắc sảo. Từ giọng nói ngọt ngào, tự nhiên một cách giả dối, vừa vỗ vai “tươi cười” vừa ném ra những lời thật đau đớn với chú bé, tất cả đều rất kịch, cho thấy tâm lý một người đàn bà có tâm địa khá thâm độc. - Bút pháp giầu chất trữ tình. Cả chương truyện đều tràn đầy cảm xúc. Đặc biệt là đoạn sau – cảnh chú bé gặp mẹ và nhào vào lòng mẹ, cảm xúc dâng trào như thác lũ….NH đã lắng nghe được những âm vang sâu lắng của tâm hồn, ghi nhận được những cảm giác tinh tế ở bên trong - Nguyên Hồng gần gũi với Thạch Lam ở lối phân tích tâm lý tinh tế, lối viết đi sâu vào cảm giác, có khả năng làm thức dậy mọi giác quan ở người đọc. (Cảm giác của cậu bé cô đơn, tủi cực sau bao ngày đằng đẵng xa mẹ bỗng được lăn vào lòng mẹ: “tôi ngồi trên đệm xe, đùi áp vào đùi mẹ tôi …….vô cùng” - Lối viết văn tự truyện tạo nên ở người đọc một sự đồng cảm, gần gũi và tin cậy, một sự xúc động sâu lắng với những ấn tượng mạnh mẽ thắm thiết. Nhà văn đem phần trong sáng nhất của tâm hồn ra giãi bầy trước công chúng. Qua sự chọn lọc và đào thải của thời gian, những kỷ niệm, những cảm giác từ tuổi ấu thơ phải là những gì thật sự lắng đọng, mạnh mẽ và sâu sắc đến mức có thể đi mãi với ta trong suốt cuộc đời. - Ngoài những nghệ thuật trên, chúng ta trân trọng tài năng bẩm sinh của người nghệ sỹ. Chương truyện này thực sự hấp dẫn gây xúc động đối với người đọc có lẽ bởi sau từng câu, từng chữ đều thẫm đẫm tình cảm chân thành, tâm huyết của nhà văn. Dàn ý phân tích nhân vật bé Hồng trong «trong lòng mẹ» Đặc điểm nổi bật nhất của bé Hồng : Là một chú bé có lòng yêu thương mẹ sâu sắc, mãnh liệt 1. Hoàn cảnh của bé Hồng - Bố chết, mẹ phải tha phương, bản thân phải sống nhờ vả những người họ hàng giầu có mà ích kỉ, tàn nhẫn. - Bé Hồng phải chịu nhiều nỗi ấm ức, khổ sở, thiếu thốn. - Nỗi khổ lớn nhất của Hồng là phải xa mẹ, em luôn thèm khát tình mẹ. 2. Hồng luôn dành cho mẹ những tình cảm yêu thương vô bờ bến a. Tình mẫu từ thiêng liêng - Dù bà cô có cố tình bôi nhọ, xúc xiểm cũng không làm tình thương đối với mẹ thay đổi Dẫn chứng : « Đời nào.... xúc phạm đến tình mẫu tử thiêng liêng » b. Yêu mẹ, muốn gặp mẹ mà phải kìm nén và giấu kín tình cảm vì không muốn nghe những lời xúc phạm mẹ. Dẫn chứng : Khi nói chuyện đi thăm mẹ, Hồng không muốn đi... c, Khi bà cô tiếp tục dùng những lời cay độc để nói về mẹ thì Hồng đau đớn, uất nghẹn tột độ. Dãn chứng : Nước mắt chan hoà,....ròng ròng.... cười dài trong tiếng khóc 3. Hồng sớm hiểu nguyên nhân làm mẹ khổ : - Căm tức những thành kiến nặng nề... « Giá những cổ tục.....nghiến.... nát vụn mới thôi » 4. Hồng khao khát gặp lại mẹ và hạnh phúc khi ở trong lòng mẹ.
<span class='text_page_counter'>(25)</span> a. Khao khát gặp lại mẹ : chạy ríu cả chân, lo sợ không phải là mẹ... b. Hạnh phúc khi ở bên mẹ : Nhận ra mẹ vẫn đẹp, không còn nghe thấy gì nữa... ============================= Ngày soạn : 30/10/2011 Ngày dạy : /11/2011 Buổi 6 TỨC NƯỚC VỠ BỜ (Trích “Tắt đèn” – Ngô Tất Tố) I- Tác giả - Ngô Tất Tố (1893- 1954) sinh tại Lộc Hà, huyện Từ Sơn tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc Đông Anh- Hà Nội) - Thuở nhỏ học chữ Nho nổi tiếng thông minh, đỗ đầu kì thi khảo hạch vùng kinh Bắc, được ái mộ, gọi là “đầu xứ Tố”. Khi nền Hán học suy tàn : “ông nghè, ông cống cũng nằm co”(Tú Xương), Ngô Tất Tố tự học chữ Quốc ngữ và học tiếng Pháp. Ông trở thành một nhà văn, nhà báo, nhà dịch thuật và khảo cứu nổi tiếng. + Về hoạt động báo chí, ông được coi là “một tay ngôn luận xuất sắc trong đám nhà nho” (lời Vũ Trọng Phụng), có mặt trên nhiều tờ báo trong cả nước với hàng chục bút danh, với một khối lượng bài báo đồ sộ, đề cập nhiều vấn đề thời sự, xã hội, chính trị, văn hoá, nghệ thuật. Đó là một nhà báo có lập trường dân chủ tiến bộ, có lối viết sắc sảo, điêu luyện giàu tính chiến đấu, nhiều bài là những tiểu phẩm châm biếm có giá trị văn học cao + Về sáng tác văn học, ông là một trong những nhà văn xuất sắc nhất của trào lưu văn học hiện thực trước cách mạng. Là cây bút phóng sự, là nhà tiểu thuyết nổi tiếng. Gọi NTT là “nhà văn của nông dân” bởi ông chuyên viết về nông thôn và đặc biệt rất thành công ở đề tài này. VD: Các phóng sự : Tập án cái đình (1939), Việc làng (1940) là các tập hồ sơ lên án những hủ tục “quái gở”, “man rợ” đang đè nặng lên cuộc sống người nông dân ở nhiều vùng nông thôn khi đó. Tiểu thuyết “Tắt đèn” là “thiên tiểu thuyết có luận đề xã hội hoàn toàn phụng sự dân quê, một áng văn có thể gọi là kiệt tác, tòng lai chưa từng thấy (Lời Vũ Trọng Phụng trong bài “báo thời vụ”). Tiểu thuyết “Lều chõng” (1939) tái hiện tỉ mỉ sinh động cảnh hà trường và thi cử thời phong kiến. Nhưng khác với những tác phẩm đương thời cùng đề tài, “lều chõng” đã vạch trần tính chất nhồi sọ và sự trói buộc khắc nghiệt bóp chết óc sáng tạo của chế độ giáo dục và khoa cử phong kiến. Tác phẩm ít nhiều có ý nghĩa chống lại phong trào phục cổ do thực dân đề xướng lúc bấy giờ. - Sau cách mạng tháng Tám, NTT sống và hoạt động văn hóa văn nghệ tại chiến khu Việt Bắc, ông qua đời trước mấy ngày chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng. II- Tóm tắt tác phẩm “Tắt đèn” - Câu chuyện trong “Tắt đèn” diễn ra trong một vụ đốc sưu, đốc thuế ở một làng quêláng Đông xá dưới thời Pháp thuộc. Cổng làng bị đóng chặt. Bọn hào lý và lũ tay chân với roi song, dây thừng, tay thước nghênh ngang đi lại ngoài đường thét trói kẻ thiếu sư. Tiếng trống ngũ liên, tiếng tù và nổi lên suốt đêm ngày..
<span class='text_page_counter'>(26)</span> - Sau hai cái tang liên tiếp(tang mẹ chồng và tang chú Hợi), gia đình chị Dậu tuy vợ chồng đầu tắt mặt tối quanh năm mà vẫn không đủ ăn, áo không đủ mặc, đến nay đã lên đến “bậc nhất nhì trong hạng cùng đinh”. Anh Dậu lại bị trận ốm kéo dài mấy tháng trời không có tiến nộp sưu, anh Dậu đã bị bọn cường hào “bắt trói” như trói chó để giết thịt. Chị Dậu tất tả chạy ngược chạy xuôi, phải dứt ruột bán đứa con gái đầu lòng và ổ chó cho vợ chồng Nghị Quế để trang trải “món nợ nhà nước”. Lí trưởng làng Đông Xá bắt anh Dậu phải nộp suất sưu cho chú Hợi đã chết từ năm ngoái vì “chết cũng không trốn được nợ nhà nước”. Bị ốm, bị trói, bị đánh …. Anh Dậu bị ngất đi, rũ như xác chết được khiêng trả về nhà. Sáng sớm hôm sau anh Dậu còn đang ốm rất nặng chưa kịp húp tí cháo thì tay chân bọn hào lí lại ập đến. Chúng lồng lên chửi mắng, bịch vào ngực và tát đánh bốp vào mặt chị Dậu. Chị Dậu van lạy chúng tha trói chồng mình. Nhưng tên Cai Lệ đã gầm lên, rồi nhảy thốc vào trói anh Dậu khi anh Dậu đã bị lăn ra chết ngất. Chị Dậu nghiến hai hàm răng thách thức, rồi xông vào đánh ngã nhào tên Cai Lệ và tên hầu cận lý trưởng, những kẻ đã “hút nhiều xái cũ”. - Chị Dậu bị bắt giải lên huyện. Tri Phủ Tư Ân thấy Thị Đào có nước da đen dòn, đôi mắt sắc sảo đã giở trò bỉ ổi. Chị Dậu đã “ném tọt” cả nắm giấy bạc vào mặt con quỷ dâm ô, rồi vùng chạy. Món nợ nhà nước vẫn còn đó, chị Dậu phải lên tỉnh đi ở vú. Một đêm tối trời, cụ cố thượng đã ngoài 80 tuổi mò vào buồng chị Dậu. Chị Dậu vùng chạy thoát ra ngoài trong khi “trời tối đen như mực” III- Giới thiệu “Tắt đèn”. 1. Về nội dung tư tưởng a. “Tắt đèn” là một tác phẩm giàu giá trị hiện thực: Tố cáo và lên án chế độ sưu thuế dã man của thực dân Pháp đã bần cùng hóa nhân dân. “Tắt đèn” là một bức tranh xã hội chân thực, một bản án đanh thép kết tội chế độ thực dân nửa phong kiến. b. “Tắt đèn” giầu giá trị nhân đạo - Tình vợ chồng, tình mẹ con, tình xóm nghĩa làng giữa những con người cùng khổ, số phận những người phụ nữ, những em bé, những người cùng đinh được tác giả nêu lên với bao xót thương, nhức nhối và đau lòng. - “Tắt đèn” đã xây dựng nhân vật chị Dậu, một hình tượng chân thực đẹp đẽ về người phụ nữ nông dân Việt Nam. Chị Dậu có bao phẩm chất tốt đẹp : cần cù, tần tảo, giầu tình thương, nhẫn nhục và dũng cảm chống cường hào, áp bức. Chị Dậu là hiện thân của người vợ, người mẹ vừa sắc sảo, vừa đôn hậu, vừa trong sạch. 2. Về nghệ thuật: - Kết cấu chặt chẽ, tập trung. Cái tình tiết, chi tiết đan cài chặt chẽ, đầy ấn tượng làm nổi bật chủ đề. Nhân vật chị Dậu xuất hiện từ đầu đến cuối tác phẩm - Tính xung đột, tính bi kịch cuốn hút, hấp dẫn - Khắc hoạ thành công nhân vật: các hạng người từ người dân cày nghèo khổ đến dịa chủ, từ bọn cường hào đến quan lại đều có nét riêng rất chân thực, sống động. - Ngôn ngữ từ miêu tả đến tự sự, rồi đến ngôn ngữ nhân vật đều nhuần nhuyễn đậm đà. => Tóm lại, đúng như Vũ Trọng Phụng nhận xét : “Tắt đèn” là một thiên tiểu thuyết có luận đề xã hội hoàn toàn phụng sự dân quê, một áng văn có thể gọi là kiệt tác. IV. Tìm hiểu đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” 1. Giới thiệu đoạn trích:.
<span class='text_page_counter'>(27)</span> Trong tiểu thuyết “Tắt đèn”, chí ít người đọc cũng nhớ chị Dậu, người phụ nữ rất mực dịu dàng và biết chịu đựng nhẫn nhục, đã ba lần vùng lên chống trả quyết liệt sự áp bức của bọn thống trị để bảo vệ nhân phẩm của mình và bảo vệ chồng con. Trong đó thì tiểu biểu nhất là cảnh “tức nước vỡ bờ” mà nhà văn viết thành một chương truyện đầy ấn tượng khó phai, chương thứ 18 của tiểu thuyết “Tắt đèn” nổi tiếng của văn học hiện thực phê phán Việt Nam giai đoạn 1930- 1945. 2. Tiêu đề “Tức nước vỡ bờ” thâu tóm được : - Các phần nội dung liên quan trong văn bản: chị Dậu bị áp bức cũng quẫn, buộc phải phản ứng chống lại Cai lệ và người nhà lí trưởng. - Thể hiện đúng tư tưởng của văn bản : có áp bức, có đấu tranh - Từ tên gọi của văn bản, có thể xác định nhân vật trung tâm của đoạn trích này là chị Dậu. 3. Bố cục: Chuyện tức nước vỡ bờ của chị Dậu diễn ra ở hai sự việc chính: - Phần 1: Từ đầu đến chỗ “ngon miệng hay không”: Chị Dậu ân cần chăm sóc người chồng ốm yếu giữa vụ sưu thuế - Phần 2: Từ “anh Dậu uốn vai đến hết”: Chị Dậu khôn ngoan và can đảm đương đầu với bọn tay sai phong kiến như Cai Lệ và người nhà Lý trưởng. Câu hỏi: Theo em, hình ảnh chị Dậu được khắc hoạ rõ nét nhất ở sự việc nào? vì sao em khẳng định như thế? - Sự việc chị Dậu đương đầu với Cai Lệ và người nhà lí trưởng. Vì khi đó tính cách ngoan cường của chị Dậu được bộc lộ. Trong hoàn cảnh bị áp bức cùng cực, tinh thần phản kháng của chị Dậu mới có dịp bộc lộ rõ ràng. 4. Phân tích: Kh¸i qu¸t chung: *T×nh huèng truyÖn : Vô thuÕ ®ang trong thêi ®iÓm c¨ng th¼ng nhÊt : Quan trªn s¾p vÒ tận làng để đốc su , bọn tay sai càng ra sức lùng sục , tra khảo những ngời nông dân nghèo thiếu thuế .( trong đó có gia đình chị Dậu ). *Nh©n vËt cai lÖ :lµ viªn cai chØ huy mét tèp lÝnh lÖ – lÝnh phôc vô hÇu h¹ n¬i quan nha .Nhân vật cai lệ trong đoạn trích là ngời của quan trên về làng Đông Xá để thúc su . Dï chØ lµ tªn tay sai m¹t h¹ng , mét thø c«ng cô cña bé m¸y thèng trÞ nhng lóc nµy ®©y hắn đang là kẻ đại diện cho quyền lực của bộ máy ấy .Và hắn đẫ thể hiện đúng tính cách cña mét tªn tay sai tµn b¹o kh«ng cßn tÝnh ngêi . -Với nghề đánh trói ngời một cách chuyên nghiệp , có mặt ở làng Đông Xá để trừng trị kẻ nào dám trốn tiền su của Nhà nớc . Cho nên hắn đến nhà anh Dậu với t thế của 1 kẻ đại diện cho pháp luật trừng trị kẻ dám chống lại pháp luật . Dù anh Dậu đợc khiêng trả về nhà đêm qua trong tình trạng nh một xác chết , sáng hôm nay “cai lệ và ngời nhà lí trởng đã sầm sập tiến vào với roi song , tay thớc ,dây thừng “ –nghĩa là đến với t thế sẵn sàng trói ngời , đánh ngời . Thứ luật pháp bất nhân của XHTDPK tàn bạo cho phép một tên tay sai hành động nh thế đối với những ngời dân thấp cổ bé họng . -Trong XH ấy, một kẻ đầy tớ nơi cửa quan cũng có thể hống hách , ngang tàng , đánh đập dân chúng .Chỉ cần một vài chi tiết miêu tả hành động và ngôn ngữ của tên cai lệ , nhà văn đã khắc hoạ một cáh khéo léo và sinh động bản chất của cai lệ ; tàn nhẫn không một chút tính ngời . Chính vì không còn là con ngời nên hắn không hiểu đợc nỗi khổ của đồng loại và bỏ ngoài tai mọi lời lẽ đáng thơng của chị Dậu . Chỉ là một cai lệ hèn mọn vô danh , nhng tính cách của hắn đủ để biểu hiện rõ bản chất bất nhân tàn bạo của XHTDPK. * Nh©n vËt chÞ DËu ;.
<span class='text_page_counter'>(28)</span> -ChÞ DËu lµ ngêi vî rÊt mùc th¬ng chång . Khi chång ®au èm , chÞ tËn t©m lo l¾ng ch¨m sãc . -Vì thơng chồng nên chị Dậu đã bằng mọi cách đối phó với bọn tay sai để bảo vệ chồng : -Van xin -> chịu đựng áp bức đến mức nhẫn nhục . - Đấu tranh bằng lí lẽ : cái lí của tình ngời , của đạo lí làm ngời. - Đấu tranh bằng hành động :cái ác bị trừng trị . -> TÝnh c¸ch cña mét ngêi phô n÷ yªu th¬ng chång, d¸m hi sinh v× chång ,biÕt nhÉn nhục chịu đựng nhng đồng thời lại có một tinh thần phản kháng mạnh mẽ , một sức sống kiªn cêng . - Bên cạnh đó còn nói lên một chân lí sâu xa của đời sống : “ tức nớc “ thì “ vỡ bờ “; có áp bức thì có đấu tranh , con đờng sống duy nhất của quần chúng bị áp bức chỉ có thể là con đờng đấu tranh chống áp bức để có thể tự giải phóng mình . Ph©n tÝch: a. Tình huống truyện hấp dẫn thể hiện mối xung đột cao độ giữa kẻ áp bức và người bị áp bức. - Giữa vụ sưu thuế căng thẳng, gia đình chị Dậu bị dồn đến bước đường cùng trong cơn khốn quẫn nhất: phải bán con, bán đàn chó mới đẻ mới đủ suất tiền sưu cho anh Dậu để cứu chồng đang ốm yếu bị đánh đập ngoài đình. Nhưng nguy cơ anh Dậu lại bị bắt nữa vì chưa có tiền nộp sưu cho người em ruột đã chết từ năm ngoái. - Nhờ hàng xóm giúp, chị Dậu ra sức cứu sống chồng nhưng trời vừa sáng, cai lệ và người nhà lí trưởng đã sầm sập tiến vào với những roi song tay thước và dây thừng, tính mạng của anh Dậu bị đe doạ nghiêm trọng. Anh chưa kịp húp ít cháo cho đỡ xót ruột như mong muốn của người vợ thương chồng thì bọn đầu trâu mặt ngựa đã ào vào như một cơn lốc dữ khiến anh lăn đùng ra không nói được câu gì. => Như vậy, tình huống vừa mới mở ra mà xung đột đã nổi lên ngay, báo trước kịch tính rất cao đề dẫn đến cảnh “tức nước vỡ bờ” như là một quy luật không thể nào tránh khỏi. b.Bộ mặt tàn ác bất nhân của bọn cai lệ và người nhà lí trưởng. Trong phần hai của văn bản này xuất hiện các nhân vật đối lập với chị Dậu. Trong đó nổi bật là tên cai lệ. Cai lệ là viên cai chỉ huy một tốp lính lệ. Hắn cùng với người nhà lí trưởng kéo đến nhà chị Dậu để tróc thuế sưu, thứ thuế nộp bằng tiền mà người đàn ông là dân thường từ 18 đến 60 tuổi (gọi là dân đinh) hằng năm phải nộp cho nhà nước phong kiến thực dân; sưu là công việc lao động nặng nhọc mà dân đinh phải làm cho nhà nước đó. Gia đình chị Dậu phải đóng suất thuế sưu cho người em chồng đã mất từ năm ngoái cho thấy thực trạng xã hội thời đó thật bất công, tàn nhẫn và không có luật lệ. - Theo dõi nhân vật cai lệ, ta thấy ngòi bút hiện thực NTT đã khắc họa hình ảnh tên cai lệ bằng những chi tiết điển hình thật sắc sảo. + Vừa vào nhà, cai lệ đã lập tức ra oai “gõ đầu roi xuống đất”, hách dịch gọi anh Dậu là “thằng kia”, “mày” và xưng “ông”, “cha mày”. “Thằng kia! Ông tưởng mày chết đêm qua, còn sống đấy à? Nộp tiền sưu mau!” + Cai Lệ trợn ngược hai mắt, hắn quát: “mày định nói cho cha mày nghe đấy à? Sưu của nhà nước mà dám mở mồm xin khất!” + Vẫn giọng hầm hè: “Nếu không có tiền nộp sưu cho ông bây giờ, thì ông sẽ dỡ cả nhà mày đi, chửi mắng thôi à!....”.
<span class='text_page_counter'>(29)</span> + Đùng đùng, cai lệ giật phắt cái thừng trong tay anh này và chạy sầm sập đến chỗ anh Dậu : “tha này! tha này!.. Vừa nói hắn vừa bịch luôn vào ngực chị Dậu mấy bịch rồi lại sấn đến để trói anh Dậu.” => Ngòi bút của NTT thật sắc sảo, tinh tế khi ông không dùng một chi tiết nào để miêu tả suy nghĩ tên cai lệ trong cảnh này. Bởi vì lũ đầu trâu mặt ngựa xem việc đánh người, trói người như là việc tự nhiên hàng ngày, chẳng bao giờ thấy động lòng trắc ẩn thì làm gì chúng còn biết suy nghĩ? Nhà văn đã kết hợp các chi tiết điển hình về bộ dạng, lời nói, hành động để khắc hoạ nhân vật. Từ đó ta thấy tên cai lệ đã bộc lộ tính cách hống hách, thô bạo, không còn nhân tính. Từ hình ảnh tên cai lệ này, ta thấy bản chất xã hội thực dân phong kiến là một xã hội đầy rẫy bất công tàn ác, một xã hội có thể gieo hoạ xuống người dân lương thiện bất kì lúc nào, một xã hội tồn tại trên cơ sỏ của các lí lẽ và hành động bạo ngược. c. Hình ảnh đẹp đẽ của người nông dân lao động nghèo khổ. Truyện “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố đã tạo dựng được hình ảnh chân thực về người phụ nữ nông dân bị áp bức cùng quẫn trong xã hội phong kiến nhưng vẫn giữ được bản chất tốt đẹp của người lao đông, đó là chị Dậu. * Trước hết là tấm lòng của người vợ đối với người chồng đang đau ốm được diễn tả chân thật và xúc động từ lời nói đến hành động. - Chị Dậu chăm sóc anh Dậu trong hoàn cảnh : Giữa vụ sưu thuế căng thẳng, nhà nghèo, phải bán chó, bán con mà vẫn không lo đủ tiền sưu. Còn anh Dậu thì bị tra tấn, đánh đập và bị ném về nhà như một cái xác rũ rượi… => Trước hoàn cảnh khốn khó, chị Dậu đã chịu đựng rất dẻo dai, không gục ngã trước hoàn cảnh. - Trong cơn nguy biến chị đã tìm mọi cách cứu chữa cho chồng: Cháo chín, chị Dậu mang ra giữa nhà, ngả mâm bát múc la liệt. Rồi chị lấy quạt quạt cho chóng nguội. Chị rón rén bưng một bát đến chỗ chồng nằm: Thầy em hãy cố ngồi dậy húp ít cháo cho đỡ xót ruột. Rồi chị đón lấy cái Tỉu và ngồi xuống đó như có ý chờ xem chồng ăn có ngon miệng không. => Đó là những cử chỉ yêu thương đằm thắm, dịu dàng của một người vợ yêu chồng. Tình cảm ấy như hơi ấm dịu dàng thức tỉnh sự sống cho anh Dậu. Tác giả miêu tả thật tỉ mỉ, kĩ lưỡng từng hành động cử chỉ, từng dấu hiệu chuyển biến của anh Dậu : “anh Dậu uốn vai ngáp dài một tiếng”… Dường như mỗi cử chỉ, hành động của anh Dạu đều có ánh mắt thấp thỏm, lo lắng của chị Dậu dõi theo da diết. Cứ tưởng rằng đây là một phút giây ngắn ngủi trong cả cuộc đời đau khổ của chị Dậu để chị có thể vui sướng tràn trề khi anh Dậu hoàn toàn sống lại. Nhưng dường như chị Dậu sinh ra là để khổ đau và bất hạnh nên dù chị có khao khát một giây phút hạnh phúc ngắn ngủi nhưng nào có được. Bọn Cai lệ và người nhà lí trưởng đã sầm sập tiến vào như cơn lốc dữ dập tắt ngọn lửa sống đang nhen nhóm trong anh Dậu. Nỗi cay đắng trong chị Dậu không biết lớn đến mức nào. Nhưng giờ đây chị sẽ phải xử sự ra sao để cứu được chồng thoát khỏi đòn roi. * Theo dõi nhân vật chị Dậu trong phần thứ hai của văn bản “tức nước vỡ bờ”, ta thấy chị Dậu là một người phụ nữ cứng cỏi đã dũng cảm chống lại bọn cường hào để bảo vệ chồng. - Ban đầu chị nhẫn nhục chịu đựng:.
<span class='text_page_counter'>(30)</span> + Chị Dậu cố van xin thiết tha bằng giọng run run cầu khẩn: “Hai ông làm phúc nói với ông lí cho cháu khất” => Cách cư xử và xưng hô của chị thể hiện thái độ nhẫn nhục chịu đựng. Chị có thái độ như vậy là vì chị biết thân phận bé mọn của mình, người nông dân thấp cổ bé họng, biết cái tình thế khó khăn, ngặt nghèo của gia đình mình (anh Dậu là kẻ có tội thiếu suất sưu của người em đã chết, lại đang ốm nặng). Trong hoàn cảnh này, chị chỉ mong chúng tha cho anh Dậu, không đánh trói hành hạ anh. - Khi tên cai lệ chạy sầm sập đến trói anh Dậu, tính mạng người chồng bị đe doạ, chị Dậu “xám mặt” vội vàng chạy đến đỡ lấy tay hắn, nhưng vẫn cố van xin thảm thiết: “Cháu van ông ! Nhà cháu vừa mới tỉnh được mọt lúc, ông tha cho”. (“Xám mặt”tức là chị đã rất tức giận, bất bình trước sự vô lương tâm của lũ tay sai. Mặc dù vậy, lời nói của chị vẫn rất nhũn nhặn, chị đã nhẫn nhục hạ mình xuống- chứng tỏ sức chịu đựng của chị rất lớn. Tất cả chỉ là để cứu chồng qua cơn hoạn nạn. - Nhưng chị Dậu không thuộc loại người yếu đuối chỉ biết nhẫn nhục van xin mà còn tiềm tàng một khả năng phản kháng mãnh liệt. + Khi tên cai lệ mỗi lúc lại lồng lên như một con chó điên “bịch vào ngực chị mấy bịch” rồi “tát đánh bốp vò mặt chị thậm chí nhảy vào chỗ anh Dậu”…. tức là hắn hành động một cách dã man thì mọi sự nhẫn nhục đều có giới hạn. Chị Dậu đã kiên quyết cự lại. Sự cự lại của chị Dậu cũng có một quá trình gồm hai bước. . Thoạt đầu, chị cự lại bằng lí lẽ : “Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ”. -> Lời nói đanh thép như một lời cảnh cáo. Thực ra chị không viện đến pháp luật mà chỉ nói cái lí đương nhiên, cái đạo lí tối thiểu của con người. Lúc này chị đã thay đổi cách xưng hô ngang hàng nhìn vào mặt đối thủ. Với thái độ quyết liệt ấy, một chị Dậu dịu dàng đã trở nên mạnh mẽ, đáo để. . Đến khi tên cai lệ dã thú ấy vẫn không thèm trả lời còn tát vào mặt chị một cái đánh bốp rồi cứ nhảy vào cạnh anh Dậu thì chị đã vụt đứng dậy với niềm căm giận ngùn ngụt: Chị Dậu nghiến hai hàm răng “mày trói chồng bà đi, bà cho mày xem!”. Một cách xưng hô hết sức đanh đá của phụ nữ bình dân thể hiện tư thế “đứng trên đầu thù” sẵn sàng đè bẹp đối phương. Rồi chị “túm cổ cai lệ ấn dúi ra cửa, lẳng người nhà lí trưởng ngã nhào ra thềm”. Chị Dậu vẫn chưa nguôi giận. Với chị, nhà tù thực dân cũng chẳng có thể làm cho chị run sợ nên trước sự can ngăn của chồng, chị trả lời: “thà ngồi tù. Để cho chúng nó làm tình làm tội mãi thế, tôi không chịu được”. Câu hỏi: Em thích nhất chi tiết nào ? Vì sao? => Chi tiết chị Dậu quật ngã bọn tay sai hung ác trong tư thế ngang hàng, bất khuất với sức mạnh kì lạ. Vừa ra tay chị đã nhanh chóng biến tên tay sai hung hãn vũ khí đầy mình thành những kẻ thảm bại xấu xí, tơi tả. Sức mạnh kì diệu của chị Dậu là sức mạnh của lòng căm hờn, uất hận bị dồn nén đến mức không thể chịu đựng được nữa. Đó còn là sức mạnh của lòng yêu thương chồng con vô bờ bến. Hành động dã man của tên cai lệ là nguyên nhân trực tiếp làm cho sức chịu đựng của chị lên quá mức. Giọng văn của Ngô Tất Tố trở nên hả hê. Dưới ngòi bút của ông, hình ảnh chị Dậu hiện lên khoẻ khoắn, quyết liệt bao nhiêu thì hình ảnh bọn tay sai hung ác trở nên nhỏ bé, hèn hạ, nực cười bấy nhiêu. Và chúng ta khi đọc đến những dòng này cũng sung sướng, hả hê như Ngô Tất Tố. Ông đã chỉ ra một quy luật tất yếu trong xã hội “có áp bức có đấu tranh”, “con giun xéo mãi cũng quằn”, chị Dậu bị áp bức dã man đã vùng lên đánh trả một cách dũng cảm..
<span class='text_page_counter'>(31)</span> - Kết hợp các chi tiết điển hình về cử chỉ Câu hỏi: Nhận xét về nghệ thuật khắc hoạ nhân vật chị Dậu trong đoạn . Tác dụng của các biện pháp nghệ thuật đó? với lời nói và hành động. - Tư sự kết hợp miêu tả và biểu cảm - Từ nhũn nhặn, tha thiết van xin đến cứng cỏi thách thức, quyết liệt - Dùng phép tương phản tính cách chị Dậu với bọn cai lệ và người nhà lí trưởng. => Tác dụng:tạo được nhân vật chị Dậu giống thật, chân thực, sinh động, có sức truyền cảm. Tính cách chị Dậu hiện lên nhất quán với diễn biến tâm lí thật sinh động. Chị Dậu mộc mạc, hiền dịu, đầy vị tha, giầu tình yêu thương, sống khiêm nhường, biết nhẫn nhục chịu đựng nhưng hoàn toàn không yếu đuối, chỉ biết sợ hãi mà trái lại vẫn có một sức sống mạnh mẽ, một tinh thần phản kháng tiềm tàng. - Từ hình ảnh của chị Dậu ta liên tưởng đến người nông dân trước cách mạng tháng Tám: tự ti, nhẫn nhục, an phận do bị áp bức lâu đời. Nhưng họ sẽ đứng lên phản kháng quyết liệt khi bị áp bức bóc lột tàn tệ. - Sự phản kháng của chị Dậu còn tự phát, đơn độc chưa có kết quả (chỉ một lúc sau, cả nhà chị bị trói giải ra đình trình quan) tức là chị vẫn bế tắc nhưng có thể tin rằng khi có ánh sáng cách mạng rọi tới, chị sẽ là người đi hàng đầu trong cuộc đấu tranh. Chính với ý nghĩa ấy mà Nguyễn Tuân viết: “tôi nhớ như có lần nào, tôi đã gặp chị Dậu ở một đám đông phá kho thóc Nhật ở một cuộc cướp chính quyền huyện kì tổng khởi nghĩa. => Như vậy, từ hình ảnh “cái cò lặn lội bờ sông. Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non” và từ hình ảnh người phụ nữ trong thơ xưa đến hình ảnh chị Dậu trong “Tắt đèn”, ta thấy chân dung người phụ nữ Việt Nam trong văn học đã có một bước phát triển mới cả về tâm hồn lẫn chí khí. 5. Nội dung và nghệ thuật đặc sắc của văn bản “Tức nước vỡ bờ” - Với ngòi bút hiện thực sinh động, Ngô Tất Tố đã vạch trần bộ mặt tàn ác, bất nhân của xã hội thực dân phong kiến đương thời đã đẩy người nông dân vào tình cảnh vô cùng cực khổ. Nhà văn còn ca ngợi một phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ nông dân nghèo khổ: giàu tình thương yêu và có sức sống tiềm tàng mạnh mẽ. - Đây là một văn bản tự sự kết hợp miêu tả và biểu cảm. Tình huống truyện hấp dẫn thể hiện nổi bật xung đột. Khắc hoạ nhân vật bằng kết hợp các chi tiết điển hình về cử chỉ, lời nói và hành động. Thể hiện chính xác quá trình tâm lí nhân vật. Có thái độ rõ ràng đối với nhân vật. Ngôn ngữ kể chuyện, miêu tả của tác giả và ngôn ngữ đối thoại của nhân vật rất đặc sắc. 6. Câu hỏi luyện tập 1. Em hiểu về như thế nào về nhan đề “Tức nước vỡ bờ” đặt cho đoạn trích? Theo em đặt tên như vậy có thoả đáng không? - Kinh nghiệm của dân gian được đúc kết trong câu tục ngữ đó đã bắt gặp sự khám phá chân lí đời sống của cây bút hiện thực NTT, được ông thể hiện thật sinh động, đầy sức thuyết phục. - Đoạn trích chẳng những làm toát lên cái lô gic hiện thực “tức nước vỡ bờ”, “có áp bức, có đấu tranh” mà còn toát lên cái chân lí: con đường sống của quần chúng bị áp bức chỉ có thể là con đường đấu tranh để tự giải phóng, không có con đường nào khác. Vì vậy mà tuy tác giả “Tắt đèn” khi đó chưa giác ngộ cách mạng, tác phẩm kết thúc rất bế.
<span class='text_page_counter'>(32)</span> tắc, nhưng nhà văn Nguyễn Tuân đã nói rằng: Ngô Tất Tố với “tắt đèn” đã xui người nông dân nổi loạn. NTT chưa nhận thức được chân lí cách mạng nên chưa chỉ ra được con đường đấu tranh tất yếu của quần chúng bị áp bức, nhưng với cảm quan hiện thực mạnh mẽ, nhà văn đã cảm nhận được xu thế “tức nước vỡ bờ” và sức mạnh to lớn khôn lường của sự “vỡ bờ” đó. Và không quá lời nếu nói rằng cảnh “tức nước vỡ bờ” trong đoạn trích đã dự báo cơn bão táp quần chúng nông dân nổi dậy sau này. 2. Nhà văn Nguyễn Tuân cho rằng: “Với tác phẩm Tắt đèn, NTT đã xui người nông dân nổi loạn. Nên hiểu như thế nào về nhận định này? Gợi ý: - Chế độ phong kiến còn áp bức, bóc lột tàn bạo không còn chỗ cho người lương thiện như chị Dậu được sống - Những người nông dân như chị Dậu muốn sống được, không có cách nào khác phải vùng lên đấu tranh chống áp bức bóc lột. - Đó là một nhận xét chính xác. 3. Từ đó, có thể nhận ra thái độ nào của nhà văn NTT đối với thực trạng xã hội và đối với phẩm chất của người nông dân trong xã hội cũ? - Lên án xã hội thống trị áp bức vô nhân đạo - Cảm thông với cuộc sống cùng khổ của người nông dân nghèo - Cổ vũ tinh thần phản kháng của họ - Lòng tin vào phẩm chất tốt đẹp của họ. 4. Viết đoạn văn tổng phân hợp khoảng 15 câu để làm rõ câu chủ đề sau: - Nhưng chị Dậu không thuộc loại người yếu đuối chỉ biết nhẫn nhục van xin mà còn tiềm tàng một khả năng phản kháng mãnh liệt. Thật vậy, khi bị đẩy tới đường cùng, chị đã vùng dậy chống trả quyết liệt, thể hiện một thái độ thật bất khuất. Khi tên cai lệ dã thú ấy vẫn không thèm trả lời, còn “tát vào mặt chị một cái đánh bốp” rồi cứ nhảy vào cạnh anh Dậu, thì chị đã vụt đứng dậy với niềm căm giận ngùn ngụt: “chị Dậu nghiến hai hàm răng: “mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem!” Chị chẳng những không còn xưng hô “cháu - ông”, mà cũng không phải “tôi – ông” như kẻ ngang hàng, mà lần này, chị xưng “bà”, gọi tên cai lệ bằng “mày”! Đó là cách xưng hô hết sức đanh đá của phụ nữ bình dân, thể hiện sự căm giận và khinh bỉ cao độ, đồng thời khẳng định tư thế “đứng trên đầu thù”, sẵn sàng đè bẹp đối phương. Lần này chị Dậu đã không đấu lí mà quyết ra tay đấu lực với chúng. Cảnh tượng chị Dậu quật ngã hai tên tay sai đã cho ta thấy sức mạnh ghê gớm và tư thế ngang hàng của chị Dậu, đối lập với hình ảnh, bộ dạng thảm hại hết sức hài hước của hai tên tay sai bị chị “ra đòn”. Với tên cai lệ “lẻo khoẻo” vì nghiện ngập, chị chỉ cần một động tác “túm lấy cổ hắn, ấn dúi ra cửa”, hắn đã “ngã chỏng quèo trên mặt đất! Đến tên người nhà lí trưởng, cuộc đọ sức có dai dẳng hơn một chút (hai người giằng co nhau, du đẩy nhau, rồi ai nấy đền buông gậy ra, áp vào vật nhau), nhưng cũng không lâu, kết cục, anh chàng “hầu cận ông lí” yếu hơn chị chàng con mọn, hắn bị chị này túm tóc lẳng cho một cái, ngã nhào ra thềm! Vừa ra tay, chị Dậu đã nhanh chóng biến hai tên tay sai hung hãn vũ khí đầy mình thành những kẻ thảm bại xấu xí, tơi tả. Lúc mới xông vào, chúng hùng hổ, dữ tợn bao nhiêu thì giờ đây, chúng hài hước, thảm hại bấy nhiêu. Đoạn văn đặc biệt sống động và toát lên một không khí hào hứng rất thú vị “làm cho độc giả hả hê một chút sau khi đọc những trang rất buồn thảm..
<span class='text_page_counter'>(33)</span> 5. Hãy viết một số đoạn văn chứng minh ý kiến của nhà phê bình văn học Vũ Ngọc Phan : “Cái đoạn chị Dậu đánh nhau với tên Cai Lệ là một đoạn “tuyệt khéo”. Sau đó hãy phân tích các phương tiện chuyển đoạn văn được sử dụng. Gợi ý: Cái đoạn chị Dậu đánh nhau với tên cai lệ là một đoạn “tuyệt khéo”, đó là lời bình luận của nhà văn Vũ Ngọc Phan về tiểu thuyết “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố. “ Tắt đèn” có nhiều điểm rất hay, rất khéo; có nhiều trang làm xúc động lòng người. Trong đó có cảnh “tức nước vỡ bờ”, một trang văn “tuyệt khéo”, giàu kịch tính như một màn bi hài kịch. Có tiếng khóc, tiếng rên. Có tiếng chửi, có tiếng van xin, có lời thách thức. Có cảnh đánh nhau giữa người đàn bà lực điền và tên cai lệ. Anh Dậu vừa mới tỉnh được một lát thì tên cai lệ, tên hầu cận lí trưởng với roi song, tay thước, dây thừng “sầm sập” kéo tới. Lũ sai nha sát khí đằng đằng. Chỉ một tiếng thét “thằng kia”! thế mà tên cai lệ đã làm cho anh Dậu vừa kề miệng vào bát cháo đã “lăn đùng ra chết ngất!” Hắn chửi chị Dậu thậm tệ, khi chị thiết tha xin khất sưu. Hắn “trợn ngược hai mắt” quát: “mày định nói cho cha mày nghe đấy à? Sưu của nhà nước mà dám mở mồm xin khất! Hắn chạy sầm sập đến chỗ anh Dậu để trói kẻ thiếu sưu. Hắn dã man “bịch” vào ngực chị Dậu, tát đánh bốp vào mặt chị Dậu. Hắn lồng lên như một con thú dữ. Ngôn ngữ, điệu bộ, hành động của tên cai lệ được đặc tả “tuyệt khéo” đã vạch trần bộ mặt ghê tởm của một tên sai nha mất hết cả tính người. Còn có gì tuyệt khéo nữa? Cảnh đánh nhau giữa chị Dậu và tên cai lệ diễn ra dữ dội và hết sức bất ngờ. Người đàn bà con mọn chỉ có hai bàn tay không. Trong lúc đó, tên cai lệ, tên hầu cận lý trưởng nào roi song, nào dây thừng tay thước. Bị “bịch” vào ngực, bị tát đánh “bốp” vào mặt, người chồng ốm đau sắp bị trói, chị Dậu đã phản ứng lại dữ dội. Sau cái “nghiến hai hàm răng” thách thức, chị Dậu đã “túm lấy cổ” và ấn dúi tên cai lệ, làm cho hắn “ngã chỏng quèo” trên mặt đất. Thật hài hước, kẻ “hút nhiều xái cũ” tuy đã bị đánh ngã nhào, nhưng miệng hắn “vẫn nham nhảm thét trói vợ chồng kẻ thiếu sưu”. Sau đó, chị Dậu còn “vật nhau” với tên hầu cận lí trưởng. Chị đã “túm tóc” và “lẳng cho một cái”, làm cho hắn “ngã nhào ra thềm”. Người đọc vô cùng hả hê trước sức mạnh phản kháng của chị Dậu. Người đàn bà con mọn đã hạ nhục, đã đánh ngã nhào bọn đầu trâu mặt ngựa, tay chân lũ cường hào gian ác, tanh hôi. Cảnh “tức nước vỡ bờ” còn có gì “tuyệt khéo”nữa? Những lời đối thoại thật khéo. Ngòi bút của Ngô Tất Tố “tuyệt khéo” khi nói về cách đối đáp, ứng xử, tinh thần, thái độ, hành động của chị Dậu. Lúc đầu chị nín nhịn nhẫn nhục van xin: “nhà cháu đã túng lại phải… Hai ông làm phúc nói với ông lí cho cháu khất…”; không nạn ! Nhà cháu đã không có, dẫu ông chửi mắng cũng đến thế thôi. Xin ông trông lại!” “Cháu van ông, nhà cháu vừa mới tỉnh được một lúc, ông tha cho!” Sau đó, chị Dậu đã hoàn toàn thay đổi. Chị trở nên táo bạo và quyết liệt. Chồng sắp bị trói, chị bị tên cai lệ chửi và bịch vào ngực mấy cái. Chị cự lại: “chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ!” Cai lệ “tát đánh bốp” vào mặt chị Dậu. Như lửa đổ thêm dầu, chị đã “nghiến hai hàm răng” thách thức: “mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem!”Và chị đã đã đánh ngã nhào hai tên chó má! Dưới ngòi bút “tuyệt khéo” của ông Đầu xứ Tố, ta thấy “trên cái tối giời tối đất của đồng lúa ngày xưa, hiện lên một cái chân dung lạc quan của chị Dậu (Nguyễn Tuân)..
<span class='text_page_counter'>(34)</span> Thật vậy, Ngô Tất Tố viết “tuyệt khéo”. Sự việc ở nông thôn ngày xưa rất thực, rất sống. Trang văn thấm đầy tình nhân đạo. Ông đã chỉ ra cái hiện tượng “con giun xéo mãi cũng quằn”. Ông đã nêu lên một quy luật hiển nhiên: “có áp bức, có đấu tranh”. Chị Dậu là một người vợ, người mẹ đảm đang, giàu tình thương và rất cứng cỏi. Cái “tuyệt khéo” của Ngô Tất Tố là đã dựng nên bức chân dung chị Dậu. => Các chữ in đậm là phương tiện chuyển đoạn. Người viết đã chứng minh cái “tuyệt khéo” trong cảnh “tức nước vỡ bờ”. Các đoạn văn được nối kết khá chặt chẽ. 6. Đề tập làm văn: Hãy tưởng tượng : em nhập vai chị Dậu kể lại chuyện đánh tên Cai lệ. Xế trưa hôm ấy, lí trưởng làng Đông Xá bắt tôi giải ra đình. Chúng bắt tôi khai về chuyện chống đối chính quyền, để lập cung giải huyện. Có đủ mặt quan viên. có cả lí cựu nữa. Nhiều người dân kéo đến, đứng lố nhố phía ngoài đình. - Thị Đào, sao mày dám đánh người nhà của quan! Tội mày to lắm. Tù mọt gông! Mày hãy kể lại việc làm ngỗ ngược của mày, để làng lập cung. - Lí đương vừa nói vừa đập tay xuống chiếu. Mấy tên tay chân chạy lăng xăng. Tôi chẳng sợ. - Các ông nên hỏi hai thằng khốn nạn ấy chứ! Nhưng các ông muốn lập cung chứ gì? Ừ thì tôi nói. Chồng tôi bị ông lí đánh trói thập tử nhất sinh. Sợ xảy ra án mạng, ông lí đã sai tay chân gánh chồng tôi về nhà trả cho mẹ con tôi. Mẹ con tôi, bà con hàng xóm chạy chữa mãi, chồng tôi mới hoàn hồn. - Thị Đào, mày dài dòng lắm! Nói ngay vào sự việc! – Lí đương ngắt lời tôi và nạt bằng giọng lè nhè. - “Trời đánh còn tránh miếng ăn”, có phải không nào? Chồng tôi vừa kề miệng vào bát cháo thì tên cai lệ xồng xộc kéo tới, hắn thét trói. Chồng tôi chết ngất lăn đùng ra! Tôi van xin. Tôi đâu phải là kẻ quá quắt. Nhưng hắn lá đứa bất nhân đã chửi tôi thậm tệ. Hắn gào lên: “Tha này! Tha này!”. Hắn bịch vào ngực tôi mấy bịch. Hắn sấn đến trói chồng tôi. Phải cứu chồng tôi chứ. Tôi nghiêm sắc mặt, nói với hắn: “chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ!” Sự đời mềm nắn, rắn buông! Ai ngờ, hắn lấn tới áp chế. Hắn tát đánh bốp vào mặt tôi. Hắn như con chó dại lồng lên, hắn nhảy vào trói chồng tôi. Máu trong người tôi sôi lên. Tôi nghiến hai hàm răng. Tôi chỉ tay vào mặt hắn: “mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem!”Tôi còn sợ gì nữa. Cái đồ nghiện oặt ấy, tôi coi như rơm như rác. Tôi túm lấy cổ hắn, tôi ấn dúi hắn ngã chỏng quèo trên mặt đất. Còn cái thằng hầu cận ông lí, không tự biết thân lại còn giơ gậy đánh tôi. Hắn bị tôi túm tóc, lẳng cho một cái ngã nhào ra thềm. Hai thằng khốn nạn ấy lồm ngồm bò dậy, chạy thục mạng về đình. Chúng đã bỏ lại ở nhà tôi roi song, tay thước, dây thừng… Đáng lẽ tôi phải đánh cho hai tên ấy một trận nhừ tử. Nhưng đánh chó còn ngó đến chúa nhà. Tôi nể ông Lí đấy!.. Xung quanh đình có tiếng cười rúc rích. Lí Cựu ngồi trên chiếu, xoay mình vuốt râu, tủm tỉm cười. Lí đương cất tiếng: “con thị Đào này ghê gớm lắm! Bướng bỉnh lắm! Phải giải ngay lên quan phủ để trừng trị!.. 7.Phân tích đặc điểm nhân vật chị Dậu trong đoạn trích « Tức nước vỡ bờ » của Ngô Tất Tố I - Mở bài :.
<span class='text_page_counter'>(35)</span> - Ngô Tất Tố là nhà văn hiện thực, xuất sắc viết rất thành công và chân thực về hình tượng người nông dân trước CMT8. - Với một nghệ thuật xây dựng nhân vật độc đáo và trái tim yêu thương con người tha thiết, Đoạn trích « tức nước vỡ bờ » đã cho ta thấy thêm một vẻ đẹp bất ngờ trong tính cách của chị Dậu, đó là sự vùng lên chống trả quyết liệt ách áp bức của giai cấp thống trị mà sức mạnh chính là lòng căm hờn, uất hận và tình yêu thương chồng con vô bờ bến II- Thân bài : 1. Chị Dậu - một người nhẫn nhục, chịu đựng a. Thái độ của chị Dậu khi bọn tay sai ập vào - Mọi cố gắng chăm sóc chồng của chị Dậu đều uổng phí ( Anh Dậu vừa kề bát cháo đến miệng, nghe tiếng thét của Cai Lệ thì sợ quá lăn đùng ra phản) - Thái độ của bọn tay sai : hách dịch, hành động thì hung hãn, lời nói thì thô lỗ - Trong hoàn cảnh ấy, thái độ của chị Dậu + Run run ( chị sợ thì ít mà lo cho chồng thì nhiều) + Chị cầu khẩn bằng giọng thiết tha « nhà cháu đã không có, dẫu ông chửi mắng cũng đến thế thôi. Xin ông trông lại » + Cách xưng hô : gọi « ông » và xưng « cháu » b. Nhận xét : Cách cư xử của chị thể hiện thái độ nhẫn nhục, chịu đựng của chị. Chị có thái độ như vậy là vì chị biết thân phận bé mọn của mình, biết cái khó khăn ngặt nghèo của gia đình mình. Trong hoàn cảnh này, chị chỉ mong cho chúng tha cho anh Dậu, không đánh trói, hành hạ anh) 2. Chị Dậu không thuộc loại người yếu đuối chỉ biết nhẫn nhục van xin mà còn tiềm tàng một khả năng phản kháng mãnh liệt. a. Phân tích lời nói bộc lộ tính cách của nhân vật chị Dậu - Khi tên Cai Lệ sầm sập chạy đến chỗ anh Dậu thì : + Chị xám mặt, vội vàng đặt con bé xuống, đỡ lấy tay hắn và tiếp tục van xin : « ông tha cho nhà cháu » « Xám mặt »- > Tức là chị đã rất tức giận, bất bình trước sự vô lương tâm của lũ tay sai. Thái độ của chị thì bất bình nhưng lời nói của chị vẫn nhũn nhặn => Chứng tỏ sức chịu đựng của chị - Khi tên Cai Lệ bịch vào ngực chị và đánh trói anh Dậu : + Chị cự lại bằng lời nói : « chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ » -> Lời nói đanh thép như một lời cảnh cáo + Cách xưng hô : ngang hàng « ông- tôi »=> thể hiện sự uất ức của chị + Thái độ : quyết liệt : một chị Dậu dịu dàng đã trở nên mạnh mẽ, đáo để - Khi Cai Lệ tát chị Dậu và tiếp tục nhẩy vào cạnh anh Dậu + Chị nghiến hai hàm răng=> Thể hiện sự uất ức cao độ không thể kìm nén + Ngang nhiên thách thức : « mày trói chồng bà đi, bà cho mày xem ! » + Túm cổ Cai Lệ, ấn dúi ra cửa + Lẳng người nhà Lý trưởng ra thềm => Chị Dậu quật ngã bọn tay sai hung ác trong tư thế ngang hàng, bất khuất với sức mạnh kì lạ. b. Nhận xét, đánh giá, bình luận * Sức mạnh kì diệu của chị Dậu là sức mạnh của lòng căm hờn.
<span class='text_page_counter'>(36)</span> - Uất hận vì bị dồn nén đến mức không thể chịu nổi nữa - Là sức mạnh của lòng yêu thương chồng con vô bờ bến - Hành dộng dã man của tên Cai Lệ, nh÷ng h×nh thøc ¸p bøc bãc lét cña xh nöa thùc d©n nöa pk là nguyên nhân trực tiếp làm cho sức chịu đựng của chị lên đến quá mức... * Từ hình ảnh chị Dậu liên tưởng đến người nông dân trước cách mạng - Tự ti, nhẫn nhục, an phận do bị áp bức lâu đời - Họ sẽ phản kháng quyết liệt khi bị áp bức bóc lột tàn tệ - Sự phản kháng của chị Dậu còn tự phát, đơn độc nên chưa có kết quả * Liên hệ quy luật xã hội - Ở đâu có áp bức thì ở đó có đấu tranh * Thái độ của nhà văn : Những trang viết với sự hả hê, nhà văn đứng về phía những người cùng khổ đồng tình với họ, lên án, tố cáo sự dã man của bọn tay sai, phong kiến. * Nghệ thuật xây dựng nhân vật : - Miêu tả diễn biến tâm lý nhân vật thật tinh tế - Tính cách nhân vật chị Dậu hiện lên thật nhất quán. III- Kết luận Tóm lại chưa mấy nhà văn cùng thời như Ngô Tất Tố thấy được sức sống tiềm tàng, tinh thần kiên cường bất khuất của những người nông dân bị chà đạp tưởng đâu chỉ biết an phận, nhát sợ, nhịn nhục một cách đáng thương. Đoạn trích đã cho thấy sự tìm tòi khám phá và tiến bộ trong ngòi bút của Ngô Tất Tố. Vì thế Ngô Tất Tố đã thành công đặc biệt trong việc thể hiện chân thực vẻ đẹp và sức mạnh tâm hồn của người phụ nữ nông dânVN. Với hình tượng chị Dậu, lần đầu tiên trong VHVN có một điển hình chân thực, toàn vẹn, đẹp đẽ về người phụ nữ nông dân lao động. DÆn dß : * N¾m nh÷ng kiÕn thøc c¬ b¶n vÒ hai t¸c phÈm * Làm bài tập : 1.Cảm nhận của em về nhân vật bé Hồng ,từ đó em có suy nghĩ g× vÒ x· héi lóc bÊy giê . 2. Em hiểu thế nào về nhan đề Tức nớc vỡ bờ ? 3. Phân tích nhân vật chị Dậu để làm rõ sự bế tắc và sức phản kh¸ng m¹nh mÏ cña ngêi phô n÷ trong giai ®o¹n v¨n häc nµy. ============================= Ngày soạn : 07/11/2011 Ngày dạy : /11/2011 Buæi 7. LÃO HẠC a/ T¸c gi¶:(1915- 1951) quª lµng §¹i Hoµng, phñ LÝ Nh©n, tØnh Hµ Nam. - ¤ng lµ nhµ v¨n hiÖn thùc xuÊt s¾c tríc C¸ch m¹ng th¸ng T¸m víi nh÷ng t¸c phÈm v¨n xu«i viÕt vÒ ngêi n«ng d©n nghÌo vµ ngêi trÝ thøc nghÌo sèng mßn mái, bÕ t¾c trong XH cũ, thể hiện một tình cảm nhân đạo sâu sắc. -Sau C¸ch m¹ng, Nam Cao ch©n thµnh, tËn tuþ s¸ng t¸c phôc vô k/c chèng Ph¸p. ¤ng đã hi sinh trong một chuyến công tác vùng địch hậu, để lại một tấm gơng cao đẹp của mét nhµ v¨n - chiÕn sÜ. + TP chính : Chí Phèo, Trăng sáng, Đời thừa, Lão Hạc, Một đám cới, …Sống mßn(1944), §«i m¾t(1948), tËp nhËt kÝ ë rõng (1948)… - Nam Cao đợc tặng Giải thởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật đợt 1 năm 1996. b/ T¸c phÈm :.
<span class='text_page_counter'>(37)</span> - Lµ mét trong nh÷ng truyÖn ng¾n xuÊt s¾c cña Nam Cao viÕt vÒ ngêi n«ng d©n nghÌo, ®¨ng b¸o lÇn ®Çu n¨m 1943. - Đoạn trích nằm ở phần cuối của truyện, kể chuyện lão Hạc sau khi đã dằn lòng bán đi “cËu Vµng” th©n thiÕt. * Nh©n vËt l·o H¹c : - Lão Hạc gắn với đề tài ngời nông dân nghèo trong Xh cũ, với bi kịch chính là tình tr¹ng bÞ huû ho¹i, xãi mßn vÒ nh©n c¸ch, bÞ bÇn cïng ho¸ vµ lu manh ho¸. -Tâm trạng của lão Hạc khi bán chó là diễn giải một quá trình đấu tranh vật vã để vợt qua áp lực hiện thực , quyết giữ phẩm chất lơng thiện của mình -> qua đó cũng hiện lên vẻ đẹp đáng quí trong tâm hồn ngời nông dân . + Kh¸i qu¸t vÒ cuéc sèng l·o H¹c : -Nghèo khổ , cô đơn , tuổi già chỉ làm bạn với con chó – cậu Vàng . -T×nh c¶m víi cËu Vµng ph¶n chiÕu t×nh yªu th¬ng cña l·o víi ngêi con trai ph¶i b¸n thân vào đồn điền cao su . -Lão phải đối mặt với cuộc sống hàng ngày càng khó khăn , đói kém .Vioệc quyết định bán cậu Vàng là bất đắc dĩ nhng lão không đủ sức nuôi và cũng không muốn xâm phạm vào số tiền dành dụm đợc với hi vọng ngày con trai lão trở về có tiền để cới vợ .Lão nghĩ tiêu một đồng là tiêu vào tiền của con mà điều đó thì lão không bao giờ muốn .Một suy nghĩ giản đơn nhng hàm chứa một sự hi sinh cao cả , bản thân lão không hề nghĩ gì cho bản thân trớc tình cảnh đói deo ,đói dắt mà dồn hết tình thơng cho đứa con khốn khổ tha h¬ng . -> Đó là hành động của một ngời cha giàu tình yêu thơng con : hi sinh cuộc sống vì con . + T©m tr¹ng cña l·o H¹c sau khi b¸n chã : -L·o ®au khæ , ©n hËn v× trãt lõa mét con chã . -Lão tủi nhục , đau đớn cho kiếp ngời khốn khổ . -QuyÕt b¶o vÖ m¶nh vên vµ ng«i nhµ , trao göi niÒm tin vµo «ng gi¸o , ngêi hiÓu vµ th«ng c¶m víi l·o . -> TÝnh c¸ch cña nh÷ng ngêi n«ng d©n nghÌo khæ mµ nh©n hËu , t×nh nghÜa , trung thùc vµ giµu lßng vÞ tha . + C¸i chÕt d÷ déi cña l·o H¹c ; -Sự hiểu nhầm của ông giáo đối với lão Hạc , lão có thể nh ai , làm những việc bất lơng khi rơi vào con đờng cùng quẫn . Sự thực là lão tự trừng phạt mình sau hành động lừa dối cậu Vàng : tìm đến cái chết bằng bả chó ; cái chết đau đớn quằn quại nh một con chã . -Lão tìm đến cái chết nh một lối thoát , để giữ mình không bị lôi vào vực thẳm của sự tha hoá nhân cách . Ông giáo chứng kiến một sự thực đau đớn , tàn nhẫn nhng đã hiểu đợc phẩm chất cao quí của lão Hạc .cái chết đau đớn của lão Hạc tạo nên một sức ám ảnh ghê gớm về số phận cơ cực đáng thơng của những ngời nông dân nghèo ở những năm đen tèi tríc c¸ch m¹ng th¸ng T¸m . => Truyện ngắn Lão Hạc đã thể hiện một cách chân thực , cảm động số phận đau thơnmg của ngời nông dân trong XH cũ và phẩm chất cao quý tiềm tàng của họ . Đồng thời truyện còn cho thấy tấm lòng yêu thơng , trân trọng đối với ngời nông dân và tài năng nghệ thuật xuất sắc của nhà văn Nam Cao , đặc biệt trong việc miêu tả tâm lí nhân vật và c¸ch kÓ chuyÖn . A. Giá trị nội dung.
<span class='text_page_counter'>(38)</span> 1 Tình cảnh cùng khổ và số phận bi đát của người nông dân trước cách mạng tháng Tám. a.Cũng như bao người nông dân khác, cuộc đời lão Hạc bị vây bủa trong sự nghèo đói. Đã nghèo, lại góa vợ, lão Hạc lầm vào cảnh một thân gà trống nuôi con. - Không có ruộng cầy, toàn bộ gia tài của lão chỉ là một con chó và một mảnh vườn. Mảnh vườn ấy có được là do vợ lão cố thắt lưng buộc bụng, dè sẻn mãi mới để ra được năm mươi đồng bạc tậu ». Đó là mảnh vườn còm cõi, hoa màu của nó cũng chỉ đủ để lão « bòn mót ». Cho nên lão phải làm thuê làm mướn, đem sức mình đổi lấy miếng ăn. => Đó là tất cả cuộc đời lão đã khiến lão thấm thía cái kiếp nghèo tủi nhục của mình, mà có lần lão đã chua xót thốt lên rằng : « nó chỉ nhỉnh hơn cái kiếp của một con chó » b. Mất con - Chính cái nghèo đã kiến cho lão Hạc trở thành người cha phải bó tay trước hạnh phúc không thành của người con trai độc nhất. Cái nghèo không cho lão dựng vợ cho con để trọn cái đạo làm cha. Anh con trai vì không đủ tiền cưới vợ đã phẫn chỉ bỏ đi đồn điền cao su tận Nam Kì biền biệt 5,6 năm chưa về. Thế là cái nghèo lại cướp nốt đứa con trai của lão. Lão vô cùng đau xót về điều này, kể lại chuyện với ông giáo mà nước mắt rân rấn : « Thẻ của nó người ta giữ. Hình của nó người ta chụp rồi. Nó lại đã lấy tiền của người ta. Nó là người của người ta rồi, chứ đâu còn là con tôi ». Câu nói của lão nhói lên một nỗi đau, bởi nó đã khái quát cả một cảnh đời cùng khổ một số phận thảm thương của người nông dân trong chế độ cũ. c.Bán chó : - Anh con trai đi biền biệt, lão sống thui thủi, trơ trợ một mình trong nỗi bất hạnh ngày thêm chồng chất. Chỉ có con chó là bầu bạn sớm tối, con chó thành « cậu Vàng », thành một người trong nhà lão. « Con chó là của cháu nó mua đấy chứ ». Lão vẫn không quên con chó là kỉ vật thiêng liêng, là tài sản của đứa con trai. Có một mối dây liên lạc rất lạ lùng giữa lão Hạc, con chó và đứa con trai vắng mặt. Cho nên, có bao nhiêu niềm thương, nỗi nhớ chất chứa trong lòng, lão dồn hết vào con chó. Lão yêu quý «cậu vàng » như con, như cháu tưởng như không thể nào có thể rời xa nó, tưởng như cuộc đời lão không thể thiếu nó. -Vậy mà, tình cảnh đói nghèo khốn quẫn đã buộc lão phải chia tay với nó. Lão bị ốm một trận kéo dài 2 tháng 18 ngày, không một người thân bên cạnh đỡ đần, săn sóc cho một bát cháo, hay một chén thuốc ! Tình cảnh ấy thật đáng thương ! Tiếp theo một trận bão to, cây cối, hoa màu trong vườn bị phá sạch sành sanh. Làng mất nghề sợi. Đàn bà congái trong làng đi làm thuê rất nhiều, giành hết mọi việc. Sau trận ốm, lão Hạc yếu hẳn đi, chẳng ai thuê lão đi làm nữa. Lão Hạc thành ra thất nghiêp.Thóc cao, gạo kém, sức cùng, lực kiệt, lão Hạc đành phải bán con chó mà lão rất yêu quý. Bán con chó là bán đi niềm vui, niềm an ủi cuối cùng của lão. Lão đã đắn đo, do dự mãi khi quyết định bán con chó. - Và khi buộc lòng phải bán nó lão vô cùng đau đớn. Bán nó xong, lão Hạc bị đẩy sâu xuống đáy vực bi thảm. Lão cảm thấy mình là một kẻ « tệ lắm », đã già mà còn đánh lừa một con chó ». Kể lại chuyện bán chó với ông giáo mà « Lão cố làm ra vui vẻ. Nhưng trông lão cười như mếu và đôi mắt ầng ậc nước ». Lão tự nhận là một kẻ bất nhân, là tên lừa đảo đối với một con chó vốn tin yêu mình. Có lẽ đây là giây phút đau đớn nhất trong cuộc đời lão, khiến cho « mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau,.
<span class='text_page_counter'>(39)</span> ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoeo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc.. » => Cuộc đời lão Hạc là một dòng nước mắt chảy dài của những nỗi đau bất lực. Nước mắt lão khi thì « rân rấn », lúc « ầng ậng », cả khi « cười cũng như mếu ». Nước mắt ấy dường như đã cạn kiệt trong cuộc đời khổ đau, tủi cực của lão. Cho nên khi khóc, « mặt lão đột nhiên co rúm lại ». Những vết nhăn xô lại với nhau ép cho nước mắt chảy ra ». Nhiều người cho rằng đây là cái tài miêu tả cuả Nam Cao, nhưng trước hết đó là cái tình của nhà văn đối với kiếp người tủi cực trong chế độ cũ. Không có một sự cảm thông sâu sắc, không có một tình xót thương chân thành, không thể vẽ lên một nỗi đau hằn sâu trên khuôn mặt lão Hạc như vậy. Một nét vẽ mà như cô đúc cả một cảnh đời, một kiếp người trong xã hội cũ. d.Cái chết - Nhưng thê thảm nhất vẫn là cái chết của lão Hạc sau những ngày ăn khoai, ăn củ chuối, sung luộc, rau má, củ ráy, hay bữa trai, bữa ốc... để rồi cuối cùng lão đã ăn bả chó mà chết. Dĩ nhiên, lão lựa chọn cái chết ấy là vì đứa con trai nhưng suy cho cùng thì chính tình cảnh khốn quẫn, sự đói khổ đã đẩy lão đến bước đường cùng phải chết. - Đó là một cái chết thật là dữ dội và cũng vô cùng bi thảm : « Lão Hạc đang vật vã ở trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc. Lão tru tréo, bọt mép sùi ra, khắp người chốc chốc lại bị giật mạnh một cái, nảy lên... Lão vật vã đến hai giờ đồng hồ mới chết. => Như vậy, nghèo khổ đã đẻ nặng lên cuộc đời làm thuê làm mướn khiến cho lão sức cùng lực kiệt ; nghèo khổ lại cướp nốt đứa con trai của lão ; cướp nốt cả « cậu vàng » thân yêu, niềm an ủi cuối cùng của lão ; và nghèo khổ lại đẩy lão đến cái chết đau đớn và thảm khốc như chưa từng thấy. Cái chết ấy đã kết thúc một cảnh đời tủi cực và một số phận bi đát của người nông dân trước cách mạng tháng Tám. Cuộc sống cùng khốn và cái chết bi thương của lão Hạc đã nói lên thấm thía số phận thê thảm của người nông dân lao động trong xã hội tăm tối đương thời. Không chỉ là nỗi đau, cái chết ấy còn là một lời tố cáo sâu sắc và mạnh mẽ cái chế độ tàn ác, bất nhân đã gây nên những cảnh đời thê thảm như lão Hạc. Với chủ nghĩa nhân đạo thống thiết, Nam Cao đã nói lên bao tình thương xót đối với những con người đau khổ, bế tắc phải tìm đến cái chết thê thảm. Chí Phèo tự sát bằng một mũi dao, Lang Rận thắt cổ chết.... và lão Hạc đã quyên sinh bằng bả chó. Lão Hạc đã từng hỏi ông giáo : « Nếu kiếp người cũng khổ nốt thì ta nên làm kiếp gì cho thật sướng ? Câu hỏi ấy đã thể hiện nỗi đau khổ tột cùng của một kiếp người. * Số phận anh con trai lão- nhân vật không xuất hiện, chỉ hiện ra trong nỗi nhớ của lão Hạc- cũng thật đáng thương : chỉ vì quá nghèo mà cô gái anh yêu thương trở thành vợ kẻ khác ; anh phẫn chí ra đi nuôi mộng « cố chí làm ăn, bao giờ có bạc trăm mới về », không có tiền, sống khổ sống sở ở cái làng này nhục lắm ». Nhưng, thật tội nghiệp, cái nơi mà anh ta tìm đến với hi vọng làm giầu lại là đồn điền cao su Nam Kì, một địa ngục trần gian, thân phận phu cao su chỉ là thân phận nô lệ. Còn lão Hạc thì cứ mong con mỏi mắt suốt tận ngày cuối đời... 2. Vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách cao cả của lão Hạc. Chính trong cảnh đời thê thảm ấy, ta lại thấy bừng sáng lên một vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách cao cả của lão Hạc. Lão Hạc sống lủi thủi, thầm lặng, bề ngoài lão có vẻ như lẩm cẩm, gàn dở ; vợ ông giáo cũng chẳng ưa gì lão : « cho lão chết ! Ai bảo lão có tiền.
<span class='text_page_counter'>(40)</span> mà chịu khổ ? Lão làm lão khổ chứ ai làm lão khổ ! » Chính ông giáo cũng có lúc từng nghĩ là lão « quá nhiều tự ái », còn Binh Từ thì « bĩu môi nhận xét : Lão làm bộ đấy ! thật ra thì lão chỉ tẩm ngẩm thế, nhưng cũng ra phết chứ chả vừa đâu ! » Nhưng kì thực lão Hạc có một nhân cách hết sức cao quý mà bề ngoài không dễ thấy. Đằng sau « manh áo rách » là một tấm lòng vàng ». Nó được thể hiện qua tấm lòng của lão đối với con trai, đối với « cậu Vàng », qua việc gửi gắm vườn tược, tiền bạc cho ông giáo và nhất là qua cái chết thảm khốc mà lão đã lựa chọn cho chính mình. a. Lão Hạc, một con người chất phác, hiền lành và nhân hậu vô cùng * Cái tình của lão đối với « cậu Vàng » thật là hiếm có, đặc biệt và Nam Cao đã ghi lại tỏng những dòng chữ xúc động. + Bởi không còn là con chó thường, cậu “vàng” đã trở thành người thân, niềm vui, niềm an ủi đối với cuộc sống cô đơn, lủi thủi một mình của lão. + Lão “gọi nó là cậu Vàng như bà mẹ hiếm hoi gọi đứa con cầu tự. Thỉnh thoảng không có việc gì làm, lão lại bắt rận cho nó hay đem nó ra ao tắm, cho nó ăn cơm trong một cái bát như một nhà giầu (…) Lão cứ nhắm vài miếng lại gắp cho nó một miếng như người ta gắp thức ăn cho con trẻ. + Rồi lão chửi yêu nó, lão nói với nó như nói với một đứa cháu bé về bố nó”. Đoạn lão nói chuyện với cậu Vàng về việc « định giết cậu để cưới vợ cho con trai rồi lại không giết nữa, để nuôi » đã bộc lộ sâu sắc tình cảm của lão Hạc đối với con chó thân yêu. => Có thể nói, cậu Vàng được lão Hạc chăm sóc, nuôi nấng như con, như cháu. Nó là nguồn vui, chỗ dựa tinh thần, nơi san sẻ tình thương, giúp lão Hạc vợi đi ít nhiều nỗi buồn cô đơn, cay đắng. Cậu Vàng là một phần cuộc đời lão Hạc. Nó đã toả sáng tâm hồn và làm ánh lên bản tính tốt đẹp của lão nông đau khổ, bất hạnh này. Vì thế, sau khi bán cậu Vàng đi, từ túng quấn, lão Hạc chìm xuống đáy bể bi kịch, dẫn đến cái chết vô cùng thảm thương. + Tình thế cùng đường khiến lão phải tính đến việc bán “cậu Vàng” thì trong lão diễn ra một sự dằn vặt đau khổ. Lão kể lại cho ông giáo việc bán “cậu vàng” với tâm trạng vô cùng đau đớn: “lão cười như mếu, đôi mắt ầng ậc nước”. Đến nỗi ông giáo thương lão quá “muốn ôm chầm lấy lão mà oà lên khóc”. Khi nhắc đến việc cậu Vàng bị lừa rồi bị bắt, lão Hạc không còn nén nổi nỗi đau đớn cứ dội lên : “mặt lão đột nhiên co dúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc. Lão Hạc đau đớn đến thế không phải chỉ vì quá thương con chó, mà còn vì lão không thể tha thứ cho mình vì đã nỡ lừa con chó trung thành của lão. Ông lão “quá lương thiện” ấy cảm thấy lương tâm đau nhói khi thấy trong đôi mắt của con chó bất ngờ bị trói có cái nhìn trách móc… Thì ra tôi già bằng này tuổi đầu rồi còn đánh lừa một con chó, nó không ngờ tôi nỡ tâm lừa nó. Phải có trái tim vô cùng nhân hậu và trong sạch thì mới bị dày vò lương tâm đau đớn đến thế, mới cảm thấy có lỗi với một con chó như vậy. b. Tấm lòng người cha ở lão Hạc đối với anh con trai mới thực cảm động, làm nên tâm sự chính của nhân vật và mạch truyện chủ yếu của tác phẩm. Nó liên quan đến cái tình của lão đối với cậu vàng, đến việc lão gửi gắm nhờ gửi ông giáo, và giải thích rõ cái chết thảm khốc của lão ở cuối truyện. Đó là tấm lòng của người cha thương con, suốt cả cuộc đời lo lắng cho con và sẵn sàng hi sinh tất cả- kể cả tính mạng – cho đứa con thân.
<span class='text_page_counter'>(41)</span> yêu của mình. Nam Cao đã thấu hiểu cái tình cha con, thiêng liêng, sâu sắc đó ở người lão nông nghèo khổ này và đã diễn tả thật cảm động trên từng trang viết của tác phẩm. + Đầu tiên là việc anh con trai tính chuyện bán vườn để lo cưới vợ nhưng nghe lời bố, lại thôi. Thấy con buồn, lão Hạc « thương con lắm, nhưng biết làm sao được ?... » Đó là tình thương đầy bất lực của một người cha nghèo. + Sau đó, anh con trai « sinh phẫn chí », bỏ làng, lìa cha, kí giấy đi làm dồn điền cao su. Đứa con trai độc nhất của lão đã bị cái nghèo cướp nốt, lão vô cùng đau đớn. Nỗi đau mất con khiến lão « chỉ còn biết khóc chứ biết làm thế nào nữa ? Bởi « nó là người của người ta rồi, chứ đâu còn là con tôi ». Lão Hạc kể lại chuyện khóc con, giống như lão đang khóc, đang đau nỗi đau xé ruột của người cha hoàn toàn bất lực khi thấy con trai tuột ra khỏi tay mình để trở thành người của người ta. + Trong nỗi đau ấy, khi chỉ còn sống cô đơn, thủi thủi một mình thì lão Hạc đã biết chọn một cách sống cho con, vì con. Đó là cách sống không tính đến bản thân mình, khiến cho tình yêu thương và lòng nhân hậu của lão đã hoá thành một nhân cách làm người, nhân cách làm cha. Ta thấy trong từng nếp nghĩ của lão bao giờ cũng thấm đẫm đức hy sinh cao cả. Trước khi đi phu, anh con trai dặn bố : « bòn vườn đất với làm thuê làm mướn cho người ta thế nào cũng đủ ăn ». Nhưng lão đã tự xóa đi cái quyền sở hữu của mình đối với mảnh vườn ấy : « cái vườn là của con ta (...) của mẹ nó tậu thì nó hưởng. Lớp trước ta không bán là ta có ý giữ cho nó chứ có phải giữ để ta ăn đâu ! ». Cho nên, lão làm thuê làm mướn để kiếm ăn. Hoa lợi của khu vườn được bao nhiêu, lão để riêng ra. Lão chắc mẩm, thế nào đến lúc con lão trở về cũng có được một trăm đồng bạc. Lão tính tiền ấy lão sẽ thêm vào cho con cưới vợ, nếu con đã đủ tiền cưới vợ thì cho nó để có chút vốn mà làm ăn. Thương con mà vị tha, hi sinh như thế thì đó chính là lòng thương con mộc mạc, cụ thể mà cao cả biết bao của những người lao động nghèo, ngay cả khi họ phải sống khốn quẫn nhất trong xã hội cũ. Đến cả chuyện buộc phải bán chó, thì không phải chỉ vì không nuôi nổi nó, mà cái chính vẫn là vì con : « bây giờ tiêu một xu cũng là tiêu vào tiền của cháu. Tiêu lắm chỉ chết nó ». + Nhưng cái chết mới là đỉnh cao của đức hy sinh, lòng vị tha-mà ở đây chính là tình thương yêu sâu sắc của lão Hạc đối với đứa con trai. - Hoàn cảnh ngày càng cùng cực đã đẩy lão tới một sự lựa chọn đầy nghiệt ngã, bi đát : tiếp tục kéo dài sự sống tàn để trở thành kẻ báo hại cho con hay là chết đi để trọn đạo làm người, trọn đạo làm cha. Và lão đã chọn cái chết, không phải cho xong đời mình, mà chết cho con, vì con. +Lão đã âm thầm chuẩn bị cho cái chết từ lúc quyết định bán con chó, bán đi niềm vui, niềm an ủi cuối cùng của đời mình ; từ khi gửi gắm vườn tược, tiền bạc cho ông giáo ; và cả những lúc ăn sung luộc, ăn củ ráy... để cuối cùng lão quyết định xin Binh Tư bả chó !... Có nỗi đau bán chó, có sự chu đáo và cẩn trọng trong việc gửi gắm nhờ vả ông gia,s có sự nhịn ăn mấy ngày liền thì mới có việc xin bả chó để tự kết liễu đời mình. Có nghĩa là lão đã chuẩn bị chu đáo mọi việc cho con (và cả cho mình nữa) để sắn sàng đi vào một cái chết thật dữ dội và bi thảm. Tất cả vì con, một sự hi sinh thầm lặng cực kì to lớn ! => Lão Hạc là một nông dân không được học hành, không có chữ nghĩa, càng không biết nhiều lí luận về tình phụ tử. Nhưng cái chết dữ dội của lão là bằng chứng cảm động về cái tình phụ tử nguyên sơ, mộc mạc, nhưng thăm thẳm, thiêng liêng biết chừng nào..
<span class='text_page_counter'>(42)</span> c. Lão Hạc là một nông dân nghèo khổ mà trong sạch, giầu lòng tự trọng. - Lão Hạc đã tìm đến cái chết mặc dù trong tay vẫn còn mấy chục bạc (không kể vẫn còn mảnh vườn đáng giá mà không ít kẻ nhòm ngó) - Bất đắc dĩ phải bán con chó ; bán xong rồi, lão đau đớn, lương tâm dằn vặt « thì ra tôi già bằng này tuổi đầu rồi còn đánh lừa một con chó ». - Ba sào vườn gửi lại nguyên vẹn cho con trai như một lời nguyền đinh ninh : « Cái vườn là của con ta (...) của mẹ nó tậu thì nó hưởng ». Trước khi chết, lão gửi lại ông giáo mảnh vườn cho con, và gửi lại 30 đồng hàng xóm. Lão thà nhịn đói chứ không tiêu xu nào vào món tiền mà lão cậy ông giáo cầm giúp đó. - Với lòng tự trọng cao độ và nhân cách hết sức trong sạch, lão Hạc không muốn hàng xóm nghèo phải phiền luỵ về cái xác già của mình, đã gửi lại ông giáo toàn bộ số tiền dành dụm bằng nhịn ăn, nhịn tiêu của lão, để nhờ ông giáo đưa ra nói với bà con hàng xóm lo giúp cho lão khi lão chết. Khi đã đem gửi hết đồng tiền cuối cùng, lão chỉ còn ăn uống đói khát qua bữa, bằng khoai ráy, củ chuối, rau má..., nhưng lại kiên quyết từ chối mọi sự giúp đỡ của người khác, kể cả sự giúp đỡ của ông giáo mà chắc lão hiểu là rất thân tình. - Nam Cao đã tinh tế đưa nhân vật Binh Tư, một kẻ « làm nghề ăn trộm » ở phần cuối truyện, tạo nên một sự đối sánh đặc sắc, làm nổi bật tấm lòng trong sạch, tự trọng của lão Hạc, một lão nông chân quê đáng trọng. Lão Hạc dù nghèo đói vẫn quyết sống bằng bàn tay lao động của mình trong khi ở xã hội đó có nhiều người đã bị ngã quỵ trước bản năng (cái đói và miếng ăn) như Chí Phèo, Binh Tư... Lang Rận... Với cái chết đau đớn dữ dội mà lão Hạc tự chọn, ra đi vẫn giữ được tâm hồn thanh thản, nhân cách trong sạch, lão Hạc đã trở thành một vị thánh. Là một ông già nông dân cùng khổ, lão Hạc đã thể hiện một khí tiết cao quý, có thức thức nhân phẩm rất cao. Lão Hạc là con người của câu tục ngữ : « đói cho sạch, rách cho thơm », « thà thác trong còn hơn sống đục ». Đó cũng là một nét nhân cách đáng trọng của người lao động nghèo. => Tóm lại, cuộc đời của lão Hạc đầy nước mắt, nhiều đau khổ và bất hạnh. Sống thì âm thầm, nghèo đói, cô đơn ; chết thì quằn quại, đau đớn. Tuy thế, lão Hạc lại có bao phẩm chất tốt đẹp như hiền lành, chất phác, nhân hậu, trong sạch và tự trọng... Lão Hạc là một điển hình về người nông dân Việt Nam trong xã hội cũ được Nam Cao miêu tả chân thực, với bao trân trọng, xót thương, thấm đượm một tinh thần nhân đạo thống thiết. 3. Nhân vật «Tôi »- người kể chuyện (cũng chính là tác giả, tuy vậy không nên đồng nhất hoàn toàn với nhân vật về nguyên mẫu). - Bên cạnh nhân vật lão Hạc là ông giáo, một nhân vật để lai bao ấn tượng đối với mỗi chúng ta về người trí thức nghèo trong xã hội cũ. - Không rõ họ tên là gì. Hai tiếng « ông giáo » đã khẳng định vị thế của một con người giữa làng quê trước năm 1945 « nhiều chữ nghĩa, nhiều lí luận, người ta kiêng nể ». Hai tiếng « ông giáo » từ miệng lão Hạc nói ra, lúc nào cũng đượm vẻ thân tình, cung kính, trọng vọng : « cậu vàng đi đời rồi ông giáo ạ !... « Vâng, ông giáo dạy phải ! Đối với chúng mình thì thế là sung sướng »... « Tôi cắn rơm, cắn cổ lạy ông giáo ».... - Hãy đi ngược thời gian, tìm về thời trai trẻ của ông giáo. Là một con người chăm chỉ, ham mê, sống vì một lý tưởng đẹp, với bao mộng tưởng. Ông đã từng lặn lội vào tận Sài Gòn, « hòn ngọc Viễn Đông » thời ấy để làm ăn, để học tập, để gây dựng sự nghiệp. Cái.
<span class='text_page_counter'>(43)</span> va li « đựng toàn những sách » được người thanh niên ấy rất nâng niu », cái kỉ niệm « đầy những say mê đẹp và cao vọng » ấy, hơn sáu chục năm còn làm cho ta xúc động và quý trọng một nhân cách đẹp. - Con người « nhiều chữ nghĩa » ấy lại nghèo. Sau một trận ốm nặng ở Sài Gòn, quần áo bán gần hết, về quê chỉ có một va li sách. Nếu lão Hạc quý cậu Vàng bao nhiêu thì ông giáo lại quý những quyển sách của mình bấy nhiêu. Bởi lẽ những quyển sách ấy đã làm bứng lên trong lòng ông « như một rạng đông » thời trai trẻ, làm cho cuộc đời thêm sắc màu ý vị, sống say mê, « trong trẻo, biết yêu và biết ghét » - Cái nghèo vẫn đeo đẳng ông giáo mãi, « ông giáo khổ trường tư ». Vận hạn xẩy ra luôn như ông nghĩ : « Đời người ta không chỉ khổ một lần ». Sách cứ bán dần đi. Chỉ còn giữ lại 5 quyển sách với lời nguyền : « dù có phải chết cũng không bán ». Như một kẻ cùng đường phải bán máu. Đứa con thơ bị chứng kiết lị gần kiệt sức, ông giáo đã phải bán nốt đi 5 cuốn sách cuối cùng, cái gia tài quý giá nhất của người trí thức nghèo. « Lão Hạc ơi ! Ta có quyền giữ cho ta một tí gì đâu ? » Lời than ấy cất lên nghe thật não nuột, đã thể hiện một nhân cách đẹp trước sự khốn cùng : biết sống, và dám hi sinh vì cuộc sống ! - Ông giáo là một trí thức có trái tim nhân hậu rất đáng quý. Ông là chỗ dựa tinh thần, là niềm an ủi, tin cậy của lão Hạc. Ông giáo là nơi để lão Hạc san sẻ bao nỗi đau, nỗi buồn. Nhờ đọc hộ một lá thư, nhờ viết hộ một lá thư cho đứa con trai đi phu đồn điền. Tâm sự về mảnh vườn và và chuyện đứa con trai « phẫn cí » không lấy được vợ. San sẻ về nỗi đau buồn sau khi bán cậu Vàng cho thằng Mục, thằng Xiên... Có lúc là một điếu thuốc lào, một bát nước chè xanh, một củ khoai lang « lúc tắt lửa tối đèn có nhau ». Ông giáo đã đồng cảm, đã thương xót, đã san sẻ với lão Hạc với tất cả tình người. Ai đã từng là độc giả của Nam Cao, chắc sẽ không bao giờ quên mẩu đối thoại này : - Tôi bùi ngùi nhìn lão, bảo : - Kiếp ai cũng thế thôi, cụ ạ ! Cụ tưởng tôi sung sướng hơn chăng ? - Thế thì không biết nếu kiếp người cũng khổ nốt thì ta nên làm kiếp gì cho thật sướng ? Lão cười và ho sòng sọc. Tôi nắm lấy cái vai gầy của lão, ôn tồn bảo : - Chẳng kiếp gì sung sướng thật, nhưng có cái này là sung sướng : bây giờ cụ ngồi xuống phải này chơi, tôi đi luộc mấy củ khoai lang, nấu một ấm chè tươi thật đặc : ông con mình ăn khoai, uống nước chè, rồi hút thuốc lào... Thế là sướng. - Vâng ! Ông giáo dậy phải ! Đối với chúng mình thì thế là sung sướng ». - Ông giáo đã thương lão Hạc « như thể thương thân ». Không chỉ an ủi, động viên, mà ông còn tìm mọi cách để « ngấm ngầm giúp » khi biết lão Hạc đã nhiều ngày ăn khoai, ăn rau, ăn củ ráy... trong lúc đàn con của ông giáo cũng đang đói ; cái nghĩa cử « lá lành đùm lá rách » ấy mới thật cao đẹp biết bao ! - Ông giáo nghèo mà đức độ lắm. Trước khi ăn bả chó, lão Hạc đã gửi ông giáo 30 đồng để phòng khi chết « gọi là của lão có tí chút.. », gửi lại ông giáo ba sào vườn cho đứa con trai. Tình tiết ấy nói lên lão Hạc rất tin ông giáo. Ông giáo là người để lão Hạc « chọn mặt gửi vàng ». Giữa cái xã hội đen bạc thời ấy, một bà cô dành cho đứa cháu nội một bát nước cháo đã vữa ra như một sự bố thí (Những ngày thơ ấu), vợ tên địa chủ bắt bí, bóp nặn người đàn bà khốn cùng để mua rẻ đứa con gái lên bảy tuổi và ổ chó (Tắt.
<span class='text_page_counter'>(44)</span> đèn), một tên phụ mẫu ăn bẩn đồng hào đôi của chị nhà quê (Đồng hào có ma)... ta mới thấy niềm tin, sự kính trọng của kẻ khốn cùng đối với ông giáo thật là thánh thiện. - Trước cái chết dữ dội của Lão Hạc, cái chết « đau đớn và bất lình lình », chỉ có ông giáo và Binh Tư hiểu... Ông giáo khẽ cất lời than trước vong linh người láng giềng hiền lành tội nghiệp. Trong giọt lệ là những lời hứa của một nhân cách cao đẹp, đáng trọng : « Lão Hạc ơi ! Lão Hạc ơi ! Lão hãy yên lòng mà nhắm mắt ! Lão đừng lo gì cho cái vườn của lão. Tôi sẽ cố giữ gìn cho lão. Đến khi con trai lão về, tôi sẽ trao lại cho hắn và bảo hắn : Đây là cái vườn mà ông cụ thân sinh ra anh đã cố để lại cho anh trọn vẹn ; cụ thà chết chứ không chịu bán đi một sào... » - Cùng chung với ông giáo Thứ trong « sống mòn », Điền trong « Trăng sáng », nhân vật « tôi » trong « mua nhà », hình ảnh ông giáo trong truyện « lão Hạc » đã kết tinh cái tâm và cái tài của Nam Cao trong nghệ thuật xây dựng nân vật- nhà văn nghèo, ông giáo khổ trường tư- trong xã hội thực dân nửa phong kiến. Đó là những con người nghèo mà trong sạch, hăm hở và nhiệt tâm từng ôm ấp bao mộng đẹp, sống nhân hậu, vị tha. Có người đã cho rằng, ông giáo là một nhân vật tự truyện, mang dáng dấp hình bóng Nam Cao. Ý kiến ấy rất lí thú. - Trong truyện « Lão Hạc », ông giáo vừa là nhân vật, vừa là người dẫn chuyện. Không phải là nhân vật trung tâm, nhưng sự hiện diện của ông giáo đã làm cho « bức tranh quê » ngày xa xưa ấy thêm sáng tỏ. Nhân vật ông giáo là chiếc gương soi sáng cuộc đời và tâm hồn lão Hạc, đã tô đậm giá trị nhân đạo của truyện ngắn đặc sắc này. 4. Cách nhìn người của nhà văn Nam Cao. Nam Cao đã phát biểu suy nghĩ về cách nhìn người : «Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu không cố tìm và hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi... toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn, không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương ; không bao giờ ta thương (...) Cái bản tính tốt củ người ta bị những nỗi lo lắng buồn đau, ích kỉ che lấp mất » - Suy nghĩ của nhân vật «tôi» trên đây chính là một điểm quan trọng trong ý thức sáng tác của nhà văn Nam Cao. Đó chính là vấn đề mà sau này Nam Cao gọi là « Đôi mắt » ; phải xác định « đôi mắt » đúng đắn trong cách nhìn về quần chúng nghèo khổ. Trong « Lão Hạc », nhà văn cho rằng đối với người nông dân lao động thì phải « cố mà tìm hiểu họ » thì mới thấy rằng chính những con người bề ngoài lắm khi « gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi » ấy chỉ là « những người đáng thương » và có « bản tính tốt », có điều, « cái bản tính tốt » ấy của họ thường bị những nỗi khổ cực, những lo lắng trong cuộc sống « che lấp mất ». Tức là, nhà văn đặt ra vấn đề phải có tình thương, có sự cảm thông, và phải có cách nhìn có chiều sâu, không hời hợt, phiến diện chỉ thấy cái bề ngoài, nhất là không thành kiến, tàn nhẫn. Có thể nói, chẳng những trong « Lão Hạc » mà trong cả « Chí Phèo », « Lang Rận », « một bữa no », « Tư cách mõ »... và hầu hết truyện dài của Nam Cao, nhà văn đều đặt ra vấn đề « đôi mắt ». Ông chính là luật sư đứng ra bênh vực cho một Chí Phèo, một anh Cu Lộ, một Lang Rận, một bà cái Tí, khẳng định rằng họ đều có tình cản rất « đáng thương » và đều « bản tính tốt », nhưng chính cuộc đời quá khắc nghiệt đã đẩy họ vào con đường lưu manh hoặc làm những việc xấu xa... Sau cách mạng, trong truyện ngắn « Đôi mắt » (1948), Nam Cao đã trực diện đặt ra vấn đề cần xác định « đôi mắt » đúng đắn để thấy được bản chất cách mạng của quần chúng nông dân đang là chủ lực của cuộc kháng chiến chống Pháp khi đó..
<span class='text_page_counter'>(45)</span> Cho nên, có thể nói, vấn đề « đôi mắt » là một đặc điểm quan trọng trong quan điểm sáng tác của Nam Cao, trở thành ý thức nghệ thuật thường trực trong suốt cuộc đời cầm bút của nhà văn có tấm lòng gắn bó sâu nặng với nhân dân. B. Giá trị nghệ thuật đặc sắc của truyện « Lão Hạc » là một trong những truyện ngắn hay nhất của cây bút truyện ngắn bậc thầy Nam Cao. Tài nghệ bậc thầy đó thể hiện ở nhiều khía cạnh và có những điểm nổi bật sau : - Xây dựng nhân vật : + Không được miêu tả thật kĩ về ngoại hình, cũng không có nhiều hành động, song được tập trung soi sáng từ bên trong. + Tác giả đã đi sâu vào những tâm tư, những lo tính của lão Hạc chung quanh việc bán « cậu Vàng » và việc lặng lẽ chuẩn bị cho cái chết, chính từ đó mà số phận đau thương, tính cách độc đáo của nhân vật hiện ra thật rõ nét. Nhân vật lão Hạc chân thực, sinh động, có bề dầy xã hội và đồng thời có cá tính độc đáo, chủ yếu được nhà văn khắc hoạ bằng miêu tả tâm lý. Chẳng hạn, qua cản lão Hạc trò chuyện với « cậu Vàng », có thể thấy rõ cảnh sống cô đơn của lão, chất người trung hậu ( thể hiện qua thái độ âu yếm, chiều chuộng đối với cậu Vàng) và tình thương sâu nặng đối với đứa con trai đang ở xa. Hoặc những chi tiết thể hiện phản ứng tâm lí của lão Hạc xung quanh việc mà lão cho rằng đã « lừa cậu Vàng » : đau đớn, chua xót, hối hận, đã cho thấy rất rõ tâm hồn, tính cách ông lão nông dân nhân hậu, đáng thương ấy. - Cách dựng truyện, bút pháp trần thuật linh hoạt, mới mẻ. Tác giả đi thằng vào giữa truyện ( cảnh lão Hạc nói chuyện với « tôi » về việc sẽ phải bán « cậu Vàng ») rồi mới nhẩn nhà đi ngược thời gian, kể về cảnh ngộ nhân vật, từ chuyện « con chó là của cháu nó mua đấy » chuyển sang chuyện anh con trai đã bỏ đi phu, để lại lão Hạc sống cô đơn và giờ đây đang lâm cảnh cùng đường... Cách dẫn chuyện rất thoải mái, tự nhiên, có vẻ lỏng lẻo song kì thật thật chặt chẽ, tập trung, khắc hoạ nhân vật và thể hiện chủ đề. - Truyện rất mực chân thực, đồng thời thấm đượm cảm xúc trữ tình. Qua nhân vật « Tôi », người kể chuyện, tác giả đã biểu lộ tự nhiên những cảm xúc, suy nghĩ của mình. Chất trữ tình thể hiện ở giọng kể, ở những câu cảm thán nhiều khi không nén được cảm xúc, tác giả đã gọi tên nhân vật lên để trò chuyện, than thở : ( Lão Hạc ơi ! Bây giờ thì tôi hiểu tại sao lão khong muốn bán con chó vàng của lão ! Hỡi ơi lão Hạc ! Thì ra đến lúc cùng lão cũng có thể làm liều hơn ai hết.. ! », « Lão Hạc ơi, lão hãy yên lòng nhắm mắt...) Chất trữ tình còn thể hiện ở những lời mang giọng tâm sự riêng của « tôi », như chung quanh việc « Tôi » phải bán mấy quyển sách : « ôi những quyển sách rất nâng niu(...) kỷ niệm một thời hăng hái và tin tưởng đầy những say mê đẹp và cao vọng » Và thể hiện rõ nhất là ở những đoạn văn trữ tình ngoại đề đậm màu sắc triết lý : « Chao ôi ! Đối với những người ở quanh ta.... » Những câu văn triết lý đó không hề có giọng sách vở, trìu tượng mà là những suy nghĩ gan ruột nên có sức thuyết phục đặc biệt. => Vừa tỉnh táo, chân thực, vừa trữ tình thắm thiết và đậm đà ý vị triết lí, đó chính là đặc điểm bút pháp văn xuôi Nam Cao được thể hiện rõ nét trong « Lão Hạc » III- Kết bài : Tác phẩm « Lão Hạc » đã làm cho em vô cùng xúc động. Một truyện ngắn chứa chan tình người, lay động bao nỗi xót thương khi tác giả kể về cuộc đời cô đơn bất hạnh và cái chết đau đớn của một lão nông nghèo khổ. Nhân vật Lão Hạc đã để lại trong lòng.
<span class='text_page_counter'>(46)</span> ta bao ám ảnh khi nghĩ về số phận con người, số phận người nông dân Việt Nam trong xã hội cũ. Có biết bao nhiêu người nông dân đã sống nghèo khổ, cơ cực và cùng quẫn như lão Hạc. Xin cảm ơn nhà văn Nam Cao, ông đã giúp ta nhìn thấy vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách cao cả của họ, đem đến cho ta một niềm tin sâu sắc vào con người. DÀN Ý PHÂN TÍCH NHÂN VẬT LÃO HẠC I - Mở bài - Nam Cao là nhà văn nhân đạo. Ông đã để lại những trang viết tâm huyết về người nông dân trước cách mạng tháng Tám. - Truyện ngắn « Lão Hạc » không chỉ miêu tả xúc động tình cảnh khốn cùng và số phận bi đát của người nông dân mà còn là một câu chuyện xúc động về một nhân cách cao quý. - Cũng như bao cố nông cùng khổ khác, Lão Hạc là một lão nông nghèo khổ bất hạnh nhưng lại một con người có trái tim nhân hậu, lương thiện và có một tâm hồn, nhân cách cao cả. II-Thân bài 1. Lão Hạc là một lão nông nghèo khổ, bất hạnh - Vợ mất sớm, một thân một mình gà trống nuôi con - Sống bằng nghề cầy thuê, cuốc mướn - Đứa con trai duy nhất vì nghèo mà phẫn chí bỏ đi - Sống cô đơn, tội nghiệp, già cả, ốm đau - Nghèo đói, sức cùng, lực kiệt-> Tìm đến cái chết để giải thoát - Cái chết dữ dội, đau đớn, khổ sở, vật vã => Cuộc đời lão Hạc là số phận người nông dân bị đẩy đến bước đường cùng không lối thoát. Cái chết của lão Hạc là lời tố cáo, lên án xã hội thối nát => Giá trị hiện thực sâu sắc. 2. Là người sống rất nhân hậu - Đối với mọi người : Sống tốt, chân thành - Đối với con chó + Quý nó quá mức + Chăm sóc nó tỉ mỉ + Đau xót khi phải bán nó - Đối với con trai + Nỗi đau bất lực của người cha vì nghèo mà không lo được hạnh phúc cho con + Khi con đi, tuyệt vọng, đau khổ như mất con, luôn mong con về + Chọn cách sống cho con, vì con, luôn để dành tiền cho con. + Tìm đến cái chết để giữ tài sản cho con. 3. Là người lương thiện và giầu lòng tự trọng - Thà nhịn đói chứ không tiêu vào tiền của con - Kiên quyết từ chối mọi sự giúp đỡ của người khác, kể cả sự giúp đỡ của ông giáo, người rất thân tình với ông - Không muốn hàng xóm nghèo phải phiền luỵ về cái xác già của mình ( gửi ông giáo tiền lo ma chay cho mình) - Chọn cái chết để giữ trọn phẩm giá.
<span class='text_page_counter'>(47)</span> III- Kết luận : - Hình ảnh lão Hạc gây ấn tượng đậm nét và cứ ám ảnh vương vấn không dứt trong lòng người đọc - Cuộc đời lão Hạc là một dòng nước mắt chảy dài của những nỗi đau triền miên, bất tận - Bên trong cái vẻ bề ngoài gần như lẩm cẩm, gàn dở là một nhân cách vô cùng cao quý - Người đọc xót xa trước cái chết của lão Hạc bao nhiêu thì càng trân trọng và vững tin ở nhân cách bấy nhiêu. Bµi tËp : Qua ®o¹n trÝch “ Tøc níc vì bê “ vµ truyÖn ng¾n “ L·o H¹c “.em hiÓu thÕ nào về cuộc đời và tính cách ngời nông dân trong XH cũ . Gîi ý : 1/Sè phËn bi th¶m , cïng quÉn cña ngêi n«ng d©n díi chÝnh quyÒn TD nöa PK : + Lão Hạc : Cả cuộc đời lão Hạc từ đầu đến cuối truyện là những nỗi bất hạnh liên tiếp giáng xuống đầu lão . Ta có cảm giác những nỗ bất hạnh đó đợc cụ thể bằng những cái chết khác nhau đổ lên số phận lão Hạc . -Vợ chết , con đi phu đồn điền cao su biệt tăm ,biệt tích cũng coi nh đã chết . Cậu Vàng chết vì ông không đủ sức để nuôi và cuối cùng lão chết trong cảnh thảm khốc nhất . Bóng thần chết nh trùm lên tác phẩm , ngự trị trong tất cả cuộc đời của những ngời nông dân trong gia đình lão Hạc . Bốn cái chết ở mức độ và hình thức khác nhau , tạo ra một cảm giác bi phẫn trong lòng ngời đọc .Cái chết của vợ lão chuẩn bị cho sự ra đi không trở vÒ cña con trai l·o , c¸i chÕt cña cËu vµng b¸o hiÖu cho c¸i chÕt th¶m khèc cña l·o H¹c . Nhng cai chết của lão Hạc mớí thật sự là đỉnh điểm của sự bi thảm của số phận một con ngời .Lẽ ra một con ngời đôn hậu ,chu đáo ,tự trọng nh vậy phải có một số phận xứng đáng với con ngời ,nhng lão Hạc suốt đời bất hạnh và kết thúc bằng một cái chết rùng rợn vµ d÷ déi . Hãy viết bài văn thuyết minh ngắn, giới thiệu về nhà văn Nam Cao và giá trị truyện ngắn “Lão Hạc”. Gợi ý phần tự luận Yêu cầu cần đạt: Học sinh cần nắm được cách viết một bài văn thuyết minh, các phương pháp thuyết minh, đồng thời cần có những hiểu biết cơ bản, chính xác về nhà văn Nam Cao và truyện ngắn “Lão Hạc” đã học. Dù viết ngắn hay dài bài viết cũng cần có 3 phần đầy đủ: mở bài, thân bài, kết bài. Văn phong sáng sủa, không dùng từ sai, câu đúng ngữ pháp, chữ viết rõ ràng. Bài viết cần nêu được các ý chính sau: 1. Giới thiệu khái quát Nam Cao và truyện ngắn “Lão Hạc”: Nam Cao được coi là một nhà văn hiện thực xuất sắc trước cách mạng tháng Tám; truyện ngắn “Lão Hạc” là một trong những truyện ngắn hay và tiêu biểu nhất của ông. 2. Thuyết minh về cuộc đời và sự nghiệp của Nam Cao (dựa vào phần chú thích sao ở cuối văn bản Lão Hạc trong SGK ngữ văn 8) 3. Giới thiệu vắn tắt giá trị của truyện ngắn Lão Hạc. Dựa vào phần ghi nhớ của tác phẩm này trong sgk Ngữ văn 8 để nêu lên một số ý chính về nội dung và nghệ thuật 4. Nêu cảm nghĩ của người viết đối với tác giả Nam Cao và truyện ngắn “LH” I- Mở bài - Nam Cao là nhà văn hiện thực xuất sắc của nền văn học Việt Nam. Ông đã để lại những trang viết tâm huyết về người người nông dân trước cách mạng tháng Tám với cách nhìn đúng đắn, sâu sắc và nhất là với tình thương tha thiết và niềm tin mãnh liệt vào họ..
<span class='text_page_counter'>(48)</span> - « Lão Hạc » là một trong những truyện ngắn hay và tiêu biểu nhất của ông. II- Thân bài : 1.Thuyết minh về cuộc đời và sự nghiệp Nam Cao - Nam Cao là bút danh của Trần Hữu Trí. Ông sinh năm 1915 tại làng Đại Hoàng, phủ Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. - Trước năm 1945, ông dạy học tư và viết văn. Ông là một nhà văn hiện thực xuất sắc với những truyện ngắn, truyện dài chân thực viết về người nông dân nghèo đói bị vùi dập và người trí thức nghèo sống mòn mỏi, bế tắc trong xã hội cũ. - Sau cách mạng tháng Tám, ông chân thành, tận tuỵ sáng tác phục vụ kháng chiến : làm phóng viên mặt trận, rồi làm công tác văn nghệ tại chiến khu Việt Bắc. Cuối năm 1951, ông đi công tác vào vùng sau lưng địch, hi sinh trong tư thế một nhà văn- chiến sĩ. - Nam Cao được nhà nước truy tặng « Giải thưởng Hồ Chí Minh » về văn học nghệ thuật (năm 1996). - Nam Cao là tác giả của cuốn tiểu thuyết « Sống mòn » và khoảng 60 truyện ngắn tiêu biểu nhất là các truyện « Chí Phèo », « Lão Hạc », « Mua nhà », « Đời thừa », « Đôi mắt ».... - Nam Cao có tài kể chuyện, khắc họa nhân vật bằng độc thoại với bao trang đời éo le, đầy bi kịch. Người nông dân nghèo, người trí thức nghèo là hai đề tài in đậm trong truyện của Nam Cao. Tác phẩm của Nam Cao biểu hiện « một chủ nghĩa nhân đạo thống thiết » (Nguyễn Đăng Mạnh). 2.Giới thiệu vắn tắt giá trị của truyện ngắn « Lão Hạc » Viết về đề tài người nông dân trước cách mạng, « Lão Hạc » là một truyện ngắn xuất sắc của nhà văn Nam Cao, đăng báo lần đầu năm 1943. Truyện đã thể hiện một cách chân thực, cảm động số phận đau thương của người nông dân trong xã hội cũ và phẩm chất cao quý, tiềm tàng của họ. Đồng thời, truyện còn cho thấy tấm lòng yêu thương, trân trọng đối với người nông dân và tài năng nghệ thuật xuất sắc của nhà văn Nam Cao, đặc biệt trong việc miêu tả tâm lý nhân vật và cách kể truyện.. Ngày soạn : 15/11/2011 Ngày dạy : /11/2011. Buæi 8. KIỂM TRA. Ngày soạn : 22/11/2011 Ngày dạy : /11/2011 Buæi 9 C¸c yÕu tè h×nh thøc nghÖ thuËt cÇn chó ý khi.
<span class='text_page_counter'>(49)</span> ph©n tÝch th¬ tr÷ t×nh I. §Æc trng cña th¬ tr÷ t×nh vµ mét sè lçi cÇn tr¸nh. Thơ là một hình thái nghệ thuật đặc biệt. Hệ thống cảm xúc, tâm trạng và cách thể hiện tình cảm, cảm xúc đợc xem nh là đặc trng của nổi bật của thơ trữ tình. Trong các tác phÈm thuéc c¸c thÓ lo¹i nh v¨n xu«i tù sù, kÞch,... còng cã c¶m xóc, t©m tr¹ng, nhng c¸ch thÓ hiÖn th× rÊt kh¸c so víi th¬ tr÷ t×nh. C¶m xóc cña t¸c gi¶ cã trong c¸c thÓ lo¹i v¨n häc kể trên là thứ cảm xúc đợc thể hiện một cách gián tiếp thông qua hệ thống hình tợng nhân vËt, c¸c sù kiÖn x· héi vµ diÔn biÕn cña c©u chuyÖn... Tr¸i l¹i, trong th¬ tr÷ t×nh, t¸c gi¶ bộc lộ trực tiếp cảm xúc của mình. Rõ ràng khi đọc đoạn thơ: “ Nay xa c¸ch lßng t«i lu«n tëng nhí Mµu níc xanh, c¸ b¹c, chiÕc thuyÒn v«i, Tho¸ng con thuyÒn rÏ sãng ch¹y ra kh¬i, T«i thÊy nhí c¸i mïi nång mÆn qu¸ ! ( Quª h¬ng - TÕ Hanh) Ngời đọc cảm nhận đợc rất rõ tấm lòng và tình cảm nhớ nhung da diết của nhà thơ Tế Hanh đối với quê hơng, nơi ông đã sinh ra, lớn lên và gắn bó một thời. ở đây nhà thơ công khai vµ trùc tiÕp nãi lªn nh÷ng t×nh c¶m, suy nghÜ cña chÝnh m×nh. Kh¸c víi c¸ch thÓ hiÖn tình cảm trong thơ, các em hãy đọc đoạn văn sau: “ H«m sau l·o H¹c sang nhµ t«i. Võa thÊy t«i, l·o b¶o ngay: -. Cậu Vàng đi đời rồi, ông giáo ạ !. -. Cô b¸n råi ?. B¸n råi ! Hä võa b¾t xong. Lão cố làm ra vui vẻ. Nhng trông lão cời nh mếu và đôi mắt lão ầng ậng nớc... ThÕ nã cho b¾t µ ? Mặt lão đột nhiên co dúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nớc mắt chảy ra. C¸i ®Çu l·o ngoÑo vÒ mét bªn vµ c¸i miÖng mãm mÐm cña l·o mÕu nh con nÝt. L·o hu hu khãc... ( Nam Cao - TrÝch L·o H¹c) Ngêi kÓ chuyÖn ë ®©y xng t«i, nhng t«i ®©y lµ «ng gi¸o chø kh«ng ph¶i lµ Nam Cao. Nhµ v¨n hoµn toµn kh«ng xuÊt hiÖn mµ lu«n dÊu m×nh ®i. Trong trang s¸ch chØ cã «ng gi¸o kÓ l¹i c©u chuyÖn. Nh thÕ ph¶i qua c¸ch kÓ chuyÖn vµ miªu t¶ cña nh©n vËt «ng gi¸o về nỗi ân hận, đau khổ đến cùng cực của lão Hạc, chúng ta mới thấy đợc tấm lòng thông cảm, thái độ trân trọng mến yêu của Nam Cao đối với nhân vật này. Trong nhiÒu bµi th¬ tr÷ t×nh, nhµ th¬ xng b»ng ta, ch¼ng h¹n : “Ta nghe hÌ dËy bªn lßng - Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi” ( Khi con tú hú - Tố Hữu) hoặc nhiều khi không thấy xng tôi hay ta gì cả, mà chỉ thấy một ai đó đang lẳng lặng kể, tả và tâm sự, tâm tình, chẳng hạn : “ Năm nay hoa đào nở - Không thấy ông đồ xa - Những ngời muôn năm cũHồn ở đâu bây giờ” ( Ông đồ - Vũ Đình Liên ). Trong trờng hợp nh thế, ngời xng ta hoặc không xng gì cũng đều là chính nhà thơ. Nghĩa là sau câu thơ vẫn thấy hiện lên rất rõ tấm lßng vµ t×nh c¶m s©u nÆng cña t¸c gi¶. Cã nh÷ng trêng hîp nhµ th¬ mîn lêi cña mét nh©n vật nào đó, nhập vai vào một ai đó mà thổ lộ tâm tình ( ngời ta gọi là trữ tình nhập vai) thì thực chất nhân vật trữ tình đó cũng chính là tác giả. Thế Lữ mợn lời con hổ trong vờn bách thảo để đốc bầu tâm sự của chính ông về nỗi chán ghét cái xã hội giả dối, nghèo nàn, nhố nhăng, ngớ ngẩn đơng thời; để nói lên khát vọng tự do, khát vọng về cái thời mét ®i kh«ng trë l¹i...Trong trêng hîp nµy, khi «ng viÕt: “Ta sèng m·i trong t×nh th¬ng nçi nhí - Thuë tung hoµnh hèng h¸ch nh÷ng ngµy xa” th× ta lµ con hæ vµ còng chÝnh lµ ThÕ L÷. Ph©n tÝch th¬ tr÷ t×nh thùc chÊt lµ chØ ra tiÕng lßng s©u th¼m cña chÝnh nhµ th¬. Nhng tiếng lòng ấy lại đợc thể hiện rất cô đọng và hàm xúc bằng một hình thức nghệ thuật độc.
<span class='text_page_counter'>(50)</span> đáo - nghệ thuật ngôn từ. Tiếp xúc với một bài thơ trữ tình trớc hết là tiếp xúc với các h×nh thøc nghÖ thuËt ng«n tõ nµy. Nhµ th¬ göi lßng m×nh qua nh÷ng con ch÷, trong nh÷ng con chữ và các hình thức biểu đạt độc đáo khác. Tất cả thái độ sung sớng, hả hê, bõ hờn của Nguyễn Khuyến đối với tên quan tuần mất cớp đợc gửi qua chữ “lèn” trong câu thơ “ Tôi nghe kẻ cớp nó lèn ông”. Tiếng kêu đau đớn, đột ngột của nhà thơ Tố Hữu trớc sự ra đi của chú bé liên lạc đợc thể hiện qua chữ thôi rồi và hình thức gãy nhịp của câu thơ “Bỗng loè chớp đỏ - Thôi rồi, Lợm ơi !” (Lợm)... Nh thế, phân tích thơ trữ tình trớc hết ph¶i xuÊt ph¸t tõ chÝnh c¸c h×nh thøc nghÖ thuËt ng«n tõ mµ chØ ra vai trß vµ t¸c dông cña chúng trong việc thể hiện tình cảm, thái độ của nhà thơ. Nắm chắc đặc điểm và yêu cầu trên, HS cũng sẽ tránh đợc các lỗi dễ mắc trong việc ph©n tÝch vµ c¶m thô th¬ tr÷ t×nh. Trong c¸c bµi ph©n tÝch, b×nh gi¶ng th¬ tr÷ t×nh, HS thêng m¾c mét sè lçi sau ®©y: a, Chỉ phân tích nội dung và t tởng đợc phản ánh trong bài thơ, không hề thấy vai trò cña h×nh thøc nghÖ thuËt. §©y thùc chÊt chØ lµ diÔn xu«i néi dung bµi th¬ ra mµ th«i. b, Có chú ý đến các hình thức nghệ thuật, nhng tách rời các hình thức nghệ thuật ấy ra khỏi nội dung (thờng là gần đến kết bài mới nói qua một số hình thức nghệ thuật đợc nhà th¬ sö dông trong bµi) c, Suy diÔn mét c¸ch m¸y mãc, gîng Ðp, phi lÝ c¸c néi dung vµ vai trß, ý nghÜa cña c¸c h×nh thøc nghÖ thuËt trong bµi th¬. NghÜa lµ nªu lªn c¸c néi dung t tëng, t×nh c¶m kh«ng cã trong bµi; ph¸t hiÖn sai c¸c h×nh thøc nghÖ thuËt hoÆc “b¾p Ðp”c¸c h×nh thøc nµy ph¶i có vai trò tác dụng nào đó trong khi chúng chỉ là những hình thức bình thờng... Tóm lại, để phân tích thơ trữ tình có cơ sở khoa học, có sức thuyết phục phải cần đến rất nhiều năng lực, nhng trớc hết ngời phân tích cần nắm đợc một số hình thức nghệ thuật ngôn từ mà các nhà thơ thờng vận dụng để xây dựng nên tác phẩm của mình. Đây chính là cơ sở đáng tin cậy nhất để ngời đọc mở ra đợc “cánh cửa tâm hồn”của mỗi nhà th¬ ë mçi bµi th¬. II. Mét sè yÕu tè h×nh thøc nghÖ thuËt cÇn chó ý khi ph©n tÝch th¬ tr÷ t×nh §äc t¸c phÈm v¨n häc tríc hÕt chóng ta tiÕp xóc víi nh÷ng h×nh thøc thÓ hiÖn cô thÓ cña ng«n tõ nghÖ thuËt. §ã lµ nh÷ng dÊu c©u vµ c¸ch ng¾t nhÞp, lµ vÇn ®iÖu, ©m hëng vµ nh¹c tÝnh, lµ tõ ng÷ vµ h×nh ¶nh, lµ c©u vµ sù tæ chøc ®o¹n v¨n, lµ v¨n b¶n vµ thÓ lo¹i cña v¨n b¶n… Ph©n tÝch t¸c phÈm v¨n häc kh«ng ® îc tho¸t li v¨n b¶n cã nghÜa lµ tríc hÕt ph¶i biÕt b¸m s¸t c¸c h×nh thøc biÓu hiÖn trªn cña ng«n tõ nghÖ thuËt, chØ ra vai trß vµ ý nghÜa cña chóng trong viÖc thÓ hiÖn néi dung. 1. NhÞp th¬ Nhịp điệu có vai trò, ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với thơ trữ tình. Nó giúp nhà thơ n©ng cao kh¶ n¨ng biÓu c¶m, c¶m xóc. Ph©n tÝch th¬ tr÷ t×nh, kh«ng thÓ kh«ng chó ý phân tích nhịp điệu. Để xác định đợc nhịp điệu của từng bài thơ, ngoài việc đọc từng câu thơ cho ngân vang âm điệu và làm bừng sáng hình ảnh thơ, việc nắm đợc đặc điểm chung vÒ nhÞp ®iÖu cña tõng thÓ lo¹i còng lµ ®iÒu rÊt cÇn thiÕt. Thêng thêng, nhÞp ®iÖu cña th¬ lôc b¸t uyÓn chuyÓn, mÒm m¹i thanh tho¸t; nhÞp cña th¬ thÊt ng«n b¸t có hµi hßa, chÆt chẽ; nhịp của thơ tự do, thơ hiện đại rất phóng khoáng, phong phú. Có lần trong một cuộc hội thảo về truyện ngắn, nhà văn Tô Hoài đã than phiền rằng: nhiÒu ngêi viÕt v¨n b©y giê h×nh nh quªn hÕt c¶ c¸c dÊu c©u. ¤ng thËt cã lý khi cho r»ng dÊu c©u lµ mét h×nh thøc cña ch÷, cña tõ . ThËt ra kh«ng ph¶i chØ cã dÊu c©u mµ ngay c¶ cách ngắt nhịp cũng cần đợc xem là một từ đa nghĩa, một từ đặc biệt trong vốn ngôn ngữ chung của nhân loại. Các em đều biết rằng trong những tình huống giao tiếp thông thờng của cuộc sống, im lặng lắm khi lại nói đợc rất nhiều: khi căm thù tột đỉnh, lúc xao xuyến bâng khuâng, khi cô đơn buồn bã, lúc xúc động dâng trào...Những cung bậc tình cảm này nhiều khi không thể mô tả đợc bằng chữ nghĩa. Dấu câu và sự ngắt nhịp là một trong những phơng tiện hữu hiệu để thể hiện "sự im lặng không lời". Nhiều khi ngời ta chỉ nghĩ đến nhiệm vụ của dấu câu là tách ý, tách đoạn của câu văn . Thực ra bên cạnh nhiệm vụ ấy, dấu câu và sự ngắt nhịp còn có một chức năng rất quan trọng, đó là tạo nên "ý tại ng«n ngo¹i", hµm nghÜa vµ gîi ra nh÷ng ®iÒu mµ tõ kh«ng nãi hÕt, nhÊt lµ trong th¬. T©m tr¹ng nhµ th¬ chi phèi trùc tiÕp c¸ch tæ chøc, vËn hµnh nhÞp ®iÖu cña bµi th¬. Víi c¶m.
<span class='text_page_counter'>(51)</span> xúc ào ạt, sôi nổi, đầy hứng khởi trớc khí thế lao động sản xuất của miền Bắc thời kỳ bắt ®Çu x©y dùng chñ nghÜa x· héi, Tè H÷u cã nh÷ng c©u th¬ víi nhÞp ®iÖu nhanh m¹nh , kháe kho¾n, linh ho¹t vµ s«i næi: §i ta ®i! Khai ph¸ rõng hoang Hái nói non cao, ®©u s¾t ®©u vµng? Hái biÓn kh¬i xa, ®©u luång c¸ ch¹y? S«ng §µ, s«ng L«, s«ng Hång, s«ng Ch¶y Hái ®©u th¸c nh¶y, cho ®iÖn quay chiÒu? (Bµi ca mïa xu©n 1961) Trớc hiện thực đổi thay ở một vùng quê, nơi mình từng hoạt động bí mật, Tố Hữu hồi tởng những tháng ngày đã qua với những xúc động bồi hồi. Tâm trạng nôn nao, xao xuyến của một ngời lâu ngày quay trở lại chốn cũ đầy kỷ niệm đã đợc ông thể hiện bằng một nhÞp ®iÖu chËm, s©u l¾ng, phï hîp víi sù håi tëng vµ chiªm nghiÖm: Mêi chÝn n¨m råi. H«m nay l¹i bíc Đoạn đờng xa, cát bỏng lng đồi. ¤i cã ph¶i sãng båi thªm b·i tríc Hay biÓn ®au xa rót níc xa råi? (MÑ T¬m) Câu thơ của Chế Lan Viên " Đất nớc đẹp vô cùng . Nhng Bác phải ra đi " nhiều học sinh đọc một mạch, bỏ quên cái dấu chấm giữa dòng thơ, đã làm mất đi bao sức gợi cảm sâu lắng, thiết tha, diễn tả một sự nuối tiếc, đau đớn đến xót xa trong lòng ngời ra đi khi ph¶i xa tæ quèc . §Ó ng¾t nhÞp ngêi ta thêng dïng dÊu c©u, nhng nhiÒu khi kh«ng cã dÊu c©u. Trong trờng hợp này, các em cần phải thông nghĩa, hiểu ý mới ngắt nhịp đúng. Câu thơ của Tố Hữu “Càng nhìn ta lại càng say", có em đọc" Càng nhìn / ta lại càng say "(nhịp 2/ 4), nhng thực ra phải đọc là " Càng nhìn ta / lại càng say "( nhịp 3/ 3 ). Vì ở đây ý thơ muốn thể hiện là : ai đó (thế giới) càng nhìn ta (Việt Nam) thì càng say lòng chứ không phải ta tự say ta. Cũng nh thế câu thơ của Xuân Diệu :" Một chiếc xe đạp băng vào bóng tối ", nếu không chú ý các em sẽ đọc thành:"Một chiếc xe đạp / băng vào bóng tối ". Nhng đúng ra phải đọc là:"Một chiếc xe / đạp băng vào bóng tối ". ở đây, điều mà Xuân Diệu muốn nhấn mạnh là hành động "đạp băng" chứ không phải chiếc "xe đạp". Câu thơ của Tản Đà " Non cao tuổi vẫn cha già", có em đọc : Non cao tuổi / vẫn cha già và hiểu là non dù đã cao tuổi nhng vẫn còn trẻ (cha già). Nhng thực ra ở đây cao không phải là nhiều tuổi mà cao là độ cao, là núi cao ngất non cao những ngóng cùng trông hoặc Non cao đã biết hay cha?. Trong nhiều trờng hợp, sự xuống dòng tiên tục tạo nên sự gãy nhịp liên tục, đột ngột của tác giả có một dụng ý hay đúng hơn có một ý nghĩa, một tác dụng rÊt s©u s¾c trong viÖc thÓ hiÖn néi dung. C©u th¬: "Mµu tÝm hoa sim tÝm chiÒu hoang biÒn biệt" (chín chữ) đợc nhà thơ Hữu Loan “xé” thành 6 dòng thơ: Mµu tÝm hoa sim tÝm chiÒu hoang biÒn biÖt ở bài thơ này, nhiều câu thơ bị cắt ra nh thế. Cả bài thơ vỡ vụn đã thể hiện đợc nỗi đau tan nát, tiếng khóc đứt đoạn, nghẹn tắc, hạnh phúc tan thành nhiều mảnh, đứt ra nhiÒu ®o¹n, kh«ng cã g× hµn g¾n næi. Dấu câu và cách ngắt nhịp không chỉ quan trọng với thơ mà ngay cả khi đọc văn xuôi, các em cũng cần chú ý . Thử đọc hai đoạn văn sau đây : Đoạn 1 : Hàng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đờng rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại náo nức những kỉ niệm mơn man của buổi tựu tr-.
<span class='text_page_counter'>(52)</span> ờng . Tôi quên thế nào đợc những cảm giác trong sáng ấy nảy nở trong lòng tôi nh mấy cành hoa tơi mỉm cời giữa bầu trời quang đãng " ( Tôi đi học - Thanh Tịnh ) Đoạn 2 : Không đợc ! Ai cho tao lơng thiện ? Làm thế nào cho mất đợc những vết m¶nh chai trªn mÆt nµy ? Tao kh«ng thÓ lµ ngêi l¬ng thiÖn n÷a . BiÕt kh«ng ! ChØ cßn mét c¸ch ... biÕt kh«ng ! ... ChØ cßn mét c¸ch lµ ... c¸i nµy ! BiÕt kh«ng !... H¾n rót dao ra, xông vào, Bá Kiến ngồi nhỏm dậy, Chí Phèo đã văng dao tới rồi . ( Chí Phèo - Nam Cao ) §o¹n v¨n cña Thanh TÞnh 62 ch÷, chØ cã 2 c©u, 2 dÊu chÊm vµ 2 dÊu ph¶y, nhÞp ®iÖu nhÈn nha, kh«ng cã g× gÊp g¸p véi vµng . C¶ ®o¹n v¨n lµ nh÷ng tiÕng nãi th× thÇm, nhỏ nhẹ nh lá rụng cuối thu, lãng đãng nh mây bạc lng trời...Tất cả nhằm diễn đạt một t©m tr¹ng, mét tÊm lßng ®ang" n¸o nøc nh÷ng kØ niÖm m¬n man cña buæi tùu trêng" . Đoạn văn của Nam Cao 63 chữ ( tơng đơng với đoạn trên )nhng đợc chia làm 9 câu víi 5 dÊu c¶m th¸n, 4 dÊu chÊm löng, 3 dÊu chÊm ph¶y, 2 dÊu chÊm hái vµ 2 dÊu chÊm khiến nhịp điệu câu văn trở nên gấp gáp, khẩn trơng ... Cha kể đến sự cộng hởng của ngữ nghÜa do c¸c tõ ng÷ vµ h×nh ¶nh, chØ riªng nhÞp ®iÖu do hÖ thèng dÊu c©u ë trªn t¹o nªn đã giúp Nam Cao tái hiện rất thành công cuộc đối mặt quyết liệt và dữ dội giữa Chí Phèo và Bá Kiến . Cả cuộc đời Chí triền miên trong cơn say, mệt mỏi và u tối . Bỗng giây phút nµy h¾n bõng tØnh vµ s¸ng l¸ng. Gi©y phót Êy dêng nh rÊt ng¾n ngñi nªn ChÝ ph¶i nãi rÊt nhanh, làm rất gấp, tức khắc và quyết liệt... Chính cách chấm câu và ngắt nhịp ấy đã giúp Nam Cao diÔn t¶ rÊt thµnh c«ng t©m tr¹ng uÊt øc, dån nÐn vµ t×nh thÕ gÊp g¸p khÈn tr¬ng cña mµn bi kÞch nµy. Đọc đoạn văn của Thanh Tịnh, ai đọc nhanh, gấp và lên giọng thì ... hỏng . Ngợc lại không thể đọc đoạn văn của Nam Cao với giọng nhỏ nhẹ, nhẩn nha đợc . Tóm lại khi tiếp xúc với tác phẩm văn học, nhất là khi đọc bằng mắt, các em cần lu ý đến hình thức dấu câu và xem cách ngắt nhịp của tác giả có gì đặc biệt. Làm nh thế, trớc hết là để đọc cho đúng, cho diễn cảm và sau đó hãy phân tích và chỉ ra ý nghĩa cũng nh t¸c dông cña h×nh thøc Êy trong viÖc biÓu hiÖn néi dung. 2. VÇn th¬ TiÕng ViÖt rÊt giµu nh¹c tÝnh. HÖ thèng vÇn ®iÖu vµ thanh ®iÖu lµ nh÷ng yÕu tè c¬ b¶n t¹o nªn tÝnh nh¹c cña tiÕng ViÖt nãi chung vµ ng«n tõ v¨n häc nãi riªng, nhÊt lµ th¬. Vần hiểu một cách đơn giản là một âm không có thanh điệu do nguyên âm hoặc nguyên âm kết hợp với phụ âm tạo nên. Ví dụ, các tiếng lan, tan, man, tàn… đều có chung một vÇn an, hoÆc mÑ, nhÑ, tÐ, xÎ… cã chung mét vÇn e. Nh thÕ, gieo vÇn trong th¬ lµ sù lÆp l¹i các vần hoặc những vần nghe giống nhau giữa các tiếng ở những vị trí nhất định. Đó là sự phèi hîp ©m thanh trong tõng c©u vµ trong c¶ bµi; lµ sù céng hëng cña c¸c ©m cã cïng mét vÇn vµ cïng thanh b»ng hoÆc thanh tr¾c. VÝ dô: Tiếng thơ ai động đất trời Nghe nh non níc väng lêi ngh×n thu Ngh×n n¨m sau nhí NguyÔn Du TiÕng th¬ng nh tiÕng mÑ ru nh÷ng ngµy. Hìi Ngêi xa cña ta nay Khóc vui xin l¹i so d©y cïng Ngêi! (Tè H÷u, KÝnh göi cô NguyÔn Du) Vần của các câu đợc hiệp vần với nhau trong đoạn thơ trên là sự hài hòa trên cùng một âm vực cao thấp, một trờng độ âm thanh phát ra. Đó là sự hài hòa có đợc từ việc phối âm gi÷a c¸c tõ trong mét cÆp c©u lôc b¸t. XÐt tõng cÆp c©u chóng ta thÊy cã sù hßa ©m gi÷a c©u c©u (1) vµ (2), gi÷a c©u (3) vµ (4), gi÷a c©u (5) vµ (6) nhê vµo nh÷ng ©m gièng nhau gi÷a tõ thø 6 c©u lôc vµ tõ thø 6 c©u b¸t. ¢m gièng nhau lµ do vÇn cã chung thanh b»ng (trêi-lêi, du-ru, nay-d©y) vµ cã cïng chung phÇn vÇn (êi-êi, u-u) hoÆc phÇn vÇn na n¸ nhau (ay-©y). Víi sù hßa ©m nµy, c¸c c©u th¬ nh nÝu kÐo, lu gi÷ lÊy nhau trong tõng ®o¹n hay c¶ bµi th¬. Mét chØnh thÓ ©m thanh hµi hßa uyÓn chuyÓn do nh÷ng vÇn cã thanh b»ng liªn kÕt víi nhau nh t¹o ra sù trÇm l¾ng vÒ ©m ®iÖu còng nh hån th¬ gãp phÇn kh«ng nhá trong việc biểu đạt có hiệu quả tâm trạng thơng cảm, mến phục và trân trọng của Tố Hữu đối với thi hào Nguyễn Du..
<span class='text_page_counter'>(53)</span> C¨n cø vµo cÊu tróc ©m thanh - sù hßa ©m cña vÇn ngêi ta chia thµnh vÇn chÝnh vµ vÇn th«ng. V©n chÝnh lµ vÇn cã ©m gièng nhau: Tiếng thơ ai động đất trời Nghe nh non níc väng lêi ngh×n thu vÇn th«ng lµ vÇn cã ©m na n¸ nh nhau: Nh©n t×nh nh¾m m¾t, cho xong BiÕt ai hËu thÕ khãc cïng Tè Nh ? (Tè H÷u - KÝnh göi cô NguyÔn Du). Căn cứ vào vị trí các từ hiệp vần với nhau để chia thành vần lng và vần chân. Vần lng là lối gieo vần đứng giữa câu. Trong các câu thơ trên, từ thứ 6 (lời, ru, đây, cùng) của câu b¸t hiÖp vÇn víi tõ cuèi (trêi, du, nay, xong) cña c©u lôc. VÇn ch©n lµ lèi hiÖp vÇn ë cuèi c©u: Ch¼ng ph¶i r»ng ng©y ch¼ng ph¶i ®Çn, Bëi v× nhµ khã hãa bÇn thÇn. Mấy đời thầy kiện mà thua mẹo, NghÜ phËn th»ng cïng ph¶i biÕt th©n. (NguyÔn C«ng Trø - C¶nh nghÌo) Trong c¸ch ph©n chia vÇn theo vÞ trÝ cña c¸c tõ hiÖp vÇn víi nhau, l¹i cßn cã thÓ chia ra thµnh c¸c lo¹i: - VÇn liÒn (vÝ dô ®o¹n th¬ trÝch dÉn trªn cña Tè H÷u, bµi th¬ ThÒ non níc cña T¶n §µ). - Vần cách: Trời đất cho ta một cái tài, Giắt lng dành để tháng ngày chơi. Dë duyªn víi rîu kh«n tõ chÐn, Chãt nî cïng th¬ ph¶i chuèt lêi. (NguyÔn C«ng Trø - CÇm kú thi töu) - VÇn hçn hîp (vÝ dô Thu ®iÕu cña NguyÔn KhuyÕn, C¶nh nghÌo cña NguyÔn C«ng Trø, Trµng giang cña Huy CËn). Mét trong nh÷ng t¸c dông quan träng cña vÇn lµ t¹o nªn ©m hëng vang ng©n trong thơ, từ đó mà diễn đạt và thể hiện nội dung. Đọc đoạn thơ sau: Em ¬i Ba Lan mïa tuyÕt tan §êng b¹ch d¬ng s¬ng tr¾ng n¾ng trµn Anh ®i nghe tiÕng ngêi xa väng Một giọng thơ ngâm một giọng đàn ở đây vần chính là an (tan, tràn, đàn)) nhng bên cạn đó, nhà thơ còn sử dụng rất nhiÒu vÇn kh¸c (lan/ tan, d¬ng/ s¬ng, tr¾ng/ n¾ng, väng/ giäng). Trong bèn dßng th¬, hµng lo¹t c¸c vÇn liªn tiÕp xuÊt hiÖn, t¹o nªn mét khóc nh¹c ng©n nga, diÔn t¶ mét niÒm vui phơi phới nh muốn hát lên của nhà thơ khi đứng trớc mùa xuân của đất nớc Ba Lan. Bªn c¹nh vÇn ®iÖu, tiÕng ViÖt cßn rÊt giµu thanh ®iÖu. Víi 6 thanh (huyÒn, s¾c, hái, ng·, nÆng vµ thanh kh«ng), chóng ta cã thÓ n©ng cao hoÆc h¹ thÊp giäng nãi, t¹o nªn sù lªn bæng, xuèng trÇm. VÝ dô: sang lµ mét ©m tiÕt mang thanh kh«ng. LÇn lît thay c¸c thanh ta cã: s¸ng, s¶ng, s¹ng, s½ng, sµng. Ngêi ta chia 6 thanh trªn lµm 2 lo¹i bæng vµ trầm hoặc bằng và trắc. Loại vần bằng do thanh huyền và thanh không đảm nhận, vần tr¾c do c¸c thanh cßn l¹i (s¾c, nÆng, hái, ng·) thÓ hiÖn. Nh×n chung nh÷ng vÇn b»ng thêng diÔn t¶ sù nhÑ nhµng b©ng khu©ng ch¬i v¬i… cßn vÇn tr¾c th êng diÔn t¶ sù tróc tr¾c, nÆng nÒ, khã kh¨n, vÊp v¸p… VÒ nguyªn t¾c, b×nh th êng trong c¸c c©u th¬, nh÷ng vÇn b»ng, tr¾c ®an xen nhau, phèi hîp víi nhau, nhng khi m« t¶, kh¾c s©u mét Ên tîng, mét cảm xúc, một tâm trạng theo một cung bậc tình cảm nào đó các nhà thơ thờng sử dụng liªn tiÕp mét lo¹i vÇn. Những câu thơ sau dùng toàn vần bằng tạo nên một âm hởng rất đặc biệt: - S¬ng n¬ng theo tr¨ng ngõng lng trêi T¬ng t n©ng lßng lªn ch¬i v¬i.
<span class='text_page_counter'>(54)</span> (Xu©n DiÖu) - Ô hay buồn vơng cây ngô đồng Vµng r¬i, vµng r¬i thu mªnh m«ng (BÝch Khª) - Mùa xuân cùng em lên đồi thông Ta nh chim bay trªn tÇng kh«ng (Lª Anh Xu©n) … Ngîc l¹i cã nh÷ng c©u th¬, sè lîng vÇn tr¾c xuÊt hiÖn rÊt nhiÒu, còng t¹o nªn những âm hởng lạ, cần đợc chú ý: - Vã c©u khÊp khÓnh b¸nh xe gËp ghÒnh (NguyÔn Du) - Dèc lªn khóc khuûu dèc th¨m th¼m (Quang Dòng) Có khi hai loại vần này lại sóng đôi nhằm diễn đạt một tâm trạng phức tạp. Tµi cao phËn thÊp chÝ khÝ uÊt Giang hå mª ch¬i quªn quª h¬ng (T¶n §µ) C©u trªn víi 5 thanh tr¾c liªn tôc diÔn t¶ mét t©m tr¹ng nh bÞ dån nÐn, uÊt øc, nghÑn t¾c. C©u díi l¹i toµn thanh b»ng võa nh mét t©m sù, bu«ng th¶, phã mÆc võa nh mét tiÕng thë dµi. Có khi vần bằng, trắc đợc sử dụng nh một biện pháp chơi chữ: mỗi một câu thơ là một loại vần do một thanh đảm nhận nh bài thơ Tình hoài của Lê Ta trong phong trào Th¬ míi: Trêi buån lµm g× trêi rÇu rÇu Em kh«ng yªu anh em ®i ®©u L¾ng thÊy tiÕng suèi thÊy tiÕng khãc Mét bông mét d¹ mét nÆng nhäc ảo tởng chỉ để khổ thêm tủi NghÜ m·i, gì m·i lçi vÉn lçi Th¬ng thay cho anh, c¨m thay em Tình hoài càng ngày càng tày đình T¹o nªn nh¹c tÝnh cña th¬ thùc ra kh«ng chØ cã vÇn vµ hÖ thèng thanh ®iÖu mµ ngay cả các âm tiết trong mỗi tiếng cũng có những giá trị nhất định. Theo GS. Đinh Trọng Lạc: ©m i gîi sù ng©n dµi: "§i ta ®i khai ph¸ rõng hoang" (Tè H÷u), ©m u: gîi sù u sÇu, b©ng khu©ng: "Hoa c¸nh tr¾ng d¾t tay vµo lçi cò" (Thanh Th¶o). ¢m a gîi sù t¬i vui, bao la: "Nhìn nhau mặt lấm cời ha ha" (Phạm Tiến Duật). Âm eo gợi êm đềm, trong trẻo: "Ao thu l¹nh lÏo níc trong veo", "Ngâ tróc quanh co kh¸ch v¾ng teo" (NguyÔn KhuyÕn). ¢m r gîi sù h·i hïng, run sî: "Rung rinh bËc cöa tre gÇy" (Tè H÷u), hoÆc "Nh÷ng luång run rÈy rung rinh l¸" (Xu©n DiÖu), ¢m ¬i gîi sù ph¬i phíi, më ra: "C©u h¸t c¨ng buåm cïng giã kh¬i…" vµ "M¾t c¸ huy hoµng mu«n dÆm ph¬i" (Huy CËn). Nhà văn Nguyễn Tuân đã nhận xét rất chính xác về các phụ âm mở đầu bằng kh nh: khó, khai, kh¾m, kh¾c nghiÖt, kh¾t khe, khÊp khÓnh, khñng khiÕp, kh¾m l»m lÆm, khÐt lÌn lÑt, khai mß mß … ¤ng viÕt: "T«i cã Ên t îng lµ phô ©m kh hay nhÊn vµo khÝa tiêu cực của những biểu hiện sự sống … Những từ ấy rất liên quan tới ngũ giác của ng ời Việt Nam… nhắc đến những việc, những trạng thái không đ ợc vừa mũi, vừa mắt, vừa tai, không đợc "vừa lòng" (Chuyện nghề). Có thể dẫn ra rất nhiều ví dụ nữa để minh hoạ cho tính nhạc của ngôn ngữ Việt trong thơ. Song điều cần lu ý các em khi đọc, phân tích TPVH (nhất là thơ) cần hết sức chú.
<span class='text_page_counter'>(55)</span> trọng yếu tố này. Một khi thấy âm điệu, âm hởng, nhạc điệu của câu thơ không bình thờng, có sự chuyển đổi (dĩ nhiên là phải tạo nên đợc hiệu quả thẩm mĩ nhất định) thì hãy tËp trung ph©n tÝch chØ ra gi¸ trÞ (vai trß vµ t¸c dông) cña chóng trong viÖc thÓ hiÖn néi dung. 3. Tõ ng÷ vµ c¸c biÖn ph¸p tu tõ §©y lµ yÕu tè c¬ b¶n vµ quan träng nhÊt cña h×nh thøc chÊt liÖu ng«n tõ. Bëi v× mäi néi dung cÇn thÓ hiÖn cña TPVH kh«ng thÓ cã c¸ch nµo kh¸c lµ nhê vµo hÖ thèng tõ ng÷ nµy. C¸c ph¬ng tiÖn nh dÊu c©u, nhÞp ®iÖu, ng÷ ©m ë trªn còng chØ cã ý nghÜa khi n»m trong mét v¨n b¶n mµ tõ ng÷ lµ nÒn t¶ng. Nhµ v¨n muèn m« t¶, t¸i hiÖn hiÖn thùc ph¶i th«ng qua từ ngữ. Muốn nói đến nỗi lòng của mình, tình cảm và t tởng của mình cũng phải thông qua từ ngữ. Muốn đánh giá đợc nhà văn viết về những điều đó nh thế nào lại cũng phØ th«ng qua ch÷ nghÜa trong t¸c phÈm… "V¨n häc lµ nghÖ thuËt cña ng«n tõ" chÝnh lµ nh vậy. Do tầm quan trọng ấy mà ngời ta coi lao động của nhà văn là thứ lao động chữ nghĩa, nhà văn là phu chữ… Có thể nói ngôn từ là một đặc trng quan trọng và nổi bật của v¨n häc. V× thÕ c¸c em cÇn lu ý mét sè ®iÓm sau: Thø nhÊt: Ph©n tÝch TPVH kh«ng thÓ tho¸t li vµ bá qua yÕu tè tõ ng÷. Muèn ph©n tÝch tèt tõ ng÷, tríc hÕt ph¶i n¾m v÷ng nghÜa cña tõ (nghÜa chung vµ nghÜa trong v¨n c¶nh cụ thể) sau đó luôn luôn suy nghĩ để trả lời các câu hỏi: - S¹i sao t¸c gi¶ dïng tõ nµy mµ kh«ng dïng tõ kh¸c? - T¹i sao tõ ng÷ nµy l¹i xuÊt hiÖn nhiÒu nh thÕ? - Có bao nhiêu từ đồng nghĩa với từ ấy? Có thể thay từ ấy bằng một từ ngữ khác đợc kh«ng? - Trong c©u Êy, ®o¹n Êy, nh÷ng tõ ng÷ nµo cÇn g©y chó ý ph©n tÝch. ë ®©y còng cÇn nhắc em, trong một đoạn, một bài văn, bài thơ không phải từ nào, câu nào cũng đáng phân tích, cũng có giá trị nh nhau, chính vì thế biết phát hiện những từ ngữ đáng phân tích cũng là một năng lực, một trình độ. Trong thực tế không ít em rơi vào tình trạng hoặc là phân tích tất cả, câu nào cũng phân tích, từ nào cũng khen hay, hoặc là từ ngữ đáng phân tích thì lại bỏ qua, từ không đáng dùng thì say sa tán tụng. Trong trờng hợp phân tÝch nh÷ng t¸c phÈm v¨n häc dÞch ph¶i thËt thËn träng khi ph©n tÝch tõ ng÷. Bëi v× nh÷ng từ đợc đa ra bình giá cha chắc đã phải là những từ mà tác giả dùng trong nguyên bản. Thứ hai: Ngời ta nói nhiều đến việc phân tích hình ảnh trong TPVH. Bởi vì cách nói của văn học, cách thể hiện của văn chơng là cách nói, cách viết bằng hình ảnh. Điều đó hoàn toàn đúng. Nhng hình ảnh trong tác phẩm văn học là gì, nếu không phải là do hệ thèng tõ ng÷ t¹o nªn. V× thÕ ph©n tÝch h×nh ¶nh thùc ra lµ ph©n tÝch tõ ng÷. C©u th¬ cña NguyÔn Du t¶ ch©n dung Tó Bµ: Nh¸c tr«ng nhên nhît mµu da Ăn gì to lớn đẫy đà làm sao (TruyÖn KiÒu) vÏ chÝnh x¸c thÇn th¸i cña mét mô chñ nhµ chøa, bän bu«n thÞt b¸n ngêi. Ta còng thÊy rõ thái độ của tác giả đối với loại ngời nh thế. Chữ nhờn nhợt lột tả đợc rõ nét nhất thần th¸i cña Tó Bµ! thËt khã diÔn t¶ b»ng nh÷ng tõ ng÷ kh¸c: võa bãng nhÉy, võa mai m¸i hay vµng bñng ch¨ng? Cã lÏ chØ cã thÓ nãi nh NguyÔn C«ng Hoan sau nµy vÒ mét bé mÆt cũng thuộc loại Tú Bà: bộ mặt "thiếu vệ sinh". Có nhà phê bình cho rằng, đọc câu thơ ấy, ta cã c¶m gi¸c lîm giäng lµ v× thÕ. Cßn hai ch÷ ¨n g× l¹i dêng nh muèn liÖt mô chñ chøa này vào một giống loài gì đó, không phải giống ngời. Bởi vì giống ngời thì ăn cơm, ăn g¹o, ¨n thÞt, ¨n c¸ chø ¨n g×. HÖ thèng tõ ng÷ gîi h×nh ¶nh, c¶m gi¸c trong tiÕng ViÖt rÊt phong phó, ®a d¹ng. VÝ dô: - Gîi vÒ t©m tr¹ng nh: xao xuyÕn, b©ng khu©ng, ph©n v©n… - Gợi về thị giác nh: la đà, lơ lửng, chấp chới. - Gîi vÒ thÝnh gi¸c nh: sÇm sËp, r× rµo, th¸nh thãt… - Gîi vÒ vÞ gi¸c nh: mÆn ch¸t, chua lßm, ngät lÞm… - Gîi vÒ xóc gi¸c nh: l¹nh ng¾t, nãng báng, xï x×….
<span class='text_page_counter'>(56)</span> ChÝnh do søc gîi nµy mµ nhµ v¨n NguyÔn Tu©n t©m sù nh khuyªn nhñ c¸c nhµ v¨n khi cÇm bót: "Đã nghĩ kỹ rồi mới cầm bút mà viết ra. Nhng khi đã viết ra rồi, cha có nghĩa là xong hẳn. Viết ra nhng mà đọc lại (…). Tự mình duyệt lấy lời viết của mình ( …). Cặp mắt soi xuống dòng trang vẫn là giữ vai trò cầm chịch ( …). Nh ng cặp mắt cha đủ để lọc hết mọi bôi bÆm vÉn cßn b¸m theo cai tiÕng võa ph¸t biÓu cña m×nh. Cho nªn ph¶i dïng c¶ c¸i tai cña m×nh n÷a (…). Ngoµi viÖc soi l¾ng, h×nh nh ph¶i ngöi l¹i, nÕm l¹i c¸i lêi m×nh viÕt ra kia, tríc khi bng nã ra cho ngêi kh¸c thëng thøc (…). Cã khi l¹i nh chÝnh lßng bµn tay m×nh ph¶i sê l¹i nh÷ng gãc c¹nh c©u viÕt cña m×nh, xem l¹i cã nªn cø gå ghÒ ch©n chÊt nh thÕ, hay lµ nªn gät nã trßn trÜnh ®i th× nã dÔ vµo lç tai ngêi tiªu thô h¬n…" (VÒ tiÕng ta - TuyÓn tËp NguyÔn Tu©n. Nxb V¨n häc, H. 1982). Thø ba: §Ó t¹o c¸ch nãi, c¸ch viÕt cã h×nh ¶nh, gîi h×nh tîng b»ng tõ ng÷, c¸c nhµ v¨n cã thÓ vËn dông nhiÒu c¸ch: khi th× dïng tõ l¸y: Lng dËu phÊt ph¬ lµn khãi nh¹t Lµn ao lãng l¸nh bãng tr¨ng loe (NguyÔn KhuyÕn) HoÆc Nçi niÒm chi røa HuÕ ¬i, Mµ ma xèi x¶ tr¾ng trêi Thõa Thiªn (Tè H÷u) Khi th× dòng nh÷ng tõ ng÷ tîng h×nh, tîng thanh: ThuyÒn c©u thÊp tho¸ng dên trªn v¸ch TiÕng sãng long bong vç tríc nhµ (NguyÔn KhuyÕn) Ngay cả trong văn xuôi cũng vậy. Hình ảnh lão Hạc đợc Nam Cao khắc hoạ bằng một đoạn văn ngắn với một số từ rất gợi hình tợng: "Mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những vÕt nh¨n x« l¹i víi nhau, Ðp cho níc m¾t ch¶y ra. C¸i ®Çu l·o nghÑo vÒ mét bªn vµ c¸i miÖng mãm mÐm cña l·o mÕu nh con nÝt. L·o hu hu khãc" (L·o H¹c). Hệ thống từ ngữ chỉ màu sắc cũng đợc các nhà văn sử dụng rất hiệu quả trong việc miªu t¶ hiÖn thùc. Cá non xanh dîn ch©n trêi Cµnh lª tr¾ng ®iÓm mét vµi b«ng hoa (NguyÔn Du) hoÆc: "Lng trêi ai nhuém mµ xanh ng¾t" (NguyÔn KhuyÕn) " Cửa son đỏ loét tùm hum nóc" (Hå Xu©n H¬ng). - "Tr¾ng phau néi cá cöu ph¬i tuyÕt" (Tè H÷u) - "Tr«ng lªn mÆt s¾t ®en x×" (NguyÔn Du) §©y lµ ®o¹n v¨n NguyÔn Tu©n t¶ mµu s¾c cña s«ng §µ: "Mïa xu©n dßng xanh ngäc bÝch, chø níc s«ng §µ kh«ng xanh mµu xanh canh hÕn cña s«ng G©m, s«ng L«. Mïa thu nớc sông Đà lừ lừ đỏ nh da mặt một ngời bầm đi vì rợu bữa, lừ lừ cái mầu đỏ giận dữ ở một ngời bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về" "Ngời lái đò sông Đà" v.v… HÖ thèng tÝnh tõ chØ mµu s¾c trong tiÕng ViÖt lµ hÕt søc tinh diÖu. §· khi nµo c¸c em thử thống kê tất cả các màu trắng, đỏ hay xanh ra trớc mặt cha ? Cứ thử đi sẽ thấy từ chỉ mµu s¾c trong tiÕng ViÖt thËt kú l¹ . Nµy nhÐ nÕu lµ mµu tr¾ng, ta cã : Tr¾ng bÖch, tr¾ng to¸t, tr¾ng bong, tr¾ng tinh, tr¾ng nân, tr¾ng xo¸, tr¾ng phau, tr¾ng ngÇn, tr¾ng muèt, tr¾ng ngµ, tr¾ng hÕu, tr¾ng d·, tr¾ng ngµ, tr¾ng nhën, tr¾ng nhît, tr¾ng bãc, tr¾ng lèp,.
<span class='text_page_counter'>(57)</span> tr¾ng l«m lèp, tr¾ng nuét, tr¾ng ën, tr¾ng phÕch, tr¾ng trÎo, tr¾ng trong ... NÕu lµ mµu Xanh l¹i cã : xanh um, xanh nh¹t, xanh thÉm, xanh non, xanh lît, xanh lÌ, xanh lÐt, xanh rên, xanh r×, xanh lam, xanh biÕc, xanh l¬, xanh mÐt, xanh ng¾t, xanh ng¨n ng¾t, xanh rớt, xanh xao ... Với màu Đỏ bạn có thể kể : đỏ au, đỏ bừng, đỏ choé, đỏ chói, đỏ chót, đỏ chon chót, đỏ nọc, đỏ gay, đỏ hoe, đỏ hoen hoét, đỏ hỏn, đỏ hon hỏn, đỏ kè, đỏ khé, đỏ nhừ, đỏ khè, đỏ loét, đỏ lòm, đỏ lừ, đỏ lự, đỏ lựng, đỏ ngầu, đỏ ối, đỏ quạch, đỏ rực, đỏ tơi, đỏ ửng, đỏ cạch, ... Với các tính từ trên khi chuyển sang tiếng Pháp, tiếng Anh, thờng ngêi ta chØ thªm vµo ch÷ rÊt (trÌs - Ph¸p hoÆc very - Anh ). Ch¼ng h¹n : xanh um, xanh rờn là très bleu ( rất xanh ) hoặc đỏ au, đỏ chót, đỏ rực đều đợc dịch là : rouge vif ( rouge : đỏ, vif : tơi ), còn trắng toát, trắng bệch là très blanc (rất trắng). Trong khi mỗi từ trên của tiếng Việt có một sắc thái biểu cảm đôi khi rất khác nhau, ví nh trắng toát là thứ tr¾ng chãi m¾t, tr¾ng bÖch lµ tr¾ng mÊt sinh khÝ, tr¾ng bong lµ tr¾ng nh m¬Ý, tr¾ng tinh lµ tr¾ng nguyªn chÊt, tr¾ng xo¸ lµ tr¾ng réng kh¾p mét vïng, tr¾ng phau lµ tr¾ng s¹ch sÏ, tr¾ng ngÇn lµ tr¾ng s¹ch vµ trong, tr¾ng muèt lµ tr¾ng s¹ch mµ tr¬n nh½n, tr¾ng ngµ lµ tr¾ng quý ph¸i, tr¾ng hÕu lµ tr¾ng nh« ra th« bØ, tr¾ng d· lµ chØ mµu m¾t kÎ gian gi¶o, tr¾ng nhën lµ tr¾ng lè bÞch ( chØ r¨ng hoÆc m¾t )... vv. Vµ nh thÕ sÏ lµ rÊt khã khi dÞch những câu thơ sau ra một ngôn ngữ khác sao cho lột tả hết đợc các màu sắc ấy : - Cầu trắng phau phau đôi ván ghép ( Hồ Xuân Hơng ) - Tr¾ng xo¸ trµng giang ph¼ng lÆng tê ( Bµ HuyÖn Thanh quan ) - TiÕc thay h¹t g¹o tr¾ng ngÇn ( Ca dao ) - Râ rµng trong ngäc tr¾ng ngµ ( NguyÔn Du ) - B÷a thÊy bong bong che tr¾ng lèp muèn tíi ¨n gan ( §å ChiÓu ) - Cã ph¶i thÞt da em mÒm m¹i tr¾ng trong ( L©m ThÞ Mü D¹ ) - Hòn đá xanh rì lún phún rêu ( Hồ Xuân Hơng ) - Cá non xanh rîn ch©n trêi ( NguyÔn Du ) - Lng trêi ai nhuém mµ xanh ng¾t ( NguyÔn KhuyÕn ) - Xanh om cæ thô trßn xoe t¸n ( Bµ HuyÖn Thanh Quan ) - Th¸ng t¸m mïa thu xanh th¾m ( Tè H÷u ) - Cửa son đỏ loét tùm hum nóc ( Hồ Xuân Hơng ) - Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe ( Nguyễn Khuyến ) - Má đỏ au lên đẹp lạ thờng ( Hàn Mặc Tử ) - Đờng quê đỏ rực cờ hồng ( Tố Hữu ) Thứ t: Ngôn từ văn học là loại ngôn từ đã đợc chắt lọc từ ngôn ngữ đời thờng, đợc nâng cấp, sửa sang, làm cho nó càng óng ả, giàu đẹp hơn. Các biện pháp tu từ chính là những phơng tiện quan trọng để thực hiện nhiệm vụ trang điểm cho ngôn từ văn học. Có rÊt nhiÒu biÖn ph¸p tu tõ: Èn dô, ho¸n dô, nh©n ho¸, ®iÖp tõ, ®iÖp ng÷, so s¸nh… Theo GS §inh Träng L¹c cã tíi 99 ph¬ng tiÖn vµ biÖn ph¸p tu tõ trong tiÕng ViÖt. TÊt c¶ nh÷ng cách ấy đều nhằm mục đích giúp ngời nói, ngời viết có nhiều cách diễn đạt hay hơn, đẹp h¬n, phong phó h¬n vµ do vËy hiÖu qu¶ cao h¬n. Ph©n tÝch c¸c biÖn ph¸p tu tõ tøc lµ chØ ra tÝnh hiÖu qu¶ cña c¸ch viÕt, c¸ch nãi Êy, vai trß vµ t¸c dông cña chóng trong viÖc miªu tả, biểu đạt chứ không phải đơn thuần là chỉ gọi đợc tên, kiệt kê các biện pháp mà nhà văn đã dùng. 4. Kh«ng gian vµ thêi gian trong th¬ tr÷ t×nh . Kh«ng gian trong th¬ tr÷ t×nh lµ n¬i t¸c gi¶ - c¸i t«i tr÷ t×nh hoÆc nh©n vËt tr÷ t×nh xuất hiện để thổ lộ tấm lòng của mình trớc mọi ngời và đất trời . Trong tiếng Việt có rất nhiều từ ngữ để nhà văn thể hiện không gian . Trớc hết là bằng hÖ thèng tõ chØ vÞ trÝ vµ tÝnh chÊt nh : trªn, díi, tríc, sau, trong, ngoµi, bªn ph¶i, bªn tr¸i,.
<span class='text_page_counter'>(58)</span> lªn, xuèng... råi mªnh m«ng, b¸t ng¸t, réng, hÑp, th¨m th¼m, mÞt mï, khóc khuûu, quanh co ...vv . Không gian thờng gắn với các địa điểm chỉ nơi chốn nh : bến đò, cây đa, mái đình, giếng nớc, núi cao, rừng thẳm, biển sâu, trời rộng, sông dài ... Nhiều địa danh riêng đã trë thµnh nh÷ng kh«ng gian tîng trng trong v¨n häc nh : Tiªu T¬ng, TÇm D¬ng, C« T«, Xích Bích, Tây Thiên, Địa ngục, Thiên đờng, Bồng lai, Tiên cảnh, cõi Phật, Suối vàng, ... Khi đọc tác phẩm văn học, các em cần chú ý xem nhà văn mô tả không gian ở đây có gì đặc biệt, không gian ấy có ý nghĩa gì và nói đợc nội dung gì sâu sắc qua không gian đó ? VÝ dô, khi d©n gian viÕt : " Đứng bên ni đồng ngó bên tê đồng mênh mông bát ngát, Đứng bên tê đồng ngó bên ni đồng cũng bát ngát mênh mông ". là tác giả dân gian đã tạo đợc một không gian đẹp, rộng mở, khác hẳn với không gian nhá hÑp, tr¾c trë, c¸ch ng¨n trong c©u ca dao nµy : " Ai ®a em tíi chèn nµy Bªn kia m¾c nói, bªn nµy m¾c s«ng " Kh«ng gian trong c©u ca trªn lµ kh«ng gian cña mét t©m hån th¶nh th¬i, ®ang n¸o nøc, r¹o rùc, ph¬i phíi say sa cña mét ngêi con g¸i vµo tuæi dËy th× : "Thân em nh chẽn lúa đòng đòng- Phất phơ dới ngọn nắng hồng buổi mai " Cßn kh«ng gian díi lµ kh«ng gian cña mét t©m tr¹ng bÕ t¾c, mét tiÕng thë dµi, ngao ng¸n . Kh«ng gian trong t©m hån NguyÔn KhuyÕn lµ mét kh«ng gian hiu qu¹nh, buån b·, cô đơn, vắng lặng . ở đó ta gặp toàn những :" Ao thu lạnh lẽo nớc trong veo - một chiếc thuyÒn c©u bÐ tÎo teo "; nhµ «ng ë còng chØ lµ " ba gian nhµ cá thÊp le te " víi c¸i "ngâ tối đêm sâu đóm lập loè "... Kh«ng gian thêng g¾n víi ®iÓm nh×n, ®iÓm quan s¸t m« t¶ cña t¸c gi¶ . C©u th¬ " Tr«ng lªn mÆt s¾t ®en s× " trong truyÖn KiÒu cña NguyÔn Du cho thÊy ngêi viết đứng phía dới nhìn lên. Nhà thơ Tố Hữu cho rằng nh thế, Nguyễn Du đã đứng về phía quần chúng lao động để quan sát bọn thống trị . Cũng nh thế chữ Kìa trong câu thơ :" Kìa hội thăng bình tiếng pháo reo" của Nguyễn Khuyến cho ta thấy ông nh đứng tách ra khỏi c¸i héi t©y ån µo, ®Çy nh÷ng trß nh¨ng nhÝt do bän thùc d©n bµy ra mµ quan s¸t vµ ngÉm nghĩ, mà căm giận, mà đớn đau, chua xót ... Đi liền với không gian nghệ thuật là thời gian nghệ thuật, bởi vì một hành động bao giờ cũng diễn ra ở một địa điểm vào một thời gian nhất định . Có điều khi đọc tác phẩm v¨n häc ta quªn ®i thêi gian hiÖn thùc, nhËp vµo t¸c phÈm, sèng cïng víi nh©n vËt, cïng chứng kiến con ngời và sự việc theo thời gian trong tác phẩm . Vì thế đang đọc giữa ban ngày mà cứ tởng nh đêm đã khuya lắm rồi; quên hiện tại mà cứ nghĩ mình đang ở " ngày xửa ngày xa" vào "đời Vua Hùng Vơng thứ 18" hay " năm Gia Tĩnh Triều Minh" . Do đợc thể hiện bằng ngôn ngữ nghệ thuật, nên thời gian trong tác phẩm văn học đợc cảm nhận và mô tả rất linh hoạt . Nguyễn Du đã dồn 4 mùa trong một câu thơ :" Sen tàn cúc lại nở hoa - Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân " . Ngợc lại Aimatốp đã mô tả " Một ngày dài hơn thế kỉ " . Thời gian trong cuộc đời là thời gian tuần tự, còn trong tác phẩm văn học thời gian có thể đảo ngợc quá khứ, xen lẫn ngày hôm nay và những ngày đã xa khuất ngàn năm trớc cũng nh tởng tợng ra ngày mai cha đến . Thời gian trong tác phẩm văn học là thời gian tâm lí, không trùng khít với thời gian ngoài đời, vì thế không nên hiểu thời gian ấy một cách máy móc, cứng nhắc và áp đặt . Khi nhà thơ viết : Hôm qua, hôm nay, ngày mai, dạo này, tháng trớc, năm sau, dạo ấy, vào một đêm hè ... thì không nên cố tìm xem đó là thời điểm cụ thể nào trong cuộc đời . NÕu nh Hoµng Léc viÕt : " H«m qua cßn theo anh.
<span class='text_page_counter'>(59)</span> Đi ra đờng quốc lộ Hôm nay đã chặt cành §¾p cho ngêi díi mé " ( ViÕng b¹n ) th× râ rµng kh«ng cÇn biÕt h«m qua vµ h«m nay lµ ngµy nµo, th¸ng nµo mµ chØ biÕt sao sự việc xảy ra nhanh quá, bất ngờ quá, hôm qua mới thế , hôm nay đã thế khiến ngời đọc bàng hoàng xúc động . Thêi gian nghÖ thuËt còng mang tÝnh tîng trng. Khi nh¾c tíi ngµy mai thêng lµ tîng trng cho tơng lai, nh khi Tố Hữu viết: " Ngày mai bao lớp đời dơ - sẽ tan nh đám mây mờ đêm nay- Em ơi tháng rộng ngày dài- Mở lòng ra đón ngày mai huy hoàng ". Hoàng hôn, chiÒu tµ thêng tîng trng cho sù tµn lôi, sù kÕt thóc, c¸o chung buån b· . Kh«ng ph¶i ngÉu nhiên hay do bí từ mà Nguyễn Du đã lặp lại chữ hoàng hôn và hôn hoàng trong một câu thơ: " Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng "để khái quát cả một đời Kiều đầy chuyện u buån, tµn t¹ . Ta cã thÓ t×m thÊy thêi kh¾c nµy trong th¬ Th«i HiÖu:" Quª h¬ng khuÊt bãng hoµng h«n ", trong th¬ Bµ HuyÖn Thanh Quan:" Trêi chiÒu b¶ng l¶ng bãng hoµng h«n", trong th¬ Huy CËn " Kh«ng khãi hoµng h«n còng nhí nhµ "... Ngîc l¹i víi hoµng hôn là bình minh . Bình minh, rạng đông thờng tợng trng cho cái đang lên, rạng rỡ, tơi sáng . Đó là khi Hồ Chí Minh viết : "Thuyền về trời đã rạng đông - Bao la nhuốm một màu hồng đẹp tơi "; là khi Nguyễn Đình Thi viết : " Trán cháy rực nghĩ trời đất mới Lòng ta bát ngát ánh bình minh ". Mùa Xuân thờng tợng trng cho tuổi trẻ, sức sống, giàu sinh lực, nh khi Tố Hữu viết: "Trời hôm nay dầu xám ngắt màu đông- Ai cản đợc mùa xuân xanh tơi sáng - Ai cản đợc đàn chim quyết thắng - Sắp về đây tắm nắng xuân hồng". Cã rÊt nhiÒu c¸ch thÓ hiÖn thêi gian trong t¸c phÈm v¨n häc. Kh«ng nhÊt thiÕt ph¶i cã c¸c từ nh sáng, tra, chiều, tối hay xuân, hạ, thu, đông thì ta mới biết. Trong văn học cổ , một chiếc lá ngô đồng rụng xuống, ấy là mùa thu đã về; một tiếng kêu khắc khoải của chim quốc báo hiệu hè đã sang. Khi Nguyễn Du tả cảnh: " Cỏ non xanh tận chân trời - Cành lê trắng điểm một vài bông hoa " thì ai chẳng biết đó là mùa xuân. Cũng nh vậy đọc câu thơ Chinh phô : " ThÊy nh¹n luèng nh÷ng th phong - Nghe h¬i s¬ng s¾m ¸o b«ng s½n sµng " ta đã cảm nhận đợc cái se sắt, rét mớt, run rẩy của mùa đông đang tới. Khi Tố Hữu viết: " Trăng lên, trăng đứng, trăng tàn" cũng là để chỉ thời gian đang trôi đi của một đêm và đó cũng có thể hiểu là các thời điểm của một đời ngời. Đọc câu thơ của Trần Hữu Thung:"Cam ba lần có trái- Bởi ba lần ra hoa" chắc các em đều hiểu thế là thời gian ba năm đã trôi qua . Nh thế không gian và thời gian đều có rất nhiều cách thức biểu hiện khác nhau. Đấy chính là chỗ để các nhà thơ thể hiện sự sáng tạo và những cách cảm nhận độc đáo, riêng biÖt trong t¸c phÈm cña m×nh .. Ngày soạn : 22/11/2011 Ngày dạy : /11/2011. Buæi 10 C« bÐ b¸n diªm. + Tóm tắt: Em bé mồ côi mẹ phải đi bán diêm trong đêm giao thừa rét buốt. Không bán đợc diêm, bụng đói nhng em không dám về nhà vì sợ bố đánh, đành ngồi nép vào một góc tờng, liên tục quẹt diêm để sởi. Lần quẹt diêm thứ nhất: em thấy hiện ra lò sởi víi ¸nh löa Êm ¸p. LÇn quÑt diªm thø hai: thÊy bµn ¨n cã ngçng quay. LÇn quÑt diªm thø 3: thÊy c©y th«ng N«-en. LÇn quÑt diªm thø 4: thÊy bµ hiÖn lªn. HÕt mét bao diªm th× em bÐ chÕt cãng trong giÊc m¬ cïng bµ néi bay lªn trêi. S¸ng h«m sau- mïng mét Tết- mọi ngời qua đờng vẫn thản nhiên nhìn cảnh tợng thơng tâm..
<span class='text_page_counter'>(60)</span> + T¸c gi¶: (1805- 1875) - Lµ nhµ v¨n næi tiÕng nhÊt §an-M¹ch. - S¸ng t¸c nhiÒu truyÖn kÓ dµnh cho trÎ em + T¸c phÈm chÝnh: - Cô bé bán diêm, Bầy chim thiên nga, Nàng tiên cá, Bộ quần áo của hoàng đế... - Cốt truyện nhẹ nhàng, tơi mát, toát lên lòng yêu thơng con ngời, đặc biệt là những ngời nghèo khổ. Tin vào những điều tốt đẹp. + Đại ý: Kể chuyện em bé bán diêm bị chết trong đêm giao thừa vì đói rét. I- Ph©n tÝch v¨n b¶n: 1- Em bé trong đêm giao thừa: + Hoµn c¶nh: - Mẹ mất, bà nội qua đời, sống với bố. - Nhµ nghÌo: sèng chui róc trong mét xã tèi t¨m- trªn g¸c s¸t m¸i nhµ. - Lu«n nghe nh÷ng lêi m¾ng nhiÕc chöi rña cña bè. - Phải đi bán diêm kiếm sống ( bán cả đêm giao thừa). => Mét tuæi th¬ bÊt h¹nh, hoµn c¶nh th ¬ng t©m: thiÕu thèn vÒ vËt chÊt, m¸t m¸t vÒ t×nh c¶m. + Bèi c¶nh: §ªm giao thõa. => Thời điểm con ngời đợc sum họp đầm ấm, hạnh phúc. + C¶nh tîng: - Trời đông giá rét, tuyết rơi dày đặc - Cửa sổ mọi nhà sáng rực ánh đèn. - Sùc nøc mïi ngçng quay. Em bé:- đầu trần, chân đi đất, ngồi nép trong một góc tờng giữa hai ngôi nhà. - Bụng đói, cả ngày cha ăn uống gì. => Hình ảnh tơng phản đối lập ( thiên nhiên- em bé, ngoài đờng- trong nhà, xó tối tămngôi nhà xinh xắn xa kia) => Nổi bật hình ảnh tội nghiệp của em bé trong đêm giao thừa: Đói rét, khổ cực, cô đơn. GV: Đói rét đã khổ, càng khổ hơn khi nhìn cảnh mọi nhà xung quanh đầm ấm, hạnh phúc, Còn em bé bơ vơ, lẻ loi giữa cuộc đời giá lạnh, không nơi nơng tựa, không bàn tay nâng đỡ chở che -> tràn trề nỗi hờn tủi, bất hạnh. Những ngời thân yêu đã từ bá em ra ®i, ®em theo niÒm h¹nh phóc tuæi th¬ cña em, bá em l¹i víi ngêi bè côc c»n th« b¹o vµ nçi kh¸t khao h¹nh phóc kh«ng bao giê trë l¹i. 2- Thùc tÕ vµ méng tëng: - 5 lÇn quÑt diªm: + L1: Lß sëi- löa ch¸y. + L2: Bµn ¨n- ngçng quay. + L3: C©y th«ng N«-en léng lÉy (TÕt ph¬ng T©y). + L4: Bµ hiÖn ra, mØm cêi. + L5: quÑt hÕt chç diªm cßn l¹i: Bµ cÇm tay bay lªn cao... => QuÑt diªm: - Để đợc sởi ấm phần nào. - Đợc chìm đắm trong ảo ảnh. - §Ó ®an xen gi÷a thùc vµ ¶o. => Gièng truyÖn cæ tÝch (göi g¾m íc m¬) + Lß sëi (L1): trêi rÐt, m¬ íc kh«ng khÝ Êm ¸p. + Bàn ăn, ngỗng quay (L2): đang đói, mơ ớc đợc ăn ngon, + cây thông Nô-en (L3): Thèm khát hạnh phúc, không khí đón Tết đầm ấm. + Bµ hiÖn lªn (L4): ThÌm kh¸t t×nh yªu th¬ng. => Mộng tởng đợc sắp xếp theo trình tự hợp lý. GV: Thùc tÕ vµ méng tëng xen kÏ nhau, khi que diªm ch¸y lªn lµ lóc méng tëng hiện ra trong đầu óc em bé. Khi que diêm tắt, bóng đêm trùm xuống, em bé lại trở về với thực tại. Những hình ảnh: ngỗng quay nhảy ra khỏi đĩa, hai bà cháu nắm tay nhau bay lªn trêi... thuÇn tuý chØ lµ méng tëng. LÇn quÑt diªm thø 5: hèi h¶, liªn tôc, kú hÕt bao diªm. ¸nh s¸ng kú diÖu nh tiÕp søc cho méng tëng: Bµ néi hiÖn lªn cha bao.
<span class='text_page_counter'>(61)</span> giờ to lớn và đẹp lão đến thế. Em muốn níu giữ bà ở lại với em trong lúc cô đơn lạnh lÏo, v× chØ cã bµ ngêi yªu th¬ng em nhÊt. Dêng nh em còng m·n nguyÖn khi lêi khÈn cầu của em đợc thực hiện: hai bà cháu nắm tay nhau bay lên cao, nơi có thiên đờng hạnh phúc, không còn buồn đau đói rét đe doạ nữa. => Em bé đã ra đi vĩnh viễn trong đói rét. 3- Mét c¶nh th¬ng t©m: - Em bÐ: §«i m¸ hång - §«i m«i ®ang mØm cêi. => Ngây thơ, hồn nhiên nh đang cùng bà bay lên trời đón niềm vui năm mới. - Mọi ngời: Lạnh lùng, thờ ơ, vô tình ngay cả khi em đã chết. => C¶ XH thê ¬, v« c¶m. thiÕu t×nh th¬ng tríc c¸i chÕt cña em bÐ nghÌo khæ, må c«i. - T¸c gi¶: §ång c¶m, sÎ chia, yªu th¬ng em bÐ, n©ng niu sinh linh bÐ nhá. Bình: Thái độ và tình cảm của tác giả là điểm sáng giữa cuộc đời đen tối, giữa XH nhÉn t©m, thiÕu t×nh ngêi. b»ng lßng yªu th¬ng, nh©n hËu vµ ngßi bót l·ng m¹n, t¸c giả đã để cho em bé ra đi trong cảnh tợng huy hoàng, làm cho câu chuyện cảm động, đau thơng trở nên nhẹ nhàng, đầy chất thơ. Nhng thực tế cay đắng thừa nhận rằng: kết thúc câu chuyện thật thơng tâm và gợi cho ngời đọc nhiều suy ngẫm. II. KiÕn thøc cÇn nhí: 1. Các truyện kể cho trẻ em của Andecxen thờng đợc biết đến với tên gọi truyện cổ tích vì truyện ông viết cho thiếu nhi thờng phảng phất màu sắc cổ tích, tuy nhiên ở đó nhiều khi yÕu tè hiÖn thùc l¹i xuÊt hiÖn rÊt ®Ëm nÐt. 2. Sù bÊt h¹nh cña em bÐ b¸n diªm vµ thÕ gi¬Ý méng tëng cña em > tÊm lßng yªu th¬ng cña nhµ v¨n tríc mét sè phËn bÊt h¹nh. 3. Nghệ thuật tơng phản đặc biệt là sự đan xen, chuyển hóa giữa mộng và thực, cách kể chuyện giản dị nhng truyền cảm và đầy ấn tợng đối với ngời đọc. III. LuyÖn t©p: 1.Vì sao thế giới mộng tởng của em bé bán diêm đợc bắt đầu bằng hình ảnh lò sởi và kÕt thóc b»ng h×nh ¶nh ngêi bµ nh©n tõ? ( *Vì em đang phải chịu cái rét khủng khiếp của đêm giao thừa với gió và tuyết lạnh, h¬n n· ph¶i chÞu c¶ c¸i rÐt cña sù thiÕu v¾ng t×nh th¬ng – h×nh ¶nh bµ xuÊt hiÖn.> t« ®Ëm nh÷ng bÊt h¹nh cña em bÐ trong thÕ giíi hiÖn thùc) 2. H·y chØ ra sù chuyÓn hãa gi÷a méng vµ thùc trong truyÖn? ( *Thế giới mộng tởng của em bé trớc tiên đợc dệt lên từ những chất liệu rất thực: lò sởi, ngỗng quay….đây là những cảnh sinh hoạt rất thực đang bao quanh em, mọi ng ời có nhng em thì không > cái thực đã thành mộng tởng, chỉ trong mộng tởng, em mới tìm đợc cái thực đã mất; còn ngời bà đã mất nhng với em hình ảnh bà hiện lên rất thực…) 3, Theo em, kÕt thóc truyÖn cã ph¶i lµ kÕt thóc cã hËu kh«ng? V× sao? ( *Không, vì truyện cổ tích thờng kết thúc có hậu, nhân vật tìm đợc hạnh phúc ngay trong hiện thực còn cô bé tìm thấy hạnh phúc trong mộng tuởng và chết trong cô đơn, giá lạnh, trong một thế giới mà chẳng ai biết về nó > nỗi xót xa làm day dứt ngời đọc) 4, GV đọc thêm cho học sinh nghe đoạn đầu của truyện đã bị lợc bớt trong Truyện cæ tÝch ANDECXEN Ngày soạn : 22/11/2011 Ngày dạy : /11/2011. Buæi 11 CHIẾC LÁ CUỐI CÙNG. I. Tác giả : O Hen ri là nhà văn Mĩ (1862 -1910), tên thật của ông là Po-tơ. Cha ông là thầy thuốc, mẹ ông qua đời khi ông mới lên ba. - Thuở nhỏ, ở với bố, ông không được học hành nhiều mà vừa đi học vừa đi lao động. Năm 15 tuổi đã phải thôi học đến làm công kiếm sống tại một hiệu thuốc, ở trại chăn nuôi. Sau đó còn phải làm nhiều nghề khác để kiếm ăn như : nhân viên kế toán, vẽ tranh,.
<span class='text_page_counter'>(62)</span> thủ quỹ ngân hàng. Nhưng rồi một chuyện không đâu, anh bị cầm tù với mức án 5 năm. Nhưng mới chỉ thụ án 3 năm 3 tháng, anh đã được tự do. Ra tù, anh lấy bút danh là Ô.hen ri từ đó (Ohenri là tên của một người cai ngục nhân hậu mà Po- tơ vô cùng cảm mến, được dùng làm bút danh để nhớ mãi hình ảnh một ân nhân của mình) - Mười năm cuối đời, ông sống ở New ước, tài năng phát triển một cách kì lạ, và trở thành một nhà văn chuyên nghiệp về sở trường truyện ngắn. Ông sáng tác rất nhiều, lao động sáng tạo miệt mài bèn bỉ. Hầu như tuần nào ông cũng có truyện in trên các báo và tạp chí. Có tháng, ông đăng báo đến 10 truyện ngắn. Có năm như 1904, 1905, ông đã viết 65 truyện ngắn in ở nhiều bào. Danh tiếng nổi lên như cồn - Có thể kể các tập : Bắp cải và vua chúa (1904), Bốn triệu (1906), Trung tâm miều Tây (1907), Tiếng nói của thành phố (1908), Những sự lựa chọn (1909). - Truyện của ông phong phú, đa dạng về đề tài, nhưng phần lớn hướng vào cuộc sống nghèo khổ, bất hạnh của người dân Mĩ. Một số truyện mang ý nghĩa phê phán xã hội rõ rệt. - Về nghệ thuật, truyện ngắn của ông có lối viết nhẹ nhàng, đầy tình huống hấp dẫn, kết cấu chặt chẽ... đã tạo nên giá trị tư tưởng và nghệ thuật trong những tác phẩm của O.Hen ri và rất lôi cuốn sự hứng thú của bạn đọc. - Năm 1910, Ô.Hen ri qua đời, để lại một sự nghiệp văn chương đồ sộ : khoảng 600 truyện ngắn. Nổi tiếng nhất là những truyện ngắn kiệt tác như : Căn gác xép, Cái cửa xanh, Chiếc lá cuối cùng, Quà tặng của những nhà hiền triết, Tên cảnh sát và gã lang thang, Sương mù ở Xen-tôn, Khi người ta yêu. - Vinh dự lớn nhất của O.Henri là gần 10 năm sau khi ông qua đời, hội nghệ thuật và khoa học Mĩ đã lấy tên ông làm giải thưởng cho 3 truyện ngắn hay nhất hàng năm. II. Tóm tắt tác phẩm - Tại một khu nhỏ phía tây công viên Oa-sinh tơn là cái làng Gri-nig cổ kính. Các nghệ sĩ nghèo thường lui tới tìm thuê những căn phòng có cửa sổ hướng bắc, những buồng xép sát nóc kiểu Hà Lan với giá tiền rẻ. - Phòng hoạ của hai nữ hoạ sĩ trẻ đặt ở tầng thượng ngôi nhà cổ gạch ba tầng thấp lè tè ; tầng cuối cùng là phòng của cụ Bơ men đã ngoài 60 tuổi, nghiện rượu nặng. Đã hơn bốn mươi năm mà ngòi bút màu của cụ chưa với tới được gấu áo vị nữ thần nghệ thuật. Cụ luôn luôn có ý định vẽ một bức tranh kiệt tác, nhưng chưa bao giờ bắt đầu cả. Hai nữ hoạ sĩ trẻ, một người tên Giôn xi, một người tên là Xiu. Một cô từ bang Men tới, một cô từ Ca-li-pho-ni-a. Họ kết nghĩa, gắn bó trong tình chị em thân thiết. - Mùa đông năm ấy, chứng viêm phổi hoành hành đã đánh ngã hàng chục nạn nhân bên khu phía đông.... Thế rồi Giôn xi bị cảm lạnh nằm bất động trên chiếc giường sắt. Viên bác sĩ cho Xiu biết, bệnh tình của Giôn-xi mười phần chỉ còn hi vọng được một thôi. Xiu tranh thủ vẽ để kiếm thêm tiền mua rượu Boóc đô pha sữa, mua thuốc để săn sóc, chạy chữa cho đứa em tội nghiệp. Ngày đêm trôi qua, Giôn xi nằm yên bất động và trắng bệch như pho tượng đổ. Cô chỉ biết nhìn ra phía cửa sổ, nhẩm đếm từng chiếc lá còn lại trên cây thường xuân, mệt mỏi buông xuôi nghĩ sẽ ra đi khi chiếc lá cuối cùng rụng xuống. - Cụ Bơ men lại lên gác 3 ngồi làm người mẫu cho Xiu vẽ. Xiu đã nói với cụ về nỗi niềm tuyệt vọng của Giôn xi. Một đêm mưa tuyết lạnh lẽo nữa lại ào tới. Nhưng chiếc lá dũng cảm màu vàng úa vẫn bám vào cành. Chiếc lá thường xuân, chiếc lá cuối cùng vẫn còn đó. Giôn xi bình phục dần..
<span class='text_page_counter'>(63)</span> - Cụ Bơ men đã chết vì sưng phổi sau 2 ngày nằm viện. Giầy và quần áo cụ ướt sũng và lạnh buốt còn để lại trong phòng. Chiếc than, chiếc đèn bão, và chiếc bút lông rơi vung vãi.... ở ngoài cửa sổ. Xiu khẽ nhắc em hãy nhìn ra ngoài cửa sổ, nhìn chiếc lá cuối cùng trên cây rồi bảo : « ồ, em thân yêu, đó chính là tác phẩm kiệt xuất của cụ Bơ men đấy. Cụ đã vẽ nó vào cái đêm mà chiếc lá cuối cùng đã rụng... » III. Bố cục : 3 phần - Phần 1 : Giôn xi đợi cái chết (từ đầu đến « kiểu Hà lan ») - Phần 2 : Giôn xi vượt qua cái chết ( tiếp đến « vịnh Na-plơ ») - Phần 3 : Bí mật của chiếc lá cuối cùng (còn lại) IV. Phương thức biểu đạt của văn bản này là : Tự sự kết hợp miêu tả và biểu cảm. V. Phân tích : « Chiếc lá cuối cùng » là một trong những truyện tiêu biểu cho bút pháp nghệ thuật của O.Henri. Số lượng nhân vật không nhiều, chỉ có 3 nhân vật : Giôn xi- cô hoạ sĩ bị ốm và xiu- cô bạn cùng chung phòng trọ, người bác sĩ đến chữa bệnh cho Giôn xi và cụ già Bơmen- hoạ sĩ già sống cùng ngôi nhà trọ đó. Với « Chiếc lá cuối cùng », chúng ta bước vào thế giới của những nghệ sĩ nghèo. Họ tìm đến quảng trường Gri-niz gần công viên Oa sinh tơn không phải vì cái vẻ cổ kính, kì quặc, cũng không phải vì cái phong cảnh tuyệt vời của nó mà vì « tiền thuê rẻ ». Trong cái xã hội mà thước đo là đồng tiền thì « tiền thuê rẻ » cũng nói lên khá nhiều điều và tác giả cũng mỉa mai nhận xét : « Phố này có một khả năng rất quý. Hãy tưởng tượng xem một tay thu ngân nào đó mang hoá đơn đòi tiền sơn hay giấy và vải vẽ đi qua con đường này, đột nhiên lại gặp ngay chính mình quay trở ra, tiền nợ không thu được một xu nhỏ ». Và cái không gian đó cho dù nó được gọi là quảng trường thì nó vẫn bị chia nhỏ thành những quảng trường « chằng chịt » khiến cho phạm vi không gian bị thu hẹp lại. Sự « chật hẹp » hiện ra như « mọc rêu » khiến cho khu nhà càng thêm vẻ cô quạnh, hoang tàn. Cái không gian nghèo nàn ngay từ vẻ bên ngoài ấy chỉ tiếp nhận những con người ngụ cư. A. « CHIẾC LÁ CUỐI CÙNG » LÀ BỨC THÔNG ĐIỆP MÀU XANH VỀ TÌNH THƯƠNG VÀ SỰ SỐNG CON NGƯỜI 1.Tình bạn cảm động. - Hai nữ hoạ sĩ trẻ ở hai miền quê khác nhau : một cô từ bang Men tới, cô kia quê ở Ca-li-pho-ni-a và họ cùng thuê chung một phòng trọ nơi phố nghèo. a.Điều gì đã gắn kết Xiu và Giôn xi lại với nhau ? + Cùng sở thích về món rau diếp xoăn trộn dầu dấm và kiểu ống tay rộng + Cùng lựa chọn nghề hội hoạ : « hàng ngày làm việc lát con đường dẫn tới nghệ thuật bằng những bức tranh minh hoạ cho những truyện ngắn của các tạp chí, do các nhà văn trẻ viết để lát con đường của họ dẫn tới văn học » + Cùng cảnh nghèo. Họ vẽ tranh để kiếm cái lèn chặt dạ dầy thường hay trống rỗng của họ và cao hơn nữa là để duy trì sự sống của chính họ mỗi khi mùa đông băng giá đến. b Sụ kiện nào cho ta thấy sự gắn bó giữa hai cô hoạ sĩ này không đơn thuần chỉ là mối quan hệ của những người trọ cùng một nhà mà thân thiết như chị em ruột thịt ? - Sự việc Giôn xi bị ốm. Mùa đông năm ấy, chứng viêm phổi hoành hành đã « đánh ngã hàng chục nạn nhân ». Đối với những người nghèo, cho dù họ là hoạ sĩ, thì đói rét.
<span class='text_page_counter'>(64)</span> và bệnh tật thường xuyên là khách không mời, thường xuyên gõ cửa rình rập và đe doạ họ. Trong mùa đông, điều đó càng trở nên ác liệt hơn. => Đây là nghệ thuật tạo dựng tình huống. Tác giả chọn bệnh tật làm đối tượng miêu tả trực tiếp để đặc tả những phương diện khác. Chọn một nhân vật trong trạng thái ốm đau bệnh tật làm tiêu điểm cho hành vi hoạt động của các nhân vật khác là đòn bẩy để từ đó làm nổi lên các tình cảm nhân đạo, tạo ra thước đo phẩm chất nhân vật (chính trong hoàn cảnh bi đát ấy, tình bạn được thử thách). Đây là một cách tạo dựng tình huống có vấn đề để dẫn dắt tới cách giải quyết đột biến bất ngờ khi kết thúc truyện. Theo dõi phần thứ nhất của văn bản cho biết : bệnh tật của Giôn Xi có gì đặc biệt ? - Giôn xi bị viêm phổi, nằm liệt giường. Bác sĩ nói : « Bệnh tình của cô ấy có thể nói là mười phần chỉ còn hy vọng được một thôi ». - Bản thân Giôn xi là một cô gái ốm yếu và thiếu máu - Nghèo , không có tiền - Chưa từng thành công trong sự nghiệp => Giôn xi không có một sợi dây ràng buộc nào đáng kể với cuộc sống. - Cảnh ngộ ấy ảnh hưởng đến tâm trạng của Giôn xi như thế nào ? Tại sao Giôn xi « mở to cặp mắt thẫn thờ nhìn tấm mành mành và thều thào ra lệnh « kéo nó lên ».Hình dung như thế nào về nhân vật Giôn xi từ chi tiết miêu tả dáng vẻ « thẫn thờ » và giọng nói « thều thào » của cô ? - Cô muốn nhìn xem chiếc lá thường xuân cuối cùng bên cửa sổ đã rụng chưa. - Một cô gái trong tình trạng sức khoẻ yếu ớt, gần như cạn kiệt sức sống. Em hiểu gì về trạng thái tinh thần của Giôn xi từ câu nói của cô : « Đó là chiếc lá cuối cùng.... Em cứ tưởng là nhất định trong đêm vừa qua nó đã rụng.... Hôm nay nó sẽ rụng thôi và cùng lúc đó thì em sẽ chết ». - Giôn xi cảm thấy mình bất hạnh, bất lực trước bệnh tật, không tha thiết với cuộc sống, đó là tâm trạng chán nản của kẻ chờ đợi phút chia tay với cuộc đời. Chi tiết Giôn xi đã không đáp lại những lời lẽ yêu thương của bạn, tâm hồn đang chuẩn bị sẵn sàng cho chuyến đi xa xôi bí ẩn của mình cho ta biết thêm điều gì về Giôn xi ? - Cô vô cùng yếu đuối và tuyệt vọng. Giôn xi có những dự cảm mình sẽ chết, đáng sợ hơn là Giôn xi không cảm thấy luyến tiếc cuộc sống. Tâm hồn cô đã chuẩn bị sẵn sàng cho một chuyến đi xa, chỉ chờ cho chiếc lá thường xuân bé nhỏ đang quằn quại trong gió lạnh kia rụng xuống. Con người yếu đuối và tuyệt vọng như Giôn xi gợi cho em những cảm xúc gì ? - Sự sụp đổ về tinh thần của cô hoạ sĩ trẻ bất hạnh làm cho bệnh tình ngày thêm trầm trọng. Cuộc sống của Giôn xi giờ đây được ví như chiếc lá nhỏ nhoi, yếu ớt, mảnh mai kia. Và cuộc đấu tranh để bảo vệ cái cuộc sống nhỏ nhoi, yêu ớt ấy là một cuộc đấu tranh với sự chiến thắng tuyệt vời của tình người. (Cô bệnh nhân ấy « yên trí là mình không thể khỏi được » đã bình thản lạnh lùng làm vái việc nhìn qua cửa sổ trong tư thế nằm trên giường bệnh đếm từng chiếc lá thường xuân đang rụng dần trong gió lạnh. Đối với Giôn Xi : chiếc lá là biểu tượng của thước đo thời gian, thước đo cuộc đời. Cuộc đời của cô, cô đã xây dựng cho mình một niềm tin bất hạnh : cô sẽ ra đi khi chiếc lá thường xuân cuối cùng rụng xuống. Một niềm tin định.
<span class='text_page_counter'>(65)</span> mệnh đớn đau. « Trong khắp thế gian, cái cô đơn nhất là một tâm hồn đã chuẩn bị sẵn sàng cho chuyến đi xa xôi bí ẩn của mình. Những sợi dây ràng buộc cô với tình bạn, với thế gian này cứ lơi lỏng dần từng cái một thì ý nghĩ kì quặc kia hình như lại càng choán lấy tâm trí cô mạnh mẽ hơn ». Sự so sánh cuộc đời con người với chiếc lá mong manh trước làn gió mạnh trong giá rét phũ phàng của mùa đông là một sự so sánh tuyệt vời sâu sắc. Đồng thời nó cũng nói lên sự đồng cảm xót xa của nhà văn trước đồng loại. Nghèo thường đi đôi với hèn, nhưng ở đây không phải là hèn trong phẩm cách mà là yếu đuối trong niềm tin, trong bản lĩnh. Trong cuộc sống tựa vai vào người khác như vậy, Giôn xi tự cảm thấy mình là gánh nặng cho người khác, cô đau khổ tự giầy vò vì thấy người khác phải chăm sóc mình, phải bận tâm vì mình. Niềm hi vọng ở đây duy nhất cô đặt cả vào chiếc lá thường xuân vàng úa, mỏng manh, nhỏ nhoi đang quằn quại trong gió lạnh. Cuộc đời của cô sẽ chấm dứt khi chiếc lá cuối cùng đó lìa cành. Đây quả là một sự so sánh tuyệt vời rất phù hợp với kiểu tư duy hình tượng Đông phương. Cuộc đời được ví với những cái mảnh mai yếu ớt, để đổ, dễ vỡ, là ngọn đèn cạn dầu leo lét trước gió. Và cuộc đấu tranh để bảo tồn cái nhỏ nhoi ấy, để bảo vệ cái yếu ớt ấy là phẩm chất tuyệt vời của tình người) cXiu đã làm gì để bảo vệ Giôn xi ? Chính trong hoàn cảnh bi đát ấy, tình bạn được thử thách, Xiu thương bạn vô cùng, cô đã khóc « đến ướt đẫm cả một chiếc khăn trải bàn Nhật Bản ». Xiu lo âu và đã làm tất cả để cứu Giôn xi - Cô vẽ nhiều hơn để có tiền mua thuốc và mua thức ăn cho bạn. - Cô chăm sóc động viên bạn, nén nỗi xót thương lo lắng để nâng đỡ tinh thần cho bạn. khi đứa em tội nghiệp « nằm yên lặng và trắng nhợt như một pho tượng bị đổ » thì Xiu vẫn kiên nhẫn an ủi em. Cô nói qua làn nước mắt : « Em thân yêu, em yêu dấu !... Em hãy hứa với chị là hãy nhắm mắt lại và không nhìn ra ngoài cửa sổ nữa... Em hãy cố ngủ đi » - Xiu đã tận tình chăm sóc em, lúc thì quấy nước súp gà, lúc thì pha sữa với rượu Boóc đô, lúc thì đặt thêm gối, lúc thì mời bác sĩ, lúc thì cầu cứu bác Bơ men. Xiu đã giành giật với tử thần để chạy chữa cho đứa em nuôi bé bỏng tội nghiệp. =>Xiu là hiện thân của lòng trắc ẩn, vị tha, là một con người giầu đức hy sinh thầm lặng, có một trái tim nhân hậu mênh mông. Xiu là một nhân vật rất đẹp làm ta xúc động và ngưỡng mộ về một tình bạn, tình chị em thuỷ chung, cao quý. Nhân vật Xiu toả sáng « bức thông điệp màu xanh » của « chiếc lá cuối cùng » d. Bí mật chiếc lá cuối cùng Theo dõi phần cuối văn bản « Chiếc lá cuối cùng » cho biết sự thật về chiếc lá vẫn còn đó liên quan đến nhân vật nào ? cụ Bơ men được tác giả giới thiệu như thế nào ? - Bác Bơ men là một hoạ sĩ nghèo đã 60 tuổi, không thành đạt trong nghệ thuật : « cụ múa cây bút vẽ đã bốn mươi năm mà vẫn không với tới được gấu áo vị nữ thần của mình » nhưng sống rất lương thiện và luôn khát vọng sáng tạo một kiệt tác. Đã ngoài sáu mươi, nhưng bác Bơ men vẫn sống cô độc « trong một gian buồng tối om om ở tầng dưới » Chỉ có những người nghèo mới phải ở trong một gian buồng như thế. Trong một gian buồng như thế thì vẽ thế nào được tranh, cho nên trên giá vẽ ở góc buồng của bác vẫn là một tấm vải trống trơn chưa có một nét vẽ. Không có tranh để bán, hàng ngày bác.
<span class='text_page_counter'>(66)</span> « kiếm được chút ít bằng cách ngồi làm mẫu cho các nghệ sĩ trẻ không đủ tiền thuê người làm mẫu chuyên nghiệp ». Cuộc sống của Bác thật khổ và thật bấp bênh. - Tuy sống trong nghèo khổ, suốt đời chỉ uống loại rượu nặng rẻ tiền, nhưng ước mơ sáng tạo lúc nào cũng cháy bỏng trong lòng bác. Bác luôn có ý định vẽ một bức tranh kiệt tác. Ước mơ, khát vọng của bác thật đẹp, thật chân chính. Ở đây, cụ Bơ men đã vẽ bức tranh chiếc lá cuối cùng với mục đích gì ? Để cứu người khỏi tai hoạ, kéo dài sự sống cho một tâm hồn yếu đuối đáng đếm lá rụng chờ chết, có những con người đứng trước cái chết không hề sợ chết. Cụ già Bơmen, một hoạ sĩ già là một con người giầu đức hi sinh như vậy. Hoạ sĩ già Bơ men đã vẽ bức tranh chiếc lá cuối cùng như thế nào ? - Vẽ âm thầm, bí mật trong đêm mưa gió lạnh buốt ngoài trời, chứng cớ là « người ta tìm thấy một chiếc đèn bão vẫn còn thắp sáng và một chiếc thang đã bị lôi ra khỏi chỗ để của nó, và vài chiếc bút lông rơi vung vãi, và một bảng pha màu có màu xanh và màu vàng trộn lẫn ». Người hoạ sĩ già ấy đã phải trả giá như thế nào cho bức vẽ chiếc lá cuối cùng của mình ? - BỊ viêm phổi nặng và đã chết vì sưng phổi Nêu cảm nhận của em về cái chết của cụ Bơ men ? Cái chết của Bơ men thật là cao cả. Ông không chỉ thương xót, mà đã tìm ra cách để chữa căn bệnh nguy hiểm trong trí não giôn-xi, dù ông có phải xông pha trong bão tuyết. Bơ Men trở về và làm việc thầm lặng dưới ngọn đèn bão tuyết tù mù. Trong đêm mưa rét ấy, một kiệt tác đã hoàn thành, kịp thời thay thế cho chiếc lá vừa rung. Và cũng trong đêm mưa gió bão bùng ấy, sau khi vẽ bức kiệt tác trong tình thương của mình lên bức tường cáo tới sáu thước, bước xuống khỏi cái thang chông chênh, ông già đã bị viêm phổi nặng, rồi hai ngày sau ông đã lặng lẽ đi vào cõi vĩnh hằng. Cái chết lặng lẽ, sự hi sinh thầm lặng của ông ít ai biết đến, nhưng chính nó đã cứu sống được một mạng ngườimột con người còn rất trẻ và biết đâu, đó lại là một tài năng vĩ đại sau này sẽ tiếp tục con đường nghệ thuật chân chính mà Bơ men đã theo đuổi suốt đời. Cái chết là rất đáng ghét nhưng trong trường hợp của Bơ men, nó vô cùng đang kính trọng, bởi nó càng khẳng định lòng yêu thương con người, sự hi sinh cao cả vì con người của người nghệ sĩ già. Bác Bơ men đã chết nhưng tác phẩm kiệt xuất của bác vẫn sống mãi với hai cô gái nghèo, vẫn sống mãi trong lòng các thế hệ bạn đọc. Bởi vì tác phẩm đó đã biểu hiện tất cả phẩm chất cao đẹp của bác : nghèo nhưng vô cùng nhân hậu, giàu lòng yêu thương và đức hi sinh. Bác là biểu tượng của nghệ thuật vị nhân sinh cao cả. II. KIỆT TÁC « CHIẾC LÁ CUỐI CÙNG » Câu hỏi : Vì sao có thể nói : « Chiếc lá cuối cùng » là một hình tượng quan trọng, linh hồn của truyện ngắn này ? Không phải ngẫu nhiên hình ảnh chiếc lá trường xuân cuối cùng đã trở thành nhan đề một truyện ngắn bất tử của nhà văn Mĩ lừng danh O.Hen ri. Đó là một chi tiết cảm động, biểu tượng nghệ thuật bất ngờ, độc đáo mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc a. Chiếc lá trường xuân nhỏ bé tầm thường, do bàn tay một hoạ sĩ « thường thường bậc trung » tạo ra rất giống chiếc lá thật. Bức tranh « lá » thật sinh động đến nỗi con mắt chuyên môn tinh trẻ của Giôn xi nhìn ngắm hoài mà sao không thể phân biệt nổi lá thật hay lá vẽ ? « Sau trận mưa vùi dập và những cơn gió phũ phàng kéo dài cả một đêm, tưởng chừng không bao giờ dứt, vẫn còn một chiếc lá thường xuân bám trên bức tường.
<span class='text_page_counter'>(67)</span> gạch. Đó là chiếc lá cuối cùng trên cây. Tuy ở gần cuống lá còn giữ màu xanh sẫm, nhưng rìa lá hình răng cưa đã nhuốm màu vàng úa, tuy vậy chiếc lá dũng cảm vẫn bám vào cành cách mặt đất chừng sáu thước. Và « ngày hôm đó trôi qua và ngay cả trong ánh hoàng hôn, họ vẫn trông thấy chiếc lá thường xuân đơn độc bám lấy cái cuống của nó trên tường và rồi, cùng với màn đêm buông xuống, gió bấc lại lồng lộn, trong khi mưa vẫn đập mạnh vào cửa sổ và mái hiên thấp kiểu Hà Lan mưa rơi lộp độp xuống mặt đất ». Chiếc màn xanh lại được kéo lên khi buổi sáng lại về. Chiếc lá thường xuân vẫn còn đó ». b- Chiếc lá dũng cảm đó đã cứu sống một con người. - Nhờ chiếc lá giả- lá vẽ (nhưng có thật) vào mặt bức tường trước khuôn cửa sổ mà cô hoạ sĩ trẻ Giôn Xi dần khỏi bệnh . Hoạ sĩ già Bơ men đã cứu được cô gái đáng thương bằng kiệt tác đầu tiên- và cũng là cuối cùng của mình, hay chính cô đã tự cứu cô bởi niềm hi vọng lớn dần, mạnh ấm dần khởi nguồn từ chiếc lá lạ lùng, gan lì bám trụ, quyết không chịu lìa khỏi ngọn dây leo loằng ngoằng. - Chiếc lá cuối cùng xuất hiện kịp thời đúng lúc đó đã đem lại niềm tin vào sự sống cho Giôn xi, đã thăng hoa nội lực cho Giôn xi, giúp cô chiến thắng gã « viêm phổi » dai dẳng hiểm ác. Cô chợt hiểu ra : « có một cái gì đó làm cho chiếc lá cuối cùng vẫn còn đấy để em thấy rằng mình đã tệ như thế nào » và hi vọng « một ngày nào đó sẽ được vẽ vịnh Na Plơ » lại trỗi dậy trong cô ; cùng với niềm hi vọng ấy nhựa sống lại lên men, nghị lực và mầm sống lại hồi sinh, khiến bác sĩ phải thốt lên : « được năm phần mười rồi. Chăm sóc chu đáo thì chị sẽ thắng và « cô ấy khỏi nguy hiểm rồi, chị đã thắng ». Không hẳn chiếc lá của cụ Bơ men đã cứu Giôn xi khỏi tắt lịm đi như ngọn đèn mờ con con trước gió đông lạnh buốt mà chính bàn tay già nua của người hoạ sĩ láng giềng nghèo, cô đơn trong đêm gió tuyết ấy chỉ cố tạo nên niềm hi vọng, khơi bùng lên ngọn lửa tình đời sắp lụi tàn nơi trái tim người đồng nghiệp trẻ không may b. Chiếc lá ấy được vẽ bằng trái tim của tình yêu thương con người. - Bác Bơ men vẽ chiếc lá ấy trong cái đêm rét khủng khiếp, khi chiếc lá cuối cùng đã rụng xuống. Do đắm mình trong mưa tuyết giá lạnh, bác Bơ men đã nhiễm bệnh sưng phổi và đã qua đời sau đó hai ngày. Chắc chắn khi dầm mình trong mưa tuyết để vẽ chiếc lá, bác không phải không cảm thấy giá buốt, không phải không cảm thấy nguy hiểm cho tính mạng mình. Nhưng lòng thương yêu Giôn xi, ý muốn dùng cây bút và bảng màu để cứu sống cô đã thúc đẩy bác vượt lên trên giá buốt, hiểm nguy để vẽ chiếc lá cuối cùng. - Thực ra chiếc lá cuối cùng đã rụng, còn lại mãi trên tường không phải là thần dược, nó là tác phẩm nghệ thuật được tạo nên bởi tình yêu thương con người, của sự hi sinh cao cả, quên mình tuyệt đối, vô tư tuyệt đối, là lòng yêu mến cuộc sống bỏng cháy của người hoạ sĩ già. Chiếc lá cuối cùng,, sáng tạo một đêm kết quả của tình yêu thương trĩu nặng dồn qua ngòi bút xuất thần của cụ Bơ men. « Chiếc lá » nối dài một cuộc đời, cướp đi một cuộc sống, để lại trong bao thế hệ người đọc niềm xót xa, thương kính người hoạ sĩ nghèo không may mắn, đồng thời lại vô cùng kinh ngạc về sức mạnh diệu kì của nghệ thuật- đem lại cuộc sống và hi vọng cho con người. Dù phải đổi giá cực đắt, nhưng nghệ có nghệ sĩ chân chính nào không vui lòng đánh đổi tất cả để lấy một « chiếc lá cuối cùng ». Từ kiệt tác « chiếc lá cuối cùng, em hiểu thêm ý nghĩa nào của truyện « chiếc lá cuối cùng » ? -Nghệ thuật chân chính được tạo ra từ tình yêu thương con người..
<span class='text_page_counter'>(68)</span> - Nghệ thuật chân chính là nghệ thuật của tình yêu thương, vì sự sống của con người. Bức tranh của hoạ sĩ Bơ men là nghệ thuật chân chính vì nó hướng tới con người, vì con người. Nghệ thuật chân chính mang trong lòng nó chức năng sinh thành và tái tạo để phục vụ con người.Tình yêu thương là nguồn sức mạnh của ông già và tài năng nghệ thuật hướng ngòi bút của ông vào việc hoàn thành một tác phẩm mang thiên chức vĩ đại của nghệ thuật : nghệ thuật vị nhân sinh. Và người nghệ sĩ đã đem cả sinh mệnh của mình để trả lại màu xanh cho chiếc lá đã úa vàng, trả lại màu hồng cho đôi má của người thiếu nữ xanh xao trả lại niềm tin nghị lực cho những người yếu đuối. Chiếc lá cuối cùng trở thành niềm hi vọng của sự hồi sinh được xây dựng bằng tình người. III. Nghệ thuật đặc sắc - Nét độc đáo của nghệ thuật truyện này là hiện tượng đảo ngược tình huống hai lần khắc sâu trong một câu chuyện đã tạo nên một kết thúc bất ngờ hấp dẫn người đọc. Đọc truyện, lúc đầu người đọc cứ đinh ninh là cô Giôn xi nhất định sẽ chết vì bệnh viêm phổi. Nhưng tình huống đã đảo ngược, giàu kịch tính và kết thúc bất ngờ : Sau một đêm bão tuyết, chiếc lá cuối cùng đã rụng mà chẳng ai hay, bức vẽ « chiếc lá cuối cùng » vẫn bám chắc cây thường xuân, chính chiếc lá ấy, bức vẽ kì diệu ấy đã cứu sống Giôn xi. Cụ Bơ men, tác giả bức vẽ ấy đã chết ở tuổi 60, sau hai ngày bị viêm phổi nặng. Kết thúc này càng khắc sâu vẻ đẹp tâm hồn của nghệ sĩ già Bơ men và tô đậm giá trị tư tưởng và nghệ thuật của truyện. Câu hỏi 1. Cụ Bơ men qua đời tại bệnh viện vì tuổi già, sức yếu, cảm lạnh nặng do phải đứng vẽ trên bậc thang cao khấp khểnh giữa trời tuyết cóng cũng là một cách kết thúc một cuộc đời nghệ sĩ không mấy niềm vui. Tại sao O.Hen ri lại chọn cách kết thúc truyện đau đớn ấy mà không viết những dòng cuối nhẹ nhàng, êm ái hơn ? Chẳng hạn, cụ Bơ men cảm nặng phải vào viện, Giôn xi khỏi bệnh biết rõ sự thật, vô cùng cảm động, ân hận. Cô ngày đêm chăm sóc cụ Bơ men như chăm sóc người cha thân yêu. Và sức khoẻ của hoạ sĩ cũng dần dần bình phục. Một buổi sáng mùa xuân nắng ấm, hai người cùng nhau ra viện, trở về noi cũ ở. Họ cùng nhìn lên bức tường xám nham nhở : chiếc lá trường xuân vẫn xanh ngắt giữa đám dây leo loằng ngoằng. Không dễ dãi và nhạt nhẽo như ta nghĩ, nhà văn Mĩ đã gia tăng chất muối, cho gắt mặn hơn ấn tượng đậm chát trong lòng người đọc, cho độ căng của nghịch cảnh càng tăng, cho giọt nước mắt ân hận, biết ơn, nhớ tiếc càng chảy dài trên má Giôn xi, Xiu, và cả mỗi chúng ta. Người đọc cứ bị ám ảnh mãi về tính hai mặt của biểu tượng « chiếc lá cuối cùng ». Chiếc lá cứu người- đó là mặt phải. Chiếc lá lại giết người- đó là mặt trái. Làm sao không nghĩ, không chiêm nghiệm về triết lí nhân sinh cao cả mà nghiệt ngã do nhà văn gợi ra từ một chiếc lá trường xuân nhỏ bé tầm thường, do bàn tay một hoạ sĩ « thường thường bậc trung ». Cụ Bơ men đáng thương, đáng kính và cũng nhiều khi đáng ngại, khi uống rượu say- đã để trọn cuộc đời dài trong nghèo túng và thất bại bằng thành công loé sáng cuối cùng. Bức tranh « lá » thật sinh động đến nỗi con mắt chuyên môn tinh trẻ của Giôn xi nhìn ngắm hoài mà sao không thể phân biệt nổi là lá thật hay lá vẽ ? Hoạ sĩ già « tử vì nghệ », đã vui lòng đổi kiệt tác của mình bằng cả xác, hồn và tình thương người nồng nhiệt, nỗi đam mê nghề nghiệp đến quên cả tuổi tác, nỗi cay cú vì cả đời lao động nghệ thuật kiệt lực mà thành công chưa một lần mỉm cười..
<span class='text_page_counter'>(69)</span> Một điều hết sức cảm động là khi đứng giữa trời đêm gió lạnh, tay miệt mài đưa bút vẽ lên tường, cụ Bơ men chắc không hề nghĩ đến việc mình đang làm nghệ thuật, đang thực hiện công trình có thể lưu danh hậu thế. Đơn giản, cụ chỉ nghĩ đây là cách tốt nhất cụ có thể làm, để cứu Giôn xi. Bức tranh vẽ hoàn thành, hoạ sĩ già vào viện và thanh thản sang thế giới bên kia trong niềm vui Giôn xi khỏi bệnh, chẳng hề bận tâm đến « chiếc lá » kia có thành kiệt tác hay không ? 2.Câu hỏi dành cho học sinh giỏi : Có người nhận xét rằng chiếc bóng trên vách đã giết chết Vũ Nương nhưng chiếc lá trên tường đã cứu sống Giôn Xi. Em có đồng ý với ý kiến đó không? Hãy phát biểu ý kiến của em về vấn đề này. *Gợi ý 1. Chuyện “người con gái Nam Xương” là một thành công nghệ thuật đặc sắc của Nguyễn Dữ. Tác giả có những sáng tạo trong cách kể, trong việc hư cấu thêm tình tiết và đưa thêm những yếu tố li kì vào câu chuyện. Trong đó “chiếc bóng trên tường” là một sáng tạo nghệ thuật đặc sắc. *. Cái bóng được tạo bởi tình yêu thương : Người vợ trẻ vì nhớ thương chồng, vì muốn nguôi ngoai cảm giác thiếu vắng hơi ấm của người chồng. Người mẹ xót lòng cho con trẻ chưa một lần được thấy mặt cha nên đã nghĩ ra trò chơi chiếc bóng.Cái bóng oan nghiệt cướp đi cuộc sống của VN - người phụ nữ giàu tình yêu thương.Vì ghen tuông mù quáng mà TS đã bức tử VN vì chiếc bóng của chính mình * Nguyễn Dữ đã sáng tạo ra chiếc bóng một cách rất tài tình, chi tiết này chất chứa nỗi niềm phẫn uất của tác giả đối với chiến tranh phong kiến phi nghĩa, với sự độc đoán, đa nghi phi lý của chàng Trương. Chi tiết cái bóng còn phản ánh nỗi dầy vò đau xót trong lòng tác giả về hình ảnh người phụ nữ trong xã hội phong kiến như VN phải trói buộc đời mình mòn mỏi vào những người dường như hình ảnh của những “chiếc bóng oan khiên”. d. Nghệ thuật xây dựng chi tiết tài tình : thật kết hợp với ảo. Bóng là ảo ảnh, giết chết một con người là sự thật cay đắng, phũ phàng. 2. Chiếc lá cuối cùng trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Mĩ O.Hen ri là một chiếc lá đặc biệt, là chi tiết cảm động, là biểu tượng nghệ thuật bất ngờ, độc đáo, mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Chiếc lá ấy đã trở thành một niềm hi vọng của sự hồi sinh được xây dựng bằng tình người. Ngày soạn : Ngày dạy :. /2012 /2012. BUỔI 12 TÓM TẮT VĂN BẢN TỰ SỰ - LUYỆN TẬP VIẾT ĐOẠN VĂN TỰ SỰ KẾT HỢP VỚI MIÊU TẢ, BIỂU CẢM `I. LÝ thuyÕt : 1. Tãm t¾t v¨n b¶n tù sù lµ dïng lêi v¨n cña m×nh tr×nh bµy mét c¸ch ng¾n gän néi dung chính (bao gồm sự việc tiêu biểu và nhân vật quan trọng) của văn bản đó. VÝ dô : V¨n b¶n tãm t¾t truyÖn S¬n Tinh, Thuû Tinh (trang 60 SGK). + Dùa vµo nh©n vËt, sù viÖc vµ c¸c chi tiÕt tiªu biÓu, cã thÓ biÕt biÕt v¨n b¶n Êy tãm t¾t truyÖn S¬n Tinh- Thuû Tinh. + Văn bản tóm tắt có những cái khác so với truyện : độ dài của văn bản tóm tắt ngắn h¬n, sè lîngnh©n vËt vµ sù viÖc trong v¨n b¶n b¶n tãm t¾t Ýt h¬n..
<span class='text_page_counter'>(70)</span> (chØ lùa chän nh÷ng nh©n vËt chÝnh vµ nh÷ng sù viÖc tiªu biÓu). + Lêi v¨n cña v¨n b¶n tãm t¾t lµ lêi cña ngêi tãm t¾t chø kh«ng ph¶i lµ nguyªn v¨n cña truyÖn. 2. Văn bản tóm tắt cần phản ánh trunh thành nội dung của văn bản đợc tóm tắt. 3. Muèn tãm t¾t t¸c phÈm tù sù cÇn : Đọc kĩ đề hiểu đúng chủ đề của tác phẩm. Xác định nội dung chính cần tóm tắt. S¾p xÕp c¸c néi dung chÝnh theo mét tr×nh tù hîp lÝ ViÕt v¨n b¶n tãm t¾t bµng lêi v¨n. II. LuyÖn tËp : Bµi 1 : Tãm t¾t truyÖn ng¾n l·o H¹c, cÇn s¾p xÕp c¸c sù viÖc tiªu biÓu vµ c¸c nh©n vËt quan träng theo tr×nh tù sau : a. L·o H¹c cã mét ngêi con trai vµ mét m·nh vên. b. Con trai lão đi phu đồn điền cao su, để lại cho lão con chó vàng. c. V× muèn gi÷ l¹i m·nh vên cho con, l·o ph¶i b¸n con chã, mÆc dï rÊt buån vµ ®au xãt. d. Lão mang tất cả tiền giành dụm đợc gữi ông Giáo và nhờ ông trông coi mãnh vờn. e. Cuộc sống mỗi ngày một khó khăn, lão kiếm đợc gì ăn nấy và từ chối những gì ông Gi¸o ngÊm ngÇm gióp l·o. f. Một hôm lão xin Binh T ít bã chó, nói để đánh bã con chó làm thịt và rũ Binh T uèng ruîu. g. ¤ng Gi¸o rÊt buån khi nghe Binh T kÓ chuyÖn Êy. h. L·o H¹c bçng nhiªn c c¸i chÕt thËt d÷ déi. i. C¶ lµng kh«ng ai hiÓu v× sao l·o chÕt, chØ cã Binh T vµ «ng Gi¸o hiÓu. Bµi 2 :Tãm t¾t ®o¹n trÝch tøc níc vì bê,s¾p xÕp c¸c sù viÖc tiªu biÓu vµ nh©n vËt quan träng theo tr×nh tù sau : a. Vì thiếu tiền đóng suất su của ngời em đã chết, anh Dậu bị bọn tay sai đánh trói, lôi ra đình cùm kẹp, đến gần nh chết mới tạm trả về nhà. b. Bµ hµng xãm th¬ng t×nh, mang cho chÞ DËu b¸t g¹o nÊu ch¸o. c. Anh Dậu vừa tỉnh lại, cha kịp ăn cháo thì cai lệ và ngời nhà lí trởng đã xộc tới định trói anh Dậu điệu ra đình. d. Van xin không đợc, chị Dậu liều mạng chống trả và quật ngã cả hai tên tay sai. III. LuyÖn tËp lµm dµn ý cho bµi v¨n tù sù kÕt hîp miªu t¶ biÓu c¶m. §Ò ra : KÓ l¹i chuyÕn ®i tham quan trong dÞp nghÜ hÌ võa qua. GV gợi ý cách làm : a. Mở bài: Giới thiệu kì nghỉ hè, em được đi tham quan nơi nào.(bãi biển, động Phong Nha,thắng cảnh của đất nước). b. Thân bài : Em đã chuẩn bị cho bước đi như thế nào. Chuyến đi bằng phương tiện gì ? (xe đạp, xe máy, ô tô) Chuyến đi kéo dài bao lâu ? với những ai ? Em đã biết gì về cảnh về người, về các câu chuyện, chuyện gì là lí thú nhất. ( Trong khi kể kết hợp yếu tố miêu tả, biểu cảm, suy nghĩ của mình) Chuyến đi đem lại kết quả bổ ích nhất là gì. C, Kết bài : -Chuyến đi kết thúc như thế nào ? Một vài cảm nghĩ của em muốn sẽ chia với các bạn về việc đi tham quan của mình. Cho HS dựa vào dàn bài để viết thành bài văn..
<span class='text_page_counter'>(71)</span> Câu hỏi về nhà : Hãy phân tích nghệ thuật đảo ngược tình huống hai lần trong truyện « Chiếc lá cuối cùng » của tác giả O Hen-ri. Gợi ý : - Giôn-xi từ chổ ốm nặng nằm đợi cái chết nhờ chiếc lá cuối cùng mà vượt qua cái chết, khỏe mạnh bình thường. - Cụ Bơ-men từ khỏe mạnh bình thường đến cái chết vì bệnh sưng phổi (Cụ đã vẽ chiếc lá cuối cùng trong đêm mưa gió bão bùng) Ngày soạn : Ngày dạy :. /2012 /2012. Buæi 13 Đập đá ở côn lôn (Phan Châu Trinh). I. Kiến thức cơ bản A. Giới thiệu vài nét về tác giả: Phan Châu Trinh (1872 – 1926) hiệu là Tây Hồ, biệt hiệu Hi Mã, quê ở Quảng Nam. Ông thi đậu Phó bảng, làm quan một thời gian ngắn rồi bỏ quan, chuyên tâm vào sự nghiệp cứu nước. Trong những năm đầu thế kỉ XX,Phan Châu Trinh là người đầu tiên đề xướng dân chủ, đòi bãi bỏ chế độ quân chủ ở Việt Nam. Hoạt động cứu nước của ông đa dạng, phong phú và sôi nổi ở trong nước, có lúc ở Pháp, ở Nhật. Ông là người giỏi biện luận và có tài văn chương, văn chính luận của ông rất hùng biện và đanh thép; thơ văn trữ tình thấm đẫm tinh thần yêu nước và dân chủ.Tác phẩm chính: Các tập thơ Tây Hồ thi tập, Tình quốc hồn ca,…; truyện thơ dịch giai nhân kì ngộ; và nhiều áng thơ văn khác. 2. Năm 1908, Phan Châu Trinh bị khép tội xúi giục nhân dân nổi loạn trong phong trào chống thuế ở Trung Kì nên bị bắt đày ra Côn Đảo. Bài thơ Đập đá ở Côn Lôn làm trong lúc ông cùng các tù nhân khác bị bắt lao động khổ sai là đập đá. B. Đọc - -Hiểu văn bản 1. Tựa đề của bài thơ đã cho phép người đọc hình dung cụ thể hoàn cảnh của Phan Châu Trinh lúc bấy giờ,Côn Lôn (còn gọi là Côn Đảo) là hòn đảo nằm ở phía đông nam nước ta. Nơi này thực dân Pháp đã lập nhà tù giam cầm những chiến sĩ yêu nước và cách mạng. Với tất cả những kiểu đày ải con người một cách giã man nhất, nhà tù Côn Đảo được xem là địa ngục trần gian. Một trong những kiểu đày ải đó là bắt người tù lao động khổ sai.Đập đá trong điều kiện bình thường đã là một công việc nặng nhọc; ở đây lại là đập đá giữa cái nắng kinh người trên hòn đảo trơ trọi giơax biển khơi, trong chế độ nhà tù khắc nghiệt, đập đá cho đến khi gục ngã vì kiệt sức. Kiểu đày ải đó dễ làm cho con người dễ tiêu tan ý chí. 2. Bốn câu đầu: Khẩu khí ngang tàng của một con người xem thường mọi thử thách gian nan đã dõng dạc vang lên từ bốn câu thơ đầu tiên: Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn Lừng lẫy làm cho lỡ núi non Xách búa đập tan năm bảy đống, Ra tay đập bể mấy trăm hòn..
<span class='text_page_counter'>(72)</span> Câu thơ phá đề với hai chữ “ làm trai”mở đầu đã đưa người đọc về với một quan niệm nhân sinh truyền thống. Các nhà nho xưa thường nói đến chí làm trai, chí nam nhi với tất cả lòng kiêu hãnh, ý chí tự khẳng định mình và khát vọng hành động vô cùng mãnh liệt. Trong quan niệm xưa, kẻ làm trai phải khẳng định được mình bằng những việc làm lớn lao, có ý nghĩa cho đời. Trong câu thơ của Phan Châu Trinh, ta lại gặp người trai đường hoàng đứng giữa đất trời Côn Lôn, đợi trời đạp đất, hiên ngang sừng sững giữa không gian bao la của núi cao biển rộng. Không hề có vẽ tiều tụy lẽ ra phải có ở người tù khổ sai, ở đây chỉ thấy vẽ đẹp hùng tráng của người trai. Đấng nam nhi xưa khao khát làm những việc lớn, lở cả núi non, chấn động cả trời đất, để tiếng tăm trở nên lừng lẫy. Phan Châu Trinh đã vận dụng cách nói khoa trương quen thộc trong thơ truyền thống đẻ nói về công việc đập đá khổ sai. Điều thú vị là các hình ảnh “ lở núi non”, “đánh tan năm bảy đống”, “đập bể mấy trăm hòn” vừa mang nghĩa thực chỉ việc đập đá, vừa mang nghĩa ẩn dụ chỉ việc lớn lao trong đời Công việc lao động khổ sai dùng búa để khai thác đá từ những hòn đá ngoài Côn Đảolại được thể hiện như một cuộc chinh phục thiên nhiên. Và con người bước vào cuộc chiến đấu ấy với khí thế hiên ngang lừng lẫy, với sức mạnh của chàng dũng sĩ trong thần thoại. Mỗi hành động (xách búa, ra tay) đều phát huy sức mạnh ghê gớm (đánh tan năm bảy đống, đập bể mấy trăm hòn). Cái hay của đoạn thơ là trên cái nền của hiện thực khắc nghiệt, ngòi bút thơ của Phan Châu Trinh đã khắc họa hình ảnh người tù cách mạng trong tư thế ngạo nghễ vươn cao ngang tầm vũ trụ, trong khí phách hiên ngang lẫm liệt, sừng sững giữa đất trời. 4. Bốn câu thơ cuối : Nếu bốn câu thơ đầu là sự miêu tả kết hợp với biểu cảm, thì đến bốn câu thơ cuối tác giả đã trực tiếp bộc lộ cảm xúc và suy nghĩ của mình. Đây cũng là khẩu khí ngang tàng của người anh hùng không chịu khuất phục hoàn cảnh, Luôn giữ vững niềm tin và ý chí chiến đấu sắt son. Vẽ đẹp tinh thần này kết hợp với tầm vóc lẫm liệt, oai phong trên đã tạo nên một hình tượng giàu chất sử thi và gây ấn tượng mạnh. Cách thức biể hiện cảm xúc: Để làm nổi bật chí lớn, gan to của người anh hùng, tác giả đã tạo thế tương quan đối lập. Ở cặp câu 5-6 là sự đối lập giữa những thử thách gian nan (tháng ngày, mưa nắng: chỉ nhưng gian khổ phải chịu đựng không phải là một sớm, một chiều mà dày dặc qua nhiều năm tháng) với sức chịu đựng dẻo dai bền, bỉ (thân sành sỏi) và ý chí chiến đấu sắt son của người chiến sĩ cách mạng (càng bền dạ sắt son). Ở cặp câu 7-8 là sự đối lập giữa chí lớn của những con người dám mưu đồ sự nghiệp cứu nước vào những năm đầu thế kỉ XX, một công việc mà không phải ai cũng tin sức người có thể làm được. Mượn truyền thuyết bà Nữ Oa đội đá vá trời để chỉ sự nghiệp cứu nước lớn lao của những nhà cách mạng. Với những thử thách phải gánh chịu trên bước đường chiến đấu, được xem như “việc cỏn con”. (Sự thực thì bản án mà Phan Châu Trinh đang phải mang và hoàn cảnh khắc nghiệt mà ông đang phải chịu đựng đâu có phải là “việc cỏn con”, có điều, đặt bên cái chí lớn, gan to ấy thì quả nó chẳng có gì phải kể đến). Đó là khẩu khí ngang tàng của người anh hùng không chịu khuất phục hoàn cảnh, xem thường mọi gian nan thử thách, luôn giữ vững niền tin và ý chiến đấu. Vẽ đẹp tinh thần này kết hợp với tầm vóc lẫm liệt oai phong ở bốn câu thơ đầu tạo nên một hình tượng vừa chân thực, vừa giàu chất lãng mạn và gây ấn tượng mạnh. C. Tổng kết:.
<span class='text_page_counter'>(73)</span> Bằng bút pháp lãng mạn và giọng điệu hào hùng, bài thơ Đập đá ở Côn Lôn giúp ta cảm nhận một hình tượng đẹp lẫm liệt, ngang tàng của người anh hùng cứu nước, dù gặp bước nguy nan nhưng chí khí vẫn không bao giờ dời đổi. II. Luyện tập: Lập dàn ý cho đề văn: Phân tích bài thơ “Đập đá ở Côn Lôn” của Phan Châu Trinh. Gợi ý học sinh lập dàn bài 1. Mở bài: Gioi thiệu vài nét về tác giả. Xuất xứ Chủ đề. 2. Thân bài: Hai câu đề… Hai câu thực. Hai câu luận. Hai câu kết. 3. Kết bài: III. Về nhà viết lại bài văn hoàn chỉnh. Ngày soạn : Ngày dạy :. /2012 /2012. Buæi 14 «n tËp tiÕng viÖt. A. KiÕn thøc cÇn nhí: I. Ôn tập về từ loại 1. Danh từ: Danh từ là từ chỉ người, vật, sự vật, khái niệm. Ví dụ: Chị ấy là giáo viên. ( DT chỉ người – làm vn) Cái bàn này rất chắc. (DT chỉ vật - làm cn) Văn học là nhân học. (DT chỉ khái niệm – làm vn) Tiểu loại danh từ: Bao gồm: Danh từ chỉ đơn vị, danh từ chỉ sự vật, danh từ chung, danh từ riêng. (lấy vd minh họa) Viết đoạn văn ngắn có sử dụng danh từ (HS tự viết – trình bày, GV bổ sung) 2.Động từ: Là những từ chỉ hành động, trạng thái của sự vật. Ví dụ: Học tập là nhiệm vụ hàng đầu của học sinh. Bạn ấy đang nghiên cứu bài toán. Tiểu loại động từ: Gồm động từ tình thái và động từ chỉ hành động. 3.Tính từ: Là những từ chỉ đặc điểm, tính chất, hành động, trạng thái của người vật, sự vật. ( xấu, tốt, vui, buồn…) Tiểu loại tính từ: Bao gồm tính từ chỉ đặc điểm tương đối và tính từ chỉ đặc điểm tuyệt đối. 4.Số từ: Là những từ chỉ số lượng và thứ tự của sự vật. ( một, hai, ba,..).
<span class='text_page_counter'>(74)</span> 5. Đại từ: Là những từ dùng để trỏ người, sự vật, hoạt động, tính chất được nói đến trong một ngữ cảnh nhất định của lời nói hoặc dùng để hỏi. (Tôi, tớ, ta, nó,…) 6. Lượng từ: Là những từ chỉ lượng ít hay nhiều của sự vật.(những, mấy, các,…) 7. Chỉ từ: Là những từ dùng để trỏ vào sự vật nhằm xác định vị trí của sự vật trong không gian hoặc thời gian. (ấy, đó, nọ, kia,..) Cô công nhân ấy. Bác lái đò kia. 8. Quan hệ từ: Là những từ dùng để biểu thị các ý nghĩa quan hệ như sở hữu,so sánh, nhân quả, giữa các bộ phận của câu hay giữa câu với câu.( của, như, vì, nên,..) VD: Quyển sách này của tôi. Cô giáo như mẹ hiền. ( hs đặt thêm câu) 9. Trợ từ: Là những từ chuyên đi kèm một từ ngữ trong câu để nhấn mạnh hoặc biểu thị thái độ đánh giá sự vật, sự việc được nói đến ở từ ngữ đó. VD: Chính cô đã dạy em điều đó. Đích thân em đã đến nơi ấy. 10. Thán từ: Là những từ dùng để bộc lộ tình cảm, cảm xúc của người nói hoặc dùng để gọi đáp. ( Than ôi, trời ơi,…) 11. Tình thái từ: Là những từ thêm vào câu để tạo câu nghi vấn, câu cầu khiến, câu cảm thán và biểu thị sắc thái tình cảm của người nói. Ví dụ: Em chào thầy ạ. Chị hãy nghe em đi. II. HS nh¾c l¹i kh¸i niÖm trî tõ, th¸n tõ, t×nh th¸i tõ. III.Lu ý sù kh¸c biÖt: - Trợ từ chuyên đi kèm với một số từ ngữ trong câu tức là nêu đặc diểm của trợ từ luôn luôn đứng trớc những từ ngữ đó ( cố định)> có sắc thái tình cảm cố ý nhấn mạnh của ngêi nãi. - Thán từ là từ loại đặc biệt chuyên biểu thị cảm xúc trực tiếp do ngời nói tự bộc lộ , không tham gia cấu tạo cụm từ, cũng không kết hợp đợc với cụm từ trong câu > đứng t¸ch rêi, biÖt lËp so víi c¸c thµnh phÇn kh¸c trong cÊu t¹o c©u. - Tình thái từ là những từ đặt thêm vào câu để biểu thị mục đích nói trong các kiểu câu nghi vấn, cầu khiến, cảm thán > đứng cuối câu, không tách khỏi cấu tạo câu, không thể làm thành một câu đặc biệt nh thán từ. II/ LuyÖn tËp: Bµi 1: ChØ ra c¸c trî tõ trong c¸c c©u sau: a. Cảnh vật chung quanh tôi đều thay đổi, vì chính lòng tôi đang có sự thay đổi lín: h«m nay t«i ®i häc. b. MÊy cËu ®i tríc «m s¸ch vë nhiÒu l¹i kÌm c¶ bót thíc n÷a. c. §ét nhiªn l·o b¶o t«i: - Này! Thằng cháu nhà tôi, đến một năm nay, chẳng có giấy má gì đấy, ông giáo ạ! ( Nam Cao) a. ChØ nghe tiÕng hãt lÝu lo mµ kh«ng thÊy bãng chim ®©u. b. Ngêi nhµ lý trëng h×nh nh kh«ng d¸m hµnh h¹ mét ngêi èm n¨ng, sî hoÆc x¶y ra sù g×, h¾n cø lãng ngãng ng¬ ng¸c, muãn nãi mµ kh«ng d¸m nãi. c. Tôi quên cả mẹ tôi đứng sau tôi. Nghe gọi đến tên, tôi tự nhiên giật mình và lóng tóng. d. – Có lẽ tôi bán con chó đấy, ông giáo ạ! e. Tôi chỉ ốm có một trận đấy thôi. Một trận đúng hai tháng mời tám ngày, ông gi¸o ¹! ( * tõ g¹ch ch©n).
<span class='text_page_counter'>(75)</span> ¹!. Bµi 2: T×m c¸c th¸n tõ trong nh÷ng c©u sau ®©y: a. V©ng! ¤ng gi¸o d¹y ph¶i! b. Vâng, cháu cũng đã nghĩ nh cụ. c. Nµy, b¶o b¸c Êy cã trèn ®i ®©u th× trèn. d. Này! Thằng cháu nhà tôi, đến một năm nay, chẳng có giấy má gì đấy, ông giáo. -à! Thì ra lão đang nghĩ đến thằng con lão. e.Ây! Sự đời lại cứ thờng nh vậy đấy. Bµi 3: Chỉ ra các tình thái từ đợc dùng trong các câu sau: a. Mµy d¹i qu¸, cø vµo ®i, tao ch¹y cho tiÒn tµu. Vµo mµ b¾t mî mµy may v¸ s¾m söa cho vµ th¨m em bÐ chø. b. Con nín đi! Mợ đã về với các con rồi mà. c. Bác trai đã khá rồi chứ? d. Cai lÖ vÉn giäng hÇm hÌ: - NÕu kh«ng cã tiÒn nép su cho «ng b©y giê, th× «ng sÏ dì c¶ nhµ mµy ®i, chöi m¾ng th«i µ! Bµi 4: Viết đoạn hội thoại khoảng 10 dòng trong đó có sử dụng ít nhất 1 trợ từ, 1 thán tõ, 1 t×nh th¸i tõ. * Bài tập về nhà: Cảm xúc của em trong buổi kkai giảng đầu tiên có sử dụng thán từ, tình thái từ.. Ngày soạn : Ngày dạy :. /2012 /2012. Buæi 16 Nhí rõng (Thế Lữ). I. Kiến thức cơ bản: A.Giới thiệu: 1. Vài nét về tác giả: Thế Lữ (1907 – 1989) tên khai sinh là Nguyễn Thứ Lễ, quê Bắc Ninh, là nhà thơ tiêu biểu nhất của phong trào thơ mới(1932 – 1945) buổi đầu. Với một hồn thơ dồi dào, đầy lãng mạn, Thế Lữ đã góp phần quan trọng vào việc đổi mới thơ ca và đem lại chiến thắng cho thơ mới. Tác phẩm chính: Mấy vần thơ (tập thơ, 1935); một số truyện trinh thám, truyện kinh dị, truyện đường rừng lãng mạn,… Sau đó, ông chuyển hẳn sang hoạt động sân khấu và là một trong những người có công đầu xây dựng ngành kịch nói ở nước ta. 2.Nhớ rừng là một trong những bài thơ hay nhất, tiểu biểu nhất của Thế Lữ và là tác phẩm góp phần mở đường cho sự thắng lợi của thơ mới. Bài thơ được viết theo thể thơ 8 chữ, gieo vần liên tiếp, vần bằng vần trắc hoán vị đều đặn. Mượn lời con hổ bị nhốt trong vườn bách thú, bài thơ thể hiện sâu sắc tâm sự u uất của thế hệ thanh niên lúc bấy giờ, đồng thời cũng là tâm sự chung của người dân Việt Nam trong cảnh mất nước khi đó. Vì vậy, bài thơ khi vừa mới ra đời đã có sự đồng cảm đặc biệt rộng rãi, có tiếng vang lớn. * Bài thơ chia làm 5 đoạn: - Đoạn 1: Tâm trạng uất hận, ngao ngán của con hổ trong cảnh tù hãm. - Đoạn 2 – 3: niềm thương nhớ quá khứ oanh liệt với cảnh núi rừng hùng vĩ. - Đoạn 4: cảnh vườn bách thú tầm thường, giả dối, qua mắt nhìn của con hổ..
<span class='text_page_counter'>(76)</span> - Đoạn 5: lời nhắn gửi tha thiết về núi rừng. B Đọc – hiểu văn bản: * Trong bài thơ có hai cảnh tượng được miêu tả đầy ấn tượng : cảnh vườn bách thú, nơi con hổ bị nhốt( đoan 1 và đoạn 4), cảnh núi rừng hùng vĩ, nơi con hổ ngự trị những ngày xưa (đoạn 2 và đoạn 3). Đó là hai cảnh tượng hoàn toàn tương phản nhau. Với con hổ, đó là sự tương phản giữa thực tại và dĩ vãng. 1.Cảnh con hổ trong vườn bách thú (đoạn 1 và đoạn 4) - Đoạn 1 chủ yếu thể hiện tâm trạng con hổ trong cảnh ngộ bị tù hãm ở vườn bách thú. Từ chỗ là “ chúa tể của muôn loài”, đang tung hoành chốn nước non hùng vĩ, nay bị nhốt chặt trong cũi sắt, trở thành thứ đồ chơi của đám người nhỏ bé mà ngạo mạn, ngang bầy với bọn “dở hơi”, “vô tư lự”, những hạng tầm thường, vô nghĩa lí, con hổ vô cùng căm uất ngao ngán.Nhưng không có cách gì thoát ra khỏi cái môi trường tù túng, tầm thường, chán ngắt ấy, con hổ chỉ đành buông xuôi bất lực “nằm dài trông ngày tháng dần qua”. - Ơ đoạn 4, cảnh vườn bách thú hiện ra dưới cái nhìn của chúa sơn lâm thật đáng chán, đáng khinh, đáng ghét. Tất cả chỉ là đơn điệu, nhàm tẻ, “không đời nào thay đổi”, đều chỉ là nhân tạo, do bàn tay sửa sang, tỉa tót của con người nên rất “tầm thường, giả dối”chứ không phải là thế giới của tự nhiên, to lớn, mạnh mẽ, bí hiểm: Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng; Dải nước đen giả suối chẳng thông dòng Len dưới năchs những mô gò thấp kém,… Với giọng giễu nhại, với một loạt từ ngữ liệt kê liên tiếp, với cách ngắt nhịp ngắn, dồn dập ở 2 câu đầu và những câu thơ tiếp theo đọc liền như kéo dài ra, giọng chán chường, khinh miệt Cảnh vườn bách thú “tầm thường, giã dối” và tù túng dưới mắt con hổ đó chính là cái thực tại xã hội đương thời được cảm nhận bởi những tâm hồn lãng mạn. Thái độ ngao ngán, chán ghét cao độ đối với cảnh vườn bách thú của con hổ cũng chính là thái độ của họ đối với xã hội. 2.Cảnh con hổ trong chốn giang sơn hùng vĩ của nó (đoan 2 và 3) Đoạn 2 và 3 là hai đoạn hay nhất của bài thơ, miêu tả cảnh sơn lâm hùng vĩ và hình ảnh con hổ - chúa sơn lâm ngự trị trong vương quốc của nó. Đó là cảnh núi rừng đại ngàn, cái gì cũng lớn lao,cũng phi thường: bóng cả, cây già, gió gào ngàn, nguồn hét núi, thét khúc trường ca dữ dội…,cũng hoang vu, bí mật…Đó là chốn ngàn năm cao cả âm u, là cảnh nước non hùng vĩ, là oai linh, ghê gớm.. Trên cái phong nền hùng vĩ đó, hình ảnh con hổ hiện ra nổi bật với một vẻ oai phong lẫm liệt. Khi rừng thiêng tấu lên “khúc trường ca dữ dội” thì con hổ cũng “ bước chân lên” với một tư thế “ dõng dạc, đường hoàng”, và nó: Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc Những câu thơ sống động, giàu chất tạo hình, đã diễn tả chính xác vẻ đẹp vừa uy nghi, dũng mạnh vừa mền mại, uyển chuyển của chúa sơn lâm. Đoạn 3 của bài thơ có thể coi như một bộ tranh tứ bình đẹp lộng lẫy. Bốn cảnh, cảnh nào cũng có rừng núi hùng vĩ, tráng lệ với con hổ uy nghi làm chúa tể. Đó là cảnh “những đêm vàng bên bờ suối” hết sức diễm ảo với hình ảnh con hổ “say mồi đứng uống.
<span class='text_page_counter'>(77)</span> ánh trăng tan” đầy lãng mạn. Đó là cảnh “ngày mưa chuyển bốn phương ngàn” với hình ảnh con hổ mang dáng dấp đế vương: “Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới. Đó là cảnh “ bình minh cây xanh nắng gội” chan hòa ánh sáng, rộn rã tiếng chim đang ca hát cho giấc ngủ của chúa sơn lâm. Và đó là cảnh “chiều lêng láng máu sau rừng” thật dữ dội với con hổ đang đợi mặt trời “chết” để “ chiếm lấy riêng phần bí mật” trong vũ trụ. Ở cảnh nào núi rừng cũng mang vẽ đẹp vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, và con hổ cũng nổi bật lên với tư thế lẫm liệt, kiêu hùng, đúng là một chúa sơn lâm đầy uy lực. Nhưng đó chỉ là dĩ vãng huy hoàng, chỉ hiện ra trong nỗi nhớ da diết tới đau đớn của con hổ. Một loạt điệp ngữ: nào đâu, đâu những…cứ lặp đi lặp lại, diễn tả thấm thía nỗi nhớ tiếc khôn nguôi của con hổ đối với những cảnh không bao giờ còn thấy nữa. Và giấc mơ huy hoàng đó đã khép lại trong tiếng than u uất: “Than ôi Thời oanh liệt nay còn đâu?”. Làm nổi bật sự tương phản, đối lập gay gắt hai cảnh tượng, hai thế giới, nhà thơ đã thể hiện nỗi bất hòa sâu sắc đối với thực tại và niềm khao khát tự do mãnh liệt của nhân vật trữ tình. Đó là tâm trạng của nhà thơ lãng mạn, đồng thời cũng là tâm trạng chung của người dân Việt Nam mất nước khi đó. Có thể nói, bài thơ đã chạm đến huyệt thần kinh nhạy cảm nhất của người dân Việt Nam đang sống trong cảnh nô lệ “bị nhục nhằn tù hãm” cũng “gậm một khối căm hờn trong cũi sắt” và tiếc nhớ khôn nguôi “thời oanh liệt” với những chiến công chống giặc ngoại xâm vẻ vang trong lịch sử dân tộc. Chính vì vậy, bài thơ vừa ra đời đã được công chúng say sưa đón nhận. Họ cảm thấy lời con hổ trong bài thơ chính là tiếng lòng sâu kín của họ. Sức hấp dẫn của bài thơ còn ở những giá trị đặc sắc của nó, những giá trị tiêu biểu cho thơ mới ở giai đoạn đầu. - Cả bài thơ tràn đầy cảm hứng lãng mạn với mạch cảm xúc sôi nổi, mãnh liệt và trí tưởng tượng phong phú, bay bổng. Chính cảm hứng lãng mạn này đã sản sinh ra những hình ảnh thơ giàu chất tạo hình, đầy ấn tượng, đặc biệt là những chi tiết miêu tả vẻ đẹp hùng vĩ mà thơ mộng của núi rừng - Bài thơ có những hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng làm nên nội dung ssaau sắc của tác phẩm. Không phải ngẫu nhiên mà tác giả lại chọn hình thức “mượn lời con hổ ở vườn bách thú”. Hình tượng con hổ - chúa sơn lâm – bị giam cầm trong cũi sắt là biểu tượng của người anh hùng thất thế sa cơ mang tâm sự u uất đầy bi tráng. Cảnh rừng già hoang vu – giang sơn của chúa sơn lâm – là biểu tượng của thế giới rộng lớn, khoáng đạt, thế giới của tự do, tương phản với hình ảnh chiếc cũi sắt nơi vườn bách thú là biểu tượng của cuộc sống tù hãm, chật hẹp. Với những hình ảnh có ý nghĩa biểu tượng đó nhà thơ dễ nói lên tâm sự của mình một cách kín đáo và sâu sắc. Ngôn ngữ và nhạc điệu phong phú, giàu sức biểu cảm. Bài thơ đầy nhạc tính, âm điệu dồi dào, cách ngắt nhịp linh hoạt(có câu ngắt nhịp rất ngắn có câu lại trải dài). Giong thơ khi thì u uất, dằn vặt, khi thì say sưa tha thiết, hùng tráng,song tất cả vẫn nhất quán, liền mạch và tràn đầy cảm xúc. C. Tổng kết: Bằng những vần thơ tràn đầy cảm xúc lãng mạn, bằng việc mượn lời con hổ bị nhốt ởvườn bách thú, bài Nhớ rừng đã diễn tả sâu sắc nỗi chán ghét cảnh sống tù túng, tầm thường,giả dối và niềm khát khao tự do mãnh liệt, từ đó gợi lên lòng yêu nước thầm kín của người dân mất nước thuở ấy..
<span class='text_page_counter'>(78)</span> II. Luyện tập: Đề ra: Phân tích tâm trạng của con hổ trong bài thơ “Nhớ rừng” của nhà thơ Thế Lữ. GVgợi ý lập dàn bài. a. Mở bài: Gioi thiệu bài thơ và hình tượng con hổ. - Bài thơ “Nhớ rừng”Của Thế Lữ được viết năm 1934, in trong tập “mấy vần thơ” (1935).Nhớ rừng là một trong những bài thơ vào hàng kiệt tác của Thế Lữ và cả phong trào thơ mới. - Con hổ là hình tượng trung tâm của bài thơ. Mượn lời con hổ bị nhốt ở vườn bách thú, tác giả diễn tả niềm khao tự do mãnh liệt và tâm sự yêu nước của con người những ngày nô lệ. b. Thân bài. 1. Tâm trạng của con hổ trong cảnh giam cầm ở vườn bách thú. - Niềm căm uất “gậm một khối căm hờn trong cũi sắt” và nỗi ngao ngán “nằm dài trong ngày tháng dần qua”.(đoan 1) - Tâm trạng chán chườngvaf thái độ khinh miệt trước sự tầm thường giả dối ở vườn bách thú.(đoan 4) 2. Nỗi “nhớ rừng” gia diết không nguôi của con hổ (đoạn 2, 3, 5) - Con hổ nhớ cảnh nước non hùng vĩ với tất cả những gì lớn lao, dữ dội, phi thường. - Con hổ nhớ tiếc về một “thuở tung hoành hống hách ngày xưa” đầy tự do và uy quyền của chúa sơn lâm. 3. Kết bài: - Tâm trạng của con hổ là một ẩn dụ thể hiện một cách kín đáo tâm trạng của tác giả, cũng là tâm sự yêu nước của những người VN thuở ấy: họ chán ghét cảnh sống tù túng, tầm thường của thực tại nô lệ và khao khát tự do. - Tâm trạng ấy đã làm nên giá trị và sức sống lâu bền của bài thơ. * Bài tập về nhà: Viết hoàn chỉnh bài văn.. Ngày soạn : Ngày dạy :. /2012 /2012 Buæi 17 Quª h¬ng (Tế Hanh). I.Kiến thức cơ bản: A.Giói thiệu: 1. Vài nét về tác giả: Tế Hanh tên khai sinh là Trần Tế Hanh, sinh năm 1921, quê ỏ một vùng ven biển tỉnh Quảng Ngãi. Ông là nhà thơ đã có mặt trong phong trào thơ mới và tiếp tục sáng tác.
<span class='text_page_counter'>(79)</span> dồi dào bền bỉ sau cách mạng . Quê hương là nguồn cảm hứng lớn trong suốt đời thơ của Tế Hanh. Tác phẩm chính: các tập thơ Hoa niên (1945). Gửi miền Bắc(1955), Tiếng sóng(1960)… 2.Quê hương: là sáng tác mở đầu cho nguồn cảm hứng về quê hương trong thơ Tế Hanh. Bài thơ này in trong tập “nghẹn ngào”(1939), sau được in lại trong tập “Hoa niên”(1945). Nhà thơ đã viết quê hương bằng cả tấm lòng yêu mến thiên nhiên thơ mộng mà hùng tráng của quê hương, mến yêu những người con lao động tràn trề sức lực, bằng những kỉ niệm sâu đậm, nồng nàn của thời niên thiếu. - Bài thơ được viết theo thể thơ 8 chữ, phối hợp cả hai kiểu gieo vần liên tiếp và vần ôm. Bố cục bài thơ gồm 4 phần: + Phần 1(2 câu đầu): tác giả giới thiệu chung về làng quê của mình. + Phần 2(6 câu tiếp): cảnh thuyền chài ra khơi đánh cá. + Phần 3(8 câu tiếp): cảnh đón thuyền cá trở về bến. + Phần 4(4 câu còn lại): nỗi nhớ làng quê khôn nguôi của nhà thơ. B. Đọc – hiểu văn bản: 1. Cảnh dân chài bơi thuyền đi đánh cá: Hai câu mở đầu rất bình dị, tự nhiên, tác giả giới thiệu chung về làng quê của mình, nội dung hầu như chỉ có ý nghĩa thông tin, tiếp đến là 6 câu miêu tả cảnh “trai tráng bơi thuyền đi đánh cá” một buổi “sớm mai hồng”. Đó là những câu thơ đẹp, mở ra cảnh tươgj bầu trời cao rộng, trong trẻo, nhuốm nắng hồng bình minh; trên đó, nổi bật lên hình ảnh đoàn thuyền băng mình ra khơi: Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã Phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt trường giang. Hình ảnh so sánh (con tuấn mã) và một loạt từ ngữ: hăng, phăng, vượt… diễn tả thật ấn tượng khí thế băng tới dũng mạnh của con thuyền ra khơi, làm toát lên một sức sống mạnh mẽ, một vẽ đẹp hùng tráng đầy hấp dẫn. Bốn câu thơ vừa là phong cảnh thiên nhiên tươi sáng, vừa là bức tranh lao động đầy hứng khởi và dào dạt sức sống. Hai câu tiếp theo miêu tả cánh buồm rất đẹp, một vẽ lãng mạn với sự so sánh độc đáo bất ngờ: Cánh buồm giương như mãnh hồn làng Rướn thân trắng bao la thâu góp gió.. Hình ảnh cánh buồm trắng căng gió biển khơi quen thuộc bỗng trở nên lớn lao, thiêng liêng và rất thơ mộng. Tế Hanh như nhận ra đó chính là biểu tượng của linh hồn làng chài, Nhà thơ vừa vẽ ra chính xác cái hình,vừa cảm nhận được cái hồn của sự vật. Sự so sánh ở đây không làm cho việc miêu tả cụ thể hơn nhưng đã vẽ ra một vẽ đẹp bay bỗng, mang ý nghĩa lớn lao. Liệu có hình ảnh nào diễn tả được chính xác, giàu ý nghĩa và đẹp hơn để biểu hiện linh hồn làng chài bằng hình ảnh cánh buồm trắng giương to no gió biển khơi bao la đó. Đó chính là bút pháp lãng mạn trong việc miêu tả ở đây. 2.Cảnh thuyền cá về bến..
<span class='text_page_counter'>(80)</span> Khổ thơ thứ 3 là cảnh dân làng chài đón thuyền cá trở về. Bốn câu đầu là một bức tranh lao động náo nhiệt, đầy ắp niềm vui và sự sống, toát ra từ không khí ồn ào, tấp nập đông vui, từ những chiếc ghe đầy cá, từ những con cá tươi ngon thân bạc trắng thật thích mắt,cả từ lời cảm chân thành đất trời đã sóng yên “biển lặng” để người dân chài trở về an toàn với cá đầy ghe… Bốn câu thơ tiếp theo rất đặc sắc, miêu tả người dân chài và con thuyền nằm nghỉ trên bến sau chuyến ra khơi. Câu đầu (Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng) là tả thực, câu sau là sáng tạo độc đáo, gợi cảm, rất thú vị: cả thân hình nồng thở vị xa xăm. Thể hiện người lao động làng chài, những đứa con của biển khơi như thế thì thật hay: nước da ngăm nhuộm nắng nhuộm gió, thân hình vạm vỡ và thấm đậm vị mặn mòi, nồng tỏa “vị xa xăm” của biển khơi. Hình ảnh người dân chài được miêu tả vừa chân thực vừa lãng mạn và trở nên có tầm vóc phi thường. Hai câu tiếp theo miêu tả chiếc thuyền nằm im trên bến sau khi vật lộn với sóng gió trở về cũng là nghệ thuật độc đáo như vậy. Tác giả không chỉ thấy con thyền nằm im trên bến mà còn thấy sự mệt mỏi say sưa của con thuyền, và còn cảm thấy con thuyền ấy như đang lắng nghe chất muối thấm dần trong thớ võ của nó . Con thuyền vô tri đó trở nên có hồn, một tâm hồn rất tinh tế. Cũng như người dân chài, con thuyền lao động ấy cũng thấm đậm vị muối mặn của biển khơi. Không có một tâm hồn tinh tế, tài hoa và nhất là không có tấm lòng gắn bó sâu nặng với con người cùng cuộc sống lao động làng chài quê hương thì không có những câu thơ xuất thần như vậy. 3. Phân tích khổ thơ cuối. Ở bốn câu thơ kết nhà thơ trực tiếp nói về nỗi nhớ làng quê khôn nguôi của mình. Nỗi nhớ chân thành, tha thiết nên lời thơ thật giản dị tự nhiên, như thốt ra từ trái tim: Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá. Tế Hanh đứa con hiếu thảo của quê hương đang phải đi học xa quê đó cứ “luôn tưởng nhớ”, nhớ hương vị lao động làng chài đó chính là hương vị riêng đầy quyến rũ của quê hương. Nhà thơ đã cảm nhận được chất thơ trong đời sống lao động hằng ngày của người dân, đó là một điều đáng quý. Vì vậy hình ảnh quê hương trong bài thơ không hề buồn bã,hiu hắt, mà thật tươi sáng, khỏe khoắn, mang hơi thở nồng ấm của lao động, của sự sống. 3. Nghệ thuật: (Sgv) C.Tổng kết: Với những vần thơ bình dị mà gợi cảm, bài thơ Quê hương của Tế Hanh đã vẽ ra một bức tranh tươi sáng, sinh động về làng quê miền biển thân thiết của ông, trong đó nổi bật lên hình ảnh khỏe khoắn, đầy sức sống về người dân chài và sinh hoạt lao động làng chài. Bài thơ cho thấy tình cảm quê hương trong sáng, tha thiết của nhà thơ. II. Đề luyện tập: Phân tích vẻ đẹp của bức tranh làng quê trong bài tho Quê hương của nhà thơ Tế Hanh. GVgợi ý cho hs lập dàn bài tại lớp. Bài tập về nhà: Viết hoàn chỉnh bài văn.. Ngày soạn :. /2012.
<span class='text_page_counter'>(81)</span> Ngày dạy :. /2012. Buæi 18 Khi con tu hó. I- Giới thiệu Bài thơ « khi con tu hú » được Tố Hữu sáng tác tháng 7/1939, sau bài thơ «Từ ấy » vừa đúng một năm. Khoảng cách thời gian giữa hai bài thơ chưa dài, nhưng hoàn cảnh sáng tác thì đã đổi khác. « Từ ấy » được viết khi Tố Hữu còn tự do, sống giữa cuộc sống cách mạng, say mê với lí tưởng Đảng ; còn « khi con tu hú » lại được viết ra khi nhà thơ đã bị giam trong nhà lao Thừa Phủ (Huế) giữa bốn bức tường ngột ngạt của nhà tù đế quốc. Cảm hứng của thi nhân là niềm khao khát tự do cùng với khát vọng hành động, tháo cũi, sổ lồng. Nhưng tất cả đều được bắt đầu từ một tiếng chim tu hú vọng vào nhà lao như nhan đề bài thơ đã ghi : « Khi con tu hú ». Người đọc hiểu đây là khi con tu hú kêu... và tiếng kêu ấy đã gọi dậy trong lòng người chiến sĩ trẻ bị giam trong tù niềm khao khát tự do cháy bỏng, giục giã anh hành động. Cho nên, cả bài thơ, chỉ có hai câu nói về tu hú kêu (câu đầu và câu cuối) mà sao tiếng kêu ấy vang suốt cả bài thơ, ra ngoài bài thơ, vang mãi đến tận hồm nay, khi ta đọc những dòng này của ông. Người chiến sĩ trẻ bị giam trong tù, bưng bít giữa bốn bức tường kín mít, chỉ còn có âm thanh là mối dây liên hệ với bên ngoài : khi là tiếng chim kêu, tiếng dơi chiều đập cánh, khi là tiếng guốc đi về dưới đường xa hay tiếng rao đêm lảnh lót... Những âm thanh đó chinh là cuộc sống bên ngoài đã ùa vào thơ Tố Hữu trong những ngày bị xiềng xích. Tự nhiên, âm thanh bên ngoài trở thành biểu tượng của thế giới tự do. Và ở bài thơ này là tiếng chim tu hú kêu báo hiệu mùa hè. Cả bài thơ được xây dựng trên hình ảnh âm thanh đó. Tiếng chim tu hú là điểm khởi đầu, điểm kết thúc, nó chính là « cái tứ » của bài thơ trong tù của người chiến sĩ cách mạng trẻ tuổi. II- Phân tích : 1. Cảnh thiên nhiên tươi vui, rộn ràng đầy quyến rũ đối với người chiến sĩ trong tù Bài thơ mở đầu bằng tiếng kêu chim tu hú gọi hè : Khi con tu hú gọi bầy... Câu thơ không nhằm mô tả tiếng chim kêu mà nhấn mạnh cái thời điểm tu hú gọi bầy : khi tu hú gọi bầy thì sẽ ra sao, sẽ xuất hiện những điều gi ?... Âm thanh không chỉ là tiếng kêu. Trong âm thanh thường có cả một thế giới hoài niệm gắn liền với âm thanh ấy. Một tiếng trống trường ngày khai giảng, một khúc nhạc ve ran khi vào hè đủ cho ta nhớ lại những ngày mực tím, áo trắng một thuở học trò náo nức đến trường.... Âm thanh ấy lại càng cồn cào, da diết biết bao khi nó đến với những người bị cách biệt với cuộc sống đồng loại : những chiến sĩ cách mạng bị giam trong tù. Ta hiểu vì sao, chỉ một tiếng chim tu hú gọi bầy cất lên đã làm hiện ra trong tâm trí Tố Hữu một thế giới đồng nội thân thuộc và quyến rũ đến thế : Khi con tu hú gọi bầy Lúa chiêm đương chín, trái cây ngọt dần Vườn râm dậy tiếng ve ngân Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào Trời xanh càng rộng càng cao Đôi con diều sáo lộn nhào từng không.
<span class='text_page_counter'>(82)</span> Một bức tranh đồng nội tuyệt đẹp vào vụ tháng năm, tháng sáu :lúa chín, trái ngọt, ngô vàng, ve ngân dậy vườn, nắng đào đầy sân, trời xanh cao rộng và sáo diều bay lượn... Có đủ âm thanh, sắc màu, cái gì cũng đẹp, cũng tươi vui, đầy sức sống, và tất cả đều hài hoà với nhau trong một không gian cao rộng mà êm ả của làng quê. Nếu « thi trung hữu hoạ » (trong thơ có vẽ) thì đây chính là một bức hoạ bằng thơ. Nhưng khó có thể hình dung đây là cảnh tượng có thật được nhìn bằng mắt, bởi tác giả đang ở trong tù. Càng cảm thấy ngột ngạt chết uất trong phòng giam chật chội, anh càng cảm thấy cảnh mùa hè ngoài kia mới tưng bừng rộng rãi, mới quyến rũ biết bao ! Với niềm khao khát tự do, thèm khát sự sống cháy ruột, người tù cách mạng đã huy động mọi giác quan căng ra đón nhận mọi tín hiệu của thế giới sự sống bên ngoài. Vì vậy đây chỉ có thể là bức tranh của hoài niệm được gọi dậy trong lòng nhà thơ từ một tiếng chim tu hú gọi bầy. Hoài niệm sống dậy bao giờ cũng lung linh đẹp đẽ. Đó là nhờ sức mạnh của liên tưởng và tưởng tượng. Điều này chỉ có thể có được khi tâm hồn nhà thơ đầy ắp ấn tượng về thôn dã. Tố Hữu là một người như thế nên trong đoạn thơ này, ông đã đem đến cho ta một điều kì diệu : sự liên tưởng tạo thành một phản ứng dây chuyền trong các câu thơ. Đầu tiên là tiếng chim tu hú gọi mùa hè. Tiếng chim ấy đánh thức cả một mùa hè thôn dã sống dậy trong kí ức ông và chảy ra theo ngòi bút thơ, để cho câu chữ vẫy gọi nhau, hình ảnh nối tiếp nhau mà đan dệt thành bức tranh đồng nội đầy quyến rũ. Thực ra, không phải câu chữ, hình ảnh, mà chính là kí ức, hoài niệm gọi nhau theo một phản ứng dây chuyền trong các câu thơ : tiếng chim gọi bầy gợi lúa đang chín, trái cây chín dần- biết bao là hương vị của đồng quê. Trái cây ngọt dần lại gợi đến những khu vườn râm mà ở đấy dậy lên tiếng ve ngân- khúc nhạc xao xuyến của mùa hè. Cái tiếng ve ngân ấy báo hiệu mùa hè đã đến, ấy là lúc bắp rây vàng hạt đang phơi đầy sân nắng đào- cái sắc mầu quê kiểng sao mà rực rỡ chói chang ! Nắng đào là nắng hồng rực rỡ lại gợi nhớ đến bầu trời xanh trong cao rộng, và một bầu trời êm ả như thế ở làng quê thì không thể vắng bóng sáo diều bay lượn trên không. Từ một tiếng chim mà gợi nhớ đến bao điều, đến bao âm thanh vui tươi, bao sắc màu đẹp đẽ của làng quê, của cuộc sống bên ngoài nhà tù như đang lên hương ngây ngất trong lòng nhà thơ. Cuộc sống ấy được hồi tưởng lại đẹp bao nhiêu thì cũng có nghĩa là ông đang khao khát nó bấy nhiêu- và ta hiểu đây là niềm khao khát tự do của người ciến sĩ trẻ đang bị giam trong tù. Có phải vì thế mà đoạn thơ đã chốt lại, nhưng chính là để mở ra một không gian cao rộng, tự do : Trời xanh càng rộng càng cao Đôi con diều sáo lộn nhào từng không. Hình ảnh « đôi con diều sáo lộn nhào từng không » thật thoải mái, tự do và tâm hồn nhà thơ như cùng đang bay lượn trong cái không gian cao rộng, tự do ấy. 2. Tâm trạng bực bội, u uất của người chiến sĩ trẻ trong phong giam ngột ngạt. Nếu 6 câu trên là cảnh tưởng tượng qua hoài niệm về cuộc sống tươi vui, rộn ràng ngoài nhà tù, thì bốn câu dưới là tình, là lời phát biểu trực tiếp những cảm xúc, tâm trạng của nhân vật trữ tình trong cảnh thực ngột ngạt trong phòng giam của người chiến sĩ trẻ. Cảnh có sự đối lập nhưng tâm trạng thì vẫn là sự nối tiếp của một con người thống nhất. Và tất cả đều hiện ra trên nền âm thanh củ tiếng tu hú kêu. Tu hú kêu báo hiệu mùa hè đã đến. Nhưng mùa hè đến đã gọi dậy trong lòng người chiến sĩ những đièu gì khi ông đang đối diện với cảnh sống ngột ngạt ấy ? Ta nghe hè dậy bên lòng.
<span class='text_page_counter'>(83)</span> Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi ! Tố Hữu thì thầm với mùa hè, đây cũng là một hình ảnh mới trong thơ, bởi một mình giữa bốn bức tường ngột ngạt, ông còn biết tâm sự với ai ? Thì thầm với mùa hè cũng như thì thầm với chính mình, và đây là tiếng lòng của nhà thơ cách mạng trong nhà tù đế quốc. Mùa hè, như nhà thơ đã hồi tưởng ở đoạn trên là mùa của tự do, của nồng nàn, của đam mê, của sự sống. Nhưng trong nhà tù thì làm gì có được mùa hè ấy ? Câu thơ thể hiện khát vọng hành động tháo cũi, xổ lồng của người chiến sĩ. « Mà chân muốn đạp tan phòng hè ôi ! » Cùng với ý nghĩ thật táo tợn, dữ dội là cách ngắt nhịp ở hai câu 8,9 (nhịp 6/2 và nhịp 3/3, gợi cảm giác nhói lên bực bội đến điên người) và giọng điệu cảm thán, dường như cảm xúc bực bội không nén được cứ trào ra : « Hè ôi ! », « ngột làm sao, chết uất thôi ». Tất cả đều thể hiện tâm trạng ngột ngạt cao độ không thể nào chịu được của nhà tù. Chính vì thế mà cái tiếng chim tu hú trong câu dưới mới thật da diết, nhức nhối. Trong này, nhà tù ngột ngat, ngoài kia, tiếng chim cứ dóng dả, thiết tha như nhắn gửi, như giục giã người chiến sĩ. Sự tương phản ấy bộc lộ niềm khao khát tự do đến cháy bỏng, đễn mãnh liệt, đến đỉnh điểm. Con chim cứ kêu có nghĩa là tiếng gọi tự do không bao giờ thôi, ý chí vượt ngục luôn thường trực. Bài thơ đã kết thúc trong một tâm trạng nhức nhối, bồn chồn, không thể khoanh tay, ngồi yên để nung nấu ý chí hành động. Và tháng 3/1942, Tố Hữu đã vượt ngục về với cách mạng, với nhân dân. Con chim cách mạng ấy đã cất cánh tung bay trên bầu trời tự do, nhưng thực ra nó đã được giục giã từ tiếng chim tu hú kêu gần ba năm về trước..
<span class='text_page_counter'>(84)</span> Ngày soạn : Ngày dạy :. / /. /2012 /2012. Buæi 19 THƠ HỒ CHÍ MINH VÀ NHẬT KÝ TRONG TÙ I. Hoàn cảnh và lý do sáng tác Nhật ký trong tù 1. Hoàn cảnh - Tháng 2/1941, Bác Hồ về nước trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng trong nước, lúc này tình hình trong nước và thế giới đã có những biến động dữ dội, hết sức khẩn trương, Nhật đã đi vào Đông Dương, phát xít Đức và Nhật đang làm mưa làm gió, trên thế giới, Liên Xô và các nước đồng minh đang có nhiều khó khăn - Tháng 5/1941, Người chủ trì Hội nghị trung ương Đảng lần thứ 8 thành lập mặt trân Việt Minh ( Việt minh cần sự thừa nhận và viện trợ của các nước đồng mình, trước hết là của Trung Quốc) - Vì vậy ngày 13/8/1942, lãnh tụ cách mạng Nguyễn Ái Quốc bắt đầu lấy tên mới là Hồ Chí Minh, từ địa điểm cơ quan bí mật đóng ở vùng Pắc Bó tỉnh Cao Bằng đã lên đường sang Trung Quốc để tranh thủ sự viện trợ quốc tề và liên hệ với các lực lượng chống Nhật của người Việt Nam ở Trung Quốc.Sau nửa tháng đi bộ, tới ngày 29/8, khi vừa tới Túc Vinh (Quảng Tây, Trung Quốc) thì HCM chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giữ. Người đã bị giam cầm, bị đầy đoạ vô cùng khổ cực, thường bị giải tới, giải lui gần 30 nhà tù khắp tỉnh Quảng Tây hơn một năm trời. - Trong chuỗi ngày tù đầy gian khổ đó, HCM đã viết tập thơ « Nhật kí trong tù » bằng chữ Hán bao gồm 133 bài, đa số theo thể thơ tứ tuyệt. 2. Lý do : Trang mở đầu của tập thơ, Người đã nói rõ lý do sáng tác tập thơ : « Ngâm thơ ta vốn không ham Nhưng vì trong ngục biết làm chi đây Ngày dài ngâm ngợi cho khuây Vừa ngâm vừa đợi đến ngày tự do » - Suốt thời gian bị cầm tù, Bác bị cách biệt với thế giới bên ngoài, không thể làm chính trị được trong khi công việc cách mạng đang khẩn trương bề bộn. Bác đành phải làm thơ để tiêu thì giờ và vơi nỗi buồn, nỗi đau khổ của người tù cách mạng đang mong đợi tự do cháy ruột. - Tuy nhiên cần phải hiểu Bác là người rất yêu thơ và văn chương nghệ thuật nói chung. Bác là người có tâm hồn nghệ sĩ và năng khiếu thơ ca bẩm sinh. Nếu không yêu thích thơ thì vì sao để giải trí « cho khuây » trong những ngày tù đày, Bác lại làm thơ ? - Nhưng vì Bác phải dành toàn bộ cuộc đời, toàn bộ tâm trí, thời gian cho cách mạng nên Người không thể « ham » ngâm thơ và làm thơ. Người chỉ làm thơ cho mình khi điều kiện thời gian cho phép, thường là rất ít. Song lúc này ở trong tù, thời gian quá dư.
<span class='text_page_counter'>(85)</span> thừa mà người lại không làm được cách mạng nên đành phải làm thơ để « đợi ngày tự do », trở về với phong trào cách mạng mà thôi. - Song nhờ có năng khiếu làm thơ và tâm hồn thơ, Bác đã sáng tác rất nhiều và có nhiều bài hay, có ý nghĩa sâu sắc. 3. Vẻ đẹp tâm hồn của Bác qua những bài thơ trong « NKTT » đã học * Lòng yêu nước cháy bỏng, đêm ngày khắc khoải, trằn trọc băn khoăn lo cho vận mệnh đất nước (Không ngủ được), Ốm nặng) * Chất thép phi thường của người chiến sĩ vĩ đại HCM, phong thái ung dung, tự chủ, luôn làm chủ hoàn cảnh với tinh thần lạc quan chiến thắng (Ngắm trăng, đi đường, đáp thuyền đi Ung Ninh) * Tâm hồn nghệ sĩ luôn nhạy cảm với vẻ đẹp bình dị mà thi vị củ thiên nhiên (ngẳm trăng, đáp thuyền...) Việt đoạn văn dùng phép nối và phép thế Qua năm bài thơ đã học và đọc thêm trong « NKTT », ta thấy HCM là một nhà yêu nước vĩ đại. Trong suốt thời gian bị tù đầy, nỗi khổ lớn nhất của HCM không phải là gồm cùm, đói rét, những đày đoạ về thể chất- mà là bị mất tự do, xa rời chiến đấu. Người chiến sĩ cách mạng ấy đêm ngày khao khát tự do tới cháy ruột, mong mỏi từng ngày, từng giờ sớm trở về với phong trào cách mạng trong nước.Nhiều đêm Người không ngủ, trằn trọc, băn khoăn lo cho vận mệnh đất nước. Đến khi vừa chợp mắt, Bác đã thấy lá cờ cách mạng, lá cờ Tổ Quốc theo cả vào trong giấc mơ : « Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh ». Một lần, vị cha già dân tộc lâm bệnh nặng trong nhà tù Tưởng Giới Thạch, phần vì thời tiết Trung hoa nóng lạnh thất thường, phần chính vẫn là nỗi đau đất nước « nội thương đất việt cảnh lầm than ». Người lãnh tụ vĩ đại của dân tộc ta còn là một tấm gương về nghị lực và bản lĩnh cách mạng phi thường. Chẳng những người tù cách mạng ấy đã dũng cảm chịu đựng hoàn cảnh sống khác loài người « vô vàn cực khổ » trong nhà tù tàn bạo mà còn vượt hẳn lên hoàn cảnh ấy với một thái độ ung dung tàn bạo mà còn vượt hẳn lên hoàn cảnh ấy với một thái độ ung dung tự chủ, thể hiện một tinh thần lạc quan chiến thắng. Chẳng thế mà trong cuộc giải lao trên đường núi đầy gian lao, nhọc nhằn trắc trở : « núi cao rồi lại núi cao trập trùng », Bác hiện lên như một chiến sĩ cách mạng trong cốt cách của một nhà hiền triết phương Đông, với nét tiên cốt xuất thần của một con người đã ung dung chiếm lĩnh được những « đỉnh cao của cuộc sống ». Đó là cái « được » tuyệt vời của người chiến sĩ trên con đường CM gian nan mà không phải ai cũng có được. « Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non » là tầm vóc, ý chí, bản lĩnh, trí tuệ lớn của người anh hùng CM trong chốn tù đầy gian khổ. Một lần, bị giải đi bằng thuyền chân treo ngược lên mui thuyền, đau đớn như treo cổ, BH vẫn ung dung ngắm cảnh làng xóm ven sông và thuyền câu thênh thênh rẽ sóng trên sông nước. Người chiến sĩ gang thép ấy còn là một tâm hồn thi sĩ luôn nhạy cảm, tinh tế, luôn biết yêu và rung động với mọi cái đẹp trong thiên nhiên và trong cuộc đời. Chẳng thế mà ngay trong chốn ngục tù, người tù thi sĩ vẫn ung dung ngắm trăng qua song sắt nhà tù, giao cảm mênh mông với vầng trăng bè bạn len lỏi tìm đến thăm Người. - Phép thế : HCM- Bác Hồ- Bác- Người chiến sĩ cách mạng ấy- Vị cha già dân tộc- ........ =============================.
<span class='text_page_counter'>(86)</span> Ngày soạn : Ngày dạy :. / /2012 / /2012. Buæi 20 NGẮM TRĂNG. Phân tích tác phẩm Bác Hồ là người rất mực yêu thiên nhiên, khát khao hoà hợp với thiên nhiên, trong đó trăng chiếm một địa vị xứng đáng trong tâm hồn Bác và thơ Bác. Có cả một chuỗi ngọc thơ trăng Hồ Chí Minh mà bài nào cũng long lanh sáng đẹp : Cảnh khuya, Rằm tháng giêng, Tin thắng trận, Đối trăng... Trong lòng thi nhân luôn toả sáng một vầng trăng rực rỡ, một nàng thơ trăng tri âm tri kỉ : Trăng vào cửa sổ đòi thơ Việc quân đang bận xin chờ hôm sau (Tin thắng trận) - Gió khuya ngon giấc, bên song trăng nhòm (Đối trăng) - Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền (Rằm tháng giêng) Chính vì thế, không chỉ trong cuộc kháng chiến chống Pháp, khi Bác là người tự do đang chèo lái con thuyền kháng chiến của dân tộc đi đến bến bờ vinh quang, trăng mới tràn đầy thơ Người ; mà ngay cả khi bị giam cầm đầy đoạ cực khổ trong nhà tù, trăng vẫn lấp lánh toả sáng trong những vần thơ của Bác, như ánh sáng chiếu rọi từ tâm hồn lớn của người tù cách mạng. Trong nhiều bài thơ như thế, « Ngắm trăng » được xem như là một bài thơ hay nói về cuộc ngắm trăng thật đặc biệt của Bác- ngắm trăng trong nhà tù. Vọng nguyệt Ngục trung vô tửu diệc vô hoa Đối thử lương tiêu nại nhược hà Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt Nguyệt tòng song khích khán thi gia 1. Về đề tài ngắm trăng và phân tích hai câu đầu - Vọng nguyệt (hay « khán minh nguyệt, đối nguyệt »), tức là « ngắm trăng », là một thi đề phổ biến trong thơ xưa. Thi nhân xưa gặp cảnh trăng đẹp thường đem rượu ra uống trước hoa để thưởng trăng ; như thế cuộc thưởng trăng mới mười phần mĩ mãn, thú vị. Khi chén rượu, khi cuộc cờ Khi xem hoa nở khi chờ trăng lên ( Nguyễn Du – TK) Đêm thanh hớp nguyệt nghiêng chén (Nguyễn Trãi).
<span class='text_page_counter'>(87)</span> Nói chung, người ta chỉ ngắm trăng trong hoàn cảnh thảnh thơi, tâm hồn thoải mái, thư thái. Ở đây, Hồ Chí Minh ngắm trăng trong một hoàn cảnh đặc biệt : trong nhà tù ! Người ngắm trăng ở đây đang trong cảnh ngục tù. Bậc tao nhân mặc khách thưởng trăng đó đang là một tù nhân bị đầy đoạ vô cùng cực khổ. Điều kiện sinh hoạt của nhà tù tàn bạo dã man mà tù nhân phải sống cuộc sống « khác loài người ». Cuộc sống đó làm sao phù hợp với việc « thưởng nguyêt", lấy đâu ra rượu và hoa để thưởng trăng. Nhưng câu thơ không mang ý nghĩa phê phán chế độ nhà tù mà chủ yếu để nói về tâm trạng của Bác. Trước cảnh đêm trăng đẹp, Người khao khát được thưởng trăng một cách trọn vẹn và lấy làm tiếc không có rượu và hoa. Việc nhớ đến rượu và hoa trong cảnh ngục tù khắc nghiệt đã cho thấy người tù ấy không hề vướng bận bởi gánh nặng về vật chất, tâm hồn vẫn tự do ung dung, vẫn thèm được tận hưởng cảnh trăng đẹp. Nhưng vì sao câu thơ thứ hai lại có một chút bối rối đọng lại trong ba chữ « nại nhược hà » của nguyên tác ? « Nại nhược hà » là biết làm thế nào ?Cả câu thơ « đối thử lương tiêu nại nhược hà ?» có nghĩa là trước cảnh đẹp đẽ, trong lành đêm nay biết làm thế nào ? Tác giả dịch thành « cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ » là đã bỏ đi cái xốn xang bối rối rất nghệ sĩ của Bác được thể hiện ở lời tự hỏi « nại nhược hà » ( biết làm thế nào). Dịch là « khó hững hờ » thì thấy nhân vật trữ tình có vẻ bình thản, hững hờ chứ không rung cảm mạnh mẽ như trong thơ chữ Hán. Đây là một tâm hồn nghệ sĩ đích thực nên mới bối rối vì « trong tù không rượu cũng không hoa » để đón trăng bởi Người rất yêu trăng, và hơn thế nữa, còn coi trăng như người bạn tri âm tri kỉ ? Đón một người bạn như thế mà không có rưọu và hoa theo phong cách tao nhã của thi nhân muôn đời Phương Đông thì coi sao tiện ? Trong tù, thiếu thốn mọi bề, làm sao có rưọu, có hoa được ? Người thừa biết điều ấy nhưng vẫn nhắc đến trong câu thơ với hai lần nhấn mạnh chữ « không » như một lời tạ lỗi với trăng, với người bạn tâm tình mà Người rất yêu quý và trân trọng. Đó là cái bối rối, băn khoăn rất nghệ sĩ của nhà thơ Hồ Chí Minh mà không phải ai cũng có được như Bác- nhất là trong hoàn cảnh thưởng trăng đặc biệt ở chốn ngục tù. Bởi chỉ có tâm hồn nghệ sĩ, biết yêu thương, biết xúc cảm với vẻ đẹp của thiên nhiên thì trước « cảnh đẹp đêm trăng trong tù mới có niềm xúc động ấy, mới có nỗi băn khoăn ấy. Và ta hiểu, người nghệ sĩ ấy, sau này trong hoàn cảnh tự do, lại thả hồn trong ánh « trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa » hay đắm mình vào cảnh « khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền » Ở bài thơ này, bên cạnh cái hiện thực trơ trụi của nhà tù thì niềm băn khoăn nghệ sĩ ấy càng bộc lộ một bản lĩnh vững vàng của con người, bất chấp cái gian khổ của đời sống ngục tù để giữ nguyên vẹn một tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, luôn biết yêu và rung động với mọi cái đẹp trong thiên nhiên và trong cuộc đời. 2. Sau cái phút băn khoăn bối rối ban đầu là một mối giao hoà tuyệt đẹp giữa người với trăng, giữa thi nhân với bạn tâm tình : Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ Đây là một mối giao hoà thầm lặng mà thiết tha sâu lắng biết bao giữa Người và trăng. Rượu, hoa không có, chỉ có tấm lòng của đôi bạn tâm giao thu vào một chữ « ngắm » : họ nhìn nhau đăm đắm qua chấn song sắt nhà tù. Và chính tấm lòng của họ đã chiến thắng cái song sắt nhà tù thô bạo và ghê tởm kia. Tấm lòng ấy, sự chiến thắng ấy được thể hiện tài tình trong nghệ thuật đối rất sáng tạo của câu thơ chữ Hán : Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt.
<span class='text_page_counter'>(88)</span> Nguyệt tòng song khích khán thi gia Ở đây có đối giữa hai câu trên, dưới theo luật thơ Đường (nhân hướng>< nguyệt tòng ; minh nguyệt>< thi gia) ; lại đối ở chữ đầu và cuối của mỗi câu thơ ( nhân- nguyệt , nguyệt - thi gia) khiến cho trăng và người quấn quýt với nhau trong một mối tâm giao tri kỉ. Kết cấu đó tạo một hiệu quả nghệ thuật riêng. Hai câu thơ dịch làm mất đi cấu trúc đó, giảm đi phần nào sức truyền cảm. Ngoài ra 2 từ « nhân », « ngắm » chưa cô đúc và nhất là chữ « nhòm » e chưa được nhã. Hình thức và cấu trúc câu thơ chữ Hán đã thể hiện mối giao hoà đặc biệt giữa người và trăng. Hình thức và cấu trúc câu thơ đã hiện rõ cảnh ngắm trăng trong tù ; hai đầu là Người và Trăng, giữa là song sắt nhà tù nổi lên thô bạo như chướng ngại vật ngăn cách. Song người đã thả hồn ra ngoài cửa sắt để ngắm trăng sáng, giao hoà với vầng trăng tự do đang toả mộng giữa trời và vầng trăng cũng vượt qua song sắt nhà tù để tìm đến ngắm nhà thơ trong tù. Cả trăng và người đều chủ động tìm đến, giao hoà cùng nhau, ngắm nhau say đắm. Cấu trúc đối của hai câu thơ chữ Hán làm nổi bật tình cảm song phương giữa người và trăng. Nghệ thuật nhân hoá đã khiến trăng trở nên như con người, có gương mặt, có linh hồn, có ánh mắt. Trăng trở thành người bạn tri âm tri kỉ của người tù khiến cho phút giao hoà thầm lặng ấy thêm thấm thía. Hai câu thơ của Bác cho thấy trăng yêu người cũng ngang với người yêu trăng. Không chỉ Người hướng tới cái đẹp của trăng mà mà trăng cũng phát hiện ra cái đẹp ở cõi Người, thấy ở người tù một nhà thơ. Phút giao cảm ấy khiến mọi đau thương, gian khổ, tăm tối của cuộc sống ngục tù, cả cái song sắt nhà tù kia như biến mất, tâm hồn con người trở nên thanh thản, nhẹ nhõm, thăng hoa :tù nhân thoắt biến thi nhân. Không còn tù ngục, không còn tù nhân, chỉ có nhà thơ và vầng trăng tri kỉ. Hoàn cảnh là trói buộc, giam cầm, nhưng sức sống của con người là vô hạn. Bởi thế, « ngắm trăng » không chỉ là bài thơ nói lên lòng yêu thiên nhiên, yêu trăng của Bác, mà còn cho thấy một cuộc vượt ngục về tinh thần của người tù cách mạng HCM. Và trong chốn ngục tù, Người hướng đến ánh trăng sáng phải chăng cũng là hướng tới tự do như nỗi khát khao cháy bỏng của Người : Chẳng được tự do mà thưởng nguyệt Lòng theo vời vợi mảnh trăng thu Bài thơ vừa thể hiện tình yêu thiên nhiên đặc biệt sâu sắc mạnh mẽ, một biểu hiện nổi bật của tâm hồn nghệ sĩ ở Bác Hồ, vừa cho thấy sức mạnh tinh thần to lớn của người chiến sĩ vĩ đại đó. Đằng sau những câu thơ rất thơ đó lại là một tinh thần thép mà biểu hiện ở đây là sự tự do nội tại, phong thái ung dung vượt lên ngục tù tàn bạo. Người tù cách mạng ấy dường như không chút bận tâm về những cùm xích, đói rét, muỗi rệp, ghẻ lở.... của chế độ nhà tù khủng khiếp, bất chấp song sắt thô bạo của nhà tù để tâm hồn bay bổng, để tìm đến đối diện đàm tâm với vầng trăng tri kỉ, hướng tới cái đẹp, khát khao tự do. Bài thơ là sự minh hoạ sinh động cho hình tượng HCM- người khách tiên trong ngục, là một minh chứng sinh động cho câu thơ Bác viết ở ngoài bìa tập NNKTTT: Thân thể ở trong lao Tinh thần ở ngoài lao. *Tóm lại : chỉ là một bài thơ tứ tuyệt giản dị nhưng « Ngắm trăng » đã cho thấy vẻ đẹp của một tâm hồn, một nhân cách lớn vừa rất nghệ sĩ, vừa có đủ bản lĩnh phi thường của người chiến sĩ vĩ đại. Bài thơ đã cho thấy nét đặc sắc của thơ trữ tình HCM, vừa có màu sắc cổ điển (thể hiện ở đề tài « vọng nguyệt », ở thi liệu « rượu, hoa, trăng », cấu trúc.
<span class='text_page_counter'>(89)</span> đăng đối trong hai câu thơ sau ; đặc biệt nhất là hình ảnh của chủ thể trữ tình ung dung giao cảm đặc biệt với thiên nhiên) vừa mang hồn của thời đại (một hồn thơ lạc quan, luôn hướng về phía cuộc sống, vừa mang tinh thần thép vừa giản dị, hồn nhiên, vừa hàm súc. Viết đoạn : Nhận xét về ánh trăng trong thơ Bác Hồ Trong thơ Bác, ánh trăng luôn luôn tràn đầy. Trăng đã đi vào thơ Bác ở nhiều bài thơ thuộc những giai đoạn khác nhau, từ những bài thơ viết trong nhà tù của chế độ Tưởng Giới Thạch, trăng đã luôn là bạn, người bạn tri âm tri kỉ của Bác : « Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ » Ở những bài thơ viết trong nước, ánh trăng càng thân thiết, gắn bó với Bác. Trăng thân mật với Người và « trăng vào cửa sổ đòi thơ. Việc quân đang bận xin chờ hôm sau » (Tin thắng trận). Trăng ôm trùm cảnh vật khiến cảnh rừng trở nên lung linh, huyền ảo, ấm áp, hoà hợp, quấn quýt : « Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa » (Cảnh khuya). Thuyền đi, trăng cũng như đi cùng : « Sao đưa thuyền chạy, thuyền chờ trăng theo ». Trăng đầy ắp khoang thuyền theo Bác trở về sau khi đã bàn bạc việc quân : Rằm xuân lồng lộng trăng soi ................trăng ngân đầy thuyền (Rằm tháng giêng) Trăng đã là cuộc sống, là thanh bình, là hạnh phúc, là ước mơ, là niềm an ủi, là người bạn tâm tình của Bác. Ánh trăng làm cho cái đẹp của cảnh vật trở nên êm đềm sâu sắc, làm cho cảm nghĩ của con người thêm thâm trầm, trong sáng. Có thể nói trong thơ Bác, ánh trăng luôn được trìu mến và trăng cũng góp phần làm nên vẻ đẹp của thơ Người..
<span class='text_page_counter'>(90)</span> Ngày soạn : Ngày dạy :. / /. /2012 /2012. Buæi 21. TẬP VIẾT LỜI BÌNH CHO CÂU THƠ CUỐI CỦA BÀI THƠ : « KHÔNG NGỦ ĐƯỢC » vµ «tøc c¶nh p¸c - bã» Nhớ nước mà không ngủ được cũng là điều thường thấy ở các bậc vĩ nhân trong lịch sử. Trần Hưng Đạo cũng đã từng « tới bữa quên ăn , nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa »...( Hịch tướng sĩ), còn Lê Lợi và Nguyễn Trãi thì : Những trằn trọc trong cơn mộng mị Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi... (Bình Ngô đại cáo) Tiếp nối truyền thống yêu nước của cha ông, Bác Hồ cũng có nhiều đêm không ngủ như thế. Nhưng có phải những đêm không ngủ của nhà cách mạng HM vẫn có những nét mới, những điểm toả sáng hơn ? Điều này được thể hiện ở sự vận động của mạch thơ từ « thức » sang « ngủ » đến « mơ » để có một hình ảnh lung linh rực rỡ khép lại bài thơ trong một giấc mơ kì diệu của người tù- thi sĩ - chiến sĩ « Cánh bốn, canh năm vừa chợp mắt Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh » Giấc mơ là mộng nhưng cũng là thực của nỗi lòng Bác lúc bấy giờ. Bởi theo tâm lý những hình ảnh hiện lên trong giấc mơ của con người bao giờ cũng là những điều mà họ quan tâm, chú ý nhất, những điều ám ảnh nhất đối với họ trong lúc tỉnh. Cái gì đã hiện lên trong giấc mơ ở chốn ngục tù của Bác ? Đó là « sao vàng năm cánh », biểu tượng cho lá cớ tổ quốc và cách mạng. Và hình ảnh « sao vàng năm cánh » đã đến ngay trong giấc mơ khi Người vừa chợp mắt. Có nghĩa là hình ảnh Tổ Quốc luôn da diết và thường trực trong máu thịt và tâm hồn Người, trong cuộc đời cách mạng gian truân, vất vả của Người, dù là ở bão tuyết Luân Đôn hay tù ngục phương Đông. Có phải vì thế mà Chế Lan Viên đã thấu hiểu nỗi niềm thiết tha, đau đớn nhớ Nước của Bác trong những ngày « Người đi tìm hình của nước » : Đêm mơ nước ngày thấy hình của Nước Cây cỏ trong chiêm bao xanh sắc biếc quê nhà An một miếng ngon cũng đắng lòng vì Tổ Quốc Chẳng yên lòng khi ngắm một nhành hoa Và ta hiểu ý thơ này của ông đã được khơi nguồn từ hình ảnh « sao vàng năm cánh mộng hồn quanh » trong bài « không ngủ được » của Bác, cũng như Hoàng Trung Thông khi đọc thơ Bác đã cảm nhận lòng yêu nước cao đẹp, tuyệt vời của lãnh tụ : Thân ở trong tù hồn ở nước Bay quanh hồn mộng ánh vàng sao Bởi đấy không chỉ là nỗi nhớ nước da diết và thường trực của người con yêu nước số một của dân tộc mà còn là « nối nhớ nước trong một niềm tin phơi phới » của người.
<span class='text_page_counter'>(91)</span> chiến sĩ cách mạng lão thành đã nhìn thấy tương lai tươi sáng của nước nhà ngay trong bóng tối của chốn ngục tù. Cho nên hình ảnh Tổ Quốc hiện lên trong giấc mơ mới thật lung linh, rực rỡ : « Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh ». Niềm tin ấy phải mạnh mẽ đến thế nào thì mới có một giấc mộng về Tổ quốc đẹp đến thế, mới sáng tạo ra một hình ảnh đầy chất thơ như vậy. Đó là chất lãng mạn vươn lên trên hiện thực đen tối của nhà tù- nó chính là sự vượt ngục tinh thần của nhà thơ để vươn ra ánh sáng, đến với tương lai tươi đẹp của Tổ quốc, của dân tộc trong một dự cảm đầy niềm tin của mình. Thơ tứ tuyệt thường kết tinh và toả sáng ở câu cuối. Cả bài thơ là một cuộc đối thoại nội tâm sâu lắng vận động qua các cung bậc cảm xúc, từ dồn nén, tích tục, nặng nề ở trạng thái thao thức trong hai câu đầu, đến sự chuyển đổi có gì như đột ngột ở trang thái « vừa chợp mắt » trong câu thứ ba, để rồi bột phát và toả sáng mạnh mẽ ở trạng thái mộng trong câu cuối. Câu thơ nâng cả bài thơ dậy trong một vầng sáng rực rỡ như một niềm tin mãnh liệt, một chí khí lạc quan bay bổng khi hồn thi nhân vượt khỏi nhà tù bay về quê hương, lượn quanh ánh sao vàng, biểu tượng cho lá cờ Tổ Quốc và cách mạng. Nỗi nhớ nước canh cánh trong một niềm tin phơi phới ở chốn ngục tù đã bộc lộ nét vĩ đại của một tâm hồn lớn. Bài 2 : TỨC CẢNH PÁC BÓ 1. Hoàn cảnh sáng tác Bài thơ được viết ra trong một hoàn cảnh đặc biệt : tháng 2/1941, sau 30 năm bôn ba hoạt động cách mạng ở nước ngoài tìm đường giải phóng dân tộc, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng trong nước. Người sống và làm việc trong những điều kiện hết sức gian khổ ở hang Pắc Bó Cao Bằng sát biên giới Việt Trung. Nhưng với một tinh thần lạc quan cách mạng, một nụ cười hóm hỉnh, tươi vui, Bác đã làm thơ về những ngày gian khổ đó. 2. Cảm nhận chung về bài thơ Bài thơ với bốn câu, có giọng đùa vui hóm hỉnh, đã toát lên một cảm giác vui thích, thoải mái. Đằng sau niềm vui đó là vẻ đẹp của một tâm hồn bình dị mà thanh cao hồn nhiên mà đầy bản lĩnh của Bác Hồ 3. Phân tích bài thơ Theo cấu trúc, có thể thấy bài tứ tuyệt này gồm hai phần : - Ba câu đầu là phần tả cảnh và kể sự việc ở Pắc Bó - Câu cuối nói lên cảm nghĩ về cuộc sống ở Pắc Bó đồng thời cũng là quan niệm sống của người chiến sĩ cách mạng trong những ngày đầu hết sức gian khổ ? -Thực ra, ở ba câu đầu, qua phần kể và tả cũng đã phần nào bộc lộ quan niệm sông của tác giả, để nhà thơ có thể tổng kết lại như một lời khẳng định đầy tự hào : Cuộc đời cách mạng thật là sang. Tình thần của bài thơ, khí chất của người viết, dấu ấn của tác giả được cô đúc và toả sáng trong câu thơ này. a. Thú lâm tuyền : - Câu mở đầu bài thơ có giọng điệu phơi phới, thoải mái, đọc lên ta có cảm tưởng như Bác Hồ sống thật ung dung, hoà hợp nhịp nhàng với điệu sống của núi rừng : Sáng ra bờ suối, tối vào hang..
<span class='text_page_counter'>(92)</span> Câu thơ ngắt nhịp ở giữa tạo thành hai vế sóng đôi, toát lên cảm giác nhip nhàng, nề nếp : sáng ra, tối vào... - Câu thứ hai là một nét cười đùa, cho biết thức ăn của con người sống ở suối, ở hang ấy thật đầy đủ, đầy đủ đến dư thừa : Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng. Có người hiểu là : dù chỉ có cháo bẹ rau măng nhưng tinh thần cách mạng vẫn sẵn sàng. Cách hiểu ấy không sai về mặt ngữ pháp nhưng e không thích hợp lắm với giọng thơ đùa vui, thoải mái của cả bài thơ. Có lẽ nên hiểu là : Thức ăn ( cháo bẹ, rau măng) thì lúc nào cũng có sẵn. - Câu thơ thứ nhất nói về ở,câu thơ thứ hai nói về ăn, câu thơ thứ ba nói về làm việc, cả 3 câu đều là thuật tả sinh hoạt vật chất, chỉ đến câu kết mới phát biểu cảm xúc, ý nghĩ. Hiểu như vậy, sx phù hợp với mạch thơ, với kết cấu chặt chẽ của bài thơ hơn. Hai câu thơ này còn làm gợi nhớ cảm xúc thơ của bài « Cảnh rừng Việt Bắc » (1947) của Bác cũng diễn tả niềm vui thích tới sảng khoái trong cảnh sống của Người ở núi rừng : Khách đến thì mời ngô nếp nướng Săn về thường chén thịt rừng quay Non xanh nước biếc tha hồ dạo Rượu ngọt chè tươi mặc sức say Với Bác Hồ, ở Việt Bắc, « non xanh nước biết » , « rượu ngọt chè tươi » cũng « vẫn sẵn sàng » muồn gì có nấy, cứ « tha hồ », « mặc sức » hưởng thụ, giống như « cháo bẹ rau măng » ở Pắc Bó vậy. - Nhưng sự thực, những câu thơ trên đây kể về cảnh sống của Bác Hồ ở PBó là hoàn toàn nói đúng sự thật, cái sự thật đầy gian khổ, song lại trở thành cái thực giàu có, sang trọng. Như vậy, câu thơ như một nụ cười hồn nhiên vượt lên trên gian khổ khó khăn. Mà không phải ai cũng có được nụ cười ấy trong hoàn cảnh ấy. Nụ cười của Bác Hồ dường như đã xua tan tất cả những gì là gian khỏ của cuộc sống cách mạng, không những thế còn bộc lộ niềm vui sâu kín : được hoà mình với thiên nhiên phóng khoáng trong một phong thái ung dung, nhàn nhã, tự chù. Đó là thú lâm tuyền của Bác, in đậm bản sắc HCM như Bác đã trả lời các nhà báo tháng 1 năm 1946 : « Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột độ là làm sao cho nước ta được độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Riêng phần tôi thì làm một cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh nước biếc, để câu cá, trồng rau, sớm chiều làm bạn với các cụ già hái củi, trẻ em chăn trâu không dính líu gì với vòng danh lợi », như Bác đã tự bộc lộ và khẳng định trong nhiều bài thơ khác của Người. Sự hoà hợp gần gũi với thiên nhiên trong một cuộc sống giản dị, thanh đạm là một nét đặc thù làm nên thế giới tâm hồn phong phú của Bác, khiến cho Người mang phong thái một nhà hiền triết phương Đông, như một ẩn sĩ, một đạo sĩ. Thì ra trong con người chiến sĩ cách mạng vĩ đại ấy vẫn có một « khách lâm tuyền ». Thú lâm tuyền là một tình cảm cao khiết, có truyền thống từ xa xưa. Những bậc hiền nhân quân tử, khi gặp cuộc đời nhiễu nhương lầm bụi đã từ bỏ công danh, tìm về cuộc sống ẩn dật chốn núi rừng, bạn với cây cỏ chim muông, với quạt gió đèn trăng : Nghêu ngao vui thú yên hà Mai là bạn cũ, hạc là người quen.
<span class='text_page_counter'>(93)</span> Vui thú lâm tuyền cũng là vui với cái nghèo. Cảm hứng vui với cái nghèo cũng để lại cả một mạch sáng tác trong văn thơ truyền thống : Nguyễn Bỉnh Khiêm viết : Thu ăn măng trúc, đông ăn giá Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao Cuộc sống của Bác chẳng khác gì với cuộc sống đạm bạc mà thanh cao giữa thiên nhiên cùa người xưa đó. Nguyễn Trãi viết trong « Côn Sơn ca » : Nửa đời vùi mãi trong lâm đục Muôn chung chín vạc để làm gì ? Nước lã cơm rau hãy tri túc Nghèo mà lại cảm thấy là « hào », là « phong lưu rất mực », là « tri túc ». Vì chính cái vị đạm bạc của cảnh nghèo ấy lại là biểu hiện cúa giàu sang về đạo lý, về tinh thần, là một thái độ sống thanh cao. Do đó mà có cảm giác rất thoả mãn, tự hào với cái nghèo, cảm thấy « nghèo mà sang ». Và cái bàn đá thiên tạo của Bác gợi nhớ đến phiến đá Côn Sơn của Nguyễn Trãi : Côn Sơn có đá rêu phong Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm Nhưng giống mà lại khác các bậc tiền nhân xưa thì đó mới là Bác Hồ. Giống ở phong thái ung dung, ở tư cacsh tiên phong đạo cốt, ở niềm vui thú sống hòa hợp giữa thiên nhiên, ở sự vượt lên coi thường gian khổ. Khác ở chỗ người xưa lui về chốn lâm tuyền là để xa lánh cõi đời nhơ bẩn, là sự quay lưng với hiện thực, dù sao cũng mang ít nhiều khí vị thoát li ; còn Bác là người cách mạng, không phải là ẩn sĩ mà là một chiến sĩ, cho nên dù có ở núi rừng nhưng vẫn là đang dấn thân vào hiện thực xã hội, dù có sống trong thú lâm tuyền thì vẫn làm việc cho cách mạng, cho đất nước, cho nhân dân. Cho nên giữa chốn non xanh nước biếc ấy, người lại dịch sử Đảng, dịch cuốn «Lịch sử Đảng cộng sản Liên Xô » làm tài liệu huấn luyện cán bộ cách mạng Việt Nam. Đây là câu thơ nói rõ sự khác nhau cơ bản giữa nhà cách mạng HCM với người xưa : « Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng » Cứ ngỡ cái bàn đá thiên tạo bên bờ suối ấy phải là nơi các tao nhân mặc khách ngồi đánh cờ, uống rượu làm tho nhưng ở đây nhà thơ hiền triết HCM lại ngồi dịch sử Đảng, bởi nhà hiền triết ấy là một chiến sĩ cách mạng đang lo toan, nhen nhóm cho phong trào cách mạng bùng lên từ cái hang đầu nguồn Pắc Bó này. Nhiều người đã bình cái hay của câu thơ trong sự tương phản ý giữa « bàn đá chông chênh » và « dịch sử Đảng ». Nếu hình ảnh « bàn đá chông chênh » của thiên nhiên gợi lên cái thế chưa ổn định, vững vàng cảu cách mạng trong những ngày đầu trứng nước thì cụm từ « dịch sử Đảng » rắn đúc lại đã làm cho cái bàn đá kia không còn chông chênh nữa. Con người đã vượt lên hoàn cảnh, thể hiện bản lĩnh tự chủ, tin tưởng vào mình. Đó không phải là một ẩn sĩ. Và ba chữ « dịch sử Đảng » đã ngời sáng một hồn thơ chiến sĩ của người cộng sản HCM gợi nhớ đến 3 chữ « đàm quân sự » trong câu « yên ba thâm sứ đàm quân sự » Người viết 7 năm sau trong một đêm « nguyên tiêu » trăng sáng đầy trời giữa nơi khói súng. b. Cuộc đời cách mạng thật là sang Câu kết như một lời tổng kết hóm hỉnh, đồng thời lại là một lời khẳng định đầy tự hào về cuộc sống cách mạng của mình. Thật là kì diệu bởi nó đem đến một quan niệm sống thật mới mẻ và cao đẹp của người cộng sản HM. Người ta có thể nói cuộc đời cách mạng.
<span class='text_page_counter'>(94)</span> thật là vẻ vang, thật là vinh quang, thật là cao đẹp... nhưng chưa ai tự nhận « cuộc đời cách mạng thật là sang » như Bác. Ba câu trên đã đã được tổng kết lại và nâng cao lên thành một nhân sinh quan mới in đậm bản sắc HCM : cuộc đời CM, một cuộc đời phải sống trong bí mật, chịu đựng gian khổ thiếu thốn vô ngần, nhưng khi con người đã sống vì một lý tưởng cao đẹp thì cuộc đời ấy vẫn mang một phong vị đặc biệt, một cái thú riêng, một giá trị mà những cuộc đời khác không thể có được : Thật là Sang ! Từ Sang vừa có nghĩa là sang trọng, giàu có, lại diễn tả một phong thái vượt lên trên vật chất tầm thường vươn tới một đời sống tinh thần cao cả, đậm phong vị truyền thống. Tự nhận như vậy là phải yêu cuộc sống ấy lắm, phải đánh giá rất cao cuộc sống ấy, phải tự hào mãnh liệt về cuộc sống ấy. Điều này không phải ai cũng cảm nhận và ý thức được như Bác. Viết ra được một câu thơ như vậy phải là của một cách nhìn mới mẻ, một tầm tư tưởng cao, một nhân cách đáng trọng. Nhưng cái sâu sắc, lớn lao của câu thơ lại được viết ra một cách vui tươi, hóm hỉnh thì đó mới là BHồ của chúng ta. Câu thơ như một tiếng cười vui hồn nhiên của người chiến sĩ trước cuộc sống gian truân, vất vả mà không cần phải suy nghĩ gì cả. Bởi đó chính là bản chất con người Bác, máu thịt và tâm hồn Bác mà hoá thành thơ. Câu thơ đã nâng bài thơ dậy, từng câu trên đã đẹp, đến câu cuối này thì bài thơ toả sáng. VÀ chữ SANG kết thúc bài thơ như một nhãn tự, ngân vang mãi một lạc quan cách mạng trong một quan niệm sống cao cả tuyệt vời của Bác. Bởi lẽ, Bác là người hơn ai hết hiểu gian khổ, thiếu thốn, nghèo nàn là hiện tại, còn sang giầu là tương lai ; hay nói đúng hơn, nghèo là điều kiện vật chất hôm nay, còn sang chính là xu thế tất thắng của cách mạng ngày mai. * Thơ Bác Hồ vừa rất mực giản dị, song lại rất hàm súc, gợi lên bao ý nghĩa sâu xa ; vừa đậm đà màu sắc cổ điển, vừa thể hiện đầy đủ tinh thần thời đại. Bài « tức cảnh Pắc Bó » là điển hình của hồn thơ, phong cách thơ đó. ==========================.
<span class='text_page_counter'>(95)</span> Ngày soạn : 22/11/2011 Ngày dạy : /11/2011. Ngày soạn : Ngày dạy :. Buæi 22 KiÓm tra. 2012 2012 Buæi 23 Chiếu dời đô. I. KIẾN THỨC CƠ BẢN A. GIỚI THIỆU 1. Vài nét về tác giả :.
<span class='text_page_counter'>(96)</span> Lí Công Uẩn (974- 1028), người châu Cổ Pháp, lộ Bắc Giang ( nay là làng Đình Bảng), Từ Sơn, Bắc Ninh). Ông là người thông minh, nhân ái, có chí lớn và lập được nhiều chiến công. Dưới thời Tiền Lê, ông làm đến chức Tả thân vệ điện tiền chỉ huy sứ. Khi Lê Ngọa Triều mất, ông được triều thần tôn lên làm vua, xưng là Lí Thái Tổ, lấy niên hiệu là Thuận Thiên và quyết định dời đô. Năm Canh Tuất niên hiệu Thuận Thiên thứ nhất (1010), Lí Thái Tổ viết bài Thiên đô chiếu bày tỏ ý định dời đô từ Hoa Lư (nay thuộc tỉnh Ninh Bình) ra thành Đại La (Hà Nội ngày nay). Tương truyền khi thuyền vua đến dưới thành thì có rồng vàng bay lên, nhân điềm tốt ấy vua đổi tên Đại La thành Thăng Long. 2. Chiếu dời đô của Lí Thái Tổ là bài văn xuôi kết hợp với văn biền ngẫu được viết bằng chữ Hán, vừa tiêu biểu cho đặc điểm chung của thể văn chiếu vừa có những nét riêng đặc sắc. Bố cục bài văn gồm 3 đoạn : + Đoạn 1 (từ đầu đến «…phong tục phồn vinh ») nêu tiền đề của việc dời đô. + Đoạn 2(từ « Thế mà hai nhà Đinh, Lê… » đến « không thể không dời đổi ») chứng minh tiền đề bằng thực tế. + Đoạn cuối (còn lại) khẳng định thành Đại La là nơi tốt nhất để chọn làm kinh đô. B. ĐỌC HIỂU VĂN BẢN : 1. Đoạn 1 (từ đầu đến «…phong tục phồn thịnh ») nêu tiền đề của việc dời đô. Mở đầu bài văn, Lí Thái Tổ nói về việc dời đô của các vua nhà Thương, nhà Chu trong sử sách Trung Quốc : « Xưa nhà Thương đến vua Bàn Canh năm lần dời đô ; nhà Chu đến vua Thành Vương cũng ba lần dời đô ». Tác giả suy luận « Phải đâu các vua thời Tam đại theo ý riêng mình mà tự tiện chuyển dời ? », sau đó nêu rõ mục đích của việc dời đô ấy là « Chỉ vì muốn đóng đô ở nơi trung tâm, mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu ; trên vâng mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu thấy thuận tiện thì thay đổi », và khẳng định kết quả của những cuộc dời đô ấy là « vận nước lâu dài, phong tục phồn thịnh ». Việc viện dẫn sử sách Trung Quốc với những số liệu cụ thể và suy luận chặt chẽ đã tạo ra một tiền đề vững chắc cho việc dời đô của Lí Thái Tổ : trong lịch sử đã có chuyện dời đô và nhiều cuộc dời đô đã đem lại kết quả tốt đẹp ; như vậy, việc Lí Thái Tổ dời đô là bình thường và hợp với quy luật. Việc viện dẫn ấy thể hiện một đặc điểm tâm lí chi phối hành động của con người thời trung đại : dựa theo mệnh trời và noi gương tiền nhân. Người xưa hiểu mệnh trời là cái tất yếu mà tạo hóa đã định, việc gì thuận theo mệnh trời thì thành công (theo cách hiểu hiện đại thì mệnh trời chính là quy luật khách quan). Người xưa quan niệm quan niệm thời gian tuần hoàn (thời gian không đi mất mà quay trở lại gốc nguồn) nên rất coi trọng quá khứ, lấy quá khứ làm chuẩn mực, làm khuôn mẫu để noi theo, nên thường noi theo gương người đi trước. Quan niệm ấy dẫn đến việc sính dùng điển tích, điển cổ trong sáng tác văn chương. 2. Đoạn 2 (từ « Thế mà hai nhà Đinh, Lê… » đến « không thể không dời đổi ») chứng minh tiền đề bằng thực tế. Tiền đề nêu lên ở đoạn trên tiếp tục được tác giả soi sáng và củng cố bằng cách dẫn chứng thực tế từ hai triều đại Đinh, Lê. Tác giả phê phán « hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng mình, khinh thường mệnh trời, không noi theo dấu cũ của Thương, Chu, cứ đóng yên đô thành ở nơi đây ». Việc không theo mệnh trời, không chịu học theo cái đúng của người.
<span class='text_page_counter'>(97)</span> xưa đã đưa đến hậu quả « triều đại không được lâu bền, số vận ngắn ngủi, trăm họ phải hao tốn, muôn vật không được thích nghi ». Lí lẽ như thế là rất chặt chẽ, lại kết hợp với tình cảm chân thành nên càng giàu sức thuyết phục : « Trẫm rất đau xót về việc đó, không thể không dời đổi ». 3. Đoạn cuối (còn lại) khẳng định thành Đại La là nơi tốt nhất để chọn làm kinh đô. Sau khi khẳng định việc dời đô là không thể không làm, vấn đề còn lại là chọn đất định đô. Lí Thái Tổ tiếp tục khẳng định thành Đại La là thắng địa của Đất Việt, là nơi tốt nhất để định đô, bằng cách chỉ ra một cách toàn diện những lợi thế của nó. Về vị thế địa lí, thành « ở vào nơi trung tâm trời đất, được cái thế rồng cuộn hổ ngồi. Đã đúng ngôi nam bắc đông tây ; lại tiện hướng nhìn sông dựa núi. Địa thế rộng mà bằng ; đất đai cao mà thoáng ». Về vị thế chính trị - kinh tế - văn hóa, đây là « chốn tụ hội trọng yếu của bốn phương đất nước », là mảnh đất hưng thịnh « dân cư khỏi chịu cảnh khốn khổ ngập lụt ; muôn vật cũng rất mực phong phú tốt tươi ». Những câu văn biền ngẫu ngắn gọn, súc tích, sóng đôi với nhau nhịp nhàng mà dõng dạc thể hiện khát vọng lớn lao của Lí Công Uẩn về một đất nước độc lập, thống nhất, phồn thịnh, hùng cường và bền vững. Điều đáng trân trọng nhất là nhà vua luôn biết quan tâm đến dân. Trước đó, hai triều Đinh, Lê vẫn cứ đóng đô ở Hoa Lư bởi vì thế mà lực chưa đủ mạnh, vẫn còn phải dựa vào địa thế núi rừng hiểm trở. Việc dời đô từ vùng núi Hoa Lư ra vùng đồng bằng đất rộng, xem Đại La là « nơi kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời » chứng tỏ triều đình nhà Lí đủ sức chấm dứt nạn phong kiến cát cứ, thế và lực của dân tộc Đại Việt đủ sức sánh ngang hàng Trung Hoa. Định đô ở Thăng Long là thực hiện nguyện vọng của nhân dân thu giang sơn về một mối, nguyện vọng xây dựng đất nước độc lập, tự cường. Như vậy, nguyện vọng của Lí Thái Tổ thống nhất với nguyện vọng của nhân dân và phù hợp với yêu cầu của thời đại. Kết thúc bài chiếu, nhà vua không dùng giọng mệnh lệnh của bậc vua chúa mà dùng giọng đối thoại nhẹ nhàng như một lời tâm tình : « Trẫm muốn dựa vào sự thuận lợi của đất ấy để định chỗ ở. Các khanh nghĩ thế nào ? ». Giọng đối thoại ấy tạo nên sự đồng cảm giữa nhà vua với thần dân. Triều Lí hùng mạnh là vì có những ông vua biết lắng nge ý kiến của thần dân như thế !. C. TỔNG KẾT : Chiếu dời đô phản ánh khát vọng của nhân dân về một đất nước độc lập, thống nhất, đồng thời phản ánh ý chí tự cường của dân tộc Đại Việt đang trên đà lớn mạnh. Bài chiếu có sức thuyết phục mạnh mẽ vì nói đúng ý nguyện vọng của nhân dân, có sự kết hợp hài hòa giữa lí và tình. II. ĐỀ VĂN LUYỆN TẬP Đề 1 : Phân tích tư tưởng yêu nước trong bài « Chiếu dời đô » của Lí Công Uẩn… DÀN Ý A. Mở bài : + Giới thiệu bài chiếu dời đô của Lí Thái Tổ. + Khẳng định bài chiếu là một bài văn sáng ngời tư tưởng yêu nước. B. Thân bài : Biểu hiện của tư tưởng yêu nước trong bài chiếu : 1. Khát vọng xây dựng đất nước hùng cường, vững bền, đời sống nhân dân thanh bình, triều đại thịnh trị..
<span class='text_page_counter'>(98)</span> + Thể hiện ở mục đích của việc dời đô. + Thể hiện ở cách nhìn về mối quan hệ giữa triều đại, đất nước và nhân dân. 2. Khí phách của một dân tộc độc lập tự cường : + Thống nhất giang sơn về một mối. + Khẳng định tư cách độc lập ngang hàng với Trung Hoa. + Niềm tin vào tương lai muôn đời của đất nước. C. Kết bài : + Khẳng định tư tưởng yêu nước của bài chiếu. + Nêu ý nghĩa và vị trí của bài chiếu. III. BÀI TẬP VỀ NHÀ : Hoàn thành bài tập trên theo yêu cầu.. Ngày soạn : Ngày dạy :. 2012 2012. Buæi 24 hÞch tíng sÜ (TRẦN QUỐC TUẤN). I. KIẾN THỨC CƠ BẢN A. Giơí thiệu : 1. Vài nét về tác giả : Trần Quốc Tuấn (1231 ?- 1300), là con của An Sinh Vương Trần Liễu, tước Hưng Đạo Vương. Năm 1257, lần đầu tiên quân Mông Cổ sang đánh nước ta, ông đã được cử cầm quân trấn giữ biên thùy phía bắc. Hai lần sau, năm 1285 và 1287, quân Mông – Nguyên lại đem binh xâm lược nước ta, ông lại được Trần Nhân Tông cử làm Tiết chế thống lĩnh các đạo quân, cả hai lần đều thắng lợi vẻ vang. Trần Quốc Tuấn yêu người hiền, trọng kẻ sĩ, môn khách của ông có những người nổi tiếng như Phạm Ngũ Lão, Trương Hán Siêu… Đời Trần Anh Tông, ông về trí sĩ ở Vạn Kiếp (nay là xã Hưng Đạọ, huyện Chí linh, Hải Dương) rồi mất ở đó. Nhân dân tôn thờ ông là Đức thánh Trần và lập đền thờ ở nhiều nơi trên đất nước. 2. Hịch Tướng Sĩ của Trần Quốc Tuấn là bài văn nghị luận bằng chữ Hán, được viết trước khi xảy ra cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ hai (năm 1285). Trần Quốc Tuấn viết bài hịch này để thức tỉnh lòng yêu nước và căm thù giặc, đồng thời khích lệ tướng sĩ học tập sách Binh thư yếu lược, cổ vũ tinh thần hăng say luyện tập quân sự, quyêt chiến quyết thắng kẻ thù xâm lược. Bài hịch có thể chia thành 4 phần : Phần 1 (từ đầu đến … « còn lưu tiếng tốt ») : nêu những tấm gương trung nghĩa. Phần 2 (từ « Huống chi… » đến « …ta cũng vui lòng ») : tố cáo sự ngang ngược và tội ác của giặc ; đồng thời bày tỏ lòng căm thù giặc. Phần 3 (từ « Các ngươi ở… » đến « … không muốn vui vẻ phỏng có được không ? ») : phê phán thái độ, hành động sai trái của tướng sĩ và chỉ ra việc đúng nên làm..
<span class='text_page_counter'>(99)</span> Phần cuối (từ « Nay ta chọn binh pháp… » đến hết) : xác định thái độ dứt khoát và tinh thần quyết chiến quyết thắng kẻ thù xâm lược. B. Đọc – Hiểu văn bản : 1. Ở phần đầu, Trần Quốc Tuấn nêu lên những tấm gương anh hùng nghĩa sĩ trong sử sách Trung Quốc để khích lệ tinh thần trung nghĩa, hi sinh vì nước và ý chí lập công danh của tướng sĩ. Có những gương từ thời xa xưa như thời Xuân Thu, Chiến Quốc, thời Hán, thời Đường ; có những gương gần với thời bấy giờ hơn như thời Tống, thời Nguyên. Có những người là tướng lĩnh, là bề tôi gần như Kỉ Tín, Do Vu, Dự Nhượng ; lại có cả những người bình thường, những bề tôi xa như Thân Khoái, Kính Đức, Cảo Khanh… Cách nêu gương như vậy là toàn diện, có tác dụng khích lệ được nhiều đối tượng, ai cũng có thể làm người trung nghĩa « lưu danh sử sách, cùng trời đất muôn đời bất hủ ». Bên cạnh việc nêu gương, tác giả kết hợp phê phán lối « khư khư theo thói nữ nhi thường tình » để tăng sức khích lệ. Lịch sử nước Nam không thiếu gương anh hùng, nhưng trong bài hịch, Trần Quốc Tuấn chỉ nêu những tấm gương trong Bắc sử. Đó chỉ là thói quen trong sáng tác văn chương thời trung đại chịu ảnh hưởng sâu đậm của văn hóa Trung Hoa. Mặt khác, điều đó cũng thể hiện một cách nhìn phóng khoáng của Trần Quốc Tuấn : không cần phải phân biệt dân tộc, tất cả những người trung nghĩa dám xả thân vì chủ, vì vua, vì nước đều đáng ca ngợi. 2. Phần 2 Sau khi nêu gương sử sách, Trần Quốc Tuấn quay lại với thực tế « thời loạn lạc », « buổi gian nan » của đất nước. 2.1 Trước tiên, tác giả tố cáo sự ngang ngược và tội ác của kẻ thù : + Sự ngang ngược : « sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ ». + Tội ác của kẻ thù : « thác mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa, để thỏa lòng tham không cùng, giả hiệu Vân Nam Vương mà thu bạc vàng, để vét của kho có hạn ». Tội ác và sự ngang ngược của kẻ thù được lột tả bằng những hành động thực tế và qua cách diễn đạt bằng những hình ảnh ẩn dụ. Nỗi căm giận và lòng khinh bỉ của Hưng Đạo Vương thể hiện rõ trong những ẩn dụ chỉ sứ giặc như « lưỡi cú diều » - « thân dê chó », « hổ đói ». Đặt những hình tượng đó trong thế tương quan « lưỡi cú diều » - « sỉ mắng triều đình », « thân dê chó » - « bắt nạt tể phụ », tác giả đã chỉ ra nỗi nhục quốc thể bị chà đạp. Đoạn văn tố cáo kẻ thù có tác dụng đánh vào lòng tự ái dân tộc và khơi sâu nỗi căm thù giặc ở các tướng sĩ. 2.2 Nỗi lòng của Trần Quốc Tuấn Trước tội ác của kẻ thù và nỗi nhục quốc thể, Trần Quốc Tuấn bày tỏ nỗi lòng : « Ta thường tới bữa quên ăn ; nữa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa ; chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng ». Đoạn văn như trào ra từ trái tim thiết tha yêu nước và sôi sục căm thù, như được viết lên bằng máu và nước mắt. Đau xót, căm thù đến quên ăn, mất ngủ trở thành nỗi ám ảnh thường trực ngày cũng như đêm. Nỗi căm thù dồn nén thành khát khao hành động giết giặc, tình yêu nước đốt cháy lên lòng quyết tâm hi sinh để rửa mối nhục cho đất nước. Câu văn chính luận mà giàu cảm xúc và đầy.
<span class='text_page_counter'>(100)</span> hình ảnh đã khắc họa được hình tượng người anh hùng yêu nước, tác động sâu sắc vào tình cảm của tướng sĩ. 3. Phần 3 3.1 Trước khi phê phán tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn nhắc lại những ân tình mình đã dành cho họ. Ở đoạn này, có thể thấy Trần Quốc Tuấn không chỉ là vị chủ soái biết quan tâm đến thuộc hạ của mình, mà còn là một con người gần gũi và gắn bó với tướng sĩ, đã cùng họ sống chết, vui buồn có nhau. 3.2 Trên cơ sở mối quan hệ đầy ân tình ấy, Trần Quốc Tuấn vừa ân tình chỉ bảo vừa phê phán nghiêm khắc thái độ, hành động sai trái của tướng sĩ. + Cái sai trái trước hết là thái độ bàng quan trước vận mệnh của đất nước « nhìn chủ nhục mà không biết lo, thấy nước nhục mà không biết thẹn. Làm tướng triều đình phải hầu quân giặc mà không biết tức ; nghe nhạc thái thường để đãi yến ngụy sứ mà không biết căm ». Thái độ bàng quang không chỉ là tội thờ ơ nông cạn mà còn là sự vong ân bội nghĩa với ân tình của chủ tướng. + Cái sai thứ hai là hành động hưởng lạc : ham mê chọi gà, đánh bạc, vui thú vườn ruộng, quyến luyến vợ con, lo làm giàu, ham săn bắn, thích rượu ngon, mê tiếng hát… Tác giả chỉ rõ những việc làm sai tưởng chừng nhỏ nhặt ấy lại dẫn đến những hậu quả tai hại khôn lường : tất cả sẽ mất hết, từ cái chung đến cái riêng, từ chủ soái đến tướng sĩ, từ những cái cụ thể gần gũi là sinh mạng, của cải vật chất, gia quyến vợ con… đến những cái trừu tượng thiêng liêng là danh tiếng, xã tắc tổ tông, mộ phần cha mẹ… Cách phên phán của tác giả cũng rất linh hoạt. Có kho là nói thẳng, gần như sỉ mắng : « không biết lo », « không biết thẹn », « không biết tức », « không biết căm ». Có khi là cách nói mỉa mai, chế giễu : « cựa gà trống không thể đâm thủng áo giáp của giặc », « mẹo cờ bạc không thể dùng làm mưu lược nhà binh », « chén rượu ngon không thể làm cho giặc say chết », « tiếng hát hay không thể làm cho giặc điếc tai ». cách phê phán như vậy có tác dụng đánh vào lòng tự trọng cá nhân của tướng sĩ, làm cho họ thức tỉnh. 3.3 Sau khi phê phán thái độ, hành động sai trái của tướng sĩ, tác giả chỉ ra cho họ thấy những việc đúng nên làm. Đó là nâng cao tinh thần cảnh giác, tích cực chăm lo « huấn luyện quân sĩ, tập dượt cung tên ; khiến cho người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ ». Những hành động này đều nhằm mục đích quyêt chiến quyết thắng kẻ thù : « bêu được đầu Hốt Tất Liệt ở cửa khuyết, làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhai ». Để lời kêu gọi thấm sâu vào nhận thức, tác giả đưa ra viễn cảnh tốt đẹp khi chiến thắng kẻ thù. Đoạn văn này hoàn toàn tương phản với đoạn văn chỉ ra hậu quả khi thất bại ở phần trên. Hai đoạn văn đăng đối với nhau từ cách triển khai ý theo lối trùng điệp và tăng tiến cho đến từ ngữ, giọng điệu…, tác động mạnh mẽ vào cả lí trí lẫn tình cảm, tạo nên hiệu quả thuyêt phục lớn lao. 4. Phần kết Cuối cùng, Trần Quốc Tuấn khích lệ tướng sĩ cố gắng học tập sách Binh thư yếu lược và bày tỏ thái độ dứt khoát, rõ ràng : « Nếu các ngươi biết chuyên tập sách này, theo lời dạy bảo của ta, thì mới phải đạo thần chủ ; nhược bằng khinh bỏ sách này, trái lời dạy bảo của ta, tức là kẻ nghịch thù ». Thái độ đó tác động vào ân nghĩa thủy chung của tướng sĩ, động viên những người còn do dự hãy đứng hẳn vào hàng ngũ của những người quyết chiết quyết thắng. Đoạn cuối bài hịch một lần nữa xác định thái độ đối với kẻ thù « giặc.
<span class='text_page_counter'>(101)</span> với ta là kẻ thù không đội trời chung » để động viên ý chí và tinh thần quyết tâm chiến đấu của mọi người. C. Tổng kết : Bài Hịch Tướng Sĩ của Trần Quốc Tuấn phản ánh lòng yêu nước của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, biểu hiện cụ thể ở lòng căm thù giặc, tinh thần quyết chiến, quyết thắng kẻ thù xâm lược. Hịch tướng sĩ là một trong những áng văn chính luận xuất sắc nhất của nước ta thời trung đại, có sự kết hợp giữa lập luận chặt chẽ, sắc bén với lời văn giàu cảm xúc, có sức lôi cuốn mạnh mẽ. II. ĐỀ VĂN LUYỆN TẬP Đề 1 : Phân tích đoạn văn sau trong bài « Hịch tướng sĩ » của Trần Quốc Tuấn : « Huống chi ta cùng các ngươi sinh phải thời loạn lạc, lớn gặp buổi gian nan. Ngó thấy sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi sĩ diều mà sỉ mắng triều đình, đêm thân dê chó mà bắt nạt tể phụ, thác mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa, dể thỏa lòng tham không cùng, giả hiệu Vân Nam Vương mà thu bạc vàng, để vét của kho có hạn. Thật khác nào như đem thịt mà nuôi hổ đói, sao cho để khỏi tai vạ về sau ! Ta thường tới bữa quên ăn ; nữa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa ; chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng ». DÀN Ý A. Mở bài : - Giới thiệu khái quát về bài « Hịch tướng sĩ » - Giới thiệu đoạn văn cần phân tích. B. Thân bài : Phần trích ở đề bài gồm hai đoạn, có thể phân tích theo cách cắt ngang từng đoạn. 1. Đoạn đầu : - Nội dung : Thức tỉnh tinh thần trách nhiệm và ý thức dân tộc ở tướng sĩ. + Tác giả chỉ ra tình hình nguy ngập của đất nước. + Tác giả vạch trần tội ác của kẻ thù : những hành động ngang ngược của sứ giặc bộc lộ bản chất tham tàn và dã tâm xâm lược của kẻ thù. - Nghệ thuật : + Câu văn biền ngẫu trùng điệp liên tiếp vạch ra tội ác của sứ giặc. + Từ ngữ giàu giá trị miêu tả và sức biểu cảm, diễn tả sâu sắc thái độ khinh bỉ và lòng căm thù sứ giặc cũng như nỗi nhục quốc thể bị xúc phạm. 2. Đoạn sau : - Nội dung : trực tiếp bày tỏ nỗi lòng tác giả. + Nỗi đau đớn và căm thù mãnh liệt. + Ý chí quyết tiêu diết giặc ngoại xâm. - Nghệ thuật : + Câu văn biền ngẫu nhiều vế ngắn diễn tả + Nhiều biện pháp tu từ (ẩn dụ, so sánh, phóng đại) cùng với những động từ mạnh biểu lộ mạnh mẽ và sâu sắc các tâm trạng. C. Kết bài : Đánh giá ý nghĩa của đoạn văn trích đối với tác phẩm. III. BÀI TẬP VỀ NHÀ :.
<span class='text_page_counter'>(102)</span> Hoàn thành bài viết theo dàn ý trên. Ngày soạn : Ngày dạy :. 2012 2012. Buæi 25 Nớc đại việt ta (Trích Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi) I. KIẾN THỨC CƠ BẢN A. Giơí thiệu : 1. Vài nét về tác giả : Nguyễn Trãi (1380 – 1442), hiệu Ức Trai, là bậc đại anh hùng dân tộc và là một nhân vật toàn tài hiếm có trong lịch sử trung đại Việt Nam. Nguyễn Trãi là một nhà chính trị, một nhà quân sự, một nhà ngoại giao, một nhà văn hóa, một nhà văn, nhà thơ kiệt xuất, được công nhận là danh nhân văn hóa thế giới. Ông quê ở Chi Ngại (Chí Linh, Hải Dương), sau dời về Nhị Khê (Thường Tín, Hà Tây). Cha là Nguyễn Phi Khanh, một học trò nghèo, học giỏi, đỗ Thái học sinh (tiến sĩ). Mẹ là Trần Thi Thái, con Trần Nguyên Đán, một quý tộc đời Trần. Năm 1400, Nguyễn Trãi đỗ thái học sinh và cùng cha ra làm quan cho nhà Hồ. Năm 1407, giặc Minh cướp nước ta. Nguyễn Phi Khanh bị chúng bắt đưa sang Trung Quốc. Nguyến Trãi và một người em đi theo chăm sóc. Nghe lời cha khuyên, ông trở về để tìm cách rửa nhục cho nước, trả thù cho cha, nhưng bị quân Minh bắt giữ. Sau đó, ông tìm theo Lê Lợi, và có công lớn trong cuộc kháng chiến mười năm của nghĩa quân Lam Sơn. Đầu năm 1428, khi đất nước đã sạch bóng quân thù, ông hăm hở bắt tay vào xây dựng lại nước nhà thì bỗng dưng bị nghi oan và bị bắt giam. Sau đó được tha, nhưng không còn được tin cậy như trước. Ông buồn, xin về Côn Sơn. Năm 1440, Lê Thái Tông mời ông trở lại làm việc và giao cho nhiều công việc quan trọng. Ông đang hăng hái giúp vua thì xảy ra vụ nhà vua chết đột ngột ở Trại Vải (Lệ Chi Viên, Bắc Ninh). Bọn gian thần ở triều đình vu cho ông âm mưu giết vua, khép vào tội tru di tam tộc năm 1442. Nỗi oan tày trời ấy, hơn hai mươi năm sau, năm 1464, mới được vua Lê Thánh Tông giải tỏa, cho sưu tầm lại thơ văn ông và tìm người con trai còn sống sót cho làm quan. 2. Bài Bình Ngô Đại Cáo do Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Lợi soạn thảo đầu năm 1428, công bố cuộc kháng chiến chính nghĩa của nghĩa quân Lam Sơn chống giặc Minh đã kết thúc thắng lợi, mở ra một kỉ nguyên thanh bình độc lập của đất nước. 3. Nước Đại Việt ta là đoạn văn trích phần mở đầu bài Bình Ngô Đại Cáo Đoạn văn trích có ý nghĩa nêu tiền đề chính nghĩa cho toàn bài. Nguyễn Trãi đã khẳng định hai chân lí làm nền tảng để phát triển nội dung bài cáo : - Tư tưởng nhân nghĩa. - Chân lí về sự tồn tại độc lập có chủ quyền của dân tộc Đại Việt. B. Đọc – Hiểu văn bản : 1. Tư tưởng nhân nghĩa : Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi được phát biểu trong hai câu văn mở đầu : Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân Quân điếu phạt trước lo trừ bạo + Nhân nghĩa là khái niệm đạo đức của Nho giáo. Nền tảng của đạo đức Nho gióa là Tam cương, Ngũ thường..
<span class='text_page_counter'>(103)</span> Tam Cương là ba mối quan hệ cơ bản kết hợp các cá nhân để tạo ra trật tự xã hội, gồm có quân thần cương (đạo vua tôi), phụ tử cương (đạo cha con), phu thê cương (đạo vợ chồng). Ngũ thường là năm cái đức của con người cần phải có, bao gồm Nhân – Nghĩa – Lễ Trí – Tín. - Trong quan niệm đạo đức của người xưa, chữ nhân có nội dung rất rộng, mà cốt lõi của nhân là thương người, là sự tương thân, tương ái giữa người với người. Đối với bậc vua chúa, nhân là trọng dân, đối với dân phải khoan dung nhân ái, không được thực hiện chính trị hà khắc bạo ngược với dân. - Nghĩa là cái phải làm của con người, là hành động hợp với lẽ phải, với đạo lí. Như vậy nhân nghĩa hiểu chung là lòng thương người, là đạo lí, là lẽ phải cần làm trong quan hệ giữa người với người. + Cũng dùng khái niệm nhân nghĩa, nhưng cốt lõi tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là « yên dân », « trừ bạo ». Nguyễn Trãi không nói nhân nghĩa chung chung, mà xác định rõ ràng : mục đích cuối cùng của nhân nghĩa là « yên dân », hành động nhân nghĩa là « trừ bạo ». « Yên dân » là làm cho dân được yên ổn, được an hưởng thái bình, hạnh phúc. Như vậy « yên dân » cũng tức là làm yên lòng dân. Muốn yên dân thì phải trừ diệt mọi thế lực bạo tàn. Đặt trong hoàn cảnh Nguyễn Trãi viết Bình ngô đại cáo thì dân là người dân Đại Việt còn bạo là giặc Minh xâm lược bạo tàn, và quân điếu phạt chính là nghĩa quân Lam Sơn vì thương dân mà trừ diệt kẻ có tội. Như vậy, với Nguyễn Trãi, nhân nghĩa gắn liền với yêu nước chống xâm lược. Nhân nghĩa không những trong quan hệ giữa người với người mà còn có trong quan hệ giữa dân dộc với dân tộc. Đây là nội dung mới, là sự phát triển của tư tương nhân nghĩa ở Nguyễn Trãi so với nho giáo. Nhân nghĩa trong nho giáo chủ yếu là mối quan hệ giữa người với người ; khi vào Việt Nam, do hoàn cảnh riêng của nước ta thường xuyên phải chống xâm lược, trong nội dung nhân nghĩa có cả mối quan hệ dân tộc với dân tộc. 2. Chân lí về chủ quyền độc lập dân tộc. Sau khi nêu lên nguyên lí nhân nghĩa, Nguyến Trãi đã khẳng định chân lí về sự tồn tại độc lập có chủ quyền của dân tộc Đại Việt : Như nước Đại Việt ta từ trước, Vốn xưng nền văn hiến đã lâu, Núi sông bờ cõi đã chia, Phong tục Bắc Nam cũng khác. Từ, Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nên độc lập, Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương, Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau, Song hào kiệt đời nào cũng có. Nguyễn Trãi đưa ra những yếu tố căn bản để xác định độc lập, chủ quyền của dân tộc : quốc hiệu, nền văn hiến, cương vực lãnh thổ, phong tục tập quán, lịch sử, chế độ, nhân tài. Với những yếu tố căn bản này, Nguyễn Trãi đã phát biểu một cách hoàn chỉnh quan niệm về quốc gia, dân tộc. Quan niệm của Nguyễn Trãi là một bước phát triển cao hơn, toàn diện và sâu sắc hơn trong học thuyết về quốc gia, dân tộc thời trung đại. Trong bài thơ Nam quốc sơn hà, ý thức về quốc gia dân tộc được xác định trên hai yếu tố : lãnh thổ và chủ quyền (nhưng cũng mới chỉ là chủ quyền của vua). Nguyễn Trãi đã mở rộng.
<span class='text_page_counter'>(104)</span> thêm các yếu tố : văn hiến, phong tục tập quán và lịch sử. Đặc biệt, ông đưa yếu tố văn hiến lên hàng đầu – đó là điều cơ bản nhất để xác định dân tộc. Điều này càng có ý nghĩa khi bọn phong kiến phương Bắc luôn tìm cách phủ định văn hiến nước Nam để từ đó phủ định cả tư cách độc lập của dân tộc ta. Nói về chủ quyền độc lập dân tộc, Nguyễn Trãi đã thể hiện một ý thức dân tộc, niềm tự hào dân tộc sâu sắc. Niềm tự hào đó đã dõng dạc vang lên ngay từ câu đầu tiên xưng danh nước Việt : « Như nước Đại Việt ta từ trước ». Cách nói cụ thể hơn so với cách nói « nước Nam » trong bài Nam quốc sơn hà. Người ta thường nói đến chữ đế trong bài Nam quốc sơn hà, nói Nam đế là có ý sánh ngang với Bắc đế (người Trung Quốc tự cho họ là dân tộc lớn, chỉ có vua của họ mới là thiên tử, mới được xưng đế và có quyền phong vương cho vua các nước chư hầu). Nguyễn Trãi khẳng định một cách rõ ràng : các triều đại của Đại Việt từ bao đời đã sánh ngang hàng với các triều đại phương Bắc, « mỗi bên xưng đế một phương ». + Có thể xem đoạn văn là một bản tuyên ngôn độc lập, được viết với một nghệ thuật chính luận cao cường, giàu sức thuyết phục. Cách viết vừa sánh đôi, vừa đề cao Đại Việt bằng những từ ngữ có tính chất hiển nhiên (từ trước, đã lâu, đã chia, cũng khác, đời nào cũng có). 3. Để làm sáng tỏ sức mạnh của nguyên lí nhân nghĩa và chân lí về chủ quyền độc lập dân tộc, Nguyễn Trãi đưa ra những dẫn chứng lịch sử : Lưu cung tham công nên thất bại, Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong, Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô, Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã. Kẻ xâm lược là kẻ vi phạm chủ quyền của dân tộc khác, cũng tức là những kẻ làm việc trái với lẽ phải, đi ngược lại nhân nghĩa. Nguyễn Trãi khẳng định tất cả những kẻ ấy đều phải chuốc lấy thất bại bằng cách nêu lên những dẫn chứng đầy sức thuyết phục trong thực tế lịch sử nước Nam : Lưu Cung thất bại, Triệu Tiết tiêu vong, Toa Đô và Ô Mã Nhi thì kẻ bị giết, người bị bắt. Nói về thất bại thảm hại của kẻ thù cũng tức là ca ngợi thắng lợi hào hùng của ta, lời văn Nguyến Trãi sang sảng niềm tự hào dân tộc – một dân tộc sáng ngời chính nghĩa. C. Tổng kết : Với cách lập luận chặt chẽ và chứng cứ hùng hồn, đoạn trích Nước Đại Việt ta có ý nghĩa như bản tuyên ngôn độc lập : nước ta là nước có nền văn hiến lâu dài, có lãnh thổ riêng, phong tục riêng, có chủ quyền, có truyền thống lịch sử ; kẻ xâm lược là phản nhân nghĩa, nhất định thất bại. II. ĐỀ VĂN LUYỆN TẬP Đề : Mở đầu Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi viết : Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân Quân điếu phạt trước lo trừ bạo. Anh (chị) hiểu ý nghĩa hai câu đó như thế nào ? Anh (chị) hãy chứng minh rằng tư tương đó đã được Nguyễn Trãi thể hiện trong toàn bài « Bình Ngô đại cáo ». DÀN Ý A. Mở bài :.
<span class='text_page_counter'>(105)</span> - Giặc Minh, khi kéo quân sang xâm lược nước ta đã rêu rao đó là một hành động nhân nghĩa : diệt Hồ Quý Ly để khôi phục ngôi vua cho nhà Trần. - Sau mười năm gian lao kháng chiến chống quân Minh, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo đã dành được thắng lợi. Tuyên bố chiến thắng giặc Minh cũng là tuyên bố sự ra đời của một triều đaị nhân nghĩa. - Nhân nghĩa là gì ? Bình ngô đại cáo khẳng định : Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân Quân điếu phạt trước lo trừ bạo. B. Thân bài : 1. Ý nghĩa lời khẳng định : a. Nhân nghĩa lấy việc yên dân làm mục đích. b. Nhân nghĩa phải trừ bạo. 2. Tư tưởng « yên dân, trừ bạo » thể hiện qua suốt Bình Ngô đại cáo : a. Xét quá khứ b. Xét tội ác của giặc Minh c. Nhìn lại buổi đầu cuộc kháng chiến d. Nhìn lại cuộc phản công và chiến thắng đ Tuyên bố e. Nhìn suốt toàn bộ « Bình Ngô đại cáo » : tư tưởng « yên dân, trừ bạo »là quan điểm lớn để lí giải cái đúng sai, chuyện thành bại. C. Kết bài : - « Bình Ngô đại cáo » là « áng thiên cổ hùng văn », lập luận chặt chẽ, hành văn mạnh mẽ, tiêu biểu cho nghệ thuật chính luận. - Những giá trị lâu dài của nó là lòng yêu nước , quan điểm nhân dân. « Triết lí nhân nghĩa của Nguyễn Trãi, cuối cùng chẳng qua là lòng yêu nước thương dân ; cái nhân, cái nghĩa lớn nhất là phấn đấu đến cùng chống ngoại xâm, diệt bạo tàn, vì độc lập của đất nước, hạnh phúc của dân » (Phạm Văn Đồng – Nguyễn Trãi, người anh hùng dân tộc).. Ngày soạn : Ngày dạy :. /. /2012 /2012. Buæi 26 «n tËp tiÕng viÖt. A.Kiến thức cần nhớ : I.Câu nghi vấn : Là câu có những từ nghi vấn như : ai, gì, nào, (tại) sao, đâu, bao giờ, bao nhiêu, à, ư, hả, chứ….. * Ví dụ :.
<span class='text_page_counter'>(106)</span> - Sáng ngày người ta đấm u có đau lắm không ? - Thế làm sao u cứ khóc mãi mà không ăn khoai ? Hay là u thương chúng con đói quá ? - Chị khất tiền sưu đến chiều mai phải không ? - Tại sao con người lại phải khiêm tốn như thế ? Đó là vì cuộc đời là một cuộc đấu tranh bất tận, mà tài nghệ của mỗi cá nhân tuy là quan trọng, nhưng thật ra chỉ là giọt nước bé nhỏ giữa đại dương bao la. - Văn là gì ? Văn là vẻ đẹp. Chương là gì ? Chương là vẻ sáng. Nhời(lời) của người ta rực rỡ bóng bẩy, tựa như có vẻ đẹp vẻ sáng, cho nên gọi là văn chương. Em là ai ? cô gái hay nàng tiên ? Em có tuổi hay không có tuổi ? Mái tóc em đây hay là mây là suối ? Đôi mắt nhìn hay chớp lửa đêm đông ? Thịt da em hay là sắt là đồng ? ( Tố Hữu, Người con gái Việt Nam) 2.Khi viết, câu nghi vấn kết thúc bằng dấu chấm hỏi. 3. Trong nhiều trường hợp, câu nghi vấn không dùng để hỏi mà dùng để cầu khiến, khẳng định, phủ định, đe dọa, biểu lộ tình cảm, cảm xúc,…và không yêu cầu người đối thoại trả lời. Ví dụ : Những người muôn năm cũ Hồn ở đâu bây giờ ? Biểu lộ cảm xúc thương nhớ, nuối tiếc. - Mày định nói cho cha mày nghe đấy à ? Câu hỏi dùng để đe dọa. - Bạn có thể cho tôi mượn cuốn sách ấy được không ? Biểu lộ ý cầu khiến. - Lính đâu ? Sao bay dám để cho chúng nó chạy xồng xộc vào đây như vậy ? Không còn phép tắc gì nữa à ? 2 câu hỏi (2) và (3) đều dùng để đe dọa. 4. Nếu không dùng để hỏi, thì trong một số trường hợp, câu nghi vấn có thể kết thúc bằng dấu chấm, dấu chấm than hoặc dấu chấm lững. - Chả lẽ lại đúng là nó, cái con Mèo hay lục lọi ấy ! II. Câu cầu khiến : 1.Câu cầu khiến là câu có những từ cầu khiến như : hãy, đừng, chớ, đi, thôi, nào,…hay ngữ điệu cầu khiến ; được dùng để ra lệnh, yêu cầu, đề nghị, khuyên bảo,… Ví dụ : Con cá trả lời : Thôi đừng lo lắng(1). Cứ về đi(2).Trời phù hộ lão. Mụ già sẽ là nữ hoàng. Câu(1) là lời khuyên bảo, câu (2) là lời yêu cầu. Tôi khóc nấc lên. Mẹ tôi từ ngoài đi vào và nhẹ nhàng dắt tay em Thủy : - Đi thôi con ! Lời khuyên bảo. - Ông Giao hút trước đi. Lời yêu cầu. - Nay chúng ta đừng làm gì nữa, thử xem lão Miệng có sống được không. Lời đề nghị. - Đang ngồi viết thư, tôi bỗng nghe tiếng ai đó vọng vào : - Mở cửa ! Ngữ điệu ra lệnh. 2. Khi viết, câu cầu khiến thường kết thúc bằng dấu chấm than, nhưng khi ý cầu khiến không được nhấn mạnh thì có thể kết thúc bằng dấu chấm. Ví dụ :.
<span class='text_page_counter'>(107)</span> Thôi, im cái điệu hát mưa dầm sùi sụt ấy đi. Ông đốc tươi cười nhẫn nại chờ chúng tôi : - Các em đừng khóc. Trưa nay các em được về nhà cơ mà. Và ngày mai lại được nghỉ cả ngày nữa. III CÂU CẢM THÁN : 1.Câu cảm thán là câu có những từ ngữ cảm thán như : ôi, than ôi, hỡi ơi, chao ơi (ôi), trời ơi ; thay, biết bao, xiết bao, biết chừng nào,…dùng để bộc lộ trực tiếp cảm xúc của người nói (người viết) ; và xuất hiện chủ yếu trong ngôn ngữ nói hàng ngày hay ngôn ngư văn chương. Ví dụ : - Hỡi ơi lão Hạc ! (Nam Cao, Lão Hạc) - Than ôi ! thời oanh liệt nay còn đâu ! (Thế Lữ, Nhớ rừng) - Than ôi ! Sức người khó lòng địch nổi với sức trời !Thế đê không sao cự lại được với thế nước ! Lo thay ! Nguy thay ! Khúc đê này hỏng mất.(Phạm Duy Tốn, Sống chết mặc bay). - Hỡi cánh rừng ghê gớm của ta ơi ! (Thế Lữ, Nhớ rừng). 2. Khi viết, câu cảm thán thường kết thúc bằng dấu chấm than, nhưng có khi kết thúc bằng dấu chấm hoặc dấu chấm hỏi (khi câu hỏi không dùng để hỏi). Ví dụ : Ai làm cho bể kia đầy Cho ao kia cạn, cho gầy cò con ? (Ca dao) Xanh kia thăm thăm rừng trên Vì ai gây dựng cho nên nỗi này ? (Chinh phụ ngâm khúc) IV. CÂU TRẦN THUẬT : 1.Câu trần thuật là câu không có đặc điểm hình thức của những kiểu câu khác (như câu nghi vấn, câu cầu khiến, câu cảm thán), thường dùng để kể, thông báo, nhận định, trình bày, miêu tả,… Ví dụ : - Lịch sử ta có nhiều cuộc kháng chiến vĩ đại… Chún ta phải ghi nhớ công lao của các vị anh hùng dân tộc, vì các vị ấy là tiêu biểu của một dân tộc anh hùng. (Hồ Chí Minh, Tinh thần yêu nước của nhân dân ta) - Cai Tứ là một người đàn ông thấp và gầy, tuổi độ bốn lăm, năm mươi. Mặt lão vuông nhưng hai má hóp lại. (Lan Khai, Lầm than) - Thế rồi Dế Choắt tắt thở. Tôi thương lắm. Vừa thườn vừa ăn năn tội mình. (Tô Hoài, Dế mèn phiêu lưu kí) Cả ba câu đều là câu trần thuật. Câu 1 dùng để kể. Câu 2 và 3 dùng để biểu lộ tình cảm, cảm xúc của Dế Mèn đối với cái chết của Dế Choắt. Ngoài những chức năng chính trên, câu trần thuật còn dùng để yêu cầu, đề nghị hay biểu lộ tình cảm, cảm xúc,…(vốn là chức năng chính của những kiểu câu khác). Ví dụ : Đêm nay, đến phiên anh canh miếu thờ, ngặt vì cất dở mẻ rượu, em chịu khó thay anh, đến sáng thì về. (Truyện Thạch Sanh) -.
<span class='text_page_counter'>(108)</span> 2. Câu trần thuật thường kết thúc bằng dấu chấm, nhưng khi dùng để yêu cầu, đề nghị hay biểu lộ tình cảm, cảm xúc,… nó có thể kết thúc bằng dấu chấm than hoặc dấu chấm lửng. Ví dụ : - Ôi Tào Khê ! Nước Tào Khê làm đá mòn đấy ! Nhưng dòng nước Tào Khê không bao giờ cạn chính là lòng chung thủy của ta ! (Nguyên Hồng, Một tuổi thơ văn) - Thốt nhiên, một người nhà quê, mình mẩy lấm lắp, quần áo ướt đầm, tất tả chạy xông vào, thở không ra lời. (Phạm Duy Tốn, Sống chết mặc bay) 3.Câu trần thuật là kiểu câu cơ bản và được dùng phổ biến nhất trong giao tiếp. B. Luyện tập : Bài 1 : Hãy nhắc lại đặc điểm hình thức và chức năng của bốn kiểu câu vừa ôn. Bài 2 : Xác định các kiểu câu trong các đoạn văn. (SBD) Bài 3 : Viết đoạn văn về đề tài bảo vệ môi trường. Trong đó có sử dụng bốn kiểu câu đã học.. Ngày soạn : Ngày dạy :. /2012 /2012. Buæi 27 VĂN THUYẾT MINH. I. Tìm hiểu chung về văn bản thuyết minh 1.Thuyết minh là gì? - Thuyết minh nghĩa là nói rõ, giải thích, giới thiệu - Thuyết minh còn có nghĩa là hướng dẫn cách dùng 2. Văn bản thuyết minh là kiểu văn bản thông dụng trong mọi lĩnh vực đời sống nhằm cung cấp tri thức về các hiện tượng và sự vật trong tự nhiên, trong xã hội bằng phương thức trình bày, giới thiệu, giải thích. VD: -Giới thiệu về một nhân vật lịch sử - Giới thiệu một miền quê, một vùng địa lý - Giới thiệu một đặc sản, một món ăn - Giới thiệu một vị thuốc - Giới thiệu một loài hoa, loài chim, loài thú… 3. Văn bản thuyết minh có tính chất khách quan, thực dụng, là loại văn bản có khả năng cung cấp tri thức xác thực, hữu ích cho con người. 4. Một văn bản thuyết minh hay, có giá trị là một văn bản trình bày rõ ràng hấp dẫn những đặc điểm cơ bản của đối tượng thuyết minh. 5. Văn bản thuyết minh sử dụng ngôn ngữ chính xác, cô đọng, chặt chẽ, sinh động. Bài tập 1: Hai văn bản sau có phải là văn bản thuyết minh không? Hãy đặt tên cho các văn bản ấy?.
<span class='text_page_counter'>(109)</span> Văn bản 1: Ở nước ta, tiền giấy được phát hành lần đầu tiên dưới thời nhà Hò (1400 – 1407) nhưng chỉ tồn tại trong thời gian rất ngắn. Sau khi Pháp xâm chiếm Việt Nam, ngân hàng Đông Dương ra đời năm 1875 và tiền giấy bắt đầu được phát hành ở Nam Kì và Hải Phòng vào khoảng những năm 1891 – 1892. Sau khi nước VNDCH ra đời, ngày 31-1 -1946, Chính Phủ đã kí nghị định phát hành tiền giấy VN và đến ngày 30- 11 – 1946 tờ giấy bạc đầu tiên của nước VNDCH ra đời. Ngày 5-6-1951, Ngân hàng quốc gia VN được thành lập và phát hành loại tiền giấy mới. Từ đó đến nay, nước ta đã trải qua hai lần đổi tiền (1959 và 1985) và một lần thống nhất tiền tệ hai miền Nam Bắc theo loại tiền mới (1978) Văn bản 2: Cá đuối thường sống ở vùng biển nhiệt đới. Thân hình chúng nom dẹt và mỏng, do hai vây ngực rộng và phẳng ở hai bên, gắn liền với thân. Khi cá bơi, các vây ngực mềm này chuyển động lên xuống trong nước trông rất đẹp. Cá đuối màu xanh sẫm, nhưng cũng có loài đuối lưng có những đốm màu trắng nom rất nổi bật. Chiếc đuôi dài giúp cá đuối giữ thăng bằng dưới nước. Tuy nhiên, đuôi cá đuối có nọc độc, có thể châm đốt gây nguy hiểm cho người và các động vật khác. Cá đuối thích sống thành từng đàn. Người ta có khi nhìn thấy bầy cá đuối ba đến bốn con bơi cạnh nhau. Chúng cũng rất thích nhảy múa nữa. Lúc “cao hứng”, cá đuối còn nhảy vọt lên trên mặt nước, cao đến vài mét. Song, cá đuối cũng biết giấu mình dưới cát để tránh kẻ thù. Gợi ý: Cả hai văn bản trên đều là văn bản thuyết minh Văn bản 1: Về tiền giấy Việt Nam Văn bản 2: Loài cá đuối ở vùng biển nhiệt đới. II. Tính chất của văn thuyết minh - Một văn bản thuyết minh hay có giá trị là một văn bản trình bầy rõ ràng, hấp dẫn những đặc điểm cơ bản của đối tượng thuyết minh. - Ngôn ngữ diễn đạt trong văn bản thuyết minh phải chính xác, chặt chẽ, cô đọng và sinh động. Cách viết màu mè, dài dòng sẽ gây cho người nghi ngờ, khó chịu, cần hết sức tránh. VD: (xem trang 95,96,97 sách cảm thụ ngữ văn THCS 8 – Tạ Đức Hiền) III. Yêu cầu và phương pháp thuyết minh 1. Yêu cầu: - Trước hết phải hiểu rõ yêu cầu của bài làm là cung cấp tri thức khách quan, khoa học về đối tượng thuyết minh - Phải quan sát, tìm hiểu kĩ lưỡng, chính xác đối tượng cần thuyết minh, nhất là phải nắm bắt được bản chất, đặc trưng của chúng, để tránh sa vào trình bầy các biểu hiện không phải tiêu biểu, không quan trọng. - Phải sử dụng ngôn ngữ chính xác, diễn đạt rõ ràng, mạch lạc - Cần chú ý thời gian được thuyết minh, đối tượng đọc, nghe bài thuyết minh của mình. 2. Phương pháp Để bài văn thuyết minh có sức thuyết phục, dễ hiểu, sáng rõ, người ta có thể sử dụng phối hợp nhiều phương pháp thuyết minh như : nêu định nghĩa, mô tả sự vật, sự việc, nêu ví dụ, liệt kê, so sánh, đối chiếu phân tích, phân loại, dùng số liệu, nói vừa phải, tránh đại ngôn… Tham khảo ví dụ trong sách trên (như mục III) Bài tập:.
<span class='text_page_counter'>(110)</span> Bài 1. Đọc các đoạn văn thuyết minh sau. Cho biết người viết đã phải huy động kiến thức gì và sử dụng những phương pháp thuyết minh nào? 1. Dơi là động vật ngủ đông. Vì thế ta thường bắt gặp chúng vào mùa hè. “Nhà” của dơi là những nơi tối ẩm như vách đá, hang động, đặc biệt là trong những thân cây lớn đã chết. Ở nơi có dân cư, dơi thường trú trên mái nhà, vách tường ẩm và không có ánh sáng…” (Theo Thanh Huyền- Báo hoạ mi) 2.Hiện nay, cứ 8 người Mĩ, có một người ở độ tuổi 65 hoặc cao hơn. Tới năm 2005, con số đó là 4 người. Nhóm người ở độ tuổi 75 trở lên ngày càng đông. Điều đó, chứng tỏ: người Mĩ ngày càng sống lâu hơn, có tuổi thọ cao hơn. (Theo 365 lời khuyên về sức khoẻ) Bao bì ni lông bị vứt xuống cống làm tắc các đường dẫn nước thải, làm tăng khả năng ngập lụt của các đô thị về mùa mưa. Sự tắc nghẽn hệ thống cống rãnh làm cho muỗi phát sinh, lây truyền dịch bệnh. Bao bì ni lông trôi ra biển làm chết các sinh vật khi nuốt phải. Đặc biệt bao bì ni lông mầu đựng thực phẩm làm ô nhiễm thực phẩm…. gây tác hại cho não và là nguyên nhân gây ung thư phổi. (Theo thông tin về ngày trái đất năm 2005) Gợi ý: a. Kiến thức sinh học 2. Kiến thức về sức khoẻ đời sống 3. Kiến thức về môi trường. Bài 2: Cho văn bản sau: “ Cách đây hai năm, chàng thanh niên Ra-pha-en-đơ Rốt-sin, người được thừa hưởng một trong những gia tài kếch sù nhất thế giới, đã gục chết trên một vỉa hè ỏ Niu-oóc vì “chơi bạch phiến” quá liều, năm đó chàng mới 23 tuổi. Cái chết của chàng tỉ phú trẻ này đã làm không ít các bậc cha mẹ tỉ phú khác lo lắng: làm sao để con cái họ đừng hư vì số tài sản khổng lồ không do chính chúng tạo dựng. a. Văn bản trên có phải là văn bản thuyết minh không? Vì sao? b. Văn bản trên có ích gì cho bạn đọc? Gợi ý: Văn bản trên là văn bản thuyết minh (có yếu tố tự sự) => một bản tin của báo Văn bản trên nhắc nhở việc giáo dục thế hệ trẻ- trách nhiệm của gia đình và xã hội trong việc giáo dục thế hệ trẻ. Bài 3: Hãy sưu tầm các kiến thức cần thiết để chuẩn bị cho đề bài : “thuyết minh về chiếc nón lá Việt Nam”. (Tham khảo sách “Cảm thụ ngữ văn 8 của Tạ Đức Hiền (tr 109) và sách “Các dạng bài tập làm văn và cảm thụ thơ văn lớp 8 (tr 168) Bài 4: đọc đoạn văn sau: Cha ông ta ngày xưa- những người đã thiết kế nên chiếc áo dài- mặc dù thời tiết của nước ta rất nóng, vẫn tạo ra dáng vẻ áo dài sao cho thanh tao, trang nhã, hợp với người thiếu nữ. Chính vì điều đó mà các cụ đã thiết kế ra kiểu áo có cổ cao một phân, hợp với kiểu tóc búi tó của phụ nữ thời xưa, biểu lộ sự kín đáo cảu người con gái… Từ thời xưa, các vua chúa đã để ý đến cách ăn mặc của nhân dân và có lẽ chính vì điều ấy mà chiếc áo dài đã ra đời… Đầu thế kỉ XVII, ở Bắc Ninh, chiếc áo dài mớ ba mớ bảy đã được ra đời.
<span class='text_page_counter'>(111)</span> để phù hợp với cách vấn khăn, bộc lộ rõ những nét đẹp của người Việt Nam. Mãi đến tận thế kỉ XX, chiếc áo dài mớ ba mớ bảy được cải tiến thành chiếc áo năm thân.. a. Đây có phải là đoạn văn thuyết minh không ? Vì sao? b. Muốn viết được đoạn văn trên, người viết đã phải lấy kiến thức từ đâu? 3. Nếu đúng là văn thuyết minh thì đoạn văn đã sử dụng các phương pháp thuyết minh nào? a. Đoạn văn trên đúng là đoạn văn thuyết minh b. Tìm kiến thức mà các nhà khoa học, nghiên cứu đã khẳng định ở trong sách, báo chí, các tài liệu tin cậy… c. Các phương pháp thuyết minh mà đoạn văn sử dụng: hs tự làm. IV. Cách làm bài văn thuyết minh 1. Phải tìm hiểu đề bài, nhằm xác định đối tượng sẽ thuyết minh 2. Tiếp theo, người làm bài phải tìm các tri thức khách quan, khoa học về đối tượng thuyết minh (có thể đến tận nơi quan sát, tìm hiểu kĩ lưỡng, chính xác, ghi chép lại) hoặc tìm đọc ở sách báo các kiến thức tin cậy về đối tượng thuyết minh 3. Tiếp theo nữa, sau khi có kiến thức rồi, cần tìm một hướng trình bày theo một trình tự thích hợp với đối tượng cần thuyết minh, sao cho người đọc dễ hiểu VD: Nếu thuyết minh về chiếc xe đạp có thể đi từ bộ phận quan trọng, đến không quan trọng, đến tác dụng của xe đạp với người sử dụng… Nếu thuyết minh về chiếc nón lá Việt Nam cần đi theo trình tự từ nguồn gốc, cách làm nón, các kiểu dáng nón, tác dụng khi con người sử dụng… 4. Khi làm văn thuyết minh, chú ý sử dụng ngôn ngữ chính xác, diễn đạt rõ ràng, mạch lạc. Chú ý “chất văn” phù hợp với văn thuyết minh. Bài tập 1: Hãy giới thiệu một món ăn của các bé ở lứa tuổi nhi đồng. Sau khi tìm hiểu đề, cần thực hiện tiếp những bước nào để hoàn thành bài thuyết minh trên? - Đối tượng thuyết minh: cách làm một món ăn - Học sinh có thể đọc sách báo, tài liệu hoặc học hỏi những người lớn hiểu biết. - Làm theo trình tự hợp lí: + Nguyên liệu + Cách làm + Chất lượng sản phẩm Bài tập 2: Hãy thuyết minh về một danh lam thắng cảnh, một di tích lịch sử của địa phương em. Bài tập 3: Hãy thuyết minh về các loài hoa ngày tết cổ truyền Việt Nam Bài tập 4: Thuyết minh về bánh dẻo, bánh nướng trong dịp tết trung thu. => 3 BT trên tham khảo trong phần “Phụ lục” của sách “các dạng bài tập làm văn và cảm thụ thơ văn lớp 8”. V.Luyện nói văn bản thuyết minh - Rèn tác phong nói nhanh nhẹn, tự nhiên, quen nói trước đông người - Rèn kĩ năng nói to, rõ, nhất là văn bản thuyết minh đòi hỏi phải rõ ràng, chính xác, đầy đủ các kiến thức về đối tượng cần thuyết minh..
<span class='text_page_counter'>(112)</span> - Tìm hiểu kĩ đề, lập dàn ý nói theo trình tự phù hợp với đối tượng thuyết minh. Dựa vào dàn ý để nói A. Dạng bài tập luyện số 1. Bài tập luyện: Bài 1: Lập dàn ý cho đề văn : Hãy giới thiệu trường của em Cách làm: 1. Dựa vào phòng truyền thống của trường, nắm được những thành tích nổi bật của trường em 2. Lưu ý ngắm khung cảnh của trường ở từng khu vực, từng lớp học 3.Biết rõ những hoạt động của trường từng tuần, từng ngày. 4. Tìm các số liệu, các công việc cụ thể. 5. Nêu tên các thầy cô giáo tiêu biểu (các học sinh tiêu biểu, các lớp tiêu biểu) * Dàn ý nói: - Giới thiệu trường THCS Chu Văn An, quận Tây Hồ, Hà Nội - Trường thành lập năm 1990, nhân dân yêu mến gọi là trường Bưởi - Sau CMT8 năm 1945, trường được đổi tên là Chu Văn An- tên người thầy giáo lỗi lạc của dân tộc ta. - Ngôi trường đó đã đào tạo bao thế hệ học sinh ưu tú, xuất sắc, hiện đang giữ những cương vị quan trọng của Đảng và Nhà nước. - Toàn trường được sự lãnh đạo của thầy hiệu trưởng- Nhà giáo ưu tú Đinh Văn Bình, học sinh được sự tận tâm dạy dỗ của các các thầy cô giáo giỏi. - Trường đạt danh hiệu tiên tiến xuất sắc cấp thành phố; có nhiều giải học sinh giỏi : tốt nghiệp năm học 2001 – 2002 là 99,85%. Năm 1999, trường đón nhận Huân chương lao động hạng nhì của Nhà nước. - Trường em còn mở rộng quan hệ, giao lưu với bạn bè trong và ngoài nước. - Xuân Quý Mùi 2003, trường được tham gia lễ dâng hương “Nam Quốc nho tôn biểu vạn thế sự Chu Văn An” tại Văn Miếu- Quốc Tử Giám. * Dàn ý nói: Giới thiệu trường THCS GV - Quận Ba Đình, Hà Nội - Trường em đã tròn 15 tuổi toạ lạc trên một ngôi đất rộng, trước mặt là hồ Giảng Võ. - Nhiều năm đạt danh hiệu trường tiên tiến xuất sắc về học tập và thể dục thể thao. Trường được đón nhận huân chương lao động hạng nhì và hạng 3 của nhà nước. - Trường còn mở rộng quan hệ giao lưu với bạn bè trong và ngoài nước - Trường có đội ngũ các thầy cô giáo quản lí giỏi, dạy giỏi, học sinh khá, giỏi đạt 70%; có nhiều giải học sinh giỏi cấp quận, cấp thành phố và cấp toàn quốc. Tỉ lệ tốt nghiệp nhiều năm đỗ 100%. B. Dạng bài tập số 2: Thuyết minh về một loài động vật có ích đối với con người. Bài tập 2: Lập dàn ý nói cho đề bài sau: “Thuyết minh về một con vật nuôi mà em yêu thích (chó, mèo, thỏ, gà...) Dàn ý nói thuyết minh về mèo: 1. Mèo là động vật bốn chân thuộc lớp thú, mình nó khoác một bộ lông dày mượt mà. Bộ lông ấy có thể màu đen trắng (mèo khoang), có thể màu tro (mèo mướp) và cũng có khi là ba màu khác nhua (mèo tam thể) 2. Mèo nhà em có bộ ria mép dài, trắng như cước, nói chính là trợ thủ giúp mèo bắt chuột trong đêm..
<span class='text_page_counter'>(113)</span> 3. Khi mọi người đi ngủ, màn đêm buông xuống là lúc mèo bắt đầu hoạt động. 4. Ngoài bộ ria nhạy bén, tai và mũi mèo cũng góp phần quan trọng, đặc biệt là tai mèo nghe được mọi cử động của chuột. 5. Mèo chuyển động nhẹ nhàng; sinh con, nuôi con rất khéo. Nó thể hiện rõ nét về tình mẫu tử. 6. Em thích con mèo nhà em. Tên nó chính là “Miu” * Dàn ý thuyết minh về chó : 1. Chó là loài động vật rất có ích cho đời sống con người, còn gọi là « linh cẩu ». 2. Chó là loài động vật rất trung thành, dễ gần và là bạn của con người. 3. Chó có nhiều loại, nhiều giống khác nhau 4. Đặc điểm chung của chúng : - Là loại động vật có bốn chân, mỗi bàn chân đều có móng vuốt sắc, nhưng khi hoạt động (đi lại) thì cụp vào. - Não chó rất phát triển, tai và mắt rất tinh vào ban đêm, có khả năng đánh hơi rất tài. - Chúng thường nặng từ 15- 20 kg, tuổi thọ trung bình từ 16- 18 năm - Hiện nay chó làm được rất nhiều việc giúp con người như trinh thám, cứu hộ… 5. Em rất yêu con chó mà nhà em đang nuôi, em gọi nó là Lu. * Thuyết minh về con trâu Con trâu là vật nuôi đứng đầu hàng lục súc. Hầu như em bé VN nào cũng thuộc bài ca dao : « Trâu ơi, ta bảo trâu này Trâu ra ngoài ruộng, trâu cày với ta » Con trâu là biểu tượng cho những đức tính như hiền lành, cần cù, chịu khó… Nó là cánh tay phải, là tài sản vô giá của người nông dân VN : « con trâu là đầu cơ nghiệp » Mỗi con trâu có thể nặng trên dưới ba tạ. Da trâu đen bóng, lông lưa thưa. Chiếc đuôi dài khoảng một mét, có chùm lông dài và mượt, lúc nào cũng đập qua đập lại để đuổi muỗi, đuổi ruồi. Bốn chân trâu to và dài, bàn chân có móng gân guốc to, dày và nhọn. Hai chiếc sừng nhọn hoắt, uốn cong rất đẹp. Ở Đồ Sơn, Hải Phòng có lễ chọi trâu : « Dù ai buôn đâu bán đâu Mồng mười tháng tám, chọi trâu thì về » Mắt trâu lồi to rất ưa nhìn. Bụng trâu khá to ; có phải vì thế mà trâu bước đi chậm chạp ? Trâu là loài nhai lại, nó chỉ có một hàm răng (hàm dưới). Trâu rất dễ nuôi. Thức ăn chính là cỏ tươi. Trâu cũng biết ăn rơm, ăn cám. Phân trâu màu đen, dùng để bón cây, bón lúa rất tốt. Trâu chịu rét kém, nhưng chịu nắng giỏi. Về mùa hè, nó có thể kéo cày, kéo bừa từ mờ sáng đến non trưa. Trâu tơ, trâu đực, trâu mờm kéo cày rất khoẻ. Trâu cái độ 2, 3 năm đẻ một lứa, mỗi lứa một con nghé. Câu tục ngữ : « ruộng sâu, trâu nái » nói lên chuyện làm giàu ở nhà quê ngày xưa. Thịt trâu tuy không ngon bằng thịt bò, nhưng là nguồn thực phẩm rất dồi dào và có giá trị. Sữa trâu rất bổ. Da trâu thuộc để xuất khẩu, để làm giầy dép. Màu xanh mênh mông của những đồng lúa, cánh cò trắng rập rờn điểm tô, và con trâu hiền lành gặm cỏ ven đê… là hình ảnh thân thuộc đáng yêu của quê hương. Câu hát : « ai bảo chăn trâu là khổ…. » của chú bé vắt vẻo ngồi trên lưng trâu, và tiếng sáo mục đồng mãi mãi là hồn quê non nước..
<span class='text_page_counter'>(114)</span> C. Dạng bài tập luyện số 3 : Thuyết minh đặc điểm một văn bản, một thể thơ hoặc thể loại. Bài tập 1 : (tham khảo sách « cảm thụ ngữ văn 8 – trang 125- 126) a.Chép chính xác bài thơ « Qua Đèo Ngang » của Bà Huyện Thanh Quan (đã học ở Ngữ văn 7). b.Quan sát kĩ và mô tả đặc điểm của thể thơ mà bài thơ trên thể hiện. Tên gọi của thể thơ ấy là gì ? c. Ghi lại các đặc điểm kiến thức của thể thơ lập thành dàn ý, sau đó viết thành văn bản thuyết minh hoàn chỉnh. Bài tập 2 : (tham khảo sách cảm thụ ngữ văn 8 trang 126- 127) Trên cơ sở các truyện ngắn đã học như : « Tôi đi học », « Lão Hạc », « Chiếc lá cuối cùng », hãy thuyết minh đặc điểm chính của thể loại truyện ngắn. Hãy chỉ ra các bước chuẩn bị từ đầu cho đến tận khâu cuối để viết văn bản. D. Dạng bài tập luyện số 5 : Thuyết minh đặc điểm các đồ dùng trong c/s. Bài tập : Thuyết minh về một thứ đồ dùng trong gia đình (chiếc bàn là điện kiểu thông dụng, phích nước điện…) E. Dạng bài tập luyện số 6: Thuyết minh một phương pháp, một thí nghiệm. G.Dạng bài tập luyện số 7 : Thuyết minh một danh lam thắng cảnh. VI. Luyện viết đoạn văn trong văn bản thuyết minh - Khi làm văn thuyết minh, cần xác định các ý lớn, mỗi ý viết thành một đoạn văn. - Khi viết đoạn văn, tránh lẫn ý của đoạn văn khác vào. - Viết đoạn văn, nên tuân theo thứ tự, cấu tạo của sự vật, theo thứ tự nhận thức (từ tổng đến bộ phận, từ ngoài vào trong, từ xa đến gần…) theo thứ tự diễn biến sự việc trong thời gian trước, sau hay thứ tự chính phụ : cái chính nói trước, cái phụ nói sau. VII. Ôn tập về văn bản thuyết minh. 1. Các khái niệm cần nhớ : - VBTM là loại văn bản thông dụng, có phạm vi sử dụng rộng rãi trong đời sống. Văn bản thuyết minh là văn bản trình bày tính chất, cấu tạo, cách dùng, cùng lí do phát sinh, quy luật phát triển, biến hoá của sự vật cần thiết nhằm cung cấp hiểu biết cho con người. Ngành nghề nào cũng cần đến loại văn bản này. Thuyết minh đã bao hàm cả ý giải thích, trình bày, giới thiệu. - Văn bản thuyết minh khác với các văn bảnnghị luận, tự sự, miêu tả, biểu cảm, hành chính, công vụ.. ở chỗ chủ yếu nó trình bày tri thức một cách khách quan, giúp con người sử dụng tri thức ấy nhằm phục vụ thiết thực cho cuộc sống ; nó gắn liền với tư duy khoa học ; nó đòi hỏi chính xác, rạch ròi. - Có 6 phương pháp thuyết minh cần được chú ý : định nghĩa, so sánh, phân tích và phân loại, dùng số liệu, dùng ví dụ cụ thể, liệt kê… - Các cách làm các kiểu bài thuyết minh với các đối tượng khác nhau : + Đối tượng thuyết minh là các thể loại : thơ, truyện ngắn… + Đối tượng thuyết minh là các loại đồ dùng gia đình và dụng cụ học tập… + Đối tượng thuyết minh là về một cách làm, một phương pháp, một thí nghiệm… + Đối tượng thuyết minh là một di tích lịch sử, một danh lam thắng cảnh… + Đối tượng thuyết minh về phần tình bày một hiệu sách tự chọn, một ngôi trường của em.
<span class='text_page_counter'>(115)</span> + Đối tượng thuyết minh có thể là lời giới thiệu một tập sách, một tập thơ, một tác giả thơ, văn… - Quan trọng nhất vẫn là rèn các kĩ năng để làm bài thuyết minh +Tìm hiểu đề, xác định đối tượng thuyết minh + Đi tìm kiến thức để viết văn bản sao cho sát đối tượng cần thuyết minh. Muốn vậy phải : quan sát, mô tả khi đến tham quan, học hỏi mọi người xung quanh, đọc sách báo có kiến thức về đối tượng, ghi chép lại. + Sắp xếp các kiến thức theo một trình tự hợp lí so với đối tượng cần thuyết minh theo một dàn ý. +Sau đó dựa vào dàn ý viết thành bài thuyết minh hoàn chỉnh.. Ngày soạn : 22/11/2011 Ngày dạy : /11/2011. Ngày soạn : 22/11/2011 Ngày dạy : /11/2011. Buæi 28 V¨n nghÞ luËn. Buæi 29 KiÓm tra.
<span class='text_page_counter'>(116)</span> Ngày soạn : 22/11/2011 Ngày dạy : /11/2011. Buæi 30 Thực hành một số đề văn nghị luận.
<span class='text_page_counter'>(117)</span>