Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Tâm lý học: Stress ở cha mẹ của trẻ có rối loạn phổ tự kỷ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (711.29 KB, 27 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ MAI HƢƠNG

STRESS Ở CHA MẸ CỦA TRẺ
CÓ RỐI LOẠN PHỔ TỰ KỶ

Chuyên ngành: Tâm lý học
Mã số: 9.31.04.01

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ TÂM LÝ HỌC

HÀ NỘI - 2020


Cơng trình đƣợc hồn thành tại:
KHOA TÂM LÝ GIÁO DỤC - TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS TRẦN THỊ LỆ THU
2. PGS.TS PHAN THỊ MAI HƢƠNG

Phản biện 1:

PGS.TS Lê Văn Hảo
Viện Tâm lí học

Phản biện 2:

PGS.TS Nguyễn Thị Mai Lan


Học viện KHXH- Viện Hàn Lâm KHXH VN

Phản biện 3:

PGS.TS Trƣơng Thị Khánh Hà
Trường ĐHKHXHNV - ĐHQG Hà Nội

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp cơ sở
tại khoa Tâm lý - Giáo dục học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
vào ….. giờ......, ngày…. tháng….. năm 2020

Có thể tìm hiểu luận án tại thƣ viện: Thƣ viện Quốc Gia, Hà Nội
hoặc Thƣ viện Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Trong những thập kỷ qua, thuật ngữ stress đã trở nên ngày càng phổ biến trong
các ngành khoa học hành vi và sức khỏe; nhiều phương pháp điều trị đã được áp dụng
trong nỗ lực giải quyết vấn đề sức khỏe phức tạp này (Papathanasiou và cộng sự, 2015).
Stress là cách cơ thể phản ứng với bất kỳ loại nhu cầu hoặc mối đe dọa nào. Phản ứng
stress là cách cơ thể bảo vệ chúng ta. Khi làm việc đúng cách, nó giúp con người tập
trung, tràn đầy năng lượng và tỉnh táo. Trong tình huống khẩn cấp, stress có thể cứu
mạng hoặc cho con người thêm sức mạnh để tự vệ (Segal và cộng sự, 2019), người ta
gọi là stress có lợi (Eustress). Vấn đề stress đã được rất nhiều nhà khoa học đặc biệt là
tâm lý học và y học quan tâm nghiên cứu. Nhưng stress vượt quá ngưỡng sẽ gây thiệt hại
về thể chất, cảm xúc và tâm lý (Gregory Fricchione, 2016), đây là loại stress có hại
(Distress) nên cần có biện pháp khắc phục, giảm thiểu ảnh hưởng của nó.

1.2. Tự kỷ hay rối loạn phổ tự kỷ (RLPTK) đều là những thuật ngữ nói đến một
nhóm của các rối loạn phức tạp trong sự phát triển của não bộ, được đặc trưng bởi những
khó khăn và thiếu hụt trong tương tác xã hội, giao tiếp bằng lời và khơng lời, các hành vi,
sở thích định hình lặp lại. Với bản chất là khiếm khuyết trong tương tác xã hội và rối loạn
về cảm giác, trẻ RLPTK gặp nhiều khó khăn trong mọi lĩnh vực của cuộc sống, từ việc
học nói cho đến giao tiếp, ứng xử, điều chỉnh và thể hiện cảm xúc, học tập cho đến cuộc
sống độc lập và cơng việc khi trưởng thành. Những khó khăn này ở trẻ RLPTK cũng gây
ra khá nhiều khó khăn và stress cho gia đình trẻ, đặc biệt là những người chăm sóc trực
tiếp (Sander và cộng sự, 2010). Trẻ RLPTK gần như chỉ nhận được sự hỗ trợ chính từ gia
đình, cụ thể là bố mẹ, ơng bà hoặc các cá nhân, tổ chức xã hội từ thiện dưới những hình
thức khác nhau (Trần Văn Cơng, 2013).
Cha mẹ chăm sóc trẻ có RLPTK thường báo cáo mức độ stress có hại, trầm cảm và lo
lắng gia tăng. Nhu cầu chăm sóc sức khỏe tâm lý, thể chất và xã hội của cha mẹ của trẻ
RLPTK không được đáp ứng sẽ cản trở hoạt động thích nghi của gia đình cũng như khả năng
được can thiệp, hỗ trợ dành cho trẻ RLPTK (Catalano và cộng sự, 2018).
Các bà mẹ có con bị chứng RLPTK có thể bị stress có hại (Silva và Schalock, 2012) gấp
bốn lần so với các bà mẹ của đứa trẻ khác nhóm và mức độ stress gấp đơi so với những bà mẹ
có con bị chậm phát triển (Estes và cộng sự, 2009; Rodrigue và cộng sự, 1990; Schieve và
cộng sự, 2007; Silva và Schalock, 2012). Khi phát hiện con mình mắc RLPTK, cha mẹ trẻ
RLPTK có sự thay đổi lớn về các trạng thái tâm lý cá nhân; bầu khơng khí tâm lý trong gia
đình; thay đổi hoạt động sống của cá nhân; có sự suy tư, xáo trộn trong đời sống tình cảm
vợ/chồng và con cái cũng như các thành viên trong gia đình; các mối quan hệ xã hội. Quá
trình chuyển đổi này dẫn đến những tâm trạng nhất định khi các bậc cha mẹ chưa thích nghi
được, chưa thể chấp nhận được với hoàn cảnh mới này của bản thân và gia đình (Nguyễn Thị
Quyên và Nguyễn Thị Mai Lan, 2013).
1.3. Trong những năm qua, với sự tiến bộ của khoa học, nhiều yếu tố đã được xác
định là nguồn gây stress, như sinh học, hóa chất, vi sinh vật, tâm lý, văn hóa xã hội và mơi
trường. Mỗi cách tiếp cận diễn giải stress theo một cách khác nhau, có cách coi stress như
là một sự kích thích, có cách coi stress như một phản ứng hoặc như một sự tương tác
(Papathanasiou và cộng sự, 2015).

Stress đã được nhiều tác giả trong nước và ngoài nước nghiên cứu với các cách tiếp
cận khác nhau trên những đối tượng khác nhau. Tuy nhiên, hiện nay vẫn thiếu vắng các


2

nghiên cứu về stress ở cha mẹ của trẻ có RLPTK. Việc nghiên cứu stress ở cha mẹ của trẻ
có RLPTK ở Việt Nam sẽ mang lại ý nghĩa về mặt lý luận cũng như thực tiễn. Câu hỏi
được đặt ra là: Cha mẹ của trẻ có RLPTK có bị stress có hại khơng? Nếu có thì mức độ và
biểu hiện stress có hại ở cha mẹ trẻ được thể hiện như thế nào? Những yếu tố nào tác động
đến tình trạng stress ở cha mẹ trẻ RLPTK? Ứng phó với stress ở cha mẹ trẻ RLPTK như
thế nào và có liên quan ra sao đến tình trạng stress? Liệu pháp tâm lý có thể hỗ trợ làm
giảm stress của cha mẹ khơng?
Vì những lý do trên, chúng tơi chọn nghiên cứu đề tài: “Stress ở cha mẹ của trẻ có
rối loạn phổ tự kỷ” nhằm mơ tả những biểu hiện stress ở cha mẹ của trẻ có RLPTK, phát
hiện các tác nhân gây stress và cách ứng phó của họ với stress, từ đó áp dụng liệu pháp
tham vấn tâm lý hỗ trợ giảm stress cho cha mẹ của trẻ có RLPTK.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu lý luận và thực trạng stress ở cha mẹ của trẻ có RLPTK, trên cơ sở đó thực
nghiệm liệu pháp can thiệp tâm lý nhằm giảm thiểu stress có hại ở cha mẹ của trẻ có RLPTK.
3. Đối tƣợng, khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu: Biểu hiện stress của cha mẹ trẻ RLPTK ở các khía
cạnh: thực thể, nhận thức, cảm xúc, hành vi; mối quan hệ giữa stress ở cha mẹ với các
vấn đề ở trẻ RLPTK và các yếu tố từ chính cha mẹ cũng như từ đặc điểm nhân khẩu - xã
hội; cách ứng phó với stress có hại ở cha mẹ của trẻ RLPTK.
3.2. Khách thể nghiên cứu: nghiên cứu khảo sát 209 cha/mẹ của trẻ có RLPTK.
4. Giả thuyết khoa học
4.1. Đa số cha mẹ của trẻ RLPTK trong nhóm mẫu bị stress có hại, stress có hại
xuất hiện khơng đồng nhất ở cha mẹ trẻ RLPTK giữa các mặt biểu hiện: thực thể, nhận
thức, cảm xúc, hành vi.

4.2. Các yếu tố chính có liên quan đến stress có hại ở cha mẹ trẻ RLPTK: (1) Các
vấn đề liên quan đến RLPTK của con, (2) Đặc điểm nhân khẩu- xã hội, (3) Giới tính và
thứ tự sinh của trẻ RLPTK, (4) Kiến thức - kỹ năng chăm sóc giáo dục trẻ RLPTK của
cha mẹ, (5) Sự hỗ trợ của gia đình đối với cha mẹ trong cuộc sống và đặc biệt là trong
giáo dục trẻ RLPTK.
4.3. Cách ứng phó với stress có hại ở cha mẹ trẻ RLPTK có liên quan với tình trạng
stress có hại ở họ.
4.4. Có thể giúp các cha mẹ trẻ RLPTK giảm thiểu stress có hại thơng qua tham
vấn tâm lý sử dụng liệu pháp hành vi xúc cảm hợp lý (REBT) của Albert Ellis.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về stress ở cha mẹ trẻ RLPTK dưới góc độ tâm lý học.
5.2. Khảo sát và phân tích thực trạng biểu hiện stress, mối quan hệ giữa stress ở cha
mẹ với các vấn đề ở trẻ RLPTK và các yếu tố từ chính cha mẹ cũng như từ đặc điểm
nhân khẩu - xã hội; cách ứng phó với stress có hại ở cha mẹ trẻ RLPTK.
5.3. Thực nghiệm tham vấn tâm lý sử dụng REBT nhằm giảm thiểu stress có hại ở
cha mẹ trẻ RLPTK.
6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
6.1. Giới hạn về nội dung nghiên cứu
Nghiên cứu này chỉ tập trung vào những đánh giá chủ quan của cha mẹ của trẻ có
RLPTK về biểu hiện stress có hại ở một số khía cạnh thực thể, nhận thức, cảm xúc và hành
vi; các yếu tố liên quan, tác nhân gây stress và cách thức ứng phó với stress có hại; liệu pháp
hành vi xúc cảm hợp lý (REBT) trong can thiệp stress có hại.


3

6.2. Giới hạn về không gian nghiên cứu
Luận án tiến hành nghiên cứu tại các cơ sở chẩn đoán, can thiệp hòa nhập, bán hòa
nhập và chuyên biệt tại thành phố Hà Nội và một số tỉnh lân cận:
- Trung tâm Sao Biển, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (Hà Nội)

- Trung tâm Khánh Tâm (Hà Nội)
- Trung tâm Gia An (Hà Nội)
- Trung tâm Ước Mơ (Bắc Ninh)
- Trung tâm Nắng Mai (Hà Nội)
- Trung tâm chuyên biệt Ánh Sao (Hà Nội)
- Trung tâm Akira (Hà Nội)
- Trung tâm Thiên Thần Nhỏ (Ninh Bình)
- Trung tâm Tương Lai Mới (Hà Nội)
6.2. Giới hạn về khách thể khảo sát
Đề tài tiến hành khảo sát trên 209 cha mẹ có con RLPTK ở độ tuổi can thiệp sớm.
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
7.1. Cách tiếp cận
Nghiên cứu được thực hiện dựa trên cơ sở tiếp cận tích hợp, hệ thống bao gồm:
- Tiếp cận tâm - sinh - xã hội: Các yếu tố sinh học, tâm lý và xã hội có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau. Các yếu tố này có ảnh hưởng đến stress ở cha mẹ trẻ RLPTK. Do vậy, việc đề
xuất hoạt động phòng ngừa, can thiệp vấn đề stress cần phải xem xét cả ba yếu tố này.
- Tiếp cận tâm lý học phát triển: Nghiên cứu stress ở cha mẹ trẻ RLPTK cần căn cứ vào
đặc trưng tâm lý lứa tuổi của bản thân cha mẹ và tuổi của trẻ. Do đó, việc xem xét và thử
nghiệm liệu pháp tâm lý phù hợp nhằm giảm thiểu stress cho cha mẹ ở giai đoạn trưởng thành
này và mối liên quan với độ tuổi của trẻ là cần thiết.
- Tiếp cận tâm lý học xã hội: nghiên cứu sử dụng các kiến thức của tâm lý học xã
hội để tìm hiểu tác động của cộng đồng, dịch vụ, chính sách xã hội đến stress ở cha mẹ
trẻ tự kỷ và cách ứng phó với stress của họ.
- Tiếp cận tâm lý học tham vấn: nghiên cứu sử dụng các kiến thức của tâm lý học
tham vấn để vận dụng liệu pháp tham vấn cá nhân REBT giúp giảm stress có hại cho cha
mẹ của trẻ có RLPTK.
- Tiếp cận liên ngành: Nghiên cứu stress ở cha mẹ trẻ rối loạn phổ tự kỷ được tiến
hành dựa trên nền tảng mối quan hệ không tách rời giữa tâm lý học với giáo dục đặc biệt
và công tác xã hội. Do vậy, việc sử dụng nghiên cứu liên ngành là điều cần thiết trong
nghiên cứu và hỗ trợ cho cha mẹ của trẻ có rối loạn phổ tự kỷ.

7.2. Các phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể
Với tính chất và nội dung nghiên cứu của đề tài, chúng tôi sử dụng phối hợp các
phương pháp sau đây:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
- Phương pháp phỏng vấn sâu
- Phương pháp thực nghiệm
- Phương pháp thống kê tốn học
8. Những đóng góp mới của luận án
8.1. Đóng góp về mặt lý luận
Luận án tổng hợp và chỉ ra các hướng nghiên cứu về stress và stress ở cha mẹ có
con RLPTK: hướng nghiên cứu về biểu hiện của stress có hại, hướng nghiên cứu về tác


4

nhân gây stress, hướng nghiên cứu về ứng phó với stress và hướng nghiên cứu về các
biện pháp can thiệp stress có hại ở cha mẹ có con RLPTK.
Luận án tổng hợp cơ sở lý luận có liên quan và cập nhật về RLPTK: khái niệm, bản
chất, các vấn đề về RLPTK, đặc điểm tâm lý cha mẹ trẻ RLPTK.
Luận án góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về stress, đặc biệt là stress ở
cha mẹ có con RLPTK, cụ thể: tiêu chí đánh giá stress, biểu hiện stress, tác nhân gây
stress và cách ứng phó với stress ở cha mẹ của trẻ có RLPTK, các biện pháp can thiệp
nhằm giảm thiểu stress có hại ở cha mẹ trẻ RLPTK.
8.2. Đóng góp về mặt thực tiễn
Ở Việt Nam, đề tài là một trong những nghiên cứu đầu tiên về stress ở cha mẹ của
trẻ có RLPTK.
Nghiên cứu chỉ ra rằng hầu hết cha mẹ trẻ RLPTK trong nhóm mẫu có biểu hiện
stress ở mức khá thường xuyên kể từ khi chẩn đoán con thuộc RLPTK; stress biểu hiện ở
cả bốn mặt: thể chất, nhận thức, cảm xúc, hành vi. Biểu hiện stress tổng hợp có liên quan

tới cả bốn mặt biểu hiện thành phần, trong đó biểu hiện rõ nhất ở cảm xúc và hành vi.
Dựa trên phân tích thống kê suy luận, luận án đã phát hiện: Cha mẹ có trình độ học
vấn thấp hơn thì biểu hiện stress càng cao, người thân trong gia đình càng ủng hộ cách
chăm sóc, giáo dục trẻ RLPTK thì stress của cha mẹ càng giảm, cha mẹ biết không đầy đủ
về phương pháp trị liệu bệnh tự kỷ có mức stress cao hơn cha mẹ khơng biết hoặc hiểu
biết nhiều về vấn đề này. Cha mẹ có kỹ năng luyện hành vi cho con càng thạo thì càng
thường xuyên biểu hiện stress. Có mối tương quan thuận ở mức cao giữa các vấn đề của
trẻ tự kỷ (giao tiếp, hành vi, tương tác xã hội) với mức độ của stress ở cha mẹ trẻ. Những
biểu hiện/vấn đề liên quan tới RLPTK ở trẻ là những tác nhân cơ bản dẫn đến stress của
cha mẹ. Các vấn đề này càng diễn ra liên tục thì stress có hại của cha mẹ cũng thường
xuyên hơn. Cách ứng phó thường được cha mẹ sử dụng nhất là tập trung vào điểm tích
cực của con. Cách ứng phó ít sử dụng nhất là thiền, yoga hay tham gia các khóa học nghệ
thuật. Cha mẹ có stress càng cao thì hay có cách ứng phó tiêu cực.
Nghiên cứu này cũng chỉ ra tính hiệu quả và sự phù hợp của tham vấn cá nhân dựa
trên liệu pháp REBT đối với cha mẹ trẻ RLPTK có biểu hiện stress có hại. Nghiên cứu nhấn
mạnh tới những lưu ý về đặc điểm cá nhân, văn hố gia đình và trình độ của thân chủ.
Dựa trên kết quả nghiên cứu toàn luận án, tác giả đã đề xuất các khuyến nghị phù
hợp đối với cha mẹ trẻ RLPTK, gia đình trẻ, các chuyên gia can thiệp và tư vấn cho trẻ,
cho gia đình trẻ, nhằm phịng ngừa và giảm thiểu stress có hại ở cha mẹ trẻ RLPTK, qua
đó đồng thời gián tiếp góp phần nâng cao chất lượng can thiệp, hỗ trợ trẻ RLPTK.
9. Cấu trúc của luận án
Ngoài các phần mở đầu và tổng quan, kết luận và kiến nghị, phần danh mục cơng
trình công bố, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận án được bố cục thành ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về stress ở cha mẹ của trẻ có rối loạn phổ tự kỷ.
Chương 2: Tổ chức và phương pháp nghiên cứu.
Chương 3: Kết quả nghiên cứu thực trạng stress ở cha mẹ của trẻ có rối loạn phổ tự kỷ.


5


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ STRESS Ở CHA MẸ CỦA TRẺ
CÓ RỐI LOẠN PHỔ TỰ KỶ
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Những nghiên cứu về biểu hiện và mức độ stress ở cha mẹ của trẻ RLPTK
Quá trình tìm hiểu các tài liệu cho thấy trên thế giới có những nghiên cứu
chuyên sâu về vấn đề stress ở cha mẹ của trẻ có RLPTK. Những năm tháng đầu đời
của trẻ có thể là một thời gian đặc biệt stress đối với tất cả các bậc cha mẹ, tuy nhiên,
cha mẹ của trẻ khuyết tật có thể gặp thêm nhiều nguồn stress.
1.1.2. Những nghiên cứu về nguyên nhân/ tác nhân dẫn đến đến stress ở cha mẹ
có con tự kỷ
Những nguồn gây stress ở cha mẹ của trẻ có RLPTK: Cha mẹ của trẻ có RLPTK
có thể trải nghiệm những nguồn gây stress cụ thể liên quan đến bản thân trẻ - tình
trạng tự kỷ của trẻ, bản thân cha mẹ và những hỗ trợ xã hội.
1.1.3. Những nghiên cứu về ứng phó stress có hại ở cha mẹ có con tự kỷ
Ứng phó hướng vào nhiệm vụ là chỉ báo của cha mẹ có con phát triển bình
thường (Dunleavy, A.M., Leon, S.C., Lyons, A.M., & Roecker Phelps, C.E, 2010).
Ảnh hưởng của triệu chứng nặng và chiến lược ứng phó của cha mẹ có con tự kỷ đến
sự stress của họ. Các cách ứng phó: Nhiệm vụ, xúc cảm, xã hội và né tránh được xem
xét như là các chỉ báo của 4 dạng stress của cha mẹ. Các tác nhân gây nên sự stress
bao gồm: vấn đề của việc ni dạy con và gia đình, sự bi quan, tính cách của trẻ, sự
thiếu hụt sức lực thể chất (Kaniel, S., Siman-Tov, A, 2011).
1.1.4. Những nghiên cứu về các biện pháp can thiệp tâm lý nhằm giảm stress ở cha
mẹ có con tự kỷ
Tiếp cận nhận thức giảm thiểu stress ở cha mẹ trẻ tự kỷ: nhận thức đóng một vai
trò quan trọng trong các phản ứng stress (Grinker & Spiegel, 1945; Janis, 1954;
Lazarus, 1993a, 1993b) và việc đánh giá thay đổi nhận thức có thể làm giảm stress
(Lazarus & Alfret, 1964). Cái nhìn của các sự kiện vẫn được coi là stress có thể được
giảm thiểu qua các kỹ năng đối phó khơng hiệu quả (Lazarus & Alfert, 1964;
Speisman, Lazarus, Mordkoff, & Davidson, 1964).

1.2. Một số vấn đề lý luận về stress
1.2.1. Khái niệm stress
Stress có hại (distress) là trạng thái không thoải mái về mặt tâm lý xuất hiện khi cá
nhân đánh giá chủ quan về sự kiện, hồn cảnh bên ngồi như những tác nhân có tính
chất đe dọa về mặt thể chất hoặc tinh thần, vượt quá khả năng ứng phó và gây hại cho
con người.
1.2.2. Các cách tiếp cận lý thuyết về stress
Phân tích tài liệu cho thấy có 3 cách tiếp cận đến stress: (1) là phản ứng về mặt
sinh lý của cơ thể, (2) như một kích thích từ mơi trường bên ngoài và (3) như một sự


6

tương tác.
1.2.3. Các biểu hiện của stress
Stress có ảnh hưởng lớn đến tâm trạng, cảm giác hạnh phúc, hành vi và sức khỏe
của chúng ta (Neil Schneiderman, Gail Ironson, and Scott D. Siegel, 2005). Các biểu
hiện của stress ở các mặt cụ thể như sau:
Thực thể: Cơ bắp cứng hoặc căng, nghiến răng, đổ mồ hôi, nhức đầu stress, cảm
giác ngất, cảm giác nghẹt thở, khó nuốt, đau bụng, buồn nơn, nơn, táo bón, tần suất
và tiểu gấp, mất hứng thú , run, giảm cân hoặc tăng cân, nhận thức về nhịp tim.
Nhận thức: Suy nghĩ lo lắng, dự đoán sợ hãi, kém tập trung, khó nhớ.
Cảm xúc: Cảm giác stress, cáu gắt, bồn chồn, lo lắng, khơng có khả năng thư
giãn, trầm cảm.
Hành vi: Ăn quá nhiều hoặc quá ít, ngủ quá nhiều hoặc quá ít, không năng động,
linh hoạt như bình thường, nói năng khơng rõ ràng, khó hiểu, nói liên tục về một sự
việc, hay phóng đại sự việc, hay tranh luận, thu mình lại, rút lui, không muốn tiếp xúc
với người khác.
1.3. Một số vấn đề lý luận liên quan stress ở cha mẹ của trẻ rối loạn phổ tự kỷ
1.3.1 Khái niệm

1.3.1.1 Khái niệm rối loạn phổ tự kỷ
Rối loạn phổ tự kỉ là một dạng khuyết tật phát triển được đặc trưng bởi ba
khiếm khuyết chính về giao tiếp, tương tác xã hội và có hành vi, sở thích, họat động
mang tính hạn hẹp, lặp đi lặp lại. Rối loạn phổ tự kỉ bao gồm các rối loạn có chung
đặc điểm song khác nhau về phạm vi, mức độ nặng, khởi phát và tiền trình của triệu
chứng theo thời gian.
1.3.1.2 Khái niệm stress ở cha mẹ của trẻ rối loạn phổ tự kỷ
Dựa vào khái niệm, biểu hiện của stress, stress có hại của cha mẹ trẻ RLPTK được
hiểu là những phản ứng của cha mẹ trước các vấn đề nảy sinh từ RLPTK của con,
những phản ứng này có tính chất đe dọa về thể chất hoặc/và tinh thần vượt quá khả
năng ứng phó của họ, được biểu hiện ở các mặt thực thể, nhận thức, cảm xúc và hành vi.
* Stress ở cha mẹ của trẻ có RLPTK biểu hiện qua thực thể
- Bị đau đầu, đau nửa đầu
- Hay quên
* Stress ở cha mẹ của trẻ có RLPTK biểu hiện qua nhận thức
- Tư duy chậm hoặc không muốn suy nghĩ về tình trạng của con
- Tự lý giải, mặc cả với chính mình về vấn đề của con
* Stress ở cha mẹ của trẻ có RLPTK biểu hiện qua cảm xúc
- Bị sốc khi biết con có RLPTK
- Cáu kỉnh, dễ nổi nóng
- Buồn và chán nản với tương lai của con
* Stress ở cha mẹ của trẻ có RLPTK biểu hiện qua hành vi


7

- Không thể tập trung vào công việc
- Không thể kiên nhẫn khi phải chờ đợi
- Không chấp nhận được việc gì đó cản trở việc đang làm
1.3.3 Các tác nhân gây stress cho cha mẹ từ vấn dề của con có rối loạn phổ tự kỷ

- Các vấn đề RLPTK ở trẻ
- Các yếu tố liên quan đến cha mẹ
- Các yếu tố liên quan đến con
- Các yếu tố bên ngồi
1.3.4. Ứng phó stress ở cha mẹ của trẻ có rối loạn phổ tự kỷ
Ứng phó là cách mà cá nhân thể hiện sự tương tác của mình với hoàn cảnh
tương ứng với logic của riêng họ, với ý nghĩa trong cuộc sống của con người và với
những khả năng tâm lí của họ.
Trong nghiên cứu này, với tiêu chí là giảm stress trên bình diện cá nhân, các
cách ứng phó có thể chia thành tích cực (chủ động hành động, tình cảm và suy nghĩ
theo hướng tích cực để thoát khỏi vấn đề) và tiêu cực (thể hiện tình cảm âm tính, có
những suy nghĩ và hành động âm tính).
1.3.5 Diễn biến tâm lý ở cha mẹ của trẻ RLPTK
Một số cha mẹ phải trải qua tất cả những giai đoạn này, nhưng có những cha mẹ
khác thì chỉ trải qua một số giai đoạn nhất định. Những giai đoạn này có thể quay lại,
nhất là khi có vấn đề/khó khăn mới nảy sinh (Trần Thị Lệ Thu, 2009). Điều này sẽ
được chứng minh qua 5 giai đoạn sau:
+ Giai đoạn 1: Sốc, không tin, phủ nhận sự thật.
+ Giai đoạn 2: Tức giận, tự trách mình.
+ Giai đoạn 3: Tự lý giải, mặc cả.
+ Giai đoạn 4: Suy sụp, buồn nản.
+ Giai đoạn 5: Chấp nhận.
1.4. Biện pháp can thiệp tâm lý nhằm giảm stress có hại ở cha mẹ trẻ RLPTK
1.4.1. Những liệu pháp can thiệp tâm lý nhằm giảm thiểu stress
1.4.2. Liệu pháp nhân văn
1.4.3. Liệu pháp nhận thức
1.4.4. Liệu pháp hành vi cảm xúc hợp lý (REBT)
1.4.5. Liệu pháp nhóm
1.4.6. Liệu pháp tỉnh thức (chánh niệm)
1.4.7. Tâm lý cộng đồng (tập trung vào nhận diện và phòng ngừa sớm)

Kết luận chƣơng 1


8

Chƣơng 2
TỔ CHỨC VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Tổ chức nghiên cứu
2.1.1. Nội dung nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu một số nội dung sau:
- Tìm hiểu lịch sử nghiên cứu vấn đề, những vấn đề lý luận làm cơ sở cho việc
nghiên cứu: Biểu hiện stress của cha mẹ trẻ RLPTK ở các khía cạnh: thực thể, nhận
thức, cảm xúc, hành vi; mối quan hệ giữa stress ở cha mẹ với các vấn đề ở trẻ
RLPTK và các yếu tố từ chính cha mẹ cũng như từ đặc điểm nhân khẩu - xã hội; cách
ứng phó với stress có hại.
- Nghiên cứu thực trạng stress ở cha mẹ của trẻ có RLPTK trên các khía cạnh:
biểu hiện về mặt thực thể, nhận thức, cảm xúc, hành vi.
- Tìm hiểu mối quan hệ giữa stress ở cha mẹ với các vấn đề ở trẻ có RLPTK và
các yếu tố từ chính cha mẹ cũng như từ đặc điểm nhân khẩu - xã hội.
- Thực nghiệm biện pháp tham vấn cảm xúc hành vi hợp lý (REBT) nhằm giúp
cha mẹ trẻ RLPTK giảm thiểu stress.
2.1.2. Đặc điểm của mẫu khách thể nghiên cứu
Mẫu khách thể đại trà là 231 bậc cha mẹ của trẻ có RLPTK. Trong q trình xử
lý các thông tin, chúng tôi loại bỏ 22 cha/mẹ do không đáp ứng yêu cầu của việc
nghiên cứu (cha mẹ có con bị khuyết tật trí tuệ hoặc chậm nói chứ khơng phải con
mắc RLPTK). Vì vậy, số lượng mẫu cuối cùng để rút ra các nhận định khoa học là
209 cha/mẹ. Đặc điểm của từng nhóm khách thể được thể hiện ở bảng sau:
Bảng 2.1: Đặc điểm mẫu nghiên cứu
STT
1


2

3

Đặc điểm
Số lƣợng
Nam
54
Giới tính
Nữ
152
Khuyết thiếu
3
Trung cấp trở xuống
55
Trình độ học vấn
Cao đẳng trở lên
151
Khuyết thiếu
3
30 tuổi trở xuống
50
31 - 40 tuổi
81
Trên 40 tuổi
30
Tuổi
Khuyết thiếu
48

Trung bình: 35.9
ĐLC: 6,61

Tỷ lệ %
25,8
72,7
1,4
26,4
72,2
1,4
23,9
38,7
14,4
23,0


9

2.2. Các bƣớc tiến hành nghiên cứu
2.2.1. Tiến trình nghiên cứu lý luận (Từ tháng 3 năm 2013 đến tháng 9 năm 2016)
2.2.2. Tiến trình nghiên cứu thực tiễn (Từ tháng 9 năm 2016 đến tháng 5 năm 2018)
Để thu thập thông tin làm cơ sở xây dựng bảng hỏi, các nguồn tư liệu sau đã
được sử dụng:
Thứ nhất, tổng hợp những nghiên cứu của các tác giả ở trong và ngồi và ngồi
nước về stress và cách ứng phó với stress ở cha mẹ của trẻ có rối loạn phổ tự kỷ.
Đồng thời các thông tin về vấn đề phổ biến có biến có liên quan đến các biểu hiện
của tự kỷ cũng được tập hợp.
Nguồn thứ hai là một số trắc nghiệm đã được ứng dụng trong các nghiên cứu tâm
lý học ở Việt nam và ở nước ngoài về các vấn đề liên quan để đánh giá nội dụng này.
Nguồn thứ ba là xin ý kiến các chuyên gia.

Nguồn thứ tư là một khảo sát thăm dò với chính đối tượng là cha mẹ của trẻ có
rối loạn phổ tự kỷ ở Hà Nội.
Thử nghiệm bảng hỏi.
• Tổ chức tham vấn ca
Mục đích của bước này là thử nghiệm cách hỗ trợ cha mẹ vượt qua stress
Mẫu chọn: trường hợp có mức độ thường xuyên bị stress đến mức cản trở hiêu
quả của các hoạt động chính và có nhu cầu được hỗ trợ
Tham vấn ca được tổ chức tại trung tâm Gia An, số 35, ngõ 7, Thái Hà, Đống Đa
2.3. Các phƣơng pháp nghiên cứu
2.3.1. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
2.3.2. Phương pháp phỏng vấn sâu
2.3.3. Phương pháp thực nghiệm tham vấn ca sử dụng liệu pháp hành vi cảm xúc
hợp lý
2.3.4. Phương pháp thống kê toán học


10

Chƣơng 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG VỀ STRESS Ở CHA MẸ
CỦA TRẺ CÓ RỐI LOẠN PHỔ TỰ KỶ
3.1. Thực trạng stress ở cha mẹ của trẻ có rối loạn phổ tự kỷ
3.1.1. Đánh giá chung về stress ở cha mẹ có con rối loạn phổ tự kỷ
Các dấu hiệu này gồm 4 nhóm biểu hiện: về mặt thực thể, về mặt nhận thức, về mặt
cảm xúc và về mặt hành vi. Dưới đây, chúng tôi gọi tắt là 4 nhóm là: nhóm thực thể, nhóm
nhận thức, nhóm cảm xúc và nhóm hành vi.

Biểu đồ 3.1. Phân bố điểm stress tổng hợp
Kết quả cho thấy điểm trung bình của stress là 2,60 độ lệch chuẩn (SD) là 0,71. Với
thang đánh giá từ 1 đến 4 điểm, điểm trung vị của thang là 2,5 thì điểm stress tổng hợp

thuộc mức khá thường xuyên. Độ nghiêng của đồ thị Sk<0, thể hiện phân bố nghiêng về bên
phải nhiều hơn, tức là cha mẹ có con tự kỷ có mức điểm stress nghiêng về phía điểm cao
nhiều hơn điểm thấp. Dữ liệu của phân bố cho thấy số người từ 3 điểm trở lên (thuộc mức
stress khá thường xuyên hoặc thường xuyên) chiếm hơn 50%, còn số người dưới 2 điểm
(thuộc mức điểm hiếm khi hoặc không bao giờ bị stress) chỉ chiếm 6,2%. So sánh những
người “khá thường xuyên” bị stress với người ít bị stress thì cao hơn 1,5 lần.
Bảng 3.1. Tần suất biểu hiện stress ở cha mẹ xét theo các nhóm biểu hiện (tỷ lệ % )
Các nhóm
Khơng bao
Thỉnh thoảng
Khá thƣờng
Thƣờng xuyên
biểu hiện
giờ/ hiếm khi
xuyên
(từ 1.5 – dưới
(từ 2.5 – dưới 3.5 (từ 3.5 điểm trở
stress
(< 1.5 điểm)
2.5 điểm)
điểm)
lên)
Tổng hợp

6,2% (n = 13)

40,2% (n = 84)

49,8% (n = 104)


3,8% (n = 8)

Thực thể

7,7% (n = 16)

32,1% (n = 67)

55,0% (n = 115)

5,3% (n = 11)

Nhận thức

6,2% ( n = 13)

26,3% (n = 55)

56,0% ( n= 117)

11,5% (n = 24)

Cảm xúc

11,0% (n =23)

39,2% (n = 82)

34,4% (n = 72)


15,3% (n = 32)

Hành vi
8,6% (n = 18)
42,6% (n = 89)
45,0% (n = 94)
3,8% (n = 8)
Chú thích: n: số lượng cha mẹ
Kết quả thống kê cho thấy hơn 90% cha mẹ bị stress ở các mức độ khác nhau, trong đó
có hơn 50% cha mẹ trẻ RLPTK có stress ở mức khá thường xuyên trở lên, 40,2% cha mẹ trẻ tự
kỷ có stress ở mức “thỉnh thoảng”. Như vậy, tỉ lệ cha mẹ trẻ RLPTK có stress ở mức độ “khá


11

thường xuyên” trở lên được chỉ ra trong nghiên cứu này cũng nằm trong xu hướng với những tỉ
lệ đã được công bố của nhiều nghiên cứu khác ở Việt Nam và trên thế giới trước đó như nghiên
cứu của Catalano và cộng sự (2018), cha mẹ chăm sóc trẻ có RLPTK thường báo cáo mức độ
stress, trầm cảm và lo lắng gia tăng.
3.1.2. Các biểu hiện stress ở cha mẹ có con rối loạn phổ tự kỷ
3.1.2.1. Biểu hiện về mặt thực thể
Bảng 3.2. Các biểu hiện stress về mặt thực thể
Không
bao
Thỉnh Khá Thƣờng
TT Các nhận định
giờ/hiếm thoảng TX
xuyên ĐTB ĐLC
khi
(%)

(%)
(%)
(%)
1 Tôi bị đau đầu, đau nửa đầu
13,5
20,2
48,3
18,0
2,71 1,015
2 Tơi hay qn
12,4
15,7
49,4
22,5
2,89 0,901
3 Tơi bị giảm hứng thú tình dục
19,3
20,5
43,4
16,9
2,56 0,990
4 Tôi thấy mệt mỏi
13,6
17,0
45,5
23,9
2,76 0,935
5 Tôi ăn không ngon miệng
18,4
23,0

44,8
13,8
2,47 0,920
6 Tơi ăn q nhiều hoặc q ít
24,1
37,9
27,6
10,3
2,27 0,943
Tôi bị mất ngủ hoặc ngủ không
2,46 0,988
7
23,5
29,4
27,1
20,0
ngon giấc
(Điểm min = 1, điểm Max= 4)
Trên đây là các dấu hiệu biểu hiện về mặt cơ thể của stress ở cha mẹ của trẻ có
RLPTK. Tuy nhiên, bản thân cha mẹ và những người xung quanh thường không dễ nhận
biết các yếu tố này như là các dấu hiệu biểu hiện ra bên ngồi của stress mà có thể thường
coi đó là các vấn đề thuộc bệnh lý thực thể. Ở góc độ tâm lý học lâm sàng, đây là các triệu
chứng điển hình của stress.
3.1.2.2. Biểu hiện stress về mặt nhận thức
Bảng 3.3. Các biểu hiện stress về mặt nhận thức
Không bao
Thỉnh Khá Thƣờng
giờ/hiếm
TT Các nhận định
thoảng TX xuyên ĐTB ĐLC

khi
(%) (%)
(%)
(%)
Tơi thấy mình tư duy chậm hoặc
1 khơng muốn suy nghĩ về tình trạng
24,1
25,3 35,6
14,9
2,41 1,017
của con
Tơi tự lý giải, mặc cả với chính
2
16,1
21,8 41,4
20,7
2,66 0,984
mình về vấn đề của con
Tôi hay nghĩ lại những buồn phiền
3
9,1
21,6 48,9
20,5
2,80 0,869
gần đây nhất
4 Tơi có nhiều suy nghĩ lo âu
8,1
15,1 47,7
29,1
2,97 0,880

Tơi thường có suy nghĩ quẩn quanh
5
6,8
11,4 45,5
36,4
3,11 0,863
về tình trạng của con
Tơi nhìn thấy mặt tiêu cực của mọi
6 vấn đề, đánh giá cao khó khăn,
23,8
34,5 33,3
8,3
2,26 0,919
đánh giá thấp bản thân


12

3.1.2.3. Biểu hiện stress về mặt cảm xúc
Các biểu hiện stress về mặt cảm xúc xuất hiện với ĐTB và tỉ lệ khá cao ở cha mẹ trẻ tự
kỷ- thể hiện trong bảng 3.4.
Bảng 3.4. Các biểu hiện stress về mặt cảm xúc
Không
bao
Thỉnh
Khá
Thƣờng
TT
Các nhận định
giờ/hiếm thoảng

TX
xuyên ĐTB ĐLC
khi
(%)
(%)
(%)
(%)
Tôi bị sốc khi biết con mắc tự
1
14,0
20,9
46,5
18,6
2,69 0,933
kỷ
2 Tôi cáu kỉnh, dễ nổi nóng
11,4
25,0
42,0
21,6
2,73 0,928
Tơi cảm thấy bức bối, khơng
3
24,1
32,2
29,9
13,8
2,33 0,996
dịu được stress
Tôi thường buồn và chán nản

4
19,8
24,4
37,2
18,6
2,54 1,013
với tương lai của con
Tơi cảm thấy có lỗi và khơng
5
18,2
17,0
46,6
18,2
2,64 0,983
ra gì khi con bị tự kỷ
6 Tôi cảm thấy cô độc, bị cô lập
28,2
29,4
31,8
10,6
2,24 0,986
Tôi dễ bị rơi vào trạng thái
7
36,5
23,5
29,4
10,6
2,14 1,036
tiêu cực
Tôi thường bồn chồn, lo lắng

8
31,0
31,0
23,8
14,3
2,21 1,042
và sợ hãi
Các dấu hiệu có mức ĐTB cao nhất là: “Tơi cáu kỉnh, dễ nổi nóng” (M= 2,73, SD =
0,928), “Tơi bị sốc khi biết con tự kỷ” (M = 2,69, SD = 0,933), “Tơi cảm thấy có lỗi và
khơng ra gì khi con bị tự kỷ” (M= 2,64, SD = 0,983),“Tôi thường buồn và chán nản với
tương lai của con” (M= 2,61, SD = 0,905).
Xét về tỷ lệ, có 40,0% cha mẹ thường xun và khá thường xun có cảm xúc “tơi dễ
bị rơi vào trạng thái tiêu cực”, 43,7% cảm thấy “tôi cảm thấy bức bối, không dịu được
stress”, 38,1% cảm thấy tôi thường bồn chồn, lo lắng và sợ hãi.
Như vậy, khi trong cha mẹ trẻ tự kỷ xuất hiện những cảm xúc âm tính, đó có thể là
những yếu tố cảnh báo việc họ có thể đang phải đương đầu với stress. Những hiểu biết về
các dấu hiệu này cần phải được trang bị cho cha mẹ trẻ tự kỷ, qua đó có thể hỗ trợ phịng
ngừa giảm thiểu stress.
3.1.2.4. Biểu hiện stress về mặt hành vi
Kết quả khảo sát biểu hiện stress về mặt hành vi được tổng hợp ở biểu đồ 3.5. Theo
Miller (2010), các vấn đề về hành vi được xem là các rối loạn bên ngoài/ngoại hiện
(Externalizing Disorders) của những vấn đề rối nhiễu về cảm xúc bên trong.


13

Bảng 3.5. Các biểu hiện stress về mặt hành vi
Không
bao
Thỉnh Khá Thƣờng

TT
Các nhận định
giờ/hiếm thoảng TX
xuyên ĐTB
khi
(%)
(%)
(%)
(%
Tôi không thể tập trung vào công
1
15,7
24,7 44,9
14,6
2,58
việc
Tôi thấy khả năng làm việc của mình
2
20,5
34,1 35,2
10,2
2,35
kém đi
Tơi khơng năng động, linh hoạt như
3
27,6
23,0 33,3
16,1
2,37
bình thường

Tôi hay bối rối trước những việc
4
16,9
28,1 43,8
11,2
1,95
chẳng đâu vào đâu
Tơi thường thu mình, khơng muốn
5
43,0
22,1 31,4
3,5
2,49
tiếp xúc với người khác
Tơi có xu hướng phản ứng thái q
6
17,0
40,9 34,1
8,0
2,32
với mọi tình huống
Tơi thấy mình khơng thể kiên nhẫn
7
10,2
29,5 44,3
15,9
2,65
được khi phải chờ đợi
Tơi khơng chấp nhận được việc có
8 cái gì đó xen vào cản trở việc tơi 17,8

37,8 35,6
8,9
2,35
đang làm

ĐLC

0,926
0,922
1,059
0,944
0,906
0,853
0,869
0,878

Có thể thấy, cha mẹ trẻ tự kỷ đều gặp phải stress ở các mức độ khác nhau, hầu hết các
dấu hiệu của stress đều xuất hiện. Trong đó, ở mỗi nhóm dấu hiệu cơ thể, cảm xúc, nhận
thức, hành vi, các biểu hiện sau đây xuất hiện phổ biến (là những dấu hiệu có khá thường
xuyên trở lên ở hơn 50% số người trả lời).
3.1.3. Mối liên hệ giữa các nhóm biểu hiện stress
3.1.3.1. Tương quan giữa các nhóm biểu hiện stress ở cha mẹ trẻ RLPTK
Xem xét mối quan hệ giữa các nhóm dấu hiệu stress, chúng tơi nhận thấy có mối tương
quan thuận và rất chặt chẽ giữa chúng. Kết quả về tương quan Pearson của các mặt stress
với nhau và với stress tổng hợp được hiển thị ở bảng 3.6.
Bảng 3.6. Tương quan giữa các nhóm biểu hiện stress ở cha mẹ
Biểu hiện stress
1. Thực thể

Tổng hợp

0,897**

Thực thể

Cảm xúc

2. Cảm xúc

0,917**

0,735**

3. Nhận thức

0,949**

0,793**

0,847**

4. Hành vi

0,936**

0,804**

0,809**

Nhận thức


0,858**

Chú thích: ** p < ,01
Cụ thể: stress tổng hợp tương quan thuận với stress thực thể (hệ số tương quan r =
0,897, p < 0,01); với stress nhận thức (r = 0,949, p < 0,01); với stress cảm xúc (r = 0,917, p
< 0,01), với stress hành vi (r = 0,936, p < 0,01). Trong đó, stress tổng hợp tương quan chặt
chẽ nhất với các biểu hiện về mặt cảm xúc, r = 0,917**, tiếp đó là các biểu hiện về mặt
hành vi, r = 0,936**. Hệ số tương quan rất cao gần đến 1 cho thấy chúng gần tương đương


14

nhau, thống nhất với nhau một cách có hệ thống trong toàn bộ các dấu hiệu của stress được
nghiên cứu ở đây.
Như vậy, cha mẹ có stress ở mức độ “khá thường xuyên” thì sẽ xuất hiện các biểu hiện
trên tất cả các mặt: thực thể, nhận thức, cảm xúc, hành vi và các biểu hiện khác, trong đó
biểu hiện rõ rệt nhất ở các yếu tố về cảm xúc và hành vi. Tương tự như vậy, các dấu hiệu
thực thể, nhận thức, hành vi cũng có tương quan chặt chẽ với nhau với hệ số tương quan r
dao động từ 0,78 đến 0,91; p <0,01.
3.1.3.2. Đặc trưng của các biểu hiện stress ở cha mẹ của trẻ rối loạn phổ tự kỷ
Kết quả phân tích nhân tố khám phá đã cho thấy: Bảng ma trận các thành phần ban đầu
(không sử dụng phép xoay) cho thấy, các item được tải vào 4 nhân tố, giải thích được
62,37% phương sai, với giá trị riêng >1 và các item đều có tỷ lệ chiết suất vào nhân tố >
50%. Dữ liệu cho thấy, riêng thành phần đầu tiên giải thích được hơn 49% phương sai, lớn
nhất và chiếm phần lớn trong số 4 nhân tố. Bảng ma trận cũng cho thấy, tất cả các item đều
được tải về yếu tố thứ nhất với hệ số tải nhân tố đều lớn hơn 0,5. Một số item được tải về
cùng lúc ở vài nhân tố nhưng hầu như có hệ số tải thấp hơn.
Như vậy, có thể hiểu, các item trong thang stress được dùng ở nghiên cứu này khá
thống nhất với nhau, hội tụ vào cùng một nhân tố. Và vì thế, chúng có thể tạo nên 1 miền đo
thống nhất (là stress chung), hơn là phân ra thành các thành phần riêng rẽ. Đây là một đặc

trưng của stress ở cha mẹ có con RLPTK: các biểu hiện stress xuất hiện khá đồng thời với
mức độ thường xuyên gần như nhau. Khi một nhóm biểu hiện stress xuất hiện, dù đó dấu
hiệu thực thể, nhận thức, cảm xúc hay hành vi thì nó đều song hành với những biểu hiện
khác. Như thế, sự quá tải về stress khi một loạt các biểu hiện xuất hiện thường xuyên ở cha
mẹ là điều có thể suy luận được. Nếu bị stress thường xuyên có thể dẫn đến nhiều hậu quả
khơng tốt trong cuộc sống, đặc biệt với cha mẹ trẻ RLPTK sẽ gặp phải rất nhiều vấn đề ảnh
hưởng đến sức khỏe bản thân, q trình chăm sóc và dạy con, mối quan hệ với người thân
trong gia đình và bạn bè.
3.2. Mối quan hệ giữa stress của cha mẹ với các vấn đề ở trẻ rối loạn phổ tự kỷ
3.2.1. Thực trạng các vấn đề của trẻ RLPTK thuộc nhóm mẫu nghiên
Trong nghiên cứu này, khảo sát 3 nhóm vấn đề của trẻ tự kỷ (1) Vấn đề giao tiếp, (2) Vấn
đề hành vi (3) Vấn đề tương tác xã hội là những biểu hiện đặc trưng của rối loạn phổ tự kỷ.
Điểm trung bình chung của 3 dạng vấn đề này là: (1) Vấn đề giao tiếp có M = 2,79,
SD = 0,77; (2) Vấn đề hành vi có M = 2,64, SD = 0,76; (3) Vấn đề tương tác xã hội có M =
3,09, SD = 0,76. Như vậy, vấn đề của trẻ thường gây stress cho cha mẹ nhất là vấn đề tương
tác xã hội.
Bảng 3.8. Thực trạng các vấn đề của trẻ RLPTK trong nhóm mẫu
Vấn đề giao tiếp
Vấn đề hành vi Vấn đề tƣơng tác xã hội
N
Số thực
209
209
209
Số khuyết
5
7
4
ĐTB
2,79

2,64
3,09
ĐLC
0,77
0,76
0,76
Chú thích: Thang điểm có min = 1 (Khơng bao giờ), max = 5 (Rất thường xuyên)
3.2.1.1. Các vấn đề về giao tiếp
Giao tiếp xã hội được xem như là một khiếm khuyết chính ở trẻ có rối loạn phổ tự kỷ,
việc can thiệp nhắm tới giao tiếp xã hội là trọng tâm của nhiều nghiên cứu (Anagnostou và
cộng sự, 2015). Các vấn đề giao tiếp cụ thể dẫn đến stress ở cha mẹ trẻ RLPTK được thể
hiện ở bảng dưới đây:


15

Bảng 3.9. Thực trạng các vấn đề về giao tiếp
STT
Các vấn đề
ĐTB
ĐLC
1 Con khơng hiểu tơi nói gì
2,98
0,883
2 Con khơng đáp ứng lại khi tơi nói với con
3,03
0,875
3 Con nói ngôn ngữ kỳ quặc
3,00
1,025

4 Con lặp đi lặp lại một câu hỏi
2,51
1,098
5 Con cắt lời người khác
2,24
1,017
Chú thích: Thang điểm có min = 1 (Khơng bao giờ), max = 5 (Rất thường xuyên)
3.2.1.2. Các vấn đề về hành vi
Đối với trẻ tự kỷ, những khó khăn về ngơn ngữ, giao tiếp và nhận thức có thể khơng phải là
các vấn đề quan trọng mà các em gặp phải. Những khó khăn khác đi kèm với những khiếm
khuyết trên đã trở thành rào cản không dễ khắc phục đối với quá trình hịa nhập của trẻ. Một trong
những khó khăn đó là các vấn đề về hành vi không phù hợp hay hành vi thách thức ở trẻ. Các vấn
đề về hành vi dẫn đến stress ở cha mẹ trẻ tự kỷ được thể hiện cụ thể ở bảng dưới đây:
Bảng 3.10. Các vấn đề hành vi cuả trẻ tự kỷ
STT
Các vấn đề
ĐTB ĐLC
6 Con có hành vi tự hại (tự cấu, tự cắn, giật tóc, tự đập đầu vào tường…) 2,13 1,154
7 Con có những hành vi lặp đi, lặp lại (vung vẩy hai cánh tay, hoặc đưa 2,67 1,214
bàn tay lên gần mặt rồi xoắn vặn hoặc bật bật các ngón tay…)
8 Con chỉ ăn duy nhất một loại thực phẩm
2,39 1,189
9 Con hay sờ vào cơ quan sinh dục
2,59 1,056
10 Con không tập trung vào các hoạt động
3,43 0,991
11 Con lặp đi lặp lại một câu hỏi
2,60 1,197
12 Con tấn công người khác (cấu, cắn, đánh hay xông vào ơm ghì lấy 2,32 1,153
người khác, …)

13 Con đập phá đồ đạc
2,22 1,093
Chú thích: Thang điểm có min = 1 (Không bao giờ) max = 5 (Rất thường xuyên)
Hành vi của trẻ tự kỷ thường là nguồn lo lắng của cha mẹ (Myers và cộng sự, 2009); do
đó, một phần cần thiết của can thiệp sớm có thể bao gồm việc hướng dẫn cha mẹ những kỹ
năng để xử lý với các khó khăn trong hành vi (National Research Council, 2001).
3.2.1.3. Các vấn đề về tương tác xã hội
Những đặc điểm về tương tác xã hội được thể hiện khá đa dạng ở trẻ tự kỷ, trẻ gặp khó
khăn trong quan hệ liên cá nhân, liên hệ mang tính xã hội, thiếu sự tiếp xúc bằng mắt. Trẻ
cũng không quan tâm đến việc chia sẻ niềm vui, sự yêu ghét, thường có cách xử sự một
cách máy móc. Những vấn đề tương tác xã hội ở trẻ tự kỷ dẫn đến stress ở cha mẹ được thể
hiện cụ thể ở những đặc điểm sau:
Bảng 3.11. Các vấn đề tương tác xã hội ở trẻ tự kỷ
STT
Các vấn đề
ĐTB
ĐLC
14 Con thường chơi một mình
3,44
1,157
16 Con tự di chuyển đồ vật trong phịng mà khơng được sự cho phép
2,98
1,138
17 Con gây ồn (gào thét, khóc lóc quá lâu, giậm chân, vùng vằng, đấm
2,90
0,995
đá, nhảy lên nhảy xuống…)
18 Con leo trèo những nơi nguy hiểm
2,71
1,027

19 Con bồn chồn, luôn muốn hoạt động, không ngồi yên
3,13
1,086
20 Con nghịch đồ, vặn vẹo, ngọ nguậy
3,07
1,057
21 Con lười hoạt động
2,84
1,180
22 Con thờ ơ với xung quanh
3,35
1,228
23 Con không tương tác với mọi người (ánh mắt, nét mặt…)
3,26
1,077
26 Con chậm nói
3,52
1,167
28 Con đặt câu hỏi khơng phù hợp
2,74
1,293
29. Con chơi những đồ chơi không phù hợp
2,91
1,153


16

Kết quả nghiên cứu cho thấy, đặc điểm “con chậm nói” có điểm trung bình cao nhất
trong số các vấn đề tương tác dẫn đến stress ở cha mẹ trẻ tự kỷ (M = 3,52, SD = 1,167); đặc

điểm này thuộc về nhóm tách biệt - nhóm phổ biến nhất của tự kỷ. Sự tách biệt xuất hiện
ngay cả khi người xung quanh tìm cách để kéo chúng vào sự hịa đồng. Trẻ khơng đến gần
khi được gọi, khơng phản ứng khi ai đó nói với chúng, khn mặt trẻ có thể khơng bộc lộ
điều gì, đây thực sự là đặc điểm thách thức rất lớn đối với cha mẹ trẻ tự kỷ. Do vậy, đặc
điểm này dễ dẫn đến stress ở cha mẹ trẻ.
3.2.2. Mối quan hệ giữa stress của cha mẹ với các vấn đề RLPTK ở con
3.2.2.1. Tương quan giữa các vấn đề của trẻ tự kỷ với stress của cha mẹ
Những thách thức trong việc làm cha mẹ của trẻ tự kỷ có thể rất khác với những khó
khăn trong việc làm cha mẹ của trẻ bình thường hoặc chậm phát triển. Những trường hợp
khó khăn có thể diễn ra trong một ngày bình thường vì trẻ tự kỷ thường hiếu chiến, đập phá
đồ vật, cởi bỏ quần áo ở những thời điểm không phù hợp, và tự làm tổn thương mình
(Fodstad và cộng sự, 2012). Những hành vi này có thể liên quan đến những nét đặc trưng
của trẻ tự kỷ như là khiếm khuyết trong giao tiếp, tương tác xã hội, chỉ quan tâm đến một số
thứ nhất định, và hành vi lặp lại (Delmolino và Harris, 2004).
Để tìm hiểu rõ hơn mối quan hệ giữa các vấn đề của trẻ tự kỷ với stress của cha mẹ,
chúng tôi sử dụng phép tương quan Pearson. Kết quả cụ thể được thể hiện dưới đây.
Bảng 3.12: Tương quan giữa vấn đề của trẻ tự kỷ và stress của cha mẹ
Vấn đề tƣơng tác
Biểu hiện Stress Vấn đề giao tiếp Vấn đề hành vi
xã hội
Tổng hợp
0,551**
0,454**
0,584**
Thực thể
0,473**
0,377**
0,476**
Cảm xúc
0,501**

0,405**
0,583**
**
**
Nhận thức
0,520
0,426
0,544**
Hành vi
0,549**
0,479**
0,554**
Chú thích: ** p < 0,01
Dữ liệu cho thấy stress (bao gồm cả stress tổng hợp và các thành phần) đều có tương
quan thuận từ trung bình đến khá mạnh với các vấn đề của trẻ tự kỷ. Trong đó, mối tương
quan với các vấn đề về tương tác xã hội là mạnh nhất so với các mặt khác. Mặt này có hệ số
tương quan cao nhất là với stress về cảm xúc (R = 0,583, p < 0,01) và thấp nhất là với stress
thực thể (R= 0,476, p < 0,001). Stress có hệ số tương quan thấp hơn với các vấn đề hành vi.
Hệ số tương quan dao động từ 0,377 đến 0,479. Các dữ liệu trên đây nói lên rằng, các vấn
đề của con diễn ra càng thường xuyên, thì mức độ stress của cha mẹ càng nặng hơn.
Như vậy, kết quả nghiên cứu này đúng với các kết quả được chỉ ra trong bảng số liệu trên
đây cho thấy: có mối tương quan thuận chiều ở mức độ cao giữa các vấn đề của trẻ tự kỷ với
stress tổng hợp và với các mặt biểu hiện stress và khá thống nhất với các kết quả khác (Bebko et
al., 1987; Moes, 1995; Moes et al., 1992). Trong đó, stress tổng hợp tương quan thuận chặt chẽ
nhất với vấn đề tương tác xã hội, tiếp đó là vấn đề giao tiếp, sau cùng là vấn đề hành vi. Đi sâu
vào các biểu hiện stress thì stress thực thể cũng tương quan thuận chặt chẽ nhất với vấn đề tương
tác xã hội , tiếp đó là với vấn đề giao tiếp và đến vấn đề hành vi. Stress cảm xúc tương quan thuận
chặt chẽ nhất với vấn đề tương tác xã hội, tiếp đến là vấn đề hành vi và vấn đề giao tiếp. Stress
nhận thức tương quan thuận chặt chẽ nhất với vấn đề tương tác xã, tiếp đến là vấn đề giao tiếp và
vấn đề hành vi. Stress hành vi tương quan thuận chặt chẽ nhất với vấn đề tương tác xã hội, tiếp đó

là vấn đề giao tiếp và vấn đề hành vi.
Qua phỏng vấn 10 cha mẹ trẻ tự kỷ, tất cả cha mẹ đều cho biết con mình gặp khó khăn
về tương tác, cụ thể như chia sẻ dưới đây của một phụ huynh:


17

Chia sẻ của chị T.T.N.V: “Cháu ít giao tiếp bằng mắt, ngôn ngữ không phát triển, sức tập
trung kém, luôn hoạt động ln chân ln tay, có người lạ là hét ầm ĩ, khóc lóc. Cháu khơng thể
đi nhà trẻ vì khơng cơ giáo nào trơng được, làm ảnh hưởng đến các bạn khác ở lớp”.
“Lúc mà đi học kia kìa, cơ giáo bảo con chẳng biết cái gì ý, xong rồi bạn ý, cô giáo bảo là
chị ơi con chẳng chịu ăn gì cả, con khơng chịu ăn gì cả, em toàn phải xúc cho con. Xong
rồi chị đến lớp ý, chị đến ngồi ở lớp thì thấy mọi người đều giao tiếp với nhau nhưng con
thì khơng giao tiếp với ai cả. Con cứ ngồi một chỗ con chơi và chẳng tập trung gì cả, lúc
đấy thì mẹ quyết định phải đi tìm chỗ can thiệp cho con”.
Vấn đề hành vi của trẻ tự kỷ có tương quan thuận chiều với stress tổng hợp và stress biểu
hiện ở mặt hành vi. Các vấn đề hành vi của trẻ tự kỷ dẫn đến stress ở cha mẹ như: “con khơng tập
trung vào các hoạt động”, “con có hành vi tự hại”, “con có những hành vi lặp đi lặp lại”,... kết
quả chỉ ra mối tương quan tuyến tính thuận chiều của tác động tiêu cực của vấn đề hành vi với
stress tổng hợp là (r = 0,474, p < 0,001) và với stress về mặt hành vi (r = 0,511, p < 0,001).
Tất cả các cha mẹ được phỏng vấn đề cho biết trẻ gặp các vấn đề về hành vi điển hình
của trẻ tự kỷ.
Chị N.T.T chia sẻ: “Hồi xưa là nó đi học trường chuyên biệt, sau nó vẫn đi học trường hịa
nhập nhưng nó hơi quậy phá vì nó tăng động. Nó vẫn nghe lời cơ nhưng mà nó phá, nó phá
kinh lắm”.
Nghiên cứu cho thấy rằng cha mẹ của trẻ RLPTK stress bởi đặc điểm của trẻ bao gồm sự
phát triển trí tuệ khơng đồng đều ở trẻ, những hành vi gây rối và chu kỳ chăm sóc kéo dài (Bebko
và cộng sự, 1987; Koegel và cộng sự, 1992; Moes, 1995; Moes và cộng sự, 1992). Như vậy, kết
quả nghiên cứu này đúng với các kết quả được chỉ ra trong bảng số liệu trên đây cho thấy: có mối
tương quan thuận chiều ở mức độ cao giữa các vấn đề của trẻ tự kỷ với stress tổng hợp và với các

mặt biểu hiện stress.
Trong đó, stress tổng hợp tương quan thuận chặt chẽ nhất với vấn đề tương tác xã hội, tiếp đó
là vấn đề giao tiếp, sau cùng là vấn đề hành vi. Đi sâu vào các biểu hiện stress thì stress thực thể
cũng tương quan thuận chặt chẽ nhất với vấn đề tương tác xã hội , tiếp đó là với vấn đề giao tiếp và
đến vấn đề hành vi. Stress cảm xúc tương quan thuận chặt chẽ nhất với vấn đề tương tác xã hội, tiếp
đến là vấn đề hành vi và vấn đề giao tiếp. Stress nhận thức tương quan thuận chặt chẽ nhất với vấn
đề tương tác xã, tiếp đến là vấn đề giao tiếp và vấn đề hành vi. Stress hành vi tương quan thuận chặt
chẽ nhất với vấn đề tương tác xã hội, tiếp đó là vấn đề giao tiếp và vấn đề hành vi.
Kết quả trên cho thấy, ở nghiên cứu này, trong các vấn đề của trẻ tự kỷ, vấn đề tương
tác xã hội là có ảnh hưởng mạnh nhất đối với stress ở cha mẹ của trẻ.
3.2.2.2. Ảnh hưởng của các vấn đề của trẻ tự kỷ đối với stress của cha mẹ
Bảng 3.13 hiển thị kết quả của 4 mơ hình hồi qui tuyến tính dự báo stress từ các vấn đề
của trẻ. Trong đó, các mơ hình 1, 2 và 3 dự báo độc lập của từng vấn đề đến stress, còn mơ hình
4 là dự báo của cả 3 vấn đề của trẻ.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, từng vấn đề của trẻ tự kỷ có thể trực tiếp dự báo mức độ
stress của cha mẹ với biên độ ảnh hưởng trong khoảng từ 20,2% đến 34,1% (p < 0,001). Trong
đó, tương tác xã hội dường như có ảnh hưởng mạnh nhất đến stress của cha mẹ.
Xem xét mơ hình thứ 4, khi cả 3 vấn đề cùng lúc tác động thì biên độ ảnh hưởng có thể lên tới
gần 41%, tức là mạnh hơn một cách đáng kể so với từng mơ hình với các biến độc lập. Tuy nhiên,
trong mơ hình này, các vấn đề hành vi lại khơng có ý nghĩa thống kê trong việc dự báo mức độ
stress của cha mẹ và vấn đề tương tác là yếu tố có tác động mạnh nhất đến stress của cha mẹ.


18

Bảng 3.13. Ảnh hưởng của các vấn đề của trẻ tự kỷ đối với stress của cha mẹ
Beta
Mơ hình
Các biến độc lập
R2

F
P
(p)
1
Vấn đề giao tiếp
0,303
87,959 <0,001
2
Vấn đề hành vi
0,202
51,919 <0,001
3
Vấn đề tương tác xã hội 0,341
105,205 <0,001
Vấn đề giao tiếp
0,329 (<0,001)
4
Vấn đề hành vi
0,408
-0,026 (0,737)
47,236 <0,001
Vấn đề tương tác xã hội
0,419 (<0,001)
Như vậy trong 3 nhóm vấn đề của trẻ tự kỷ thì vấn đề tương tác xã hội của trẻ có ảnh
hưởng mạnh nhất đến stress của cha mẹ, sau đó đến vấn đề giao tiếp, cịn vấn đề hành vi bị
mất khả năng tác động đến stress khi bị kiểm sốt bởi 2 vấn đề kia.
Như vậy, có thể nói, những vấn đề/biểu hiện tự kỷ là những tác nhân cơ bản dẫn đến
stress của cha mẹ. Các biểu hiện này càng diễn ra thường xuyên thì stress của cha mẹ cũng
thường xuyên hơn.
Kết quả này lại một lần nữa chứng minh những khó khăn mà cha mẹ gặp phải khi có

đứa con tự kỷ và những vẫn đề này có liên quan mật thiết tới sức khỏe tâm thần của các bậc
cha mẹ và q trình ni dạy con tự kỷ.
3.3. Cách thức ứng phó stress ở cha mẹ trẻ tự kỷ và mối liên quan của chúng với stress
của cha mẹ
3.3.1. Các cách ứng phó
Riêng cách ứng phó “Chia sẻ với các thành viên khác trong gia đình” là cách ứng phó được tải
về ở cả 2 nhân tố với hệ số tải nhân tố không chênh nhau đáng kể, cho thấy đây là cách ứng phó
lưỡng cực, vừa có điểm tích cực, vừa có điểm tiêu cực. Tỷ lệ chiết xuất vào nhân tố của từng item cho
thấy đa số đều > 0,3. Chỉ có 2 item có độ chiết xuất < 0,3 là “làm như chẳng có gì xảy ra” và “tập
thiền/yoga”. Đây là những cách ứng phó khơng mang màu sắc rõ nét lắm của tích cực hay tiêu cực.
3.3.1.1. Ứng phó tích cực
Bảng 3.15. Ứng phó tích cực của cha mẹ có con RLPTK
Số lượng
Thực tế Khuyết ĐTB
ĐLC
Tập trung vào những điểm tích cực của con
200
9
1,53
0,862
Tham gia các tổ chức hỗ trợ trẻ tự kỷ
198
11
2,34
0,941
Ngủ đủ giấc vào ban đêm
201
8
1,92
0,902

Chấp nhận vấn đề của con
201
8
1,89
0,970
Tìm kiếm chuyên gia hỗ trợ cho con
200
9
2,14
0,895
Tham gia một khóa học hay loại hình nghệ thuật
198
11
2,11
0,971
Quản lý, sắp xếp lại thời gian
197
12
1,75
0,849
Ăn uống đủ chất
199
10
1,70
0,925
Tập thiền/yoga
198
11
2,23
0,871

Nghe nhạc, xem tivi, xem phim, đọc truyện, sách
203
6
1,79
0,844
Chú thích: Min = 1 (Thường xuyên) Max = 4 (Không bao giờ).
Hai cách thức ứng phó ít được các cha mẹ trẻ tự kỷ sử dụng nhất là thiền/yoga hay
tham gia khóa học một loại hình nghệ thuật có thể vì tập trung vào chăm sóc và ni dạy
con khiến họ khơng cịn nhiều thời gian để tham gia các khóa học, với bối cảnh Việt Nam
thì việc lựa chọn giải tỏa stress bằng các loại hình nghệ thuật vẫn cịn khá mới mẻ với người
dân nên ít được lựa chọn.


19

Cách thức ứng phó “Quản lý, sắp xếp lại thời gian” và “Tham gia các tổ chức hỗ trợ trẻ tự
kỷ” là các cách ứng phó trung tính được các cha mẹ trẻ tự kỷ lựa chọn.
3.3.1.2. Ứng phó tiêu cực
Kết quả khảo sát cách ứng phó tiêu cực được trình bày trong bảng 3.16 dưới đây:
Bảng 3.16. Ứng phó tiêu cực ở cha mẹ của trẻ RLPTK
Số lƣợng
STT
Nội dung
ĐTB ĐLC
Số thực Khuyết
1 Trút sự thất vọng của mình lên 1 người hay 1 vật nào đó
201
8
3,03 1,102
2 Nói những lời giận dữ, mỉa mai, châm chọc, la mắng

201
8
3,14 ,938
người khác
3 Bi kịch hóa vấn đề của con (nghĩ những điều xấu có
197
12
2,82 1,142
thể xảy ra với con)
4 Cơ lập bản thân
200
9
3,06 1,040
5 Suy diễn, đổ lỗi cho người khác về vấn đề của con
201
8
3,25 ,904
6 Tự đổ lỗi cho bản thân
200
9
2,59 1,113
7 Làm tổn thương một người nào đó mà họ khơng gây
199
10
3,65 ,591
nên bất cứ vấn đề gì
8 Mặc kệ cho mọi chuyện muốn xảy ra thế nào cũng được
198
11
2,84 1,043

9 Khóc, kêu la và gào thét, đập phá đồ đạc
201
8
2,37 1,037
10 Tránh gặp người khác
199
10
2,62 1,046
Chú thích: Min = 1 (Thường xuyên), Max = 4 (Không bao giờ)
3.3.2. Mối quan hệ giữa cách ứng phó và stress
Bảng 3.17. Tương quan giữa các cách ứng phó với stress
Cách ứng phó /Các nhóm Cách ứng phó Cách ứng phó
biểu hiện stress
tiêu cực
tích cực
**
Tổng hợp
-0,575
0,207**
**
Thực thể
-0,502
0,151*
**
Cảm xúc
-0,609
0,206**
**
Nhận thức
-0,493

0,185**
**
Hành vi
-0,519
0,224**
Có tương quan nghịch có ý nghĩa thống kê giữa stress với cách ứng phó tiêu cực: điểm
stress càng cao, điểm ứng phó càng thấp. Điều đó có nghĩa là stress càng thường xuyên thì
cha/ mẹ càng thường xuyên sử dụng cách ứng phó tiêu cực và ngược lại, càng ít bị stress thì
càng ít sử dụng cách ứng phó tiêu cực. Hệ số tương quan tương đối mạnh, thể hiện mối liên
hệ khá chặt.
Giữa cách ứng phó tích cực với các nhóm biểu hiện stress có hệ số tương quan thuận,
có ý nghĩa thống kê nhưng từ yếu đến rất yếu (dưới 0,225). Có thể hiểu, mối liên quan của
stress với hành vi ứng phó tích cực là khơng đáng kể dù có ý nghĩa thống kê. Do vậy, ở cha
mẹ có con tự kỷ, dường như stress có liên quan với những cách phản ứng tiêu cực hơn là
tích cực, dù đó là cách lảng tránh, hay tìm kiếm nguồn lực… Cho thấy cần thiết phải giảm
stress để nâng cao sức khỏe tâm thần cho cha mẹ trẻ tự kỷ.
3.4. Mối quan hệ của stress với các yếu tố cha mẹ và đặc điểm trẻ RLPTK
Kết quả ở trên (mục 3.2 và 3.3) đã cho thấy những bằng chứng rõ ràng về mối quan hệ giữa
stress với các vấn đề của con bị tự kỷ (liên quan đến tình trạng bệnh), và ứng phó của cha mẹ.
Trong đó, con càng thường xun có những biểu hiện về tình trạng bệnh của mình thì cha mẹ
càng thường xuyên bị stress hơn và thường xuyên bị stress liên quan đến ứng phó tiêu cực khá
mạnh. Ở đây xem xét mối quan hệ của stress với những yếu tố khác ở cha mẹ và con


20

3.4.1. Các yếu tố nhân khẩu xã hội của cha mẹ và stress
3.4.1.1. Stress và giới tính
Nhìn chung, trên tồn bộ mẫu nghiên cứu, kết quả chỉ ra người mẹ trẻ RLPTK có ĐTB
stress tổng hợp, cũng như stress trên cả 4 mặt biểu hiện cao hơn người cha (p< 0,01). Có thể thấy,

khi con bị mắc bệnh, người mẹ bị stress ở mức độ cao hơn hẳn người bố trên mọi mặt.
Người mẹ trẻ RLPTK có stress tổng hợp cao hơn hẳn so với người cha trẻ RLPTK p = <
0,001. Kết quả này cũng hoàn toàn phù hợp với các nghiên cứu trước đó đã chỉ ra trên đây, một
nghiên cứu tiết lộ rằng những bà mẹ có mức độ stress cao hơn những người cha, liên quan đặc
biệt đến việc nuôi dưỡng trẻ (Mose và cộng sự, 1992). Những nghiên cứu trên đây cho thấy sự
cần thiết của những nghiên cứu so sánh về mức độ stress ở cha và mẹ của trẻ có RLPTK
(Stahmer và cộng sự, 2005). Điều này có thể được giải thích bằng việc người mẹ là người chăm
sóc chính của trẻ, từng ngày từng giờ cảm nhận sâu sắc sự phát triển của con mình. Hầu hết
những bất thường ở trẻ đều chủ yếu do người mẹ phát hiện ra, lý thuyết gắn bó cũng lý giải phần
nào sự gắn kết của người mẹ và trẻ. Khi con có những dấu hiệu bất thường thì người mẹ vẫn
thường là người đầu tiên tìm cách để khám và tìm cơ sở can thiệp cho con.
3.4.1.2. Stress và độ tuổi
Xem xét dữ liệu của stress tổng hợp cho thấy, nhóm tuổi càng trẻ thì stress càng thường
xuyên hơn. Nếu lấy sai số là 7% thì khác biệt này có ý nghĩa về mặt thống kê (F= 2,76, p =
0,066). Kết quả nghiên cứu cho thấy cha mẹ có độ tuổi từ 30 trở xuống có ĐTB stress tổng
hợp, cũng như stress trên cả 4 mặt biểu hiện cao hơn hai nhóm cha mẹ độ tuổi từ 31 - 40 và
nhóm trên 40 tuổi. Điều này có thể được giải thích bằng việc những người dưới 30 tuổi có
kinh nghiệm làm cha mẹ ít hơn so với kinh nghiệm làm cha mẹ của những người lớn tuổi hơn.
Tuy vậy, nhìn chung, sự khác biệt này là không đáng kể về mặt thống kê dù rằng có xu hướng
cha mẹ càng trẻ thì stress càng thường xuyên hơn.
3.4.1.3. Stress với trình độ học vấn
Kết quả nghiên cứu xem xét biểu hiện stress theo trình độ học vấn được tổng hợp trong
bảng 3.20.
Bảng 3.20: So sánh stress từ góc độ trình độ học vấn
Từ trung cấp trở xuống Từ cao đẳng trở lên
Biểu hiện stress
p
ĐTB
ĐLC
ĐTB

ĐLC
Thực thể
2,72
0,63
2,52
0,68
0,050
Cảm xúc
2,71
0,76
2,38
0,74
0,003
Nhận thức
2,87
0,59
2,56
0,72
0,002
Hành vi
2,57
0,66
2,36
0,66
0,035
Stress tổng hợp
2,72
0,61
2,46
0,65

0,006
Kết quả nghiên cứu cho thấy, trình độ học vấn thấp hơn thì stress cao hơn (p<0.05). Cụ thể
là những cha mẹ của trẻ RLPTK có trình độ từ trung cấp trở xuống có ĐTB là M=2,72, SD =
0,61, các cha mẹ trẻ tự kỷ có trình độ từ cao đẳng trở lên có ĐTB là M = 2,46, SD = 0,65. Điều
này có thể giải thích bởi người có học vấn càng cao thì càng có nhiều cơ hội tìm hiểu các thơng
tin chính thống và có ý nghĩa đối với việc hỗ trợ con mình, ví dụ như vấn đề tìm dịch vụ chẩn
đốn hay can thiệp cho trẻ tự kỷ. Trình độ học vấn cao hơn cũng có thêm nhiều cơ hội tiếp cận
với các dịch vụ hỗ trợ cha mẹ tốt hơn, do vậy mức độ stress thấp hơn.
3.4.1.4. Stress và thu nhập
Kết quả phân tích số liệu cho thấy cha mẹ trẻ RLPTK có thu nhập càng thấp thì stress
càng thường xun hơn (p < 0,05) (bảng 3 trong phụ lục). Một số nghiên cứu chỉ ra rằng các
nhóm cha mẹ có con RLPTK với bất lợi kinh tế xã hội lớn hơn cho thấy mức độ stress và
trầm cảm cao hơn (Stanojević và cộng sự, 2017; Zaidman-Zait và cộng sự, 2018). Các
nghiên cứu cũng cho thấy lo lắng về tài chính cho nhu cầu chi tiêu can thiệp điều trị và giáo


21

dục (ví dụ, Sharpe và Baker, 2011; Vohra và cộng sự, 2014; Zablotsky và cộng sự, 2014;
Thomas và cộng sự, 2016).
Bảng 3.21. Tương quan giữa stress và thu nhập
Stress tổng hợp
Pearson Correlation
-0,166*
THU NHẬP Sig. (2-tailed)
0,038
N
157
Ghi chú: Một số cha mẹ bỏ trống thơng tin về thu nhập gia đình
3.4.2. Stress của cha mẹ và đặc điểm của con tự kỷ

Giới tính của con
So sánh cho thấy cha mẹ có con là bé gái thì có điểm stress cũng tương đương với cha mẹ
có con là con trai, ĐTB stress của cha mẹ bé trai = 2,54, còn của bé gái = 2,53 (p = 0,887 > 0,05)
Như thế, cha mẹ có con bị tự kỷ là trai hay gái thì khơng có sự khác biệt nào về mức độ stress .
Thứ tự sinh của con
Khơng có sự khác biệt đáng kể về mức độ thường xuyên bị stress giữa cha mẹ có con
RLPTK có thứ tự sinh như thế nào. Con bị tự kỷ dù là con 1, con cả hay con thứ, con út thì
khơng liên quan gì đến stress của cha mẹ (p = 0,918 > 0,05).
3.4.3. Mối tương quan của stress với thời gian phát hiện con có RLPTK
Kết quả cho thấy stress có tương quan nghịch với thời gian trải nghiệm cùng bệnh của
con với R = - 0,304, p < 0,01. Giả định rằng, lần đầu nhận kết quả đánh giá, cha mẹ nào
cũng bị sốc, bị stress, thì thời gian qua càng lâu thì stress càng giảm đi và ngược lại, càng
mới phát hiện con bị bệnh thì stress càng thường xuyên hơn.
Quan điểm cho rằng stress có tính thích nghi đã được đưa ra trong lý thuyết về
stress của Hans Selye (1936). Ông đã phát triển lý thuyết về Hội chứng thích ứng chung
(GAS - General Addatation Syndrom). Đây là mơ hình giải thích phản ứng sinh lý của cơ
thể đối với stress. Theo ông, những phản ứng stress này được chia thành ba giai đoạn là
báo động, kháng cự và kiệt sức. Trong giai đoạn báo động, cơ chế “chiến đấu hay là
khơng” được kích hoạt để chuẩn bị cho cơ thể các hoạt động thể chất, do đó cho phép nó
tự vệ trước một mối đe dọa tiềm tàng. Giai đoạn thứ hai được đặc trưng bởi mức độ
stress thấp hơn do sự phân bổ năng lượng của cơ thể vào các mơ bị tổn thương. Do đó,
phản ứng stress trong giai đoạn này được giảm thiểu. Cuối cùng, trong giai đoạn kiệt
sức, cơ thể khơng cịn có thể chiến đấu chống lại các tác nhân gây căng thẳng vì sự cạn
kiệt của các nguồn năng lượng. Do đó, nếu nguyên nhân gây căng thẳng không được giải
quyết ngay lập tức, vấn đề sức khỏe có thể xảy ra. Lý thuyết GAS của Selye đưa ra giải
thích sinh học về cách cơ thể phản ứng và thích nghi với sự hiện diện của các yếu tố gây
căng thẳng. Với cơ chế này, khi cá nhân càng thích nghi được với các tác nhân gây stress thì
stress càng giảm. Nghiên cứu này đã chỉ ra bằng chứng củng cố quan điểm đó, tuy nhiên, hệ
số tương quan <│0,3│ cho thấy đó là mối tương quan yếu. Như thế, có thể hiểu rằng, thời
gian trải nghiệm càng lâu với các biểu hiện bệnh của con thì stress càng giảm, có thể hiểu

rằng đó là bởi stress có tính thích nghi như lý thuyết stress đề xuất. Đồng thời, hệ số tương
quan yếu cho thấy để thích nghi được với stress, thì cịn nhiều yếu tố khác cả bên trong lẫn
bên ngoài tác động vào mà trong nghiên cứu này chưa thể tìm hiểu sâu.
3.4.4. Stress và sự ủng hộ của người thân về cách chăm sóc giáo dục con của cha mẹ
Người thân càng ủng hộ những cách thức chăm sóc và giáo dục con tự kỷ của cha mẹ thì
stress của cha mẹ càng giảm và ngược lại, người thân không ủng hộ stress càng thường xuyên (p =
0,00). Trong các nghiên cứu, hỗ trợ xã hội được cho là một cơ chế đối phó giúp giảm bớt stress cho
cha mẹ (Liwag, 1989; Foronda, 2000; Ting và Chuah, 2010; Callos, 2012; Moh và Magiati, 2012;
Yeo và Lu, 2012; Wahyuni, 2013; Foo và cộng sự, 2014; Ha và cộng sự, 2014; Xue và cộng sự,


22

2014; Roffeei và cộng sự, 2015; Santoso và cộng sự, 2015; Chong và Kua, 2016). Cụ thể, hỗ trợ xã
hội đã đạt được từ nhiều nguồn, trong đó bao gồm hỗ trợ trực tiếp từ gia đình, trường học, nhóm
cha mẹ có con RLPTK, chuyên gia hoặc thành viên gia đình mở rộng (ví dụ: Foronda, 2000; Xue
và cộng sự, 2014; Santoso và cộng sự, 2015; Chong và Kua, 2016)
Bảng 3.25. Tương quan giữa stress và sự ủng hộ của người thân
Stress tổng hợp
Pearson Correlation
-0,345**
0,000
Sự ủng hộ của ngƣời thân Sig. (2-tailed)
N
209
3.4.5. Mối liên quan giữa stress của cha mẹ với kiến thức và kỹ năng chăm sóc con tự kỷ
của họ
3.4.5.1. Mối liên quan giữa stress với kiến thức về rối loạn phổ tự kỷ
Kết quả nghiên cứu cho thấy, nhìn chung, cha mẹ khơng biết hoặc biết nhiều về phương
pháp điều trị bệnh tự kỷ thì khơng thường xun bị stress, cịn cha mẹ biết một ít và biết phần nào

thì bị stress ở mức cao hơn. Như thế, có thể nói, biết khơng đầy đủ làm bố mẹ thường xuyên bị
stress với mức độ cao hơn người không biết hoặc biết nhiều.
3.4.5.2. Mối liên quan giữa stress và kỹ năng luyện tập hành vi cho con của cha mẹ
Kỹ năng luyện tập hành vi cho con tự kỷ trong nghiên cứu này bao gồm 3 khía cạnh: trong
sinh hoạt thường ngày (gọi tắt là kỹ năng sinh hoạt), trong giao tiếp (gọi tắt là kỹ năng giao tiếp)
và trong điều chỉnh hành vi của con (gọi tắt là kỹ năng điều chỉnh). Kỹ năng tổng hợp là tổng hợp
tất cả các khía cạnh này. Mơ tả từng dấu hiệu kỹ năng thể hiện ở bảng dưới đây. Nhìn chung, kỹ
năng của cha mẹ ở mức tương đối thành thạo với điểm trung bình của đa số các item đều > 2,5 (là
mức điểm trung vị của thang đo). Kỹ năng đạt điểm cao nhất là “Dạy trẻ đưa đồ vật” và “Dạy trẻ
đi vệ sinh vào bô” với điểm trung bình = 2,97, cịn kỹ năng đạt điểm thấp nhất là “Dạy trẻ”.
Kết quả phân tích dữ liệu cho thấy, stress có tương quan thuận với kỹ năng luyện hành vi giao
tiếp cho con tự kỷ của cha mẹ với R = 0,174; p = 0,012 < 0,05. Có nghĩa là kỹ năng luyện tập cho
con càng thành thạo thì càng thường xuyên bị stress và ngược lại, kỹ năng càng khơng thành thạo
thì càng ít bị stress. Tuy nhiên, hệ số tương quan < 0,3 cho thấy đây là tương quan yếu.
Xem xét tương quan của stress với các phương diện khác nhau của kỹ năng cho thấy, stress
khơng có tương quan với kỹ năng luyện hành vi cho con trong sinh hoạt thường ngày và kỹ năng
quản lý hành vi của con (p > 0,05), mà chỉ có tương quan thuận, có ý nghĩa thống kê với kỹ năng
dạy con trong giao tiếp. Như thế, có thể thấy, mối quan hệ giữa stress của cha mẹ với kỹ năng luyện
tập hành vi cho con về thực chất là tương quan với kỹ năng dạy con trong giao tiếp.
3.5. Thực nghiệm tham vấn cá nhân cho một trƣờng hợp mẹ có biểu hiện stress
3.5.1. Mơ tả chung về ca
3.5.2. Mục tiêu, liệu pháp, tiến trình và kế hoạch tham vấn cá nhân cho chị S
Mục tiêu là giúp thân chủ nhận ra những suy nghĩ/niềm tin, cảm xúc và hành vi khơng
có lợi cho sức khoẻ; chủ động xác định và dần thay thế bằng những suy nghĩ/niềm tin, cảm
xúc và hành vi hợp lý và có lợi cho sức khoẻ.
3.5.3. Nội dung và kết quả 08 buổi tham vấn
Đợt tham vấn cho chị S kéo dài 8 buổi/2 tháng (mỗi tuần 1 buổi trong thời gian 60 phút),
sau đó duy trì các cuộc điện thoại ngắn nhằm đảm bảo chị S đã bình ổn về tâm trí và thể chất.
3.5.4. Một số kết luận khác rút ra từ ca tham vấn
- Những bằng chứng ủng hộ kết quả nghiên cứu định lượng: thang đo biểu hiện stress

do NCS tự xây dựng, thang đánh giá biểu hiện stress DASS.
- Những phát hiện mới từ tham vấn ca: tham vấn cho thấy chị S có tư duy nhanh, phù hợp với
quy trình 06 bước của liệu pháp. Chị S đã tự hiểu và xác định nhanh niềm tin, cảm xúc và hành vi
của bản thân, chủ động thay thế, điều chỉnh niền tin, cảm xúc và suy nghĩ của mình trong từng tình


23

huống cụ thể theo mô thức A-B-C-D-E-F của liệu pháp REBT trong suốt 2 tháng tham vấn cá nhân
(tuần 1 buổi).
- Nghiên cứu cho thấy rằng niền tin, suy nghĩ, cảm xúc, hành vi hợp lý, lạc quan của cha mẹ
có mối tương quan thuận với kết quả tích cực của trẻ RLPTK (Bailey, 2008; Durand, 2014). Khi
chị S biết cách giải tỏa stress theo hướng tích cực tạo ra khơng khí hịa thuận, vui vẻ và kéo theo sự
tham gia của chồng chị và các thành viên khác trong gia đình trong việc hỗ trợ con thì con có biểu
hiện tiến bộ rõ rệt. Gia đình chị S là gia đình cơng nhân viên chức, các thành viên trong gia đình đều
có trình độ đại học trở lên, có quan hệ xã hội lành mạnh, sống ở khu tập thể dân trí cao.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Về lý luận
1.1. Rối loạn phổ tự kỷ là một dạng khuyết tật phát triển được đặc trưng bởi ba khiếm
khuyết chính về giao tiếp, tương tác xã hội và có hành vi, sở thích, họat động mang tính hạn
hẹp, lặp đi lặp lại. RLPTK được chẩn đoán theo các tiêu chí: (1) Khiếm khuyết trầm trọng
về giao tiếp xã hội và tương tác xã hội trong nhiều hoàn cảnh, biểu hiện ở hiện tại hay đã có
tiền sử. (2) Sự giới hạn, rập khn về hành vi, sở thích và hoạt động, thể hiện tối thiểu ở hai
biểu hiện, biểu hiện ở hiện tại hay đã có tiền sử. (3) Những dấu hiệu trên phải được biểu
hiện từ khi còn nhỏ. (4) Những dấu hiệu trên phải làm suy giảm chức năng xã hội, nghề
nghiệp hoặc các lĩnh vực chức năng quan trọng khác. (5) Những rối loạn trên không được
giải thích bởi khuyết tật trí tuệ hoặc trì hỗn phát triển thơng thường.
1.2. Stress có hại ở cha mẹ trẻ RLPTK là những phản ứng của cha mẹ trước các vấn đề
nảy sinh từ RLPTK của con, những phản ứng này có tính chất đe dọa về thể chất hoặc/và

tinh thần vượt quá khả năng ứng phó của họ, được biểu hiện ở các mặt thực thể, nhận thức,
cảm xúc và hành vi.
1.3. Stress của cha mẹ trẻ RLPTK được biểu hiện ở thực thể, nhận thức, cảm xúc, hành
vi và có liên quan tới các yếu tố chủ quan (niềm tin, ý chí, kiến thức, kỹ năng ni dạy trẻ tự
kỷ), khách quan (truyền thông đại chúng, định kiến của cộng đồng, sự hỗ trợ của gia đình)
của cha mẹ trẻ RLPTK.
Về thực tiễn
1.4. Về stress của cha mẹ có con mắc RLPTK
- Về tổng thể, hầu hết cha mẹ trong nhóm mẫu nghiên cứu khi phát hiện con có
RLPTK đều rơi vào trạng thái stress có hại; trong đó tỷ lệ cha mẹ có Stress ở mức khá
thường xuyên trở lên chiếm tỷ lệ cao, tỷ lệ khơng có stress hoặc stress ở mức thấp là rất nhỏ.
- Stress biểu hiện trên tất cả các mặt thực thể, cảm xúc, nhận thức, hành vi, và các mặt
này có tương quan chặt chẽ với nhau. Các biểu hiện stress có tính hội tụ cao. Vì thế dùng
chỉ số stress tổng hợp là đủ để hiển thị mức độ stress của cha mẹ có con mắc RLPTK.
- Những biểu hiệu stress phổ biến gồm (1) về thực thể thường là: hay quên, mệt mỏi,
đau đầu, đau nửa đầu, giảm hứng thú tình dục, ăn khơng ngon; (2) về nhận thức thường là:
suy nghĩ quẩn quanh, nhiều suy nghĩ lo âu, tự lý giải, mặc cả với chính mình, hay nghĩ về
những buồn phiền, khơng muốn nghĩ về tình trạng của con; (3) về cảm xúc thường là: sốc,
buồn và chán nản, thấy có lỗi, cáu kỉnh và nổi nóng; (4) về hành vi thường là: khó quyết
định, khơng thể tập trung, không thể kiên nhẫn, làm việc kém, phản ứng thái quá. Các kết
quả phỏng vấn cũng tương đồng với kết quả về mặt định lượng đối với những dấu hiệu xuất
hiện phổ biến này.
1.5. Tác nhân chính gây stress cho bố mẹ là các vấn đề của trẻ tự kỷ.
- Kết quả cho thấy có mối tương quan thuận ở mức cao giữa các vấn đề của trẻ tự kỷ
(giao tiếp, hành vi, tương tác xã hội) với stress ở cha mẹ.


×