Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Ha NoiDien Bien Phu tren khong

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (245.59 KB, 17 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Đêm 18.12.1972, Mỹ đã sử dụng "pháo đài bay" chiến lược B 52 mở </b>
<b>màn chiến dịch Linebacker II tấn công miền Bắc Việt Nam. Sau 12 </b>
<b>ngày đêm, chiến dịch đã kết thúc với những thất bại nặng nề đối với </b>
<b>Mỹ. Qua 3 thập kỷ, có những sự thật về chiến dịch này mới được cơng </b>
<b>bố.</b>


Một đội pháo cao xạ của ta
<b>Kỳ 1: Phịng thủ và phản công</b>


Việc Mỹ mở chiến dịch Linebacker II tấn cơng miền Bắc hồn tồn khơng có
sự bất ngờ nào với ta. Năm 1964, ngay từ khi Mỹ bắt đầu sử dụng pháo đài
bay B.52 trên chiến trường miền Nam, ta đã bắt đầu nghiên cứu, đánh giá
tình hình và kết luận rằng Mỹ sẽ sử dụng loại vũ khí chiến lược này để tấn
cơng miền Bắc trong những thời điểm lịch sử. Năm 1965, Bác Hồ đã nhận
định rằng khơng sớm thì muộn Mỹ cũng sẽ tấn công Hà Nội bằng B.52 và đây
sẽ là trận đánh cuối cùng quyết định sự thua trận của người Mỹ trong cuộc
chiến tranh Việt Nam. Pháo đài bay B.52 là loại máy bay ném bom chiến lược
của không quân Mỹ, đã được đưa vào sử dụng từ năm 1952, B.52 có thể sử
dụng trong 4 dạng chiến tranh như: chiến tranh hạt nhân chiến lược, hạt
nhân chiến trường, chiến tranh thông thường và chiến tranh cục bộ. Đây là
loại máy bay ưu việt, hoạt động trong mọi điều kiện thời tiết, bay và ném
bom thẳng đứng từ độ cao mắt thường khơng thể nhìn thấy được (9.000m -
15.000m), có thể mang được 30 tấn bom (B.52D), được bảo vệ tối đa bằng
nhiều tốp máy bay chiến thuật F.4, F.111 trong mỗi chuyến oanh tạc.


Trước tình hình này, tháng 5.1966, theo chỉ thị của Bộ Tổng tham mưu của
ta, Qn chủng Phịng khơng - Khơng qn đã bố trí nhiều đồn cơng tác đặc
biệt và một trung đồn tên lửa cơ động phục kích tại chiến trường Vĩnh Linh
để nghiên cứu quy luật hoạt động, cách bố trí đội hình, các tốp máy bay tiêm
kích bảo vệ… để tìm ra phương thức đánh B.52. Những tổng kết sơ bộ ban
đầu này được xử lý báo cáo ngay về Hà Nội để các đơn vị liên quan nghiên


cứu, luyện tập và lập phương án đối phó. Đầu năm 1967, ta được biết Mỹ đã
nâng cấp sân bay quân sự U - Tapao (Thái Lan) để phục vụ B.52, đây là tín
hiệu cảnh báo cho thấy Mỹ sẽ sử dụng B.52 để tấn công miền Bắc trong thời
gian tới.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

chiến lược B.52" và tổ chức triển khai tại các đơn vị chiến đấu. Sau đó, nhiều
trung đồn tên lửa và phân đội máy bay tiêm kích đã được bố trí chiến đấu
tại Quân khu 4 để tiếp tục bổ sung và hoàn chỉnh bản dự thảo. Tháng


9.1972, bản Kế hoạch đánh B.52 của Qn chủng Phịng khơng - Khơng qn
đã được cơ bản hoàn chỉnh với yêu cầu cao nhất là chủ động đánh bại bằng
được các cuộc không kích của Mỹ (kể cả B.52) vào Hà Nội, Hải Phòng.


Trong thời gian này, Mỹ đã bắt đầu sử dụng B.52 đánh phá miền Bắc với quy
mô và tần số mỗi ngày một khốc liệt hơn từ năm 1966. Theo cuốn The


Vietnam War (Chiến tranh Việt Nam, xuất bản tại Mỹ năm 1989) thì đến
tháng 6.1969, đã có tới 5.567 lượt máy bay B.52 thường xuyên đánh phá
tuyến đường mịn Hồ Chí Minh ở Nam Lào, tăng gần 1.200 lượt so với năm
1968. Còn theo thống kê của ta thì trong thời gian từ tháng 10.1969 đến
tháng 1.1970, 672 lượt máy bay B.52 đã ném khoảng 72.000 quả bom
xuống các tuyến đường mòn Hồ Chí Minh. Trong thời gian này, trung bình
mỗi ngày người Mỹ phải bỏ ra khoảng 1 triệu USD tiêu tốn cho các cuộc
khơng kích bằng B.52 tại Việt Nam. Ngày 16.4.1972, Mỹ đã sử dụng 20 lượt
B.52 và 170 lượt máy bay cường kích rải thảm, ném hàng trăm tấn bom tàn
phá phân nửa thành phố Hải Phịng mà khơng hề có sự tổn thất nào với B.52.
Do vậy, nhiều quan chức quân sự Mỹ cho rằng nếu sử dụng B.52, người Mỹ
có thể đánh bại mọi kháng cự của quân dân Việt Nam trong cuộc chiến này.
Đến tháng 11.1972, tình hình chiến trường miền Nam và cuộc chiến tranh
phá hoại bằng không quân, hải quân của Mỹ tại miền Bắc càng trở nên khốc


liệt hơn với những hành động phiêu lưu quân sự mới của Tổng thống Mỹ
R.Nixon. Trong tháng này, Mỹ đã đưa vào miền Nam hơn 600 máy bay, số
phi vụ B.52 ném bom miền Bắc tăng lên 786 lượt (so với 366 lượt vào tháng
9.1972). Do vậy, sau khi phân tích tổng hợp tình hình này với những nguồn
tin khác từ các chiến trường, Bộ Tổng tham mưu đã triển khai kế hoạch tác
chiến chuẩn bị đánh trả các cuộc khơng kích mới sử dụng B.52 của Mỹ để bảo
vệ Hà Nội, Hải Phòng và những thành phố khác.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Mỹ.


Đêm 22.11.1972, trung đồn tên lửa 263 tại Nghệ An đã phóng 4 tên lửa,
diệt 2 máy bay B.52 của Mỹ. Thắng lợi này đã khẳng định phương pháp
nghiên cứu, tiếp cận và cách đánh B.52 ban đầu của ta đã có hiệu quả. Kinh
nghiệm của trung đồn 263 đã được đánh giá, tổng kết ngay lập tức để phổ
biến đến các đơn vị chiến đấu. Ngày 24.11, bản Kế hoạch đánh trả B.52 của
Quân chủng Phòng khơng - Khơng qn đã được chính thức thơng qua lần
cuối sau nhiều lần được bổ sung, hoàn chỉnh. Ngay sau đó, Bộ Tổng tham
mưu chỉ thị Quân chủng Phịng khơng - Khơng qn phải chuẩn bị xong mọi
điều kiện về vật chất, tinh thần để sẵn sàng chiến đấu kể từ 3.12.1972. Đây
cũng chính là thời điểm đồng chí Lê Đức Thọ sẽ lên đường đi Paris gặp cố vấn
Mỹ H.Kissinger để tìm cách tháo gỡ những bất đồng giữa ta và Mỹ trong việc
ký kết Hiệp định Paris. Đồng thời, nhân dân Thủ đô cũng được lệnh sơ tán
khỏi các khu vực trọng điểm mà máy bay Mỹ có thể đánh phá. Sau 6 năm
chuẩn bị, Hà Nội và miền Bắc đã sẵn sàng chống trả cuộc khơng kích khủng
khiếp nhất trong lịch sử chiến tranh hiện đại của người Mỹ tại Việt Nam.
<b>Tháng 12.1972, Hiệp định Paris đã không được ký kết như dự định </b>
<b>giữa ta và Mỹ. Chiến dịch Linebacker đã được người Mỹ coi như giải </b>
<b>pháp quân sự khả thi nhất để ép Việt Nam quay trở lại bàn đàm phán.</b>


<i>Tổng thống Richard Nixon (giữa) và Cố vấn an ninh quốc gia Henry Kissinger</i>


<i>(trái)</i>


<b>Kỳ 2: Đêm trước của lịch sử</b>


Ngày 12.10.1972, đồng chí Lê Đức Thọ và cố vấn H.Kissinger đã thống nhất
được bản dự thảo Hiệp định Paris gồm 9 chương với những nội dung cơ bản
là các bên tham chiến ngừng bắn tại chỗ, quân đội Mỹ và đồng minh rút về
nước, tiến hành trao trả tù binh trong vòng 60 ngày và khẳng định Việt Nam
là một quốc gia đang trong tình trạng bị chia cắt tạm thời. Theo đó, chính
quyền Việt Nam Cộng hịa (VNCH) của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu được
tồn tại trong một giải pháp hịa bình. Ngày 8.10, hai bên đã thống nhất là sẽ
ký tắt Hiệp định ngày 22.10. Từ Washington D.C, Tổng thống Nixon tuyên bố
thêm để khẳng định rằng: "Hiệp định hiện nay được coi như đã hồn chỉnh.
Có thể tin rằng chúng tơi sẽ ký hiệp định vào ngày 31.10". Mỹ và Việt Nam
còn thống nhất kế hoạch cố vấn Kissinger sẽ đến Hà Nội để hoàn tất những
thủ tục cuối cùng cho việc ký kết Hiệp định Paris trong tuần tiếp theo.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

yêu cầu quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải rút về miền Bắc, thiết lập
vùng phi quân sự làm biên giới giữa hai miền. Thiệu còn tuyên bố trên đài
phát thanh rằng: "Bắc Việt Nam là Bắc Việt Nam, Nam Việt Nam là Nam Việt
Nam. Mọi người phải chấp nhận thực tế là tồn tại hai nước Việt Nam, không
bên nào được xâm lược bên nào". Nhận được tin về phản ứng của Thiệu,
Kissinger đã đến Sài Gòn chuyển lá thư đề ngày 16.10.1972 của Nixon cho
Thiệu với nội dung thơng báo tình hình Hiệp định Paris và ngầm dọa thêm
rằng: "Trong bối cảnh này, tôi khuyên ngài hãy tìm mọi cách khơng để phát
sinh bầu khơng khí có thể dẫn đến những sự kiện như năm 1963" (năm xảy
ra cuộc đảo chính Ngơ Đình Diệm). Tuy nhiên, Thiệu vẫn ngoan cố: "Chúng
tôi đã thông báo với ngài rằng chúng tôi không thay đổi lập trường của chúng
tôi đối với vấn đề rút quân". Ngày 18.10, thông điệp tiếp theo mà Nixon
chuyển tiếp đến cho Thiệu với những lời lẽ gay gắt hơn nhưng cũng khơng có


tác động nào đáng kể. Đến ngày 23.11, Tổng thống R.Nixon đã chuyển đến
bức thư cuối cùng tỏ rõ thái độ của Washington với chính quyền Sài Gịn về
Hiệp định Paris: "Bất kỳ một sự trì hỗn nào từ phía các ngài chỉ có thể giải
thích như là một mưu toan ngăn chặn hiệp định. Điều này sẽ ảnh hưởng xấu
đến những nỗ lực hậu thuẫn tiếp theo của chúng tôi đối với ngài và chính phủ
VNCH".


Ngày 25.10, nhận thấy khả năng Mỹ sẽ khơng ký hiệp định như đã thỏa
thuận, Chính phủ ta đã cho cơng bố cơng khai nội dung tóm tắt của dự thảo
mà hai bên đã thỏa thuận với mục đích u cầu Mỹ giữ cam kết, khơng vì sự
phản đối của Thiệu mà đi ngược lại những điều hai bên đã thống nhất. Ngày
26.10, sau khi ta công bố dự thảo hiệp định, Kissinger đã tổ chức một cuộc
họp báo tại Washington DC tuyên bố rằng: "Thứ nhất, chúng ta khẳng định
với Hà Nội rằng chúng ta sẽ giữ nguyên những điều khoản của bản hiệp định
ban đầu, đồng thời bỏ ngỏ khả năng đề nghị thay đổi của Sài Gòn. Thứ hai,
chúng ta muốn chuyển đến Sài Gịn thơng điệp rằng chúng ta đã quyết định
sẽ thực hiện đúng lộ trình ký kết hiệp định". Trong buổi họp báo lịch sử này,
Kissinger còn tuyên bố một câu nổi tiếng: "Hịa bình đã nằm trong tầm tay".
Chính tun bố này của Kisinger đã góp phần đưa đến nhiệm kỳ tổng thống
lần 2 cho Tổng thống R.Nixon trước ứng cử viên ngang ngửa của đảng Dân
chủ G.Mc Govern trong cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ tháng 11.1972.


Ngày 3.12, ngay khi đoàn ta lên đường đến Paris để tiếp tục vịng đàm phán,
nhân dân thủ đơ Hà Nội đã được lệnh sơ tán. Ta đã có những dự báo chính
xác về thái độ của Mỹ trong những ngày đàm phán sắp tới và khả năng của
một cuộc khơng kích ác liệt khó có thể tránh khỏi tới đây. Trước đó, trong
tháng 11.1972, Bộ Chính trị cũng đã ra nghị quyết khẳng định rằng Nixon sẽ
tăng cường các hoạt động quân sự sau khi tái đắc cử tổng thống vì khi đó
Nixon khơng cịn chịu những ràng buộc về chính trị như trong thời kỳ vận
động bầu cử trước đây.



</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

trong phiên họp tháng 1.1973 sau khi tù binh Mỹ được trao trả. Trong khi đó,
từ Paris Kissinger điện về cho Nixon với 2 phương án để giải quyết bế tắc
hiện nay: Phương án thứ nhất, Mỹ có thể đưa ra những yêu cầu tối thiểu với
Hà Nội, những u cầu này có thể ít hơn so với địi hỏi của Thiệu. Do vậy, Mỹ
có thể mạo hiểm cắt đứt quan hệ với Thiệu nếu Hà Nội chấp nhận. Phương án
thứ hai, tìm cách kích động để Hà Nội bỏ cuộc đàm phán bằng cách đưa ra
những yêu cầu mà họ không bao giờ chịu chấp nhận, tiếp đó sẽ đánh bom
cho đến khi Hà Nội buộc phải trao trả tù binh để đổi lấy việc rút quân đội Mỹ
khỏi Nam Việt Nam.


Ngày 13.12, đàm phán giữa ta và Mỹ bị ngưng lại khi hai bên không thỏa
thuận được vấn đề khu phi quân sự và vấn kề ký kết các văn bản pháp lý của
hiệp định. Về thực chất, phái đoàn Mỹ tham gia đàm phán biết rõ mười mươi
rằng ta sẽ không chấp nhận những yêu sách ngang ngược của VNCH nhưng
vẫn đưa ra. Đây chính là một cái cớ tốt nhất để Mỹ đổ lỗi cho phía ta thiếu
thiện chí, gây ra đổ vỡ trong q trình đàm phán hiệp định để Mỹ đưa B.52
ném bom Hà Nội. Ngày 14.12, Tổng thống Nixon triệu hồi Kissinger về nước
và Kissinger đã nói với viên đại sứ VNCH tham gia cuộc đàm phán trước khi
lên máy bay về Mỹ rằng: "Tôi sắp làm một bi kịch".


Sau khi nghe báo cáo trực tiếp của Kissinger, Nixon đã ra "tối hậu thư" yêu
cầu ta trong 72 giờ phải quay trở lại đàm phán, ký kết Hiệp định Paris theo
những điều khoản mới của Mỹ, nếu không, Mỹ sẽ ném bom hủy diệt miền
Bắc. Kịch bản do Kissinger dựng lên đã được Tổng thống Nixon triển khai.
Ngay sau khi gửi thông điệp này cho ta, Nixon đã chỉ thị cho Đô đốc hải quân
Thomas Moorer, trưởng ban tác chiến: "Tôi không muốn bị một tai tiếng nào
về chuyện ta đánh trật mục tiêu này hay mục tiêu nọ. Đây là cơ hội để ông
sử dụng sức mạnh quân sự một cách hiệu quả để giành thắng lợi. Nếu thất
bại, tôi sẽ xem xét trách nhiệm của ông". Người Mỹ đã quyết định mang bom


B.52 đặt lên bàn đàm phán Hiệp định Paris. Chiến dịch Linebacker II là
<b>kết quả của một quá trình chuẩn bị công phu của Tổng thống </b>


<b>R.Nixon, cố vấn H.Kissinger và chính phủ Mỹ.</b>


Ơng Lê Đức Thọ gặp ơng Henry Kissinger tại Paris 1972 (thứ 4 và 5 từ trái
sang )


<b>Kỳ 3: Người mang "bom" đến Paris</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

thảo Hiệp định tháng 10.1972. Những động thái này của Nixon nhằm cho thế
giới thấy rằng Nhà Trắng rất có thiện chí với Hiệp định, thậm chí đã phải ép
Sài Gịn ký kết Hiệp định và nếu có "chuyện gì" sau này thì đó là do lỗi của
phía Sài Gòn và Hà Nội. Trên thực tế, chiến dịch Linebacker đã được chuẩn bị
trong nhiều tháng trước đó.


Ngày 1.5.1972, sau khi nghe tin thị xã Quảng Trị thất thủ, Tổng thống Nixon
đã có cuộc hội đàm gấp với Kissinger và tướng A.Haig để bàn về những biện
pháp quân sự đáp trả Hà Nội nhằm cứu nguy cho quân đội VNCH đang tháo
chạy ở miền Trung. Trong cuộc họp này đã có ba giải pháp được đưa ra, gồm
việc ném bom, phong tỏa miền Bắc, phá vỡ các đê điều hoặc sử dụng vũ khí
hạt nhân. Cuối cùng, Nixon và Kissinger thống nhất với kế hoạch sẽ mở rộng
ném bom miền Bắc và trước mắt là phá hủy tồn bộ Hải Phịng. Thậm chí,
Nixon cịn tun bố: "Sau cuộc bầu cử, tơi sẽ có những hành động dữ dội. Tôi
sẽ ném bom và phong tỏa chúng". Đến ngày 9.5.1972, Tổng thống Nixon đã
ra lệnh triển khai chiến dịch Linebacker (sau này được gọi là Linebachker I)
để leo thang, ném bom phá hoại miền Bắc. Mục tiêu chính trong các trận
oanh tạc của chiến dịch này là nhằm phá hoại hệ thống hậu cần và gây sức
ép tâm lý với miền Bắc.



Trước khi người dân Mỹ tiến hành cuộc bầu cử tổng thống lần thứ 38, ơng Lê
Đức Thọ đã có báo cáo gửi Bộ Chính trị nhấn mạnh rằng nhiều khả năng
Nixon sẽ trúng cử nhiệm kỳ 2, nếu vậy, sẽ có rất nhiều khó khăn với tiến
trình đàm phán Hiệp định Paris của ta. Ngày 7.11.1972, Nixon tái đắc cử
tổng thống, nhưng tình hình nước Mỹ lại rất không thuận lợi: Thượng viện đã
gây sức ép Nixon phải kết thúc sớm cuộc chiến tranh Việt Nam vì vấn đề
ngân sách. Phe Dân chủ và Cộng hịa trong Quốc hội đều nhận thức được
chính quyền Sài Gịn là trở ngại chính đối với việc ký kết Hiệp định giữa Mỹ
và ta. Tình hình hết sức khó khăn vì thái độ của Thiệu, nhưng nếu Mỹ "phớt
lờ" Thiệu để ký Hiệp định với ta thì phái diều hâu trong các cơ quan hoạch
định chính sách sẽ khó lịng chấp nhận chuyện này, các nước đồng minh khác
sẽ nhìn nhận đây là một "sự phản bội" của Mỹ với đồng minh, ảnh hưởng xấu
đến vai trò của Mỹ. Do vậy, giải pháp xem xét lại Hiệp định tháng 10 sẽ là
một lựa chọn hợp lý với Nixon bởi điều này vừa xoa dịu được phản đối của
Thiệu, thanh minh với nhân dân Mỹ về việc đã bỏ những thỏa thuận với Hà
Nội. Đây cũng là một cái cớ hợp lý để Nixon thực hiện lời đe dọa với miền Bắc
hồi tháng 4.1972 rằng: "Chúng ta sẽ không vừa rút ra vừa khóc thầm. Chúng
ta sẽ làm nổ tan tành quân khốn kiếp".


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

dữ dội sắp tới nếu ta không đồng ý: "Tôi sẽ chỉ thị cho ông làm gián đoạn các
cuộc đàm phán và chúng ta sẽ phải tiến hành các hoạt động quân sự trở lại
cho tới khi nào phía bên kia sẵn sàng đàm phán". Đây là một hành động
hiếm khi xảy ra trong các cuộc đàm phán quốc tế - đàm phán là đàm phán,
khơng có đe dọa trong khi đàm phán.


Tại vòng đàm phán tháng 12.1972, cho đến thời điểm này, một số quan chức
Mỹ vẫn cho rằng phái đoàn đại diện ta tại Paris đã bỏ vòng đàm phán này khi
bất đồng giữa hai bên không giải quyết được; hoặc như Kissinger nói, Bắc
Việt đã "khơng khoan nhượng", cố tình trì hỗn đàm phán để chia rẽ



Washington với Sài Gịn và tìm kiếm sự ủng hộ từ phiên họp đầu tháng 1 của
Thượng viện Mỹ? Nhưng theo cuốn Hồ sơ chiến tranh Việt Nam của nhà báo
Mỹ J.Kimball thì thực tế khơng phải như vậy: Tại vịng đàm phán lần 2, hai
bên đã đạt được tiến bộ nhiều hơn so với lần đàm phán trước và chỉ còn
vướng mắc bởi hai vấn đề là việc ký kết các văn bản và khu phi quân sự. Tuy
nhiên, Kissinger và Nixon vẫn âm thầm tìm cách để phá vỡ vòng đàm phán
này để đổ lỗi cho phía Việt Nam Dân chủ Cộng hịa. Đến ngày 12.12, ơng Lê
Đức Thọ thơng báo cho phía đồn Mỹ biết rằng ông sẽ về Hà Nội để báo cáo
và xin phép ý kiến của Bộ Chính trị. Ngày 13.12, Kissinger đề nghị tạm
ngưng vòng đàm phán này cho đến sau lễ Noel. Trước khi về Hà Nội, ông Lê
Đức Thọ đã nói với Kissinger rằng Hà Nội và Washington nên trao đổi thêm
và tỏ ý tin tưởng rằng hai bên sẽ thu xếp ổn thỏa những vấn đề còn lại.
Ngay khi vòng đàm phán lần 2 bị tạm ngưng, trong bức điện mật gửi từ Paris
về cho Nixon, Kissinger lại đề nghị giải quyết vấn đề Hiệp định theo 2 con
đường. Con đường thứ nhất là sẽ "chuyển sang chơi cứng rắn" với Hà Nội và
tăng cường gây sức ép rất lớn bằng ném bom và các biện pháp khác. Con
đường thứ hai là tiếp tục duy trì quan hệ "bề ngồi" với Hà Nội như hiện nay,
tuy nhiên nếu tới vịng đàm phán tới, Hà Nội vẫn khơng chấp nhận những
yêu cầu của Mỹ thì sẽ chuyển sang "chơi cứng rắn". Nixon đã quyết định đi
theo con đường thứ nhất với phương án tấn công quân sự Hà Nội bằng chiến
dịch Linebacker II.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

<b>Kỳ 4: Cuộc khơng kích khủng khiếp</b>


Lúc 18 giờ 30 phút ngày 18.12.1972, 67 chiếc B.52 Mỹ xuất kích từ đảo
Guam với khoảng 100 máy bay chiến thuật hộ tống đã bay theo thế trận
“hành khúc chân voi” trên một vùng trời dài khoảng 100 km, rầm rập nhằm
Hà Nội thẳng tiến. Đại đội ra-đa 16 (Trung đoàn 291) tại Nghệ An đã kịp thời
phát hiện khi tốp máy bay này đang chuyển hướng bay dọc sông Mê Kơng lên
phía Bắc để quay về Hà Nội. Đến 19 giờ 15 phút, Bộ Chính trị và Quân ủy


Trung ương đã phát lệnh báo động trên toàn miền Bắc. Lúc 19 giờ 40 phút,
B.52 Mỹ đã bắt đầu trút hàng tấn bom xuống Hà Nội. Trong đêm 18.12, cả
Hà Nội rung chuyển, rực cháy bởi bom Mỹ và pháo phịng khơng, tên lửa của
ta. Theo tài liệu của qn chủng Phịng khơng - Khơng qn, trong đêm đầu
tiên này, Mỹ đã huy động 90 lượt máy bay B.52 và 135 lượt máy bay chiến
thuật đánh liên tiếp vào các sân bay xung quanh Hà Nội, một số khu vực
trọng yếu khác. Đồng thời, Mỹ đã huy động 28 lượt máy bay hải quân đánh
phá Hải Phòng.


B.52 (trên) và máy bay tiếp dầu KC-135 tại căn cứ U-Tapao, Thái Lan - Ảnh:
USAF


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

chiến cơng của Tiểu đồn 59 (Trung đồn 261). Rạng sáng ngày 19.12, vào
lúc 4 giờ 39 phút, Tiểu đoàn 77 (Trung đoàn 257) tại Thanh Oai (Hà Tây) đã
bắn rơi chiếc B.52 thứ hai. Cùng ngày, Tiểu đoàn 52 (Trung đoàn 267) cũng
bắn rơi thêm một B.52 trên đường về căn cứ U - Tapao. Sau hai ngày đầu
đánh trả cuộc khơng kích của Mỹ, ta đã gấp rút tổ chức kiểm điểm, rút kinh
nghiệm. Theo số liệu được tập hợp từ báo cáo của các đơn vị chiến đấu thì ta
đã bắn rơi được 5 máy bay B.52. Tuy nhiên, ta đánh giá hiệu quả chiến đấu
chưa cao, các đơn vị chiến đấu chưa có kinh nghiệm trong việc đối phó với
những cuộc khơng kích khủng khiếp về cường độ lẫn quy mô như vậy. Đồng
thời, đạn dược đã bị hao hụt nhiều, đặc biệt là tên lửa. Trước đó, bộ đội tên
lửa đã được chuẩn bị đến mức tối đa về cơ số đạn được 92 (2 cơ số đạn với 1
tiểu đoàn tên lửa), hệ số kỹ thuật được đảm bảo tuyệt đối 100%. Tuy nhiên,
chỉ qua đêm 18.12, đã có những báo cáo về nguy cơ thiếu tên lửa và nếu
tình trạng sử dụng tên lửa như thế này tiếp diễn thì sẽ khó đảm bảo cho việc
đánh trả B.52 trong những ngày tới nếu Mỹ vẫn khơng kích Hà Nội với quy
mô như vừa qua. Do vậy, các đơn vị đã được lệnh “Giữ đạn đánh B52”, thế
nhưng tình trạng khan hiếm đạn vẫn xảy ra ở nhiều nơi, có đơn vị đã phải
bắn đến quả tên lửa cuối cùng. Do vậy, các phân xưởng lắp ráp tên lửa đã


được vận hành tối đa, các loại tên lửa hư hỏng đã được lệnh phải tìm cách
sửa chữa, phục hồi để có thể vươn lên bầu trời Hà Nội đáp trả B.52. Đồng
thời, ta đã gấp rút chuyển phần lớn số tên lửa đang dự trữ tại Thanh Hóa,
điều thêm 2 tiểu đồn tên lửa từ Hải Phịng và 3 tiểu đồn thuộc trung đoàn
tên lửa 274 từ Quảng Trị về chi viện cho Hà Nội. Đến ngày 26.12, vấn đề
thiếu tên lửa đã được giải quyết cơ bản.


Đêm 20.12, không qn ta đã xuất kích đánh vào đội hình máy bay chiến
thuật của Mỹ, tạo điều kiện cho bộ đội tên lửa tiêu diệt B.52. Đêm thứ ba này
đã trở thành một đêm kinh hồng với các phi cơng B.52 Mỹ khi có tới 5 chiếc
B.52 bị tên lửa ta tiêu diệt. Đến rạng sáng ngày 21.12, bộ đội tên lửa cịn lập
thêm một chiến cơng nữa khi diệt được thêm một máy bay B.52, đưa tổng số
máy bay B.52 bị bắn rơi trong đêm lên tới 6 chiếc (có 5 chiếc rơi tại chỗ)
bằng 35 tên lửa, bắt sống 12 phi công Mỹ. Như vậy, trong 4 ngày đầu, ta đã
tiêu diệt 12 máy bay B.52 của Mỹ, điều này đã khiến chiến dịch Linebacker II
đã được điều chỉnh kéo dài thêm so với 3 ngày như kế hoạch ban đầu của
Mỹ. Từ đêm 22.12, sau khi kế hoạch khơng kích Hà Nội, Hải Phịng được điều
chỉnh, tần suất và cường độ tấn cơng của máy bay B.52 và máy bay chiến
thuật Mỹ có dấu hiệu giảm sút. Sau này ta mới biết rằng Bộ chỉ huy không
quân chiến lược Mỹ (SAC) vẫn ra lệnh cho các phi công tiếp tục oanh kích Hà
Nội như trước, nhưng các phi cơng B.52 đã tìm mọi cách lảng tránh Hà Nội
sau khi nếm trải sức kháng cự mãnh liệt của quân dân ta. Ngay sau chiến
thắng đêm 20 rạng ngày 21 của ta, hãng thơng tấn AP (Mỹ) đã bình luận:
“Nếu cứ theo đà này thì máy bay B.52 của Mỹ sẽ bị diệt chủng”, còn các
tướng lĩnh Mỹ chỉ huy chiến dịch này ở căn sứ Offut (Nebraska) cũng phải
thừa nhận rằng trong 2 tuần lễ nữa Mỹ sẽ khơng cịn một chiếc máy bay B.52
nếu tiếp tục đưa B.52 vào “nướng” tại miền Bắc theo kiểu này.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

Theo đó, Bộ Tổng tham mưu đồng ý với nhận định rằng sau khi bị mất nhiều
B.52, Mỹ sẽ thay đổi cách đánh và mục tiêu sắp tới của các phi công Mỹ sẽ là


những trận địa tên lửa của ta. Do vậy, ta đã đưa thêm 2 tiểu đồn pháo cao
xạ từ Thanh Hóa và 2 trung đồn pháo cao xạ từ Hải Phịng về Hà Nội để
tăng cường bảo vệ bộ đội tên lửa. Đến ngày 21.12, Hà Nội đã có 7 trung
đoàn pháo cao xạ. Đồng thời, các phân xưởng sửa chữa vũ khí, khí tài tên lửa
đã được bố trí ngay sát trận địa để phục vụ kịp thời mọi tình huống. Tuy
nhiên, sau đêm 21.12, số lượt B.52 tấn công Hà Nội đã giảm sút nhiều,
chúng chỉ đánh mỗi đêm 1 lượt với mỗi đợt từ 24 đến 33 máy bay B.52. Tiếp
đó, đêm 24.12, bộ đội pháo cao xạ đã bắn rơi 1 máy bay B.52, nâng số máy
bay B.52 bị bắn hạ trong 6 ngày đầu là 17 chiếc, 5 máy bay F.111 và 24 máy
bay khác.


Đêm 26.12, sau khi điều chỉnh lại chiến thuật tấn công, Mỹ tổ chức một đợt
khơng kích rầm rộ khơng kém đêm đầu tiên với số lượng máy bay B.52 được
huy động lên tới 129 chiếc, đánh dồn dập mỗi mục tiêu từ ba hướng khác
nhau (khác với đánh từ một hướng như trước kia). Đây là trận quyết chiến
quyết định số phận của chiến dịch Linebacker II. Bom Mỹ đã hủy diệt phố
Khâm Thiên, khu Tương Mai, Mai Hương, Bệnh viện Bạch Mai... Tuy nhiên,
Mỹ đã phải trả giá đắt cho những tội ác của họ với đồng bào thủ đô khi 18
máy bay bị bắn hạ, trong đó có 8 chiếc B.52. Sau đó, hàng đêm Mỹ chỉ tổ
chức khoảng 50 lượt B.52 khơng kích Hà Nội. Trong các ngày 27, 28 và
29.12, bộ đội không quân đã bắn rơi 2 máy bay B.52 (một chiếc do Anh hùng
Phạm Tuân bắn đêm 27.12), đây là những trường hợp đầu tiên trên thế giới
máy bay B.52 bị bắn hạ bởi lực lượng không quân. Đồng thời, bộ đội tên lửa
cũng bắn rơi thêm 5 chiếc B.52.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

Xác một chiếc B.52 bị bắn rơi tại Hà Nội - Ảnh: Travelblog
Chiến thuật


<b>Máy bay chiến lược B.52 ra đời là nhằm phục vụ các cuộc chiến tranh </b>
<b>có quy mơ lớn với những đối thủ ngang ngửa của Mỹ là Liên Xô, Trung</b>


<b>Quốc. Trong trường hợp đó, B.52 sẽ có nhiệm vụ ném bom hạt nhân </b>
<b>để tiêu diệt đối thủ. Tuy nhiên, trước những bế tắc trong chiến tranh </b>
<b>Việt Nam, người Mỹ đã quyết định sử dụng B.52 trên chiến trường </b>
<b>Việt Nam như là một con át chủ bài khi họ cảm thấy sắp sửa thua </b>
<b>cuộc.</b>


<b>Theo chiến thuật của SAC (Bộ Chỉ huy không quân chiến lược Mỹ) </b>
<b>trong chiến dịch Linebacker thì đội hình B.52 được bố trí theo tốp 3 </b>
<b>chiếc hình tam giác, 1 chiếc đi đầu, hai chiếc đi sau bay so le cách </b>
<b>chiếc đi đầu và cách nhau 2,4 km. Cách bố trí này tạo ra sức hủy diệt </b>
<b>rất lớn của bom B.52 khi cả tốp cùng oanh tạc vào một mục tiêu. Tuy </b>
<b>nhiên, việc bố trí này lại khiến đối phương phán đốn được hướng của</b>
<b>các chiếc cịn lại trong tốp sau khi đã phát hiện ra chiếc đi đầu để bố </b>
<b>trí tên lửa đất đối khơng (SAM) tấn cơng, hoặc kịp trú ẩn trước khi </b>
<b>bom của cả tốp B.52 trùm lên mục tiêu. Trước khi ném bom, các hệ </b>
<b>thống gây nhiễu được kích hoạt và cả tốp sẽ bẻ một góc 90 độ bỏ </b>
<b>chạy sau khi thả bom xong. Do vậy, các đơn vị SAM của ta sau khi </b>
<b>phát hiện được vị trí của chiếc B.52 đầu tiên đã theo dõi sát điểm </b>
<b>ngoặt 90 độ này, tính tốn để phóng lên một tên lửa ngay "điểm </b>
<b>chết" này khi chiếc B.52 đầu tiên cũng vừa lao tới.</b>


<b>Trong thời gian này, các hoạt động xuất kích của tốp B.52 ln phải </b>
<b>tn theo một lộ trình bay cố định. Nếu mục tiêu được lệnh oanh tạc </b>
<b>nhiều lần thì các tốp B.52 sẽ lần lượt bay đến mục tiêu theo cùng một</b>
<b>hướng, cùng độ cao rồi thả bom. Đây chính là sơ hở chết người của </b>
<b>các sĩ quan chỉ huy SAC khiến cho viên đại úy không quân </b>


<b>Schneidenman đã phẫn nộ kêu lên trong cuộc họp triển khai chiến </b>
<b>dịch Linebacker II (ngày 17.12.1972) rằng: "Rõ ràng là chúng ta đã </b>
<b>xuất phát theo những hướng bay, độ cao cố định và điều này khơng </b>


<b>khác gì với cảnh lính Anh ra trận trong Thế chiến I - đi đều, quỳ và </b>
<b>bắn theo hàng".</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

<b>tiên, các máy bay F-111 bay vào miền Bắc ở tầm bay thấp với tốc độ </b>
<b>siêu âm để tấn công các sân bay. Các máy bay F-4 bay trước để rải </b>
<b>nhiễu kim loại chống ra-đa của ta, tiếp theo là các tốp B.52 rồi hơn </b>
<b>100 chiếc F-4 có nhiệm vụ đánh chặn MiG để bảo vệ B.52. Các tốp </b>
<b>B.52 được bố trí bay qua mỗi mục tiêu từ 2 - 3 phút trên cùng một </b>
<b>đường bay, cùng một tốc độ và độ cao giống nhau. Khi tốp đầu tiên </b>
<b>xâm nhập vùng trời Hà Nội, nhiều tên lửa SAM bắn lên đã không </b>
<b>trúng mục tiêu. Đến đêm 20.12, các phi công Mỹ đã ngạc nhiên khi </b>
<b>thấy một số máy bay MiG của Bắc Việt Nam chỉ bay lên nhưng không </b>
<b>gây rối hoặc tấn công mà không hề biết rằng các phi cơng MiG chỉ có </b>
<b>nhiệm vụ ghi nhận các số liệu về hướng bay, tốc độ và độ cao của các </b>
<b>tốp B.52 để báo cáo về cho các trận địa SAM. Mỹ đã mất 6 chiếc B.52 </b>
<b>trong đêm đó.</b>


Mục tiêu


<b>Nhiệm vụ chính của các tốp B.52 trong những ngày đầu là tiêu diệt </b>
<b>các mục tiêu chiến lược của miền Bắc như sân bay, kho quân sự... Tuy</b>
<b>nhiên, đây lại là sai lầm nghiêm trọng với các tướng lĩnh của SAC bởi </b>
<b>vì ưu tiên đầu tiên của các trận khơng kích là phải tiêu diệt được vũ </b>
<b>khí phịng khơng lợi hại của đối phương, sau đó mới tính đến các mục </b>
<b>tiêu khác. Sai lầm này đã không được các sĩ quan chỉ huy chiến dịch </b>
<b>Linebacker phát hiện ra kể từ đêm 18.12 cho đến 25.12. Đến ngày </b>
<b>26.12, tới khi số B.52 bị bắn hạ đã ở mức không thể chấp nhận được </b>
<b>thì SAC mới phát hiện được điều này và điều chỉnh mục tiêu chính của</b>
<b>các tốp B.52 là các trận địa SAM của ta. Tuy nhiên, sự điều chỉnh này </b>
<b>quá muộn bởi lúc đó ta cũng đã bố trí lại thế trận, tăng cường các đơn</b>


<b>vị pháo cao xạ để bảo vệ bằng được các trận địa tên lửa và các phi </b>
<b>cơng B.52 Mỹ cũng khơng cịn đủ can đảm để bay vào Hà Nội tìm diệt </b>
<b>các trận địa SAM.</b>


Kinh nghiệm chiến trường


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

<b>tên lửa phịng khơng cũng đã được cải tiến để có thể tìm diệt B.52 dễ </b>
<b>dàng hơn. Đồng thời, hệ thống ECM của B.52 khi được kích hoạt sẽ </b>
<b>buộc máy bay phải bay gần như theo đường thẳng với độ nghiêng </b>
<b>cánh hạn chế từ 15 - 20 độ cho nên khơng gây ra nhiều khó khăn cho </b>
<b>việc tấn cơng của tên lửa. Ngồi ra, SAC cịn có một quy định rất chặt </b>
<b>chẽ là các máy bay B.52 phải ln bay theo đội hình quy định trong </b>
<b>mọi tình huống, nếu tốp phi cơng nào vi phạm sẽ bị đưa ra tòa án </b>
<b>binh. Do vậy, khi một chiếc B.52 trong đội hình bị trúng tên lửa thì </b>
<b>trận địa SAM mặt đất vẫn có thể tìm diệt được những những chiếc còn</b>
<b>lại.</b>


<b>Sau này, nhiều chuyên gia qn sự Mỹ cịn phân tích, mổ xẻ để tìm ra </b>
<b>rất nhiều sai lầm của Mỹ trong chiến dịch Linebacker II. Tuy nhiên, </b>
<b>có một điều mà ít người thừa nhận, đó là khơng ít phi cơng B.52 đã </b>
<b>tìm cách thối thác nhiệm vụ vì lý do sức khỏe, từ chối xuất kích hoặc</b>
<b>tìm lý do để khơng tiếp cận, oanh kích mục tiêu trong chiến dịch lịch </b>
<b>sử này. Bí mật vụ Mỹ ném bom sứ quán Pháp ở Hà Nội 1972</b>


Khi cuộc ném bom được loan tin ra khắp thế giới, Bộ Ngoại giao Pháp triệu
đại sứ Mỹ đến cực lực phản kháng, thì ở bên phía trời Mỹ, Menvil Laird Bộ
trưởng Quốc phịng Mỹ tuyên bố “có thể đó là do một tên lửa SAM của Việt
Nam bắn lên đã rơi xuống đấy”.


<i><b>Máy bay ném bom chiến lược B-52 đang ném bom rải thảm</b></i>


<b>Từ những dòng nhật ký</b>


Đại sứ Pháp ở Bắc Kinh, ông E. Manach ghi trong nhật ký công tác của mình:
“Tin từ sứ quán Thụy Điển tại Việt Nam và Trung Quốc cho biết: Tòa Tổng
Đại diện (tức Sứ quán) Pháp ở Hà Nội vừa bị máy bay Mỹ ném bom lúc 11 giờ
35 phút. Nhà ở của Tổng Đại diện bị phá hủy hồn tồn. Ơng Tổng đại diện
Susini bị trọng thương đang trong tình trạng nguy kịch”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

E. Manach từ Bắc Kinh điện về Paris và được Chính phủ Pháp chỉ thị cho sang
Hà Nội xem xét tình hình.


Nhờ sự giúp đỡ của bà Phù Hạo ở Bộ Ngoại giao Trung Quốc, ông có được
một chiếc máy bay Trung Quốc chở sang Hà Nội về đến nơi sáng sớm, để
trước tiên nhìn thấy tận mắt tình trạng của Susini người bạn thân, đồng
nhiệm ở Việt Nam. Tại Bệnh viện Xanh Pôn, ông được gặp bác sĩ Phạm Văn
Phúc, người phụ trách nhóm thầy thuốc đang cứu chữa cho Susini và được
biết: “Khi được đưa đến bệnh viện, ông Tổng đại diện Pháp đã trong tình
trạng chết lâm sàng, không lấy được mạch và không đo thấy được huyết áp
nữa. 24 giờ sau khi trải qua trạng thái vô vọng, một bước cứu chữa quan
trọng đã được vượt qua. Bây giờ tình hình cịn phụ thuộc vào sự vận hành
của thận và sự chống đỡ của mô đối với sự nhiễm trùng. Vết thương ở đầu,
mặc dù có bị vỡ động mạch ở thái dương, nhưng cũng không nguy hiểm
bằng. Nạn nhân đang phải chịu đựng một cuộc phẫu thuật mất nhiều thời
gian có nhiều đau đớn khi phải thay băng đang bó kín cả thân mình.


Trong sứ qn, nhiều người bị thương đang được điều trị. Riêng ông Qemal
Rahmanaj, đại diện Anbani, thì bị thương ở đầu vì bom nổ vừa 5 phút sau khi
ơng tới nơi để nói chuyện với ông Tổng đại diện Pháp. Cũng tại đây, bà Aléia
El Hakim người Ai Cập đã chết ngay tại chỗ.



Ở địa điểm vừa bị ném bom, ông đại sứ Pháp từ Trung quốc đến đã chứng
kiến cảnh một nhân viên Việt Nam làm việc tại tòa Tổng đại diện, ơng Hồng
Văn Giang, đã chết, thi thể được bới lên, đứt một cánh tay và vỡ sọ.


<i><b>Danh sách nạn nhân</b></i>
Ông đại sứ Pháp ghi trong nhật ký:


“Tất cả mọi cảnh, thật khơng có gì đẹp đẽ. Bao nhiêu tổn thất. Những hố
bom toang hoác. Một người phụ nữ ẵm trong tay một trẻ em khoảng 2 tuổi,
đã mất một cánh tay, một chân. Thật là muôn năm, cái Thế giới tự do của
Mỹ! Biết có ai cùng chia sẻ nỗi buồn tởm lợm của mình?”.


<b>Những lúng túng che đậy khơng dấu nổi</b>


Khi cuộc ném bom được loan tin ra khắp thế giới, Bộ Ngoại giao Pháp triệu
đại sứ quán Mỹ đến cực lực phản kháng, thì ở bên phía trời Mỹ, Menvil Laird
Bộ trưởng Quốc phịng Mỹ tun bố “có thể đó là một tên lửa SAM của Việt
Nam bắn lên đã rơi xuống đấy”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

thành phố rồi mới chúc xuống cắt bom xuống khu sứ quán, đồng thời sứ
quán Angiêri cũng bị tấn công, sứ quán Ấn Độ bị một quả bom khơng nổ.
Riêng tịa Tổng đại diện Pháp bị nhằm đánh nặng nề nhất.


<i><b>Hố bom sau khi B-52 rải thảm</b></i>


Những người tìm bới đã đào lên được một số mảnh bom trong đó có mảnh
còn rõ những chữ ghi MOD. BO. PP.


<b>Tại sao?</b>



Câu hỏi được đặt ra để toàn thế giới, và nhất là phía các nước phương Tây,
tìm hiểu ra ngun nhân.


Ơng Mai Văn Bộ, Vụ trưởng Vụ châu Âu II - Bộ Ngoại giao lúc ra bắt tay đón
ơng đại sứ Pháp tại Trung Quốc đến sân bay Gia Lâm, đã nói với ơng đại sứ:
- Ngài thử xem cuộc ném bom này có lợi cho ai?


Và đã tự nói lời giải đáp ngắn gọn:
- Hãy tìm nó ở Sài Gịn?


Câu nói của nhà ngoại giao Việt Nam thật là đầy hàm ý và tế nhị.


<i><b>Tên lửa SAM và pháo cao xạ trong 12 ngày đêm Điện Biên Phủ trên</b></i>
<i><b>không</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

miền Nam Việt Nam một chính phủ hịa hợp tán thành hịa bình.


Từ giữa năm 1972, ngoại trưởng Pháp đã tuyên bố công khai lập trường của
Pháp là thành lập ở miền Nam Việt Nam một chính phủ liên hiệp ở thành
phần cũng như tán thành ngừng bắn.


Chính lập trường ấy mâu thuẫn với lập trường của Nguyễn Văn Thiệu và phái
hiếu chiến Mỹ ủng hộ Thiệu.


Và nguyên nhân sâu xa của cuộc ném bom vừa qua vào tòa Tổng đại diện
Pháp đúng là phải “tìm thấy ở Sài Gịn”. Nó biểu hiện một mâu thuẫn đã
bùng nổ giữa hai lập trường đối kháng.


<i><b>Phịng khơng Bắc Việt</b></i>
<b>Trong hoạn nạn, càng thấy rõ bạn, thù</b>



Ông đại sứ quán Pháp ở Trung Quốc khi sang thăm người đồng nghiệp của
mình, đã ghi nhận những ấn tượng sâu sắc về người Việt Nam. Ông đã viết:
“Bác sĩ Phúc, người phụ trách chính cuộc cứu chữa cho Susini, là con người
rất tế nhị và thanh nhã. Giọng nồng ấm, ơng nói lên sự mong muốn của thầy
thuốc cả hai bên là cùng dốc sức cứu nạn nhân trong cơn nguy kịch.


Những người chỉ mới biết nhau có 3 ngày cùng đồng tâm nhất trí cộng sự với
nhau trong tình thân ái anh em, chống với cái chết”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

công ban đầu, ông đại sứ Pháp còn băn khoăn, sợ mếch lòng những người
thầy thuốc Việt Nam đáng mến.


Sau này, ở Pháp được cứu chữa tiếp, nhưng Susini vẫn không qua khỏi được,
do bởi hai lá phổi bị bỏng, cuối cùng đã không thở được.


Người đồng nhiệm của ông, ông đại sứ Pháp E. Manach còn ghi trong nhật ký
những lời biết ơn đầy thiện cảm đối với ông Bác sĩ Việt Nam Phạm Văn Phúc
ở bệnh viện Xanh Pôn Hà Nội, mà ông đánh giá là một người “tận tâm và có
trình độ đáng khâm phục”.


</div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×