1
Câu 1 : Trình bày quan điểm của C. Mác về quy luật giá trị . Cho biết sự
vận dụng của quy luật giá trị ở Việt Nam hiện nay ?
Bài làm
Bất kể một sự vật, hiện tượng nào tồn tại được trong tự nhiên, cũng phải tuân
theo những quy luật nhất định của tạo hóa . Đây là những quy luật luôn tác động
và chi phối đến sự vật, hiện tượng trong suốt quá trình tồn tại và phát triển của
nó. Tất nhiên, nền kinh tế thế giới nói chung và kinh tế Việt Nam nói riêng cũng
khơng nằm ngồi quy luật đó. Hiện nay, nền kinh tế thị trường với hình thái là
sản xuất và trao đổi hàng hóa – là mơ hình kinh tế nhạy bén được nhiều nước
trên thế giới áp dụng – chịu sự tác động của nhiều quy luật kinh tế khác nhau
như : quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh và quan hệ cung – cầu, quy luật lưu
thông tiền tệ, vv … Nhưng đóng vai trị cơ bản, là cơ sở để phát triển những quy
luật khác và chi phối nền sản xuất hàng hóa thuộc về quy luật giá trị của Các
Mác.
1.1. Quan điểm của Các Mác về quy luật giá trị.
Quy luật giá trị ( học thuyết giá trị ) là xuất phát điểm trong toàn bộ lý luận kinh
tế của C. Mác. Trong học thuyết này, ông nghiên cứu mối quan hệ giữa người
với người thông qua mối quan hệ giữa vật với vật trên cơ sở về kinh tế chính là
lao động, cái thực thể, yếu tố cấu thành giá trị của hàng hóa. Đó chính là trọng
tâm của quy luật giá trị. Các phạm trù : giá trị, hàng hóa, tiền tệ đã có từ rất lâu
và gắn liền với sản xuất hàng hóa từ trước khi chủ nghĩa tư bản ra đời. Chúng là
những điều kiện, tiền đề để cho phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ra đời và
phát triển.
1.1.1. Nội dung của quy luật giá trị là :
“Sản xuất và trao đổi hàng hóa dựa trên cơ sở giá trị của nó, tức là dựa trên hao
phí lao động xã hội cần thiết.”1
1 Kinh tế chính trị Mác – Lenin (Dành cho các khối ngành không chuyên Kinh tế - Quản trị kinh doanh trong các
trường đại học, cao đẳng), tái bản lần thứ hai có sửa chữa bổ sung, Bộ Gíao dục và Đào tạo.
2
1.1.2. Yêu cầu chung của quy luật giá trị :
- Trong sản xuất, quy luật giá trị yêu cầu người sản xuất phải làm cho giá trị
cá biệt hàng hóa của mình thấp hơn giá trị thị trường.
Hay nói cách khác, người sản xuất phải điều chỉnh làm sao cho hao phí lao
động cá biệt của mình phù hợp với mức hao phí lao động xã hội cần thiết (
tức thời gian lao động cá biệt ≤ thời gian lao động xã hội ).
Bởi lẽ, “trong kinh tế hàng hóa, mỗi người sản xuất tự quyết định hao phí
lao động cá biệt của mình, nhưng giá trị của hàng hóa khơng phải được
quyết định bởi hao phí lao động cá biệt của từng người sản xuất hàng hóa,
mà bởi hao phí lao động xã hội cần thiết.”2
Mức hao phí lao động của cá nhân, doanh nghiệp càng ít so với hao phí
lao động xã hội thì doanh nghiệp càng có khả năng phát triển, phát sinh lợi
nhuận, từ đó mở rộng quy mô kinh doanh, cứ thế càng ngày càng “ ăn nên
làm ra”. Và ngược lại, nếu mức hao phí lao động cá biệt của người sản
xuất lớn hơn mức hao phí lao động của xã hội thì sản xuất của họ sẽ có
năng suất thấp, nặng thì thua lỗ, phá sản, …
- Trong lưu thơng hàng hóa thì phải tuân theo quy tắc ngang giá, tức giá cả
phải ngang bằng với giá trị.
Kể cả với hai hàng hóa có giá trị sử dụng khác nhau, nhưng cùng có lượng
giá trị như nhau thì giá cả trao đổi phải ngang nhau.
Ví dụ như một bát bún thập cẩm ở ktx trường Đại học Kinh tế Quốc dân
và quyển truyện tranh Ehon tuy có giá trị sử dụng khác nhau ( một cái để
ăn một cái để đọc ) nhưng với cùng lượng giá trị như nhau được tính bằng
thước đo giá trị của hàng hóa chính là thời gian lao động xã hội cần thiết là
như nhau, nên chúng cùng được bán với giá là 25000 Việt Nam Đồng.
Đòi hỏi theo nguyên tắc ngang giá của quy luật giá trị là khách quan, đảm
bảo sự cơng bằng, bình đẳng, hợp lí giữa những người sản xuất hàng hóa.
Nó dẫn đến sự vận động của giá cả hàng hóa thơng qua sự vận động của
quy luật giá trị.
Vì giá trị là cơ sở của giá cả, còn giá cả biểu hiện bằng tiền của giá trị, nên
trước hết giá trị quyết định giá cả. Hàng hóa nào nhiều giá trị thì giá cả cao
2 Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lenin (dành cho sinh viên đại học, cao đẳng khối không chuyên
ngành Mác – Lenin, Tư tưởng Hồ Chí Minh), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia.
3
và ngược lại. Ví dụ : bút chì và kim cương đều có thành phần chính là
Các- bon, nhưng ai cũng biết giá cả của kim cương đắt hơn nhiều lần so
với bút chì, vì giá trị của viên kim cương nhiều hơn giá trị cây bút chì kia.
- Tuy nhiên, trên thị trường, giá cả và giá trị không phải lúc nào cũng dính
liền với nhau!
Trong nền kinh tế thị trường, như đã nói ở đầu, khơng chỉ có mỗi quy luật
giá trị tác động mà cịn có sự tác động của nhiều quy luật kinh tế khác và
những nhân tố ngoại sinh làm ảnh hưởng đến quan hệ giữa giá trị và giá
cả. Đó chính là quy luật cung – cầu, cạnh tranh và sức mua của đồng tiền.
Những yếu tố ngoạị sinh này đã làm cho giá cả trên thị trường tách rời với
giá trị và lên xuống xoay quanh trục giá trị có dạng như đồ thị hình sin!
Sự vận động giá cả thị trường của hàng hóa xoay quanh trục giá trị của nó
chính là biểu hiện và cơ chế hoạt động của quy luật giá trị.
Khi quy luật cung - cầu tác động đến kinh tế thị trường, gây ra sự biến đổi
về giá cả : khi cung nhiều hơn cầu, giá cả hàng hóa sẽ giảm xuống dưới
mức giá trị, người sản xuất sẽ bị thiệt, khơng có động lực sản xuất và có
thể dẫn đến lỗ vốn; ngược lại, khi cầu nhiều hơn cung, giá cả sẽ vươn cao
hơn giá trị của hàng hóa đó; người sản xuất sẽ được lợi; có động lực mở
rộng quy mô sản xuất.
Bên cạnh quy luật cung – cầu, “ sức mua của đồng tiền” cũng là một trong
những nhân tố ảnh hưởng đến quan hệ giữa giá cả và giá trị. “Sức mua”
hay mãi lực là số lượng hàng hóa/ dịch vụ có thể mua được bằng một đơn
4
vị tiền tệ.” 3 Cung tiền trong thị trường thay đổi khiến sức mua của đồng
tiền thay đổi, làm lượng hàng hóa ta mua thay đổi dẫn đến sự thay đổi về
giá cả và giá trị như sau : Khi cung tiền trong nền kinh tế tăng lên gây ra
sự tăng giá, dẫn đến hiện tượng “ đồng tiền mất giá” hay còn gọi là lạm
phát, khiến sức mua của người tiêu dùng giảm : Cùng lượng tiền như vậy
nhưng sức mua giảm có nghĩa là vẫn với mức giá cả như cũ nhưng ta lại
nhận được lượng giá trị ít hơn so với lúc trước! (giá cả cao hơn giá trị).
Cạnh tranh cũng là một yếu tố khác ảnh hưởng đến giá cả. Cạnh tranh là
sự ganh đua về kinh tế giữa những chủ thể trong nền kinh tế thị trường
nhằm giành giật những thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hóa. Cạnh
tranh có thể diễn ra giữa
người sản xuất >< người sản xuất >< người tiêu dùng >< người tiêu dùng.
Cạnh tranh giữa người sản xuất >< người sản xuất, nhằm mục đích bán
được nhiều hàng hóa với mục đích lợi nhuận cao nhất. Kết quả của cuộc
cạnh tranh này, khiến những người sản xuất phải tích cực áp dụng khoa
học kĩ thuật vào cải tiến tư liệu sản xuất để tạo ra những hàng hóa mới có
chất lượng/ giá trị cao, giá cả thấp để chiếm lĩnh được thị trường. Cạnh
tranh giữa người tiêu dùng >< người tiêu dùng với mục đích tối đa hóa lợi
ích sử dụng. Để đạt được nhu cầu tiêu dùng của mình, người mua thường
phải trả giá cao hơn các người mua khác trong cuộc cạnh tranh này.
- Dẫu cho giá cả thường xuyên tách rời giá trị, sự biến động của giá cả vẫn
có cơ sở là giá trị. Điều đó có thể hiểu trên hai khía cạnh như sau :
+ Không kể quan hệ cung cầu như thế nào, giá cả không tách rời giá trị xã
hội.
+Nếu nghiên cứu sự vận động của giá cả trong dài hạn trong tồn xã hội
thì sẽ thấy tổng số giá cả bằng tổng số giá trị, vì bộ phận giá cả vượt quá
giá trị sẽ bù vào bộ phận giá cả thấp hơn giá trị (giá cả ở đây là giá cả thị
trường. Giá cả thị trường là giá cả sản xuất giữa người mua và người bán
thoả thuận với nhau).
1.1.3. Tác động của quy luật giá trị.
- Điều tiết sản xuất và lưu thơng hàng hóa:
3 Wikipedia Tiếng Việt
5
+ Trong lĩnh vực sản xuất, quy luật điều tiết các yếu tố sản xuất từ ngành
có lãi thấp đến ngành có lãi cao.
“Thực chất điều tiết sản xuất cuả quy luật giá trị là điều chỉnh tự phát các
yếu tố sản xuất như: tư liệu sản xuất, sức lao động và tiền vốn từ ngành
này sang ngành khác, từ nơi này sang nơi khác. Nó làm cho sản xuất hàng
hoá của ngành này, nơi này được phát triển mở rộng, ngành khác nơi khác
bị thu hẹp, thông qua sự biến động giá cả thị trường. Từ đó tạo ra những tỷ
lệ cân đối tạm thời giữa các ngành, các vùng của một nền kinh tế hàng hoá
nhất định.”4
Quy luật giá trị điều tiết sản xuất hàng hóa được thể hiện trong ba trường
hợp sau:
Thứ nhất, nếu như một mặt hàng nào đó có giá cả cao hơn giá trị, hàng
hóa bán chạy và lãi cao, những người sản xuất sẽ mở rộng quy mô sản
xuất, đầu tư thêm tư liệu sản xuất và sức lao động. Mặt khác, những người
sản xuất hàng hóa khác cũng có thể chuyển sang sản xuất mặt hàng này,
do đó, tư liệu sản xuất và sức lao động ở ngành này tăng lên, quy mô sản
xuất càng được mở rộng.
Thứ hai, nếu như một mặt hàng nào đó có giá cả thấp hơn giá trị, sẽ bị lỗ
vốn. Tình hình đó buộc người sản xuất phải thu hẹp việc sản xuất mặt
hàng này hoặc chuyển sang sản xuất mặt hàng khác, làm cho tư liệu sản
xuất và sức lao động ở ngành này giảm đi, ở ngành khác lại có thể tăng
lên.
Thứ ba, cịn nếu như mặt hàng nào đó giá cả bằng giá trị thì người sản
xuất có thể tiếp tục sản xuất mặt hàng này.
Như vậy, quy luật giá trị đã tự động điều tiết tỷ lệ phân chia tư liệu sản
xuất và sức lao động vào các ngành sản xuất khác nhau, đáp ứng nhu cầu
của xã hội.
+ Trong lưu thông hàng hóa, quy luật giá trị điều tiết hàng hóa từ nơi có
giá cả thấp đến nơi có giá cả cao.
Thực chất, điều tiết lưu thơng hàng hóa trên thị trường của quy luật giá trị
là điều chỉnh tự phát khối lượng hàng hóa từ nơi có giá thấp chuyển đến
4 />
6
nơi có giá cao. Từ đó phân bổ nguồn cung hàng một cách hợp lí hơn. Cuối
cùng làm cho giá cả hàng hóa giữa các vùng có sự cân bằng nhất định. Ví
dụ như trái cây ơn đới mơ, đào, mận thường được trồng ở vùng miền núi
phía Bắc, nơi nguồn cung nhiều nên có giá cả rẻ hơn sẽ được các lái buôn
vận chuyển xuống vùng đồng bằng là nơi có giá cả cao hơn; rau được vận
chuyển từ nông thôn ( nơi bán giá thấp ) lên Hà Nội ( nơi bán giá cao
hơn ).
- Kích thích, cải tiến máy móc kĩ thuật, tăng năng suất lao động, phát triển
lực lượng sản xuất.
Các hàng hóa được sản xuất ra trong những điều kiện khác nhau, do đó, có
mức hao phí lao động cá biệt khác nhau, nhưng trên thị trường thì các
hàng hóa đều phải được trao đổi theo mức hao phí lao động xã hội cần
thiết. Vậy người sản xuất hàng hóa nào mà có mức hao phí lao động thấp
hơn mức hao phí lao động xã hội cần thiết, thì sẽ thu được nhiều lãi và
càng thấp hơn càng lãi. Ngược lại, những người sản xuất hàng hóa nào có
mức hao phí lao động cá biệt lớn hơn mức hao phí lao động xã hội cần
thiết, khi bán hàng hóa sẽ rơi vào tình trạng thua lỗ, nghèo đi, thậm chí có
thể phá sản, trở thành lao động làm thuê. Để giành lợi thế trong cạnh tranh
và tránh nguy cơ vỡ nợ, họ cần phải hạ thấp hao phí lao động cá biệt của
mình ≤ hao phí lao động của xã hội cần thiết. Muốn vậy, họ ln phải tìm
cách cải tiến kĩ thuật, cải tiến tổ chức quản lí, tăng năng suất lao động, sự
cạnh tranh quyết liệt càng làm cho quá trình này diễn ra mạnh mẽ hơn,
mang tính xã hội. Kết quả là thúc đẩy lực lượng sản xuất của toàn xã hội
phát triển mạnh mẽ.
- Phân hóa giàu, nghèo.
Trong nền sản xuất hàng hoá, sự tác động của các quy luật kinh tế, nhất là
quy luật giá trị tất yếu dẫn đến kết quả: những người có điều kiện sản xuất
thuận lợi, nhiều vốn, có kiến thức và trình độ kinh doanh cao, trang bị kĩ
thuật tốt sẽ phát tài, làm giàu. Khi giàu, họ lại có tiền sắm thêm tư liệu sản
xuất, mở rộng quy mô kinh doanh, “ tiền lại đẻ ra thêm nhiều tiền”, người
giàu lại càng giàu thêm. Ngược lại khơng có các điều kiện trên, hoặc gặp
7
rủi ro sẽ mất vốn phá sản và trở thành những người nghèo, phải đi làm
thuê cho những ông chủ giàu có kia. Quy luật giá trị đã đưa ra lựa chọn tự
nhiên, đánh giá những người sản xuất kinh doanh. Lịch sử phát triển của
sản xuất hàng hoá đã chỉ ra là q trình phân hố này đã làm cho sản xuất
hàng hoá giản đơn trong xã hội phong kiến dần dần nảy sinh quan hệ sản
xuất tư bản chủ nghĩa.
Tổng kết, quy luật giá trị tác động một cách có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn
đến nền kinh tế thị trường theo cả hai mặt lợi và hại : Một mặt quy luật chi phối
sự chọn lọc tự nhiên, lựa chọn những yếu tố tốt, đào thải cái xấu kém phát triển,
từ đó thúc đẩy nền kinh tế phát triển => đây là mặt tốt. Mặt xấu là tạo ra sự phân
hóa giàu – nghèo, bất bình đẳng trong xã hội.
1.2.Sự vận dụng của quy luật giá trị ở Việt Nam hiện nay.
Ngay từ đầu, Đảng ta đã đưa ra quan điểm rõ ràng "Kinh tế Việt Nam là một nền
kinh tế phát triển theo mơ hình nền kinh tế nhiều thành phần, theo định hướng xã
hội chủ nghĩa và dưới sự quản lý của nhà nước". Trong quá trình phát triển nền
kinh tế nước ta chiụ tác động của nhiều nhân tố khách quan, một trong những
nhân tố khách quan chủ yếu là quy luật giá trị. Vai trị và tác động của nó biến
đổi theo từng thời kì cùng với sự chuyển biến của nền kinh tế hàng hóa. Vì vậy
chúng ta cần phải nhận thức đúng quy luật giá trị, tự giác vận dụng quy luật giá
trị để kích thích sản xuất và lưu thơng hàng hóa phát triển, thúc đẩy nền kinh tế
nước ta tiến nhanh trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Nhận thức và vận dụng quy luật giá trị thể hiện chủ yếu trong việc hình thành giá
cả. Gía cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị, giá cả phải lấy giá trị làm gốc thì mới
có cơ sở kinh tế, mới có tác dụng kích thích năng suất lao động. Nhà nước phải
chủ động lợi dụng cơ chế hoạt động của học thuyết giá trị nghĩa là khả năng giá
cả tách rời giá trị, và xu hướng đưa giá cả về giá trị . Thông qua chính sách giá
cả, Nhà nước vận dụng học thuyết giá trị vào :
8
1.2.1.Trong lĩnh vực sản xuất : Sản xuất hàng hóa phải dựa trên cơ sở là thời gian
lao động xã hội cần thiết. Cụ thể :
- Xét ở tầm vi mô : Mỗi cá nhân khi sản xuất các sản phẩm đều cố gắng làm
cho thời gian lao động cá biệt nhỏ hơn thời gian lao động xã hội.
- Xét ở tầm vĩ mơ : tồn thể nền kinh tế cố gắng nâng cao năng suất lao
động, chất lượng sản phẩm, giảm thời gian lao động xã hội cần thiết.
Trong nền kinh tế nhiều thành phần như nước ta, các doanh nghiệp, hộ gia
đình tự quyết định hành vi của mình để trả lời thỏa đáng ba câu hỏi : sản xuất
cái gì, cho ai, sản xuất như thế nào. Mỗi thành phần kinh tế theo đuổi mục
đích riêng và bằng những cách khác nhau, chịu sự tác động của quy luật kinh
tế. Trong nền kinh tế nfy, nhà nước phải nắm giữ vai trò chủ đạo ở một số lĩnh
vực then chốt. Đó là những đài chỉ huy, huyết mạch chính của nền kinh tế.
Đây là điều kiện có tính nguyên tắc đảm bảo định hướng XHCN so với những
mơ hình kinh tế thị trường khác. Vai trị chủ đạo của kinh tế nhà nước được
thể hiện chủ yếu và trước tiên ở sức mạnh định hướng, hỗ trợ và phát triển và
điều tiết nền kinh tế chứ không phải ở quy mô và sự hiện diện của các doanh
nghiệp 100% vốn nhà nước.
Trong lĩnh vực sản xuất quy luật giá trị thể hiện qua 2 khía cạnh :
- Nâng cao tính cạnh tranh của nền kinh tế để tăng sự năng động trong thị
trường trong nước : Việc chuyển từ chế độ bao cấp sang nền kinh tế thị
trường cùng với nó là loại bỏ xin cho, cấp phát, bảo hộ trong hoạt động
sản xuất kinh doanh. Mỗi doanh nghiệp phải tự hoạch toán và tự nghiên
cứu để tìm ra thị trường phù hợp với sản phẩm của mình, thực hiện sự
phân đoạn thị trường nên xem tấn cơng vào đâu, bằng những sản phẩm gì.
Khi cùng chung một thị trường sẽ dẫn đến cạnh tranh, cạnh tranh gay gắt
sẽ đưa đến một hệ quả tất yếu là làm cho nền kinh tế năng động lên. Vì
trong cạnh tranh, mỗi cá nhân sẽ tìm ra một hướng đi riêng cho bản thân
sao cho tạo nên hiệu quả nhất, khiến nền kinh tế trở nên năng động và linh
hoạt hơn.
9
- Thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế: Do mỗi nước có những ưu thế, lợi
thế riêng ( vị trí địa lí, tài nguyên thiên nhiên) . Do thời gian và trình độ
phát triển khác nhau nên khi nước này thiếu vốn thì nước kia thừa, nước
này phát triển nóng cịn nước kia lại q lạc hậu,… Điều này thúc đẩy sự
chun mơn hóa, hợp tác hóa sản xuất để có chi phí sản xuất thấp và tn
theo sự điều tiết của quy luật giá trị, chi phí sản xuất thấp sẽ làm cho giá
cả thấp và do đó thắng trên thị trường.
1.2.2. Trong lĩnh vực lưu thơng.
- Hình thành giá cả : là khâu tập trung nhất của vận dụng học thuyết giá trị.
Trong chế độ kinh tế thị trường, tổng khối lượng và cơ cấu hàng tiêu dùng do
kế hoạch lưu truyền hàng hóa quyết định căn cứ vào trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất, mức tăng thu nhập quốc dân và thu nhập bằng tiền của
nhân dân. Nhà nước có thể quy định giá cao hay thấp để ảnh hưởng đến khối
lượng tiêu thụ một số loại hàng nào đó làm cho nhu cầu và mức tăng sản xuất
về một số hàng tiêu dùng ăn khớp với kế hoạch lưu chuyển hàng hóa của nhà
nước.
- Nguồn hàng lưu thông : Trong nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, việc cung cấp
hàng hóa cho thị trường được thực hiện một cách có kế hoạch. Đối với những
mặt hàng có quan hệ lớn đến quốc kế dân sinh, nếu cung cầu khơng cân đối
thì nhà nước đẩy mạnh sản xuất, tăng cường thu mua, cung cấp theo định
lượng, theo tiêu chuẩn mà không thay đổi giá cả. Chính thơng qua hệ thống
giá cả ảnh hưởng đến sự lưu thơng của một hàng hóa nào đó. Gía cao sẽ kích
cung, giá thấp sẽ kích cầu. Do đó nhà nước đã vận dụng vào để kích thích sản
xuất, cải tiến kĩ thuật, tăng cường quản lí.
Khơng những thế nhà nước còn chủ động tách giá cả với giá trị ở một số thời
kì nhất định, lợi dụng sự chênh lệch này để điều tiết lưu thông, cung cầu và
phân phối. Ví dụ như giá cả của sản phẩm cơng nghiệp nặng lại thấp hơn giá
trị để khuyến khích đầu tư, áp dụng kĩ thuật vào sản xuất. Tuy nhiên nhiều khi
10
những chính sách này lại làm cho giá cả bất ổn, tạo điều kiện cho hàng hóa
nước ngồi tràn vào do có giá cả hợp lí hơn.
Tổng kết, với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta giai
đoạn hiện nay, học thuyết quy luật giá trị đóng một vai trị cực kì quan trọng. Tuy
nhiên có phát huy được các mặt tích cực, đẩy lùi các mặt tiêu cực còn là vấn đề
phụ thuộc nhiều vào vai trị quản lí vĩ mơ của nhà nước và nhận thức của mỗi
công dân.
11
Câu 2 : Phân tích đặc điểm kinh tế trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã
hội. Ý nghĩa của nghiên cứu vấn đề trên đối với nước ta hiện nay.
Bài làm
2.1. Phân tích đặc điểm kinh tế trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Đặc điểm cơ bản nhất xuyên suốt và bao trùm của thời kỳ quá độ là sự tồn tại
nền kinh tế nhiều thành phần! Trong thời kỳ quá độ, nền kinh tế có tính chất q
độ: nó khơng cịn là nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, nhưng cũng chưa hoàn toàn là
nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Thời kì quá độ là thời kỳ tất yếu còn tồn tại một
nền kinh tế nhiều thành phần trong một hệ thống kinh tế quốc dân thống nhất.
Đây là bước quá độ trung gian tất yếu trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội,
khơng thể dùng ý chí để xóa bỏ ngay kết cấu nhiều thành phần của nền kinh tế,
nhất là đối với những nước cịn ở trình độ chưa trải qua sự phát triển của phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa (như Việt Nam). Nền kinh tế nhiều thành phần
trong thời kì quá độ lên CNXH được xác lập trên cơ sở khách quan của sự tồn tại
nhiều loại hình sở hữu về tư liệu sản xuất với những hình thức tổ chức kinh tế đa
dạng, đan xen hỗn hợp và tương ứng với nó là những hình thức phân phối khác
nhau, trong đó hình thức phân phối theo lao động tất yếu ngày càng giữ vai trị là
hình thức phân phối chủ đạo.
Nền kinh tế nhiều thành phần, có nghĩa là tồn tại nhiều hình thức quan hệ sản
xuất.
Cụ thể với thời kì quá độ của nước Nga Xơ Viết, Lê – nin đã phân tích cơ cấu
nền kinh tế với 5 thành phần :
-
Kinh tế nông dân kiểu gia trưởng
Kinh tế hàng hóa nhỏ
Kinh tế tư bản
Kinh tế tư bản nhà nước
Kinh tế xã hội chủ nghĩa
Còn với nền kinh tế Việt Nam trong thời kì quá độ, bản chất gồm các thành
phần :
- Thành phần kinh tế nhà nước : là những đơn vị tổ chức thực hiện sản xuất
kinh doanh hoặc phục vụ sản xuất, mà toàn bộ nguồn lực thuộc sở hữu
12
-
-
-
-
Nhà nước, hoặc phần vốn của Nhà nước chiếm tỷ lệ khống chế : bao gồm
các doanh nghiệp nhà nước cùng với các tổ chức kinh tế tài chính ( Ngân
hàng nhà nước, Hệ thống dự trữ quốc gia …) cùng với những tài sản của
đất nước ( rừng, biển, khống sản, tài ngun …), được hình thành thơng
qua quốc hữu hóa tài sản của giai cấp tư sản và xây dựng mới trong cách
mạng XHCN.
Thành phần kinh tế tập thể : là sự liên kết tự nguyện giữa các chủ thể kinh
tế với hình thức đa dạng, linh hoạt phù hợp với nhu cầu, khả năng và lợi
ích của các bên tham gia ( hợp tác xã nông nghiệp…)
Thành phần kinh tế cá thể tiểu chủ : là thành phần hoạt động sản xuất kinh
doanh dựa vào vốn và sức lao động của bản thân và gia đình, bao gồm
những người nông dân, thợ thủ công cá thể, tiểu thương,…
Thành phần kinh tế tư bản nhà nước : là sản phẩm của sự can thiệp của
Nhà nước vào hoạt động của các tổ chức, đơn vị kinh tế tư bản trong và
ngoài nước. (liên doanh, đầu tư gián tiếp của nước ngoài,…)
Thành phần kinh tế tư bản tư nhân : do một hoặc một số nhà tư bản trong
và ngoài nước đầu tư để sản xuất kinh doanh, dịch vụ ( cơng ty TNHH,…)
Thành phần có vốn đầu tư nước ngồi : bao gồm các xí nghiệp có đầu tư
100% vốn của nước ngoài.
2.2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu kinh tế nhiều thành phần trong thời kì quá
độ đối với nước ta hiện nay.
Sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta không chỉ là một tất yếu
khách quan mà cịn có vai trị to lớn, vì:
- Nền kinh tế tồn tại nhiều thành phần, có nghĩa là tồn tại nhiều hình thức
quan hệ sản xuất, sẽ phù hợp với thực trạng thấp kém và không đồng đều của
lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay. Sự phù hợp này, đến lượt nó, lại có tác
dụng thúc đẩy tăng năng suất lao động, tăng trưởng kinh tế, tạo điều kiện
nâng cao hiệu quả kinh tế trong các thành phần kinh tế và trong toàn bộ nền
kinh tế quốc dân ở nước ta.
13
- Nền kinh tế nhiều thành phần thúc đẩy phát triển kinh tế hàng hố, góp phần
thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng nhanh, cải thiện và nâng cao đời sống nhân
dân, phát triển các mặt của đời sống kinh tế - xã hội.
- Cho phép khai thác và sử dụng có hiệu quả sức mạnh tổng hợp của các
thành phần kinh tế trong nước như: vốn, lao động, tài nguyên, kinh nghiệm tổ
chức quản lý, khoa học và công nghệ mới trên thế giới...
- Tạo điều kiện thực hiện và mở rộng các hình thức kinh tế quá độ, trong đó
có hình thức kinh tế tư bản nhà nước, nó như những "cầu nối", trạm "trung
gian" cần thiết để đưa nước ta từ sản xuất nhỏ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế
độ tư bản chủ nghĩa.
- Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần tạo tiền đề khắc phục tình trạng độc quyền,
tạo ra quan hệ cạnh tranh, động lực quan trọng thúc đẩy cải tiến kỹ thuật, phát
triển lực lượng sản xuất.
Ta không thể chủ quan phủ nhận chúng mà cần phải có một chính sách nhất
qn trước sau như một để khai thác sức mạnh tổng hợp của toàn bộ nền kinh
tế. Sự tồn tại của các thành phần kinh tế vừa có mối liên hệ với nhau, vừa có
mâu thuẫn với nhau, địi hỏi nhà nước phải điều tiết các thành phần kinh tế và
thành phần kinh tế Nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc
dân, định hướng XHCN và dẫn lối các thành phần kinh tế khác phát triển
theo. Vậy nên việc nghiên cứu đặc điểm của kinh tế nhiều thành phần trong
thời kì quá độ đối với nước ta hiện nay là rất quan trọng!
14
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1;1] Sách Kinh tế chính trị Mác – Lenin (Dành cho các khối ngành không
chuyên Kinh tế - Quản trị kinh doanh trong các trường đại học, cao đẳng), tái
bản lần thứ hai có sửa chữa bổ sung, Bộ Gíao dục và Đào tạo.
[2;2] Sách Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lenin (dành cho sinh
viên đại học, cao đẳng khối không chuyên ngành Mác – Lenin, Tư tưởng Hồ Chí
Minh), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia.
[3;3] Wikipedia Tiếng Việt
[4;5] />