Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (338 KB, 19 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
hay <b>giáo lý của Phật-đà</b> (śāsana), là một trong những tôn giáo lớn trên thế giới (các tôn giáo lớn
khác là Do Thái giáo, Ki-tô giáo và Hồi giáo, và Ấn Độ giáo). Phật giáo được một nhân vật lịch sử
là Tất-đạt-đa Cồ-đàm (zh. 悉達多瞿曇, sa. siddhārtha gautama, pi. siddhattha gotama) sáng lập
khoảng thế kỉ thứ 5 trước Công nguyên, và <b>Phật-đà</b> hay <b>Bụt-đà</b> (sa., pi. buddha), người Việt gọi
đơn giản là Phật, có nghĩa là "người tỉnh thức", "người giác ngộ", danh hiệu mà Ngài có được sau
khi thành đạo, giác ngộ. Giáo lý mà Ngài dạy và để lại được gọi là Phật pháp (zh. 法, sa. dharma,
pi. dhamma). Ở một số ngơn ngữ, <b>Phật giáo</b> có nghĩa như "nguyên lí của vạn vật".
Cờ Phật giáo
1 Giáo lý cơ bản
2 Lịch trình tu học
3 Phát triển và phổ biến
4 Phật giáo Việt Nam
o 4.1 Bắc tông
4.1.1 Thiền tông
4.1.2 Tịnh độ tông
o 4.2 Nam tông
5 Phật giáo tại Miến Điện (Myanma)
6 Phật giáo tại Tích Lan (Sri Lanka)
7 Phật giáo tại Indonesia
8 Phật giáo tại Campuchia
9 Phật giáo tại Thái Lan
10 Phật giáo tại Hàn Quốc
11 Phật giáo tại Mông Cổ
15 Xem thêm
16 Đọc thêm
Cơ sở tư tưởng của Phật pháp là Tứ diệu đế, là cốt lõi giáo pháp của đạo Phật, và cũng là điều mà
Phật đã chứng ngộ lúc đạt đạo. Bốn chân lý này chính là câu trả lời cho câu hỏi của thời đại đó, là:
Tại sao con người cứ bị trói buộc trong luân hồi (zh. 輪回, sa., pi. saṃ<i>sāra) và liệu con người có cơ</i>
hội thốt khỏi nó hay không.
Tứ diệu đế là:
1. <b>Khổ đế</b> (zh. 苦諦, sa. duḥ<i>khāryasatya, bo. sdug bsngal bden pa </i>སག་བསལ་བདན་པ་), chân lý về sự
Khổ: Chân lí thứ nhất cho rằng mọi dạng tồn tại đều mang tính chất khổ não, khơng trọn
vẹn. Sinh, lão, bệnh, tử, xa lìa người mình yêu quý, ở gần người mình ghét bỏ, khơng đạt sở
nguyện, là 8 điều khổ. Sâu xa hơn, bản chất của năm nhóm thân tâm, Ngũ uẩn (zh. 五蘊, sa.
<i>pcaskandha, pi. pañcakhandha), là các điều kiện tạo nên cái ta, đều là khổ.</i>
2. <b>Tập đế</b> (zh. 集諦, sa. samudayāryasatya, bo. kun `byung bden pa ཀན་འབང་བདན་པ་), chân lí về sự
phát sinh của khổ: Nguyên nhân của khổ là sự ham muốn, Ái (愛, sa. tṛṣṇ<i>ā, pi. ta</i>ṇ<i>hā), tìm </i>
sự thoả mãn dục vọng, thoả mãn được trở thành, thoả mãn được hoại diệt. Các loại ham
muốn này là gốc của Luân hồi (zh. 輪迴; sa., pi. saṃ<i>sāra).</i>
3. <b>Diệt đế</b> (zh. 滅諦, sa. duḥ<i>khanirodhāryasatya, bo. `gog pa`i bden pa </i>འགག་པའ་བདན་པ་), chân lí
về diệt khổ: Một khi gốc của mọi tham ái được tận diệt thì sự khổ cũng được tận diệt.
4. <b>Đạo đế</b> (zh. 道諦, sa. duḥ<i>khanirodhagāminī pratipad, mārgāryasatya, bo. lam gyi bden pa </i>
ལམ་གི་བདན་པ་), chân lí về con đường dẫn đến diệt khổ: Phương pháp để đạt sự diệt khổ là con
đường diệt khổ tám nhánh, Bát chính đạo. Không thấu hiểu Tứ diệu đế được gọi là Vô minh
(zh. 無明, sa. avidyā, pi. avijjā).
Phật xác nhận ba đặc tướng của cuộc đời là vô thường (zh. 無常, sa. anitya, pi. anicca), vô ngã (zh.
無我, sa. anātman, pi. anattā) và vì vậy mà con người phải chịu khổ (zh. 苦, sa. duḥ<i>kha, pi. </i>
<i>dukkha). Nhận thức ba dấu ấn (zh. 三相, sa. trilak</i>ṣ<i>a</i>ṇ<i>a, pi. tilakkha</i>ṇ<i>a) đặc trưng này của sự vật </i>
đồng nghĩa bước đầu đi vào đạo Phật.
Pháp luân-tượng trưng cho giáo pháp của Đức Phật, gồm Tứ diệu đế, Bát chính đạo, Trung đạo
Bát chính đạo bao gồm:
1. <b>Chính kiến</b> (zh. 正見, pi. sammā-diṭṭ<i>hi, sa. samyag-d</i>ṛṣṭ<i>i, bo. yang dag pa`i lta ba </i>ཡང་དག་པའ་
ལ་བ་): Gìn giữ một quan niệm xác đáng về Tứ diệu đế và giáo lí vơ ngã.
2. <b>Chính tư duy</b> (zh. 正思唯, pi. sammā-saṅ<i>kappa, sa. samyak-sa</i>ṃ<i>kalpa, bo. yang dag pa`i </i>
<i>rtog pa </i>ཡང་དག་པའ་རག་པ་): Suy nghĩ hay có một mục đích đúng đắn, suy xét về ý nghĩa của bốn
chân lí một cách khơng sai lầm.
3. <b>Chính ngữ</b> (zh. 正語, pi. sammā-vācā, sa. samyag-vāk, bo. yang dag pa`i ngag <sub>ཡང་དག་པའ་ངག་</sub>):
Không nói dối hay khơng nói phù phiếm.
4. <b>Chính nghiệp</b> (zh. 正業, pi. sammā-kammanta, sa. samyak-karmānta, bo. yang dag pa`i las
<i>kyi mtha` </i>ཡང་དག་པའ་ལས་ཀ་མཐའ་): Tránh phạm giới luật.
5. <b>Chính mệnh</b> (zh. 正命, pi. sammā-ājīva, sa. samyag-ājīva, bo. yang dag pa`i `tsho ba ཡང་དག་
པའ་འཚ་བ་): Tránh các nghề nghiệp liên quan đến sát sinh (giết hại sinh vật) như đồ tể, thợ săn,
buôn vũ khí, bn thuốc phiện.
6. <b>Chính tinh tiến</b> (zh. 正精進, pi. sammā-vāyāma, sa. samyag-vyāyāma, bo. yang dag pa`i
<i>rtsal ba </i>ཡང་དག་པའ་རལ་བ་): Phát triển nghiệp tốt, diệt trừ nghiệp xấu.
7. <b>Chính niệm</b> (zh. 正念, pi. sammā-sati, sa. samyag-smṛ<i>ti, bo. yang dag pa`i dran pa </i>ཡང་དག་
པའ་དན་པ་): Tỉnh giác trên ba phương diện Thân, Khẩu, Ý;
8. <b>Chính định</b> (zh. 正定, pi. sammā-samādhi, sa. samyak-samādhi, bo. yang dag pa`i ting nge
<i>`dzin </i><sub>ཡང་དག་པའ་ཏང་ང་འཛན་</sub>): Tập trung tâm ý đạt bốn định xuất thế gian (sa. arūpa-samādhi).
Con đường tám nhánh này có thể được phân thành ba loại, gọi là Tam học, tức là tu học Giới (zh.
戒, sa. śīla, pi. sīla), Định (定, sa. samādhi, dhyāna, pi. samādhi, jhāna) và Huệ (zh. 慧, sa. prajñā,
pi. paññā). Những tư tưởng cơ bản của Phật-đà đều được nhắc lại trong các kinh sách, nhưng có khi
chúng được luận giải nhiều cách khác nhau và vì vậy ngày nay có nhiều trường phái khác nhau,
hình thành một hệ thống triết lí hết sức phức tạp.
1. <b>Kinh tạng (zh. </b>經藏, sa. sūtra-piṭ<i>aka, pi. sutta-pi</i>ṭ<i>aka, bo. mdo sde`i sde snod </i>མད་སའ་ས་སད་)
bao gồm các bài giảng của chính đức Phật hoặc các đại đệ tử. Kinh tạng tiêu biểu văn hệ
Pali được chia làm năm bộ: 1. Trường bộ kinh (pi. dīgha-nikāya), 2. Trung bộ kinh (pi.
<i>majjhima-nikāya), 3. Tương ưng bộ kinh (pi. sa</i>ṃ<i>yutta-nikāya), 4. Tăng chi bộ kinh (pi. </i>
<i>a</i>ṅ<i>guttara-nikāya) và 5. Tiểu bộ kinh (pi. khuddaka-nikāya).</i>
2. <b>Luật tạng (zh. 律藏; sa., pi. vinaya-pi</b>ṭ<i>aka, bo. `dul ba`i sde snod </i>འདལ་བའ་ས་སད་), chứa đựng
lịch sử phát triển của Tăng-già (sa., pi. saṅ<i>gha) cũng như các giới luật của người xuất gia, </i>
được xem là tạng sách cổ nhất, ra đời chỉ vài mươi năm sau khi Phật nhập Niết-bàn.
3. <b>Luận tạng (zh. </b>論藏, sa. abhidharma-piṭ<i>aka, pi. abhidhamma-pi</i>ṭ<i>aka, bo. mngon pa`i sde </i>
<i>snod </i>མངན་པའ་ས་སད་)—cũng được gọi là A-tì-đạt-ma—chứa đựng các quan niệm đạo Phật về
triết học và tâm lí học. Luận tạng được hình thành tương đối trễ, có lẽ là sau khi các trường
phái đạo Phật tách nhau mà vì vậy, nó khơng cịn giữ tính chất thống nhất.
Tăng-già (zh. 僧伽; s, pi. saṅ<i>gha) của đạo Phật gồm có Tỳ Kheo (zh. </i>比丘, sa. bhikṣ<i>u, pi. bhikkhu),</i>
Tỳ Kheo Ni (zh. 比丘尼, sa. bhikṣ<i>u</i>ṇ<i>ī, pi. bhikkhunī) và giới Cư sĩ.</i>
Theo giáo lí ngun thủy thì một hành giả đạt Bồ-đề, Giác ngộ khi người đó đạt được một cái nhìn
<i>vạn vật như chúng đích thật là (Như thật tri kiến sa. yathābhūtadarśana), với một tâm thức thoát </i>
khỏi phiền não (sa. kleśa) và si mê (sa. moha). Trong các loại phiền não thì tham ái (sa. tṛṣṇ<i>ā) và vô</i>
minh (sa. avidyā), cũng được gọi là si (sa. moha), là những loại nặng nhất. Tham (sa. rāga), sân (sa.
<i>dve</i>ṣ<i>a) và si được gọi chung là ba chất độc (Tam độc), vì chúng gây ảnh hưởng lớn đến tâm thức. </i>
Vì phiền não vây phủ tâm thức nên hành giả gắng sức tiêu diệt chúng, và để tiêu diệt được thì người
đó phải gắng sức đạt được tri kiến chân chính bằng cách thực hành Bát chính đạo.
Cách thực hành trong Phật giáo cũng được phân chia theo Tam học (sa. tisraḥ<i> śik</i>ṣ<i>ā</i>ḥ), cụ thể là tu
học về giới (tăng thượng giới học, sa. adhiśīlaśikṣ<i>ā), định (tăng thượng định học, sa. adhicittaśik</i>ṣ<i>ā)</i>
và huệ (tăng thượng huệ học, sa. adhiprajđāśikṣ<i>ā). Trước hết hành giả phát lịng tin (tín, sa. </i>
<i>śraddhā) vào Tam bảo, giữ giới luật đúng theo địa vị của mình (cư sĩ, sa-di hoặc tỉ-khâu). Qua đó </i>
mà ơng ta chuẩn bị cho cấp tu học kế đến là Thiền định. Cấp này bao gồm bốn trạng thái thiền (tứ
thiền, sa. caturdhyāna). Một số cách thực hành được nhắc đến nhằm hỗ trợ bốn cấp thiền định trên,
đó là Tứ niệm xứ (sa. catvāri smṛ<i>tyupasthānāni), Tứ vô lượng tâm, tức là trau dồi bốn tâm thức Từ, </i>
Bi, Hỉ và Xả (sa. catvāry apramāṇ<i>āni, cũng được gọi là Tứ Phạm trú, sa. brahmavihāra). Cách </i>
thiền định ở cấp này được phân làm hai loại: 1. Chỉ (sa. śamatha) là phương pháp lắng đọng tâm, và
2. Quán (sa. vipaśyanā, vidarśanā) là cách Thiền quán lập cơ sở trên Chỉ, tức là có đạt định an chỉ
xong mới có thể thành tựu cơng phu Quán. Phần thứ ba của Tam học là huệ học, lập cơ sở trên
Thiền quán. Đối tượng quán chiếu trong thiền định ở đây có thể là Tứ diệu đế, nguyên lí Duyên
khởi (sa. pratītyasamutpāda) hoặc Ngũ uẩn. Ai hoàn tất Tam học này sẽ đạt được sự hiểu biết về
giải thốt (sa. vimuktijđāna), biết là mình đã đạt giải thốt. Phiền não của hành giả này đã được tận
diệt, các lậu hoặc đã chấm dứt (vô lậu, sa. anāsrava) và hành giả ấy đạt Tứ thánh quả A-la-hán.
Song song với cách tu hành theo Tam học trên ta cũng tìm thấy phương cách theo 37 Bồ-đề phần
Tỉ lệ Phật tử đã quy y tam bảo theo quốc gia (số liệu thống kê thấp nhất)
Sự phát triển của đạo Phật có thể được chia làm bốn giai đoạn:
1. Giữa thế kỉ thứ 6 đến giữa thế kỉ thứ 5 trước CN: Giai đoạn nguyên thủy, do đức Phật giáo
hóa và các đệ tử của Phật truyền bá.
2. Kể từ thế kỉ thứ 4 trước Công nguyên: Giai đoạn bắt đầu phân hóa ra nhiều trường phái qua
các lần kết tập (zh. 結集, sa., pi. saṃ<i>gīti) về giáo pháp.</i>
3. Kể từ thế kỉ thứ 1: Xuất hiện giáo phái Đại thừa (大乘, sa. mahāyāna) với hai tông phái
quan trọng là Trung quán tông (zh. 中觀宗, sa. mādhyamika) và Duy thức tơng (zh. 唯識宗,
sa. vijđānavādin, yogācārin).
4. Kể từ thế kỉ thứ 7: Sự xuất hiện của Mật tông Phật giáo (Phật giáo Tây Tạng, Kim cương
thừa).
<i>Xem thêm: Cuộc chinh phạt của Hồi giáo vào Ấn Độ</i>
Sau thế kỉ thứ 13, Phật giáo được xem là bị tiêu diệt tại Ấn Độ, nơi sản sinh đạo Phật. Tuy nhiên
một số giáo lý của Phật giáo đã được Hindu giáo tiếp nhận (tiêu biểu như việc coi Đức Phật là hóa
thân thứu 8 của thần Bhrama-vị thần tối cao của Hindu giáo).
Từ thế kỉ thứ 13, đạo Phật được truyền đi các nước khác ngoài Ấn Độ và mang nặng bản sắc của
các nước đó. Ngày nay, phái Tiểu thừa (zh. 小乘, sa. hīnayāna) với quan điểm của Thượng tọa bộ
(zh. 上座部, sa. sthaviravādin, pi. theravādin) được truyền bá rộng rãi tại Sri Lanka, Nepal, Bhutan,
Thái Lan, Miến Điện, Campuchia, Lào. Đại thừa được truyền tại Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam,
Hàn Quốc, Triều Tiên, Singapore. Giáo pháp Kim cương thừa - cũng được xếp vào Đại thừa - phát
người theo đạo Phật "tự nhiên" (không làm lễ quy y nhưng trong nhà vẫn thờ Phật, Bồ Tát... kết hợp
thờ chung với thần thánh của các tín ngưỡng truyền thống khác như thờ Thần Tài-Ông Địa, Thiên
Hậu, Ngọc Hoàng Thượng đế, ... hay chỉ đơn thuần là thờ cúng tổ tiên nhưng khi làm tang lễ, đám
giỗ, lễ cầu siêu, v.v... dựa vào Phật Giáo) thì con số có thể lcịn cao hơn nhiều, đặc biệt là tại các
nước Đông Á và chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa khi mà Phật Giáo bị "địa phương hóa". (Xem
Dân số Phật Giáo để biết thêm chi tiết.)
Thiền tơng (cịn được biết là Zen hay Ch'an) là một tông phái Phật giáo do nhà sư Ấn Độ Bồ Đề Đạt
Ma (Boddidharma) sáng lập ra ở Trung Quốc vào đầu thế kỷ thứ 6. "Thiền" là cách gọi tắt của
"Thiền na" (Dhyana), có nghĩa là "Tĩnh tâm", chủ trương tập trung trí tuệ để quán định (thiền) nhằm
đạt đến chân lý giác ngộ của đạo Phật. Theo Thiền tơng, "thiền" khơng phải là "suy nghĩ" vì suy
nghĩ là "tâm vọng tưởng", làm phân tâm và mầm mống của sanh tử luân hồi[5]. Cách tu theo Thiền
tơng địi hỏi phải tập trung tồn bộ cơng sức và thời gian cộng với phải có khả năng đốn ngộ. Yêu
cầu đó chỉ có những kẻ căn cơ cao mới có được nên người tu thiền thì nhiều nhưng người chứng
ngộ quả thật rất là hiếm hoi[6]. Tuy nhiên lịch sử Thiền tông ở Việt Nam cũng có một lịch sử rõ
ràng hơn cả. Dịng thiền tu thứ nhất trong lịch sử Phật giáo Việt Nam do nhà sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi
(Vinitaruci) lập ra. Ông là người Ấn Độ, qua Trung Quốc rồi đến Việt Nam vào năm 580, tu tại
chùa Pháp Vân (hay chùa Dâu), thuộc huyện Thuận Thành tỉnh Bắc Ninh và truyền cho tổ thứ hai là
Pháp Hiền. Dòng thiền này truyền được đến 19 thế hệ[7]. Dòng thiền tu thứ hai do Vô Ngôn Thông,
người Trung Quốc lập ra vào năm 820, tu tại chùa Kiến Sơ, thuộc xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm, Hà
Nội. Dòng thiền này truyền được đến 17 đời[7]. Dòng thiền thứ ba do Thảo Đường, người Trung
Quốc, vốn là tù binh bị bắt tại Chiêm Thành và được vua Lý Thánh Tông giải phóng khỏi kiếp nơ lệ
và cho mở đạo tại chùa Khai Quốc vào năm 1069. Dòng thiền này truyền được đến 6 đời[7]. Năm
1299, vua Trần Nhân Tông, dưới sự hướng dẫn của thiền sư Tuệ Trung Thượng Sỹ, xuất gia và lên
<b>[sửa] Tịnh độ tông</b>
Tịnh độ tông là một tông phái Phật giáo, chủ trương tu dựa trên tha lực của Phật A Di Đà [9] là chủ
yếu, tuy nhiên vẫn có tự lực. Phật Thích Ca Mầu Ni có lần thuyết giảng: "Một viên đá dù nhỏ đến
mấy mà ném xuống nước thì nó cũng chìm, nhưng nếu một hòn đá dù to đến mấy mà đặt trên bè thì
nó cũng nổi". Có một cõi cách biệt với lục độ, gọi là Thế giới Cực Lạc - Nơi khơng có sự ln hồi,
do đức Phật A Di Đà (tiếng Phạn: Amitabha) tạo nên. Nơi đây hoa báu rất nhiều, rất trang nghiệm,
thanh tịnh, nhiều vị đại bồ tát nhứ Quán Thế Âm, Đại Thế Chí Bồ Tát ... và bạn đồng tu => Môi
trường rất tốt để tu chóng đạt vị quả. Việc tu hành như viếng chùa, làm việc thiện để tích cơng
phước đức, tụng danh Phật A Di Đà đến khi "Nhất tâm bất loạn", đọc các chú như Chú Đại Bi.... Do
đây là thời mạt pháp, yêu quỷ hoành hành, chúng sanh căn cơ thấp kém nên việc tu Tịnh Độ là điều
tối cần thiết và đúng đắn. Vì vậy Tịnh Độ tông là tông phái phổ biến khắp cõi Việt Nam. Đi đến đâu
ta cũng gặp người dân tụng niệm câu "Nam mơ A Di Đà Phật" (có nghĩa là "Nguyện quy y đức Phật
A Di Đà"). Tượng Phật A Di Đà là tượng có mặt ở khắp mọi nơi và có mặt từ rất lâu đời.
chống nội loạn và dùng nhiều biện pháp ngoại giao kể cả chiến tranh nên vùng đất Chân Lạp bị mất
ảnh hưởng và thuộc sự quản lý của vua Việt Nam vào năm Đinh sửu (1759).
3.Từ khi lập quốc đến thế kỷ thứ 6 sau Công nguyên do các vua chúa Phù Nam cai trị. Từ thế kỷ
thứ 6 đến năm 1759 là các triều đại của vua Chân Lạp. Năm Đinh mão (1867) Pháp chiếm miền
Nam làm thuộc địa, để phân định hai quốc gia với lối cai trị khác nhau vị toàn quyền Pháp và quốc
vương Campuchia ấn định lằn ranh giữa hai nước đồng ký vào bản nghị định ngày 9-7- 1870, do
vậy Miền nam có mặt trên bản đồ thế giới dưới tên gọi do thực dân Pháp đặt ra Cochinchinne, gọi là
Nam Kỳ.
4.Năm 1945, chế độ thực dân Pháp sụp đổ, Việt Nam Cộng Hòa ra đời danh từ Nam Kỳ đổi thành
Miền Nam Việt Nam. Ngày 30 tháng 4 năm 1975, chế độ Việt Nam Cộng Hịa khơng cịn nữa, đất
nước chúng ta thống nhất từ Ải Nam Quan đến mũi Cà Mau. Người Việt gốc Khmer sống trong
lãnh thổ Việt Nam cũng được hưởng quyền tự do bình đẳng như người Việt Nam.
5.Ngày nay, những nhà khảo cổ đã phát hiện những cổ vật, tháp, tượng Phật, thần ở Long An, Kiên
Giang, Đồng Tháp Mười v.v... có niên đại 530, 400, 300 năm trước cơng ngun. Điều đó cho
chúng ta thấy rằng những địa điểm trên đã có một nền văn hóa thật sự văn minh và phát triển tại
đây. Sau này nền văn minh đó dù khơng cịn được phát triển nơi chính quốc Campuchia nhưng vẫn
bén rễ sâu trên vùng đất đồng bằng sông Mêkong.
6.Đồng thời trong Mahàvamsa, lịch sử truyền bá của Phật giáo thì có nhắc đến phái đoàn truyền
giáo sang xứ Suvannabhùmi của vua Ashoka vào thế kỷ thứ 3 trước công nguyên do hai vị A La
Hán Sona và Uttara lãnh đạo. Các nhà sử học thật khó khăn để thẩm định ranh giới của địa danh
Suvannabhùmi này ở đâu? Nhưng đa số cho rằng cả vùng Đông Nam Á. Cụ thể hơn ông Aymonier
cho rằng Phù Nam là Miền Nam Việt Nam hiện nay.
7.Chính vì thế những quốc gia như Thái Lan, Miến Điện, Lào, Camphuchia và Việt Nam, lịch sử
Phật giáo những quốc gia này đều có ghi nhận là vào thế kỷ thứ III truớc cơng ngun phái đồn
vua Asoka có truyền đạo đến đất nước của Mình. Từ đó chúng ta có thể đưa ra những kết quả niên
đại Phật giáo du nhập vào Miền Nam Việt Nam.
8.Nếu địa danh Suvannabhùmi là tiền thân của đế quốc Phù Nam thì Phật giáo Ngun Thủy Nam
9.Theo Phật giáo Việt Nam của Thích Đức Nghiệp có ghi lại trong Gia phả Họ Hồng, hiện nay
Ơng Hịang Gia Mỹ có giữ bài thơ Tháp Sơn Hòai Cổ. Nội dung bài thơ đề cập xuất xứ hai bảo
tháp, một tháp vua Asoka, hai tháp vua Lý Thánh Tông.
10.Vương quốc Phù Nam xuất hiện vào thời nhà Chu ở Trung Hoa vào thế kỷ 12 trước Cơng
ngun, vì có thuyết cho rằng xứ giả Phù Nam có gởi phái đồn sang Trung Hoa. Nhưng thuyết này
không được các sử gia thừa nhận, vì khơng có bằng chứng cụ thể.
12.Nhưng đến đời vua Kaundinya Jayavarman, ông (lên ngôi năm nào không rõ nhưng băng hà
514) gởi thiền sư Nagasena sang Trung Hoa cầu quân tiếp viện dể chống lại quân Chiêm Thành
(Lâm Ấp), bị vua tàu từ chối.
13.Theo lá Sớ nhà vua trình lên Triều Ðình Bắc Kinh thì Phật giáo Ngun Thủy- Nam tơng rất
thạnh hành ở Phù Nam. Đồng thời vua có gởi hai thiền sư tên Mandrasena và Sanghapala đến Trung
Hoa dịch kinh Phật bằng Phạn ngữ.
14.Căn cứ nguồn sử liệu đó, chúng ta tin chắc rằng Phật giáo Nguyên thủy Nam tông (hay tên gọi
chính thức là Phật giáo Therevada) đã có mặt ở Miền Nam Việt Nam chúng ta dưới triều vua đó.
Tên ba vị thiền sư trên, chúng ta nhận thấy là tiếng Pàli.
15.Truyền thống Phật giáo nguyên thủy tên chư Tăng thường sử dụng tiếng Pàli. Tóm lại, nói một
cách nghiêm túc, thời kỳ vương quốc Phù Nam dưới triều vua Kaundinya Jayavarman Phật giáo
Nguyên thủy- Nam tông rất thịnh hành.
16.Từ thế kỷ thứ 6 đến năm 1759 vương quốc Phù Nam do vua Chân Lạp cai trị. Theo lịch sử
Camphuchia vào thế kỷ thứ 8 phân chia quốc gia thành hai: Thủy Chân Lạp và Lục Chân Lạp, Thủy
Chân Lạp thuộc hướng nam là đồng bằng sông Mêkong tức ở vùng miền Nam Việt Nam hiện nay,
Lục Chân Lạp hướng bắc tức Campuchia.
17.Dân số người Việt gốc Khmer ở đây quá ít, đồng hoang cỏ dại. Theo thống kê của người Pháp
năm 1862 thì tổng số người Khmer 146.718 người, so với người Việt 1.732.316 người.
18.Trong 11 thế kỷ cai trị Phù Nam vua Thủy Chân Lạp khơng có kế họach gì để phát triển vùng
đất này, ngọai trừ xây ngôi bảo tháp ở Đồng Tháp Mười. Điều cho thấy rằng Phật giáo thời đó vẫn
có vị trí mạnh mẽ trong xã hội. Đất hoang, người dân ít mà xây dựng bảo tháp tơn giáo là một điều
hiếm có. Thực ra Phật giáo nguyên thủy thời kỳ Phù Nam và thời kỳ Thủy Chân Lạp khơng có gì
khác biệt, vì Phật giáo Nguyên thủy chư tăng hành trì giáo pháp thống nhất nhau.
19.Những ngôi chùa Phật giáo Nam Tơng Khmer ở Miền nam Việt Nam có niên đại nhiều thế kỷ
qua và tồn tại đến hôm nay. Cụ thể là chùa Samrông Ek ở tỉnh Trà Vinh xây dựng vào năm 1642
(Phật lịch 1185), chùa Sanghamangala xây dựng hơn 600 năm. Điều đó chứng tỏ người Khmer đã
đến đồng bằng sông Cửu Long định cư từ rất sớm trước khi người Kinh tràn xuống phía dưới và cai
trị vùng đất này.
Hôm nay chúng tôi được duyên lành về đây, trước hết thăm chư Tăng trong mùa an cư, sau
có vài lời muốn nói cùng chư Tăng Ni. Chúng tôi thường tự tuyên bố rằng tôi là kẻ nợ của Tăng Ni,
nên trọn đời lúc nào tơi cũng canh cánh trong lịng nghĩ đến người tu xuất gia, muốn làm sao tạo
duyên tốt cho tất cả Tăng Ni trên đường tu, mỗi ngày một tiến lên và tiến đúng đường lối của Phật
đã dạy.
Tăng Ni chúng ta là người hi sinh cả một cuộc đời để tu. Nếu một đời tu khơng được kết quả
gì thì thật uổng một kiếp hi sinh. Với Phật tử cư sĩ chúng tơi cũng lo nhưng ít hơn, q vị tu bao
nhiêu tốt bấy nhiêu, có mất việc đạo thì cịn lợi ích việc đời chớ khơng như Tăng Ni. Tăng Ni là
người hi sinh trọn vẹn đời mình cho sự tu hành để đi tới chỗ an vui giải thốt và sau đó dìu dắt
Hơm nay tơi nói chuyện với q vị một đề tài: “Chúng ta tu theo đạo Phật không khéo bị
quên mất gốc.” Tại sao chúng tôi lại đưa ra đề tài này? Bởi vì là người xuất gia, bắt buộc chúng ta
phải phăng tìm nguồn gốc của đạo Phật, lấy đó làm nền tảng vững chắc cho đời tu, ln ln nương
tựa vào đó, chớ khơng thể nào qn hay đi sai lệch được. Do đó chúng ta phải quay về tận nguồn
gốc của đạo Phật, xem ai là người khai sáng đạo Phật và Ngài đã tu hành truyền bá như thế nào, mà
Phật giáo còn mãi đến ngày nay? Chúng ta là hàng hậu học kế thừa nối tiếp, phải làm những gì
xứng đáng là đệ tử của Phật. Đó là mục tiêu tơi nhắm đến.
Nói đến nguồn gốc của đạo Phật thì chắc rằng tất cả Tăng Ni đều biết đức Phật là một Thái
tử ở Ấn Độ xuất gia đi tu, bỏ cả sự nghiệp thế gian để tìm đạo giải thốt. Khi đã đạt được đạo quả
rồi Ngài truyền giáo cho đến tận ngày nay gần như cả thế giới đều biết. Như vậy lịch sử đức Phật ai
ai cũng thuộc nhưng ở đây tôi muốn đặt lại câu hỏi: Tất cả chúng ta nhớ lại xem vì sao đức Phật đi
tu? Đó là điều mà chúng ta phải phăng tìm tận cội rễ, tột căn nguyên. Chúng ta nương theo đó mà
có một lối đi, một con đường tiến lên tu tới chỗ cứu kính.
Dĩ nhiên tất cả chúng ta khơng ai phủ nhận đức Phật đi xuất gia là vì chứng kiến được cảnh
sanh, già, bệnh, chết. Lý do này hết sức quan trọng đối với đạo Phật. Tôi nhớ trong sử có kể đức
Phật một lần thấy người già Ngài liền thức tỉnh. Người này già rồi mai kia ta cũng già. Thấy người
bệnh, người chết, Ngài biết rằng rồi ta cũng phải bệnh, phải chết. Vì vậy nên Ngài mới băn khoăn,
thao thức không yên được.
Người mê thấy cảnh già, bệnh, chết tưởng chừng đó là chuyện của ai chớ khơng phải là
chuyện của mình. Tất cả q Tăng Ni, Phật tử đã từng chứng kiến cảnh già, bệnh, chết hay chưa?
Chắc chứng kiến nhiều lắm. Nhưng chứng kiến mà q vị có tỉnh khơng? Hay là người kia già,
người kia bệnh, người kia chết khơng có gì quan trọng đối với chúng ta. Đây là quan niệm hời hợt
cho nên đức Phật bảo chúng sanh si mê.
Đức Phật thấy người già, người bệnh, người chết Ngài liền tỉnh ngộ ta cũng sẽ như vậy, đó
là việc chung chớ khơng phải việc riêng. Ngài nghĩ rằng đã có sanh ra rồi phải già, bệnh, chết. Lớp
trước đã đến, lớp sau sẽ đến, ai cũng đến đó. Chẳng lẽ chúng ta sanh ra ở đời để chờ đến một ngày
chôn vùi dưới đất hay sao? Chúng ta phải làm sao thốt ra khỏi luật vơ thường chi phối con người
như thế. Vì vậy đức Phật khơng kham chấp nhận cái già chết đến với Ngài, phải làm sao để thốt ra
khỏi nó. Đó là lý do, mục đích mà Ngài đi tu.
Do đó khi đi tu gặp các vị tiên dạy, nào là pháp Tứ thiền, pháp Tứ không v.v… các pháp đó
Ngài đã đạt được nhưng vẫn chưa thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết nên Ngài từ giã họ ra đi. Sau đó
đức Phật tu khổ hạnh vì nghĩ rằng nếu tận lực tu khổ hạnh có thể đời mình sẽ đạt được mục đích
giải thốt sanh tử. Qua mấy năm trời khổ hạnh, kết quả chỉ đưa Người đến chỗ kiệt quệ, té xỉu
khơng cịn sức lực nữa. Ngài thấy đó là một quan niệm sai lầm. Nếu càng khổ hạnh chỉ càng đưa
đến cái chết chớ khơng cứu được mình, được người. Ngài liền từ bỏ khổ hạnh và đến cội bồ-đề ăn
uống trung hòa, tức ngày ăn một bữa và tọa thiền.
Dưới cội bồ-đề (bát-la) Ngài lấy một ít cỏ trải tịa ngồi, khi trải cỏ xong, Ngài chỉ cây
tất-bát-la thệ nguyện rằng: “Ta ngồi dưới cội cây này nếu không đạt được đạo thì dù xương tan thịt nát
cũng khơng rời khỏi nơi đây.” Vì có lời thệ nguyện mãnh liệt đó nên suốt bốn mươi chín ngày đêm
thiền định dưới cội bồ-đề, Ngài liền được giác ngộ.
Nói đức Phật thành Phật là thành cái gì? Đây là vấn đề chúng ta cần phải quan tâm. Khi
Ngài ngồi tu dưới cội bồ-đề đến đêm thứ bốn mươi chín, từ đầu hơm đến hết canh một Ngài chứng
được Túc mạng minh. Túc là đời trước, mạng là sanh mạng, minh là sáng. Sáng ra được những việc
trong nhiều đời nhiều kiếp về trước, tại sao Ngài sáng ra lẽ đó? Bởi khi Ngài đi tu, vì muốn giải
thốt sanh tử nên Ngài đặt ra vấn đề: Trước khi ta có mặt ở đây ta là gì, ở đâu đến? Sau khi chết ta
<i>sẽ về đâu? Muốn dứt hết cội gốc sanh tử này ta phải làm sao?</i> Đó là ba nghi vấn về số phận con
người của Ngài.
ly sanh tử? Đó là ba nghi vấn tối quan trọng ai cũng thắc mắc. Khi đức Phật chứng được Túc mạng
minh rồi, Ngài nhìn lui về q khứ thấy vơ số kiếp về trước Ngài đã từng làm gì, ở đâu, tu hành
Trong kinh A-hàm kể lại rằng, Ngài nhớ những sự việc cả muôn ức kiếp về trước như chúng
ta nhớ những sự việc mới xảy ra hôm qua, hôm kia vậy thôi. Vì vậy khi chứng được Túc mạng
minh rồi Ngài liền giải được cái nghi tại sao chúng ta có mặt ở đây, trước kia ta là gì. Ngày nay
chúng ta đọc trong kinh Bản Sanh và Bản Sự kể lại cuộc đời đức Phật và cuộc đời các vị đệ tử của
Phật, đó là do Phật chứng được Túc mạng minh, Ngài thuật lại để làm gương mẫu, nhắc nhở người
sau tu. Đây là minh thứ nhất.
Tới canh ba Ngài chứng Thiên nhãn minh, thấy suốt được những vật hết sức nhỏ nhiệm, hết
sức xa xôi, quá tầm thấy biết của người thường. Thấy rõ con người sau khi chết bị nghiệp dẫn đi
luân hồi trong sáu đường. Trong kinh kể sau khi Phật chứng được Thiên nhãn minh, Ngài nói: “Ta
thấy chúng sanh đi trong luân hồi Lục đạo như người đứng trên lầu cao nhìn xuống ngã ba đường,
thấy kẻ đi qua, người đi lại một cách rõ ràng, khơng có nghi ngờ gì cả.” Thế là Ngài giải được cái
nghi vấn thứ hai, sau khi chết chúng ta đi về đâu. Chúng ta sẽ theo nghiệp lành, nghiệp dữ mà sanh
trong cõi trời, cõi người (lành), địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh (dữ) chớ không phải hết.
Đây là một lẽ thật, do chứng Thiên nhãn minh mà Phật thấy được những việc nhỏ nhiệm vô
cùng. Ngài thấy vô số vi trùng, Phật cách chúng ta hơn hai mươi lăm thế kỷ mà Ngài thấy được vi
trùng. Vì vậy chư Tăng khi uống nước, nhất là nước khơng lọc, khơng nấu thì Phật dạy phải qn.
Qn thế nào? “Phật quán nhất bát thủy, bát vạn tứ thiên trùng v.v…” Phật nhìn trong bát nước có
tám mn bốn ngàn vi trùng. Ngày xưa Phật nói nước có vi trùng ai mà tin, vì con mắt phàm làm
sao thấy!
Phật do thấy mà nói nhưng chúng ta khơng tin, nên biết cái thấy của Ngài với cái thấy của
chúng ta khác xa vơ cùng. Phật nhìn trong bầu hư khơng Ngài thấy vơ số thế giới khơng thể tính kể,
nên trong nhà Phật có từ hằng hà sa số thế giới khơng thể tính kể, nghĩa là thế giới nhiều như cát
sông Gange ở Ấn Độ. Phật thấy trong bầu hư không này, những hành tinh như quả địa cầu của
chúng ta nhiều khơng thể kể hết. Đó là minh thứ hai.
Đến khi sao Mai vừa mọc Ngài bừng ngộ chứng được Lậu tận minh. Lậu là rớt, tận là sạch,
nghĩa là sạch hết, khơng cịn mầm rơi rớt trong sanh tử nữa, tức là khơng cịn rơi lại trong tam giới
lục đạo. Như vậy sau khi chứng được Lậu tận minh, Ngài đã đạt được mục đích giải thoát sanh tử.
Ngài biết rõ nguyên nhân nào dẫn chúng ta đi trong luân hồi sanh tử và làm sao dứt sạch được
nguyên nhân đi trong luân hồi sanh tử đó, đây gọi là chứng được Lậu tận minh. Khi chứng được
minh này, đức Phật tuyên bố Ngài hoàn toàn giác ngộ, thành Phật.
Như vậy Phật thành Phật là do Ngài giác ngộ được nơi con người, biết được mình từ đâu
đến, khi chết rồi sẽ ra sao về đâu, muốn dứt hết sanh tử phải làm cách nào, tu pháp gì. Ngài biết rõ
hết những điều đó, Phật đã đạt được mục đích khi Ngài đi tu là giải thoát sanh tử. Sau khi chứng
được Tam minh, Phật rất hoan hỉ vì đã đạt được mục đích.
Ngài nhớ lại những người bạn đồng tu với mình trước kia (năm anh em Kiều-trần-như) nên
Ngài đi tìm những vị đó. Đến vườn Lộc Uyển gặp năm anh em Kiều-trần-như, Phật liền thuyết bài
pháp Tứ Đế. Đây là bài pháp nói về nguyên nhân đưa chúng ta đi trong sanh tử và làm sao chúng ta
dứt được cội mầm sanh tử. Ở đây tơi chỉ nói đơn lược cho q vị có khái niệm thơi, Phật dạy sở dĩ
chúng ta có luân hồi sanh tử là do Tập đế. Từ Tập đế là nhân rồi đưa đến Khổ đế là quả, Tập đế và
Khổ đế là nhân quả theo chiều luân hồi sanh tử. Làm sao chúng ta thoát ly được luân hồi sanh tử?
Như vậy tất cả chúng ta khơng ai cịn nghi ngờ gì nữa, đức Phật tu Thiền dưới cội bồ-đề
được giác ngộ thành Phật và đem điều giác ngộ đó giáo hóa chúng sanh. Nghĩa là đức Phật nhân tu
Thiền mà được giác ngộ. Do đó, sau khi Ngài thành Phật rồi, Ngài dạy đệ tử Tăng cũng như Ni đều
tu Thiền mà chứng quả A-la-hán. Trong kinh Pháp Cú, Phật dạy rằng: Hãy tu định, chớ buông lung.
<i>Tâm chớ mê hoặc theo dục. Đừng đợi đến khi nuốt hịn sắt nóng mới ăn năn than thở. Hoặc: Khơng</i>
<i>có trí tuệ thì khơng có thiền định, khơng có thiền định thì khơng có trí tuệ. Người nào gồm đủ thiền</i>
<i>định và trí tuệ thì gần đến Niết-bàn. </i>
Như vậy quí vị thấy Phật răn các Tỳ-kheo phải tu thiền định, chớ buông lung, tâm đừng mê
hoặc chạy theo ngũ dục, đừng đợi đến khi nuốt hịn sắt nóng mới ăn năn than thở. Lúc nào nuốt hịn
sắt nóng? Là lúc xuống địa ngục. Nếu hiện đời chúng ta không chịu tu để sau khi chết đọa vào địa
Kế đó nhìn lại lịch sử chư Tổ, chúng ta thường lạy Tây thiên Đông độ Việt Nam lịch đại Tổ
sư, nghĩa là những vị Tổ sư từ Ấn Độ sang Trung Hoa đến Việt Nam, những Tổ sư đó tu pháp gì?
Cụ thể nhất là bây giờ chúng ta hay thờ Tổ Đạt-ma. Ngài là vị Thiền sư thứ hai mươi tám ở Ấn Độ
và là vị Tổ thứ nhất ở Trung Hoa. Như vậy chư Phật tu Thiền được giác ngộ, chư Tổ cũng tu Thiền
được thành Tổ, chư vị A-la-hán tu Thiền mà thành tựu đạo quả. Vậy pháp tu Thiền nhất định là
pháp gốc của đạo Phật rồi.
Về mặt giáo lý hệ Nguyên thủy có hai: Hệ A-hàm dịch từ chữ Phạn ra chữ Hán gọi là
Agama, hệ Pali dịch từ chữ Pali sang chữ Việt gọi là Nikaya. Trong đó Bát chánh đạo nằm trong Ba
mươi bảy phẩm trợ đạo, thể hiện cụ thể nhất tinh thần tu Thiền, từ chánh kiến, chánh tư duy, chánh
ngữ, chánh nghiệp v.v… cho tới chánh niệm, chánh định. Chánh niệm tức phải giữ tâm niệm chân
chánh, ngay thẳng rồi đi tới chánh định. Về pháp Ngũ căn, Ngũ lực thì có năm điều: tín, tấn, niệm,
định, tuệ. Tín là lòng tin, tấn là tinh tấn, niệm là chuyên niệm, định là thiền định, cuối cùng tuệ là
đạt được trí tuệ. Như vậy các pháp theo hệ Nguyên thủy cũng nhắc chúng ta tu thiền định và trí tuệ
là gốc.
Chúng ta hiện giờ học theo pháp Đại thừa (ngày nay gọi là hệ Phát triển) tu Lục độ: bố thí,
trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ. Trong đó, cuối cùng là thiền định và trí tuệ. Như vậy
tất cả pháp của Phật từ hệ Nguyên thủy đến Phát triển đều lấy thiền định và trí tuệ làm căn bản chớ
khơng thể nào khác hơn được, đó là cái gốc. Đây là vấn đề mà ngày xưa tôi đã nặng lịng, phải lo
nghĩ nhiều.
Sau những năm tơi đi giảng tại các Phật học viện Huệ Nghiêm, Đại học Vạn Hạnh, tôi thấy
rằng bao nhiêu sở tri mà tôi học được trong kinh tôi đã đem chỉ dạy cho Tăng Ni, những thứ đó chỉ
là kiến giải bên ngồi, cịn chứng nghiệm trên sự tu thì thật tơi khơng có thì giờ. Do đó nên năm
tu thì một trăm người chứng đạo vì đức Phật trực tiếp hướng dẫn. Kế thời đức Phật là thời tượng
pháp, tức sau khi Phật nhập Niết-bàn, những vị đệ tử chứng quả A-la-hán hướng dẫn một trăm
người tu thì có chừng năm mươi người chứng. Sau một ngàn năm tới đời mạt pháp thì trong mn
người tu chưa có một người chứng.
Nhưng bây giờ tơi nhìn khác một chút, tơi cho rằng chánh pháp hay mạt pháp gốc ở con
người chớ khơng phải thời gian. Ngày xưa đức Phật cịn tại thế, khi Ngài giảng kinh Pháp Hoa có
năm trăm thầy Tỳ-kheo thối tịch. Đọc sử kỹ quí vị thấy trong thời Phật cịn tại thế, thỉnh thoảng
cũng có các thầy Tỳ-kheo xin hồn tục. Hồn tục là tu khơng được, tu khơng được thì đối với những
vị đó là thời mạt pháp, khơng luận vào lúc nào cả. Cịn bây giờ thời mạt pháp nhưng ai cương quyết
liều chết tu hành, quyết phải đạt đạo, phải có kết quả thì đối với những người ấy đây là thời chánh
pháp. Chánh pháp hay mạt pháp gốc ở con người hơn là ở thời gian. Vậy mà chúng ta cứ lệ thuộc
vào thời gian rồi bng xi, tự than đời mình mạt pháp, tu sơ sơ để gieo duyên. Ngày tụng hai thời
kinh, tối xem ti vi cho đỡ buồn, niệm Phật chờ chết Phật đón về Cực lạc cho khỏe, cứ nhàn nhàn
vậy thơi. Lỗi ấy là vì cứ nghĩ thời mạt pháp nên khơng nỗ lực.
Tơi thì ngược lại, đời mạt pháp khó tu ta phải nỗ lực cố gắng tu nhiều hơn bằng hai, bằng
ba, nhất định chúng ta sẽ có kết quả khơng nghi. Cho nên đối với tôi đời mạt pháp không quan
trọng, quan trọng chỗ phát tâm mạnh yếu của chúng ta. Vì thế khi truyền bá tu Thiền tôi cố gắng
Đến đây tơi muốn nói đến Phật giáo Việt Nam của chúng ta một chút. Chư Tổ Việt Nam ban
đầu từ thế kỷ thứ hai, thứ ba mãi đến thế kỷ thứ mười chín, các ngài lãnh đạo Phật giáo Việt Nam
đều là Thiền sư hết, như ngài Khương Tăng Hội, Mâu Bác v.v… cho tới cuối thế kỷ thứ mười chín
là Tổ Liễu Quán ở miền Trung đều là Thiền sư. Đất nước Việt Nam thời bấy giờ Tăng Ni tu Thiền
và Thiền sư lãnh đạo Phật giáo. Chỉ từ cuối thế kỷ thứ mười chín qua thế kỷ hai mươi chúng ta mới
chuyển sang Tịnh độ.
Như vậy trước kia chư Tổ Việt Nam đều tu Thiền, nên hiện giờ mỗi khi q Hịa thượng
tịch, chúng ta thường được nghe đọc tiểu sử quí ngài thuộc dịng Lâm Tế chánh tơng hoặc Lâm Tế
gia phổ v.v… Vậy Lâm Tế là ai? Là một vị Thiền sư ở Trung Hoa lập ra dòng thiền Lâm Tế. Ngài ở
vào đời Đường cách chúng ta khoảng một ngàn năm. Khi nói “từ Lâm Tế” tức là nối dịng Lâm Tế
mà hỏi Tổ Lâm Tế là người nào, tu pháp gì thì chắc chúng ta cũng khơng biết ln.
Như vậy có thể nói từ đức Phật cho đến các đệ tử lớn của Ngài và chư Tổ sau này đều lấy tu
Thiền làm căn bản. Rõ ràng gốc của đạo Phật là tu Thiền. Nếu chúng ta tu pháp khác cũng khơng
ngại gì, nhưng đối với Thiền chúng ta cũng phải nghiên cứu, phải biết cho rõ ràng. Gần đây những
lần được đi nước ngồi trở về tơi đều thấy rằng, người nước ngoài, nhất là người Tây phương hiện
nay muốn nghiên cứu đạo Phật thì đa số nghiên cứu về Thiền, chỉ một số ít người đi theo Mật tơng
ở Tây Tạng. Vì sao vậy? Vì họ thấy được thiền định là cội gốc của đạo Phật, giới trí thức Việt Nam
chúng ta cũng vậy. Khi họ muốn nghiên cứu Phật giáo họ cũng thích nghiên cứu tu Thiền. Thế nên
hiện giờ chúng ta làm Phật sự, hướng dẫn Phật tử tu, dù chúng ta không tu Thiền, chúng ta tu Tịnh
độ đi nữa cũng phải nghiên cứu về Thiền để hướng dẫn Phật tử hâm mộ tu Thiền đúng pháp, khơng
làm mất tín tâm của họ.
Khi hiểu được Phật giáo Việt Nam ngày nay nối pháp các hệ phái từ thuở trước, mang tinh
thần Thiền tông rất là đậm nét, chúng ta càng phải trân trọng, càng phải nghiên cứu nhiều hơn, sâu
hơn. Chúng ta biết rõ rồi nếu tu theo thì tốt, cịn khơng tu thì cũng giải thích cho mọi người khơng
Phật một cách sáng sủa, cao siêu thì con cháu chúng ta sẽ khơng theo đạo Phật mà chúng lại xem
thường đạo Phật, đó là lỗi lớn của chúng ta. Vậy mong tất cả Tăng Ni gắng tu, gắng học để mai này
chúng ta xứng danh lãnh đạo Phật giáo Việt Nam và hướng dẫn con cháu chúng ta thấu hiểu được
Phật giáo một cách đúng đắn, sáng suốt.
Đó là mục đích mong mỏi của chúng tôi, cầu mong Tam Bảo gia hộ cho tất cả quí vị tinh tấn
tu hành, thành tựu được ý nguyện của mình trên bước đường tu hành.
Câu trả lời cho vấn đề trên có nhiều lớp lang và rắc rối. Đây là một vấn đề khó chịu, nói lên sự
biến chuyển về tâm linh tại Úc châu và cho thấy dân Úc châu chúng ta mỗi ngày thực sự trở
nên đa văn hóa.
Nhiều nền văn hóa trước đây rất xa lạ với người Úc gốc Anh hay La Tinh, nay đã được nhiều
người Úc đón nhận, mặc dầu khơng phải khơng có chút chống đối. Sức chống đối trong xã hội
Úc có thể được coi như là một cách trắc nghiệm để đo mức độ bao dung trong nền chính trị và
tơn giáo xứ này.
Sức bành trướng của Phật giáo tại Úc châu là câu chuyện một tôn giáo trường cửu đã từng
vượt qua bao khó khăn trở ngại. Làm sao mà một hệ thống triết học ra đời 2500 trước đây,
trước Thiên Chúa giáo 500 năm, trước đạo Islam 1000 năm, lại có thể có liên quan đến đời
sống văn minh của Úc châu được? Chúng ta hãy nghĩ đến những tơn giáo nay khơng cịn dấu
tích như đạo thờ Mặt trời tại Ai Cập cổ đại, đạo hy sinh nhân mạng để tế lễ của người Maya
Nam Mỹ, hay đạo Druids bên Anh cổ đại. Phật giáo đã trường tồn vượt trên các tôn giáo ấy.
Phật giáo không đưa ra những giáo điều của một tà đạo, cũng khơng ráo riết tìm cách cải đạo.
Những người Úc theo đạo Phật là những người đã tự nguyện cải đạo, thơng thường là những
người có học, những chuyên gia lớp tuổi trung niên. Họ đến với đạo Phật vì tìm thấy một niềm
Có điều đáng chú ý là mặc dầu số ngưòi theo Phật giáo gia tăng gần đây, thực ra Phật giáo đã
góp một phần vào lịch sử nước này trước đây rồi. Không phải là Phật giáo đã đến theo làn sóng
những người di dân mới đây. Nhiều nhà nhân chủng học đã có ý kiến là Phật giáo đã có thể là
tôn giáo ngoại nhập của thổ dân Úc châu, trước khi người da trắng đến đây.
Khoảng giữa năm 1405 và 1433, vua nhà Minh(2) đã gửi đi sáu mươi hai hải thuyền lớn đi
thăm dị phía nam Á châu. Mặc dầu đã có chứng cớ là đồn hải thuyền này đả cập bến đảo Aru
thuộc phần đất Arnhem, nhưng khơng biết họ có vào lục địa Úc chậu khơng.
Giáo sư A.P.Elkin đã đua ra một giả thiết, chưa được chứng minh, rằng thổ dân vùng đất
Koorie, phía bắc nước ta, tin vào thuyết tái sanh, tin vào những hiện tượng huyền bí và tu
luyện tâm linh, thì đó chính là chứng cớ họ đã sớm tiếp súc với những người Phật tử rồi. Mặc
dầu một vài hình vẽ trên đá có thể tượng trưng mấy thuyền buồm thả neo, hay hình ảnh đức
Phật, nhưng chưa thấy có chứng cớ thực sự rõ rệt.
Tài liệu đầu tiên về những Phật tử đến Úc châu là vảo năm 1848 khi mọi người đổ xơ đi tìm
vàng, là lúc thợ thuyền người Tầu được đem vào làm trong những mỏ vàng vùng Victoria. Họ
là những dân tạm trú thông thường là trở về Tầu sau năm năm. Mãi đến năm 1876 mới thấy
một cộng đồng Phật tử người Tích Lan định cư tại Thursday Island. Họ đã xây cất nên ngôi đền
Phật giáo đầu tiên tại Úc châu, khi họ làm trong những vườn mía ở Queensland.
Những năm 1870 trở đi, nhiều người Nhật theo Phật giáo Thần học cũng đến làm trong kỹ
nghệ làm ngọc trai tại Bắc Úc và họ đã lập nên những đoàn thể Phật giáo tại Darwin và
Broome. Họ đã có những nghĩa trang Phật giáo riêng và tổ chức những ngày lễ hội hè hàng
năm. Thống kê của chính phủ năm 1891 cho thấy số người đi theo Phật giáo chỉ hơi nhiều
(1.2%) hơn bây giờ (1.1%) chút ít.
người làm Thủ tướng 3 lần – đã soạn thảo ra đạo luật này để xoa dịu số cử tri da trắng bài
ngoại. Đạo luật này trở nên nền tảng của Chính sách bạch hóa Úc Châu.
Năm mươi năm sau, giáo pháp của đức Thế Tôn về tu luyện Tâm linh, về hành Thiền, đã bị
quên lẵng và bị coi là một thứ đạo thần bí của Đơng phương. Trừ một số Phật tử rất nhỏ còn
tồn tại được, như ở Broome và Thursday Island, Phật giáo thực tế đã không cịn ở Úc Châu
nữa.
Ni Sư Dhammadinna
Có một nhóm nhỏ Phật tử thuần thành Tây phương đã thành lập một tổ chức sớm nhất Úc
châu, “The Little Circle of the Dharma”, vào năm 1925 tại Melbourne. Mới đầu sự phát triển rất
chậm, cho đến sau Thế Chiến thứ hai, khi đó chính sách Bạch Hóa Úc châu khơng cịn được
hưởng ứng nữa. Năm 1951, lần đầu tiên có một ni sư đến viếng Úc châu, Ni sư Dhammadinna,
người Hoa Kỳ, đã thọ giới Tỳ kheo ni 30 năm tại Tích Lan. Ni sư đến hoằng dương pháp môn
Phật giáo Nguyên Thủy. Ni Sư đã được báo chí trong tồn quốc nói đến rất nhiều.
Nhờ cuộc viếng thăm này, năm sau Hội Phật giáo New South Wales được thành lập, chủ tọa bởi
ông Leo Berkey, một doanh nhân người Hà Lan tại Sydney. Tổ chức này là tổ chức Phật Giáo
lâu đời nhất tại Úc châu. Thành phần Phật tử, từ đầu cho đến nay vẫn là những người gốc Anh
hay Âu châu.
Đến năm1958, Tổng Hội Phật giáo Úc châu (the Buddhist Federation of Australia) được thành
lập để điều hợp tất cả những nhóm Phật tử mọc ra như nấm mọi nơi, từ Western Australia,
South Australia, Queensland đến Victoria.
Khoảng một trăm năm đầu, Phật giáo Úc châu sinh tồn được là nhờ vào những tín hữu tại gia,
thỉnh thoảng mới mời được các tu sĩ trong Tăng đoàn, Nhưng sang đến những năm 1970, số
Phật tử gia tăng đã tạo ra nhu cầu cần có tăng chúng ngay tại địa phương, thế là Phật giáo Úc
châu bước sang một giai đoạn mới.
Năm 1971, Giáo Hội Phật giáo New South Wales đã cung nghinh được Ngài Somaloka, từ Tích
Lan, về trụ trì tại một tu viện vùng núi Blue Mountains, phía Tây Sidney. Đây là tu viện đầu
tiên của nước Úc. Lần lượt nhiều tu viện khác của nhiều pháp môn khác nhau được thành lập:
năm 1976 tại Stanmore Sydney, năm 1978 tại Wisemans Ferry ở NSW, rồi năm 1984 tại
Serpentin ở Western Australia.
Ngài Đà Lai Lạt Ma, khuôn mặt khả ái nhất của Phật giáo (Ngài đã đoạt giải Nobel Hịa Bình và
chỉ tự xưng là một “nhà sư bình thường’) đã đi khắp thế giới khơng ngừng nghỉ để nói pháp và
trả lời đối thoại tại các thính đường lớn chứa được vài chục ngàn người. Tại Ln đơn thì có
John Cleese mời Ngài, tại Pháp thì có Henri Cartier Bresson ghi âm lại những lời pháp thoại,
còn ở La Mã thì nhạc sĩ Adam Yauch trong nhóm Beastie Boys đã phỏng vấn Ngài cho tuần san
Rolling Stone.
Chỉ mấy năm trước đây, Ngài đã mở ra muời một Văn Phòng Tây Tạng ở rất nhiều nơi, từ
Canberra đến Moscow và chỉ riêng năm ngoái Ngài đã viết lời tựa cho khoảng ba mươi cuốn
sách. Ngài Lạt Ma thứ 14, cũng cịn có danh hiệu là “Trí Huệ Rộng như Biển, Bạch Liên Giáo
Chủ, Hộ Pháp Tuyết Sơn”, cũng đã từng là Chủ biên Danh dự cho tờ báo “Vogue”
các nhạc sĩ Jenny Morris, Jimmy Barnes và Jonny Diesel để cúng dường. Lại có một công ty
Quảng Cáo đã quảng cáo không công cho Ngài, với một chủ đề nói là: “Bạn đã khơng gặp được
Chúa Giê Su, bạn cũng không gặp được Đức Phật. Vậy chớ hụt phen này gặp đức Đà Lai Lạt
Ma”. Có bao giờ người ta thấy một sự đón tiếp rầm rộ một lãnh tụ tơn giáo như vậy chưa?
Thế nhưng khơng phải chỉ người Úc mới có cảm tình với sụ nghiệp của Ngài Lạt Ma. Vấn đề
người Tây tạng bị đàn áp đã được Hollywood chú ý đến và đã có hai cuốn phim nói về cuộc đời
của Ngài. Từ đấy hình ảnh của Ngài Đà Lai Lạt ma không những đã đi vào giịng chính xã hội
Hoa kỳ mà cịn được phổ biến tồn cầu (điều này đã làm cho chính phủ Trung Hoa phát
hoảng).
Bộ phim thứ nhất là phim “Bẩy năm ở Tây Tạng”, nói về chuyện ơng Heinrich Harrer, một tay
Phim kia là phim “Kundun” của nhà đạo diễn Martin Scorcese. Chuyện phim mô tả cuộc đời
Ngài Đà Lai lạt Ma, theo Ngài thuật, từ lúc Ngài được chứng nhận là hóa thân của đức Phật lúc
Ngài mới hai tuổi cho đến lúc Ngài phải chạy chốn sang Ấn Độ lúc 24 tuổi. Phim này mới trình
chiếu tại Úc Châu đã được đài TV Channel Nines trong chương trình Chủ Nhật ngày 14 tháng
Sáu giới thiệu như là “một bộ phim đẹp nhất và quan trọng nhất trong năm”
Hồ ly Vọng chú tâm đến Đạo Phật không chỉ ở hai bộ phim ấy mà thôi, mà cịn ở nhiều tài tử
đã nói lên lịng ngưỡng mộ với tôn giáo này. Tháng Hai 1997, tài tử Steven Seagal, chuyên
đóng phim võ sĩ đấm đá được giịng Mật tơng Nyingma cơng nhận là đầu thai của một Lạt Ma
thế kỷ thứ 15. Nghệ sĩ Adam Yauch của nhóm ca sĩ the Beastie Boys đã đúng ra tổ chức hai
buổi hòa nhạc gây qũy cho Tây Tạng rất thành công.
Tài từ Richard Gere cùng với bố của nữ tài tử Ulma Thurman là Richard Thurman đã mở ra một
Trung Tâm Tây Tạng gọi là Tibet House ở Nữu Ước, để in sách và dạy Thiền mỗi ngày. Nhiều
hành giả đến đã làm mọi người chú ý bao gồm các nghệ sĩ Tina Turner, Harrison Ford, (vợ là
Melissa Mathison chính là người viết kịch bản cho phim Kundun), Oliver Stone, Herbie Hancock,
Courteney Love, nhạc sĩ Philip Glass (cũng giúp trong phim Kundun) và ca sĩ Michael Stipe.
Phật giáo cũng còn được nhiều người khác đưa lên một cách tế nhị hơn. Thí dụ như có một loại
phấn trang điểm có tên là Zen (Thiền) Blush, một phim ngắn trên TV đặt tên là Dharma (Phật
pháp) và Greg, Lại có một chai đựng nước ngọt trên đó viết: “Xin ‘recycle’ chai này vì chai
cũng sẽ có thể đầu thai lại được mà”. Lại có cả vài nhà sư lên TV giúp quảng cáo thương mại
Tất cả những hình ảnh đó khơng làm mất đi sự kiện là dân Úc đã thực ra hướng về Phật giáo
rồi. Mấy số thống kê của chính phủ trong những năm 1986, 1991, 1996 cho thấy số người theo
đạo Phật tăng trưởng đều đều. Từ năm 1986 đến 1991 số ấy đã từ 80,387 lên tớo 139,847,
tức là đã gia tăng 74%. Trong mấy năm gấn đây, vì số di dân đến Úc giảm bớt nên tỷ số gia
tăng Phật tử tại Úc cũng chậm lại, chỉ còn là 43% từ 1991 đế 1996 (139,847 lên 199,812), Tỷ
Cuộc thống kê trong 3 năm đó cho thấy trong số tám giòng Thiên Chúa giáo hoạt động ở New
South Wales, chỉ có ba giịng có tín đồ gia tăng (Báp Tít, Ca Tơ La Mã và Chính Thống), cịn
năm giịng kia (Anh giáo, Church of Christ, Lutheran, Presbyterian và Uniting Church) có số tín
đồ giảm bớt.
Có phải là sự thay đổi bất thường này chỉ cho ta thấy là người Úc khơng cịn thoả mãn với đức
tin truyền thống của họ nữa? Hay là vì đạo Phật cạnh tranh hữu hiệu hơn đạo Thiên Chúa hay
chỉ là kinh nghiệm tâm linh này có nhiều ý nghĩa hơn kinh nghiệm tâm linh kia?
ba thế kỷ mới hòa nhập được Phật giáo từ Ấn độ vào, đã nói là đem Phật giáo vào Tây Âu
chẳng khác gì để một cành hoa sen trên một tảng đá chờ cho hoa sen đâm chồi mọc rễ.
Trong những năm 1960 khi phong trào híp pi phản-văn-hóa nổi lên thì đã có khơng thiếu
những thi sĩ, văn sĩ, nhạc sĩ, tài tử muốn thử vào an trú trong nội tâm qua triết học Phật giáo
và hành Thiển. Như John Lemon đã dùng một bài chú để viết bản nhạc Across the Universe
của anh ta. Allen Ginsberg cũng dùng một bài chú Phật giáo mà ban phúc lành cho vùng đất
Woodstock trước khi mọi người kéo đến tham dự. Rồi đến Thiền Nhật bản Zen, lúc đầu được
các thi sĩ Beat chấp nhận trong những năm 1950, cũng được mọi người hòa theo thay thế cho
phong trào dùng ma tuý LSD để khai ngộ.
Quan trọng hơn phong trào hít ma tuý của những năm 1960, là khi cuộc chiến Việt Mỹ lên đến
tột đỉnh, người phụ nữ đã đốt yếm để phản kháng, con người đã đặt chân lên mặt trăng, thì
người ta đã thấy giai cấp trung lưu coi nhẹ bớt những giá trị của họ làm cho ý thức xã hội uyển
chuyển hơn. Khi đó mọi người trong xã hội đã có thể thoải mái nghiệm thử một số tư tưởng
mới (như nữ quyền, dân quyền, phong trào hịa bình, nếp sống mới, vân vân) mà không làm
xã hội bị rối loạn như trước.
<b>Đi tìm câu hỏi vì sao ở Việt Nam, Phật giáo đã thực sự có được chỗ đứng vững chắc trong </b>
<b>cuộc sống và tâm linh của đông đảo người dân, đồng hành cùng sự phát triển của dân tộc. </b>
<b>Ln đi đầu thực hiện đại đồn kết dân tộc</b>
<i><b>Thưa ơng, ơng có thể lý giải cơ duyên gì đã đưa Phật giáo đến với vị thế như ngày hôm nay ở </b></i>
<i><b>đất nước Việt Nam và trong lòng người dân Việt?</b></i>
- Nước ta hiện có 12 tơn giáo với trên 22 triệu tín đồ, gần 70 ngàn chức sắc, gần 22 ngàn cơ sở thờ
tự. Trong đó, Phật giáo có trên 10 triệu tín đồ, hơn 45 nghìn chức sắc , gần 17 nghìn cơ sở thờ tự,
con số đó đủ nói lên Phật giáo là tơn giáo có số lượng lớn so với các tôn giáo khác.
Trước khi Phật giáo du nhập tới nước ta, đã có một số tơn giáo từ nước ngoài truyền sang như
Khổng giáo, Lão giáo từ Trung Quốc, trong nước đã có một số hình thức tín ngưỡng bản địa như
thờ Mẫu, thờ Thánh, thờ thần nước, thờ thần rừng,…, sau khi Phật giáo du nhập vào nước ta theo
thời gian cịn có một số tơn giáo khác từ nước ngồi tiếp tục được truyền tới và trong nước có một
số tơn giáo nội sinh.
Với triết lý nhân văn, được thể hiện qua tư tưởng từ bi, vô ngã và vị tha rất phù hợp với tình cảm,
lối sống, suy nghĩ thương người như thể thương thân, lá lành đùm lá rách, trách nhiệm của mỗi con
người trước cộng đồng.. của người Việt nên Phật giáo đã được đông đảo người Việt đón nhận và
được thực hiện trong đời sống xã hội ngày một sâu rộng.
Trải qua nhiều biến cố lịch sử, trong suốt thời gian khá dài Phật giáo luôn tỏ rõ là một tôn giáo gần
gũi, có nhiều đóng góp tạo nên lịch sử hào hùng của dân tộc và góp phần khơng nhỏ xây dựng bản
sắc văn hóa Việt Nam. Phật giáo đã được nhiều các nhà lãnh đạo đất nước trong các giai đoạn lịch
sử khác nhau đánh giá là tôn giáo yêu nước, gắn bó đồng hành cùng dân tộc trong suốt chiều dài
lịch sử gần 2000 năm có mặt tại Việt Nam
đó xây dựng khối đại đồn kết, quy tụ lịng dân. Tư tưởng đạo Phật là tư tưởng từ bi, khoan dung,
vô ngã không nghĩ tới cá nhân mà chỉ nghĩ đến những điều lớn lao cho mọi người, đó là xây dựng
một xã hội an lạc, xây dựng một quốc gia hòa bình vì hạnh phúc chung của mọi người.
Chính điều đó đã giúp cho mọi người nhận thức được chân giá trị của mình trong đời sống xã hội,
triệt tiêu mâu thuẫn giữa phe này nhóm khác và cùng nhau đoàn kết để xây dựng xã hội phát triển
qua việc bảo vệ cuộc sống bình yên, chống giặc ngoại xâm, chấn hưng đất nước.
Xưa đã thế thì nay cũng thế, Phật giáo luôn là tôn giáo đi đầu gương mẫu trong thực hiện đồn kết
các tơn giáo để góp phần thực hiện đại đồn kết tồn dân tộc. Phật giáo là tôn giáo luôn đi đầu trong
xây dựng xã hội, hưởng ứng và thực hiện tích cực các chương trình xóa đói giảm nghèo, giúp đỡ
người khó khăn, giúp nhau xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Hàng năm, Phật giáo huy động hàng trăm tỷ đồng để giúp cho đồng bào bị thiên tai dịch bệnh
những người gặp hồn cảnh khó khăn. Riêng năm 2010, Phật giáo đã huy động gần 700 tỷ đồng để
giúp đỡ đồng bào khó khăn bị thiên tai, dịch bệnh, ốm đau...
Những hoạt động, đóng góp của Phật giáo luôn là tấm gương để các tôn giáo khác noi theo, cũng đã
có những hoạt động từ thiện hiệu quả góp phần cùng nhau xây dựng xã hội mới tốt đẹp. Đó cũng
chính là một trong những biểu hiện để khẳng định vai trò và giá trị đạo đức của tơn giáo.
<b>Duy trì cân bằng đời sống xã hội, góp phần phát triển kinh tế</b>
<i><b>Có nhận định rằng, là một tơn giáo nhưng Phật giáo đã có rất nhiều đóng góp trong cơng cuộc </b></i>
<i><b>xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. Nhìn từ góc độ quản lý nhà nước về tôn giáo, ông nghĩ </b></i>
<i><b>sao về nhận định này?</b></i>
- Xin khẳng định ngay rằng, Phật giáo đã có sự đóng góp rất to lớn, khơng thể phủ nhận trong công
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam.
Trước hết xin nói về đường hướng hành đạo, là một tổ chức tôn giáo nhưng Phật giáo luôn đảm bảo
giữ vững quan điểm của một tổ chức tôn giáo yêu nước và đồng hành cùng dân tộc. Tại sao lại nói
vậy? Vì nếu ngược dịng lịch sử thì có thể nói 2000 năm qua với truyền thống yêu nước lúc nào
Phật giáo cũng gắn bó với đất nước, dân tộc, thể hiện lòng yêu nước, sự mong muốn độc lập dân
tộc, tự cường.
Còn trong giai đoạn lịch sử hiện tại thì Phật giáo là tơn giáo ln ủng hộ chủ trương chính sách của
Đảng và Nhà nước trong con đường xây dựng XHCN ở Việt Nam, qua đường hướng “Đạo pháp,
Dân tộc và Chủ nghĩa xã hội” mà Hiến chương của Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã khẳng định từ
khi thành lập năm 1981.
Đường hướng này khẳng định phương châm hành đạo nhưng đồng thời cũng thể hiện triết lý u
hịa bình, hướng tới sự an lạc, đó là triết lý, là tư tưởng Phật giáo và đó cũng là mục đích của chủ
nghĩa xã hội. Bản lĩnh này của Phật giáo đã có tác động rất lớn đến các tôn giáo khác, để các tơn
giáo khác cũng phải có sự so sánh và điều chỉnh lại hành động của mình vì đất nước, vì dân tộc.
Về mặt kinh tế, tuy Phật giáo ít trực tiếp tạo ra sản phẩm kinh tế nhưng lại góp phần khơng nhỏ vào
việc phát triển kinh tế - xã hội. Nói như vậy vì cần phải nhìn ở góc độ Phật giáo tích cực bảo tồn
những giá trị vật chất mà tự nhiên đã có và con người đã làm ra.
người sau. Phật giáo cũng khuyến khích lao động thơng qua đề cao việc mọi người phải tự giác lao
động, mưu sinh qua một triết lý “Nhất nhật bất tác, nhất nhật bất thực” có nghĩa là một ngày khơng
làm là một ngày khơng ăn.
Người theo đạo Phật có thể không trực tiếp làm ra của cải nhưng thay vào đó là việc tu nhân tích
đức để làm gương cho người khác học theo, làm theo nhằm duy trì một xã hội tích cực, ổn định
thơng qua việc “ làm điều lành, khơng làm điều xấu”. Sự đóng góp quan trọng nhất của Phật giáo
trong lĩnh vực kinh tế chính là sự nỗ lực giao dục con người duy trì sự cân bằng trong phát triển đời
sống, tự nhiên và xã hội
Về mặt văn hóa, nhà bác học nổi tiếng Anhxtanh đã từng nói đại ý rằng: Nhân loại này muốn có
Từ đấy có thể nói truyền bá tư tưởng Phật giáo là truyền bá tư tưởng khoa học vào đời sống con
người. Mặt khác, Phật giáo có nhiều đóng góp ở giá trị đạo đức vì theo ngĩa của Phật giáo: Tu học
chính là sửa mình, sửa bỏ những thói quen xấu để ln làm việc tốt nhằm có lợi cho mình và cho
xã hội.
<b>Ở Việt Nam, Phật giáo ln có cơ dun để phát triển</b>
<i><b>Hiện nay, ở Việt Nam có rất nhiều tơn giáo và có thể nói các tơn giáo đều có cơ hội, vận mệnh </b></i>
<i><b>phát triển như nhau trong hành lang chính sách, chủ trương của Đảng và Nhà nước. Từ đây, </b></i>
<i><b>ơng có thể cho biết xu hướng vận động của Phật giáo trong thời gian tới sẽ ra sao?</b></i>
- Đảng và Nhà nước ta ngay từ khi lập nước đã có chủ trương rất rõ ràng với tôn giáo, Sắc lệnh về
tôn giáo mà Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ngày 3/9/1945 là một minh chứng. Tinh thần tôn trọng tự do
tín ngưỡng của nhân dân được Sắc lệnh khẳng định, tiếp đến điều đó đã được cụ thể hóa trong Hiến
pháp và nhiều các văn bản pháp luật khác về sau và gần đây nhất là Pháp lệnh về Tín ngưỡng tơn
giáo và Nghị định 22 hướng dẫn thực hiện Pháp lệnh.
Tất cả chủ trương, chính sách, văn bản pháp luật của Nhà nước có liên quan tới tơn giáo đều nhằm
đạt mục đích là: Làm sao để thực hiện tự do tín ngưỡng tơn giáo đối với tất cả mọi người theo hoặc
không theo tôn giáo; đảm bảo tự do tín ngưỡng tơn giáo trong khuôn khổ của pháp luật nhằm phát
huy những giá trị tốt đẹp của tơn giáo đóng góp cho đời sống xã hội đồng thời hạn chế việc lợi dụng
tôn giáo chống lại lợi ích của nhân dân, của đất nước.
Cũng cần nói thêm rằng Nhà nước Việt Nam khơng có chính sách riêng biệt cho bất kỳ tơn giáo nào
mà chủ trương bình đẳng mọi tơn giáo. Hiện nước ta có 12 tơn giáo và 33 tổ chức tơn giáo đã được
cơng nhận.
Cịn nói về xu hướng vận động của Phật giáo thì hiện Phật giáo đang có cơ hội phát triển đặc biệt
trên toàn thế giới chứ khơng riêng gì Việt Nam; vì từ năm 1999 LHQ đã chọn ngày Tam hợp Đức
Phật làm ngày văn hóa tơn giáo thế giới. Sự lựa chọn này chứng tỏ Phật giáo đã có tính ưu việt hơn
từ rất nhiều những giá trị mà nhân loại tìm thấy ở Phật giáo, trong đó có một số giá trị như tơi đã
nói ở trên.