Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (118.82 KB, 9 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>1. Dàn ý Cảm nhận Bình Ngơ đại cáo đoạn 1</b>
1. Mở bài
- Giới thiệu những nét khái quát về tác giả Nguyễn Trãi (đặc điểm về cuộc đời, con
người, quan niệm sáng tác, các sáng tác tiêu biểu,...)
Giới thiệu những nét khái quát về tác phẩm "Bình Ngơ đại cáo" (thể loại, cảm hứng
chủ đạo, hồn cảnh ra đời, đặc sắc về nội dung và nghệ thuật,...)
- Giới thiệu khái quát về đoạn 1 của tác phẩm "Bình Ngơ đại cáo"
2. Thân bài
- Nêu lên tư tưởng nhân nghĩa sâu sắc, độc đáo
+ "Nhân nghĩa" là một quan niệm tư tưởng cốt lõi trong quan niệm của Nho giáo,
nhằm thể hiện rõ mối quan hệ tốt đẹp, gắn bó giữa con người với con người trên cơ sở
của tình thương và đạo lí.
+ Với Nguyễn Trãi, nền tảng cốt yếu của "nhân nghĩa" chính là yên dân, là đem đến
cho nhân dân cuộc sống bình yên, ấm êm và hạnh phúc.
+ Để dân được yên thì việc quan trọng cần phải làm đó chính là "trừ bạo", là đánh
đuổi những kẻ tàn bạo đang xâm lược nước ta và cả những kẻ tham tàn trong nước đã
đẩy nhân dân vào cuộc sống cơ cực, khốn khó, lầm than
- Nêu lên chân lí độc lập khách quan của dân tộc Đại Việt ta từ ngàn đời nay:
+ Có nền văn hiến từ lâu đời, có lãnh thổ riêng đã được phân định rõ ràng và mỗi
vùng miền đều có những nét phong tục, tập quán riêng, mang bản sắc riêng của dân
tộc Đại Việt.
+ Đặt các triều đại của nước Đại Việt sánh ngang với các triều đại phong kiến phương
Bắc, điều đó khơng chỉ khẳng định nền độc lập của dân tộc mà qua đó cịn thể hiện
niềm tự hào về những truyền thống, về lịch sử ngàn năm của dân tộc.
+ Điểm lại những chiến thắng lịch sử huy hoàng, vang dội của quân và dân ta trong
lịch sử.
3. Kết bài
Khái quát những nét đặc sắc về nội dung, nghệ thuật trong đoạn 1 của tác phẩm "Bình
Ngơ đại cáo" và nêu cảm nhận của bản thân.
<b>2. Cảm nhận Bình Ngơ đại cáo đoạn 1</b>
Sinh ra trong một gia đình vốn có truyền thống u nước và văn học, Nguyễn Trãi đã
sớm được tiếp xúc và thấu hiểu những tư tưởng nền tảng của Nho giáo. Nguyễn Trãi
khơng chỉ là nhà Nho, bậc kì tài về chính trị và qn sự mà ơng cịn là nhà văn, nhà
thơ nổi tiếng của thời đại. Những sáng tác của Nguyễn Trãi luôn lấp lánh chủ nghĩa
yêu nước sâu sắc và tác phẩm "Bình Ngơ đại cáo" là một trong số những tác phẩm
như thế. Đặc biệt, đoạn mở đầu tác phẩm "Bình Ngơ đại cáo" đã nêu lên một cách rõ
nét luận đề chính nghĩa làm tiền đề tư tưởng cho toàn bộ bài cáo.
Trước hết, đoạn mở đầu tác phẩm đã nêu lên tư tưởng nhân nghĩa sâu sắc, độc đáo.
<i>Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân</i>
<i>Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.</i>
gắn bó giữa con người với con người trên cơ sở của tình thương và đạo lí. Xuất thân
là một nhà nho, vì thế, có lẽ hơn ai hết, Nguyễn Trãi thấu hiểu sâu sắc quan điểm này
của Nho giáo và lựa chọn nó làm nền tảng tư tưởng cốt lõi, xuyên suốt toàn bộ bài
Không chỉ nêu lên tư tưởng nhân nghĩa làm nền tảng chân lí vững chắc, trong phần
mở đầu của bài cáo, tác giả Nguyễn Trãi còn nêu lên chân lí độc lập của dân tộc ta từ
ngàn đời nay.
<i>Như nước Đại Việt ta từ trước</i>
<i>Vốn xưng nền văn hiến đã lâu</i>
<i>Núi sông bờ cõi đã chia</i>
<i>Phong tục Bắc Nam cũng khác</i>
<i>Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập</i>
<i>Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương</i>
<i>Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau</i>
<i>Song hào kiệt đời nào cũng có.</i>
Chỉ bằng những câu thơ ngắn gọn nhưng có lẽ cũng đủ để Nguyễn Trãi điểm lại một
cách đầy đủ và rõ nét những truyền thống từ lâu đời của dân tộc, đó cũng chính là
chân lí độc lập khách quan mà ông muốn đề cập tới. Nước Đại Việt cũng như bao dân
tộc khác có nền văn hiến từ lâu đời, có lãnh thổ riêng đã được phân định rõ ràng và
cùng với đó mỗi vùng miền đều có những nét phong tục, tập quán riêng, mang bản sắc
Thêm vào đó, trong những câu thơ kết thúc đoạn mở đầu của tác phẩm, tác giả
Nguyễn Trãi đã khéo léo điểm lại những chiến thắng lịch sử huy hoàng, vang dội của
quân và dân ta trong lịch sử.
<i>Lưu Cung tham công nên thất bại</i>
<i>Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong</i>
<i>Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đơ</i>
<i>Sơng Bạch Đằng giết tươi Ơ Mã</i>
<i>Việc xưa xem xét</i>
<i>Chứng cứ cịn ghi.</i>
Tóm lại, có thể thấy, đoạn mở đầu của tác phẩm "Bình Ngơ đại cáo" với giọng văn
hào hùng, tràn đầy niềm tự hào dân tộc, tác giả Nguyễn Trãi đã làm bật nổi tư tưởng
chính nghĩa và chân lí độc lập khách quan của dân tộc. Chính điều đó là nền tảng tư
tưởng vững chắc xuyên suốt toàn bộ tác phẩm.
<b>3. Cảm nhận đoạn 1 2 Bình ngơ đại cáo của Nguyễn Trãi</b>
Mở bài 1: Tinh thần yêu nước đã trở thành sợi dây nối kết và xuyên suốt các thời đại
lịch sử Việt Nam. Chính tình u nước đã tạo nên động lực làm nên những chiến công
vang dội của dân tộc. Đó cũng là tinh thần chung mà Bình Ngơ đại cáo của Nguyễn
Trãi. Tinh thần u nước, luận đề chính nghĩa được Nguyễn Trãi làm rõ qua đoạn 1, 2
của tác phẩm.
<i>“Từng nghe</i>
<i>Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân</i>
<i>Quân điếu phạt trước lo trừ bạo</i>
<i>………</i>
<i>Lẽ nào trời đất dung tha</i>
<i>Ai bảo thần nhân chịu được”</i>
Mở bài 2: “Bình Ngơ đại cáo” của Nguyễn Trãi được mệnh danh như bản tuyên ngôn
độc lập bất hủ của dân tộc, áng văn chính luận mẫu mực của non sơng và cũng là áng
thiên cổ hùng văn cịn vang mãi nghìn đời. Đại cáo Bình Ngơ được Nguyễn Trãi viết
vào năm 1428 bố cáo với thiên hạ về nền độc lập tự cường, về chủ quyền của đất
nước ta. Mỗi phần của tác phẩm đều chứa đựng ý nghĩa sâu sắc, đặc biệt phần đầu của
bài Cáo đã cho thấy tư tưởng nhân nghĩa sáng ngời, lịng tự hào tự tơn dân tộc cùng
với sự tàn bạo của quân Minh khi giày xéo lên mảnh đất dân tộc. Cảm nhận đoạn 1 2
bình ngơ đại cáo sẽ thể hiện rất rõ điều đó.
<b>Tìm hiểu và cảm nhận đoạn 1 2 Bình ngơ đại cáo của Nguyễn Trãi</b>
Bình Ngơ đại cáo được Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Lợi soạn thảo để công bố cho mọi
người biết về sự nghiệp đánh tan giặc Minh xâm lược. Từ những buổi đầu khởi nghĩa
khó khăn nơi vùng rừng núi hiểm trở đến những ngày chiến công rực rỡ là cả một giai
đoạn gian khổ nhưng đầy hào hùng của dân tộc.
Ngay từ nhan đề “Bình Ngơ đại cáo” đã gợi ra nhiều suy nghĩ. “Bình Ngơ” chính là
dẹp n giặc Minh xâm lược. Gọi giặc Minh là Ngơ vì Nguyễn Trãi muốn nhắc đến
nguồn gốc, quê cha đất tổ của Chu Nguyên Chương – người đứng đầu và lập nên nhà
Minh. Bởi lẽ trong xuyên suốt chiều dài lịch sử dân tộc đã có nhiều lần giặc phương
Bắc kéo đến xâm lược chúng ta nhưng kết quả đều là thất bại. Điều đó đã minh chứng
“Đại cáo” nhằm chỉ quy mô rộng lớn và tính chất trọng đại của bài cáo. “Bình Ngơ
đại cáo” là bản cáo lớn mang tính quy mơ tồn dân tộc thơng báo cho nhân dân biết về
chiến thắng chống quân Minh xâm lược, đồng thời để khẳng định tuyên bố độc lập
của dân tộc. Phần một và phần hai là cơ sở tiền đề cho cuộc kháng chiến. Thứ nhất đó
là tư tưởng nhân nghĩa. Thứ hai là bản cáo trạng tội ác của giặc.
<b>Tư tưởng nhân nghĩa trong tác phẩm Đại cáo Bình Ngơ</b>
Mở đầu bài thơ, Nguyễn Trãi đã xác lập luận đề chính nghĩa của cuộc khởi nghĩa.
<i>“Từng nghe</i>
<i>Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”</i>
Tư tưởng nhân nghĩa là một tư tưởng được các nước phương Đông mặc nhiên thừa
nhận. “Nhân nghĩa” là mối quan hệ giữa người với người được xây dựng trên cơ sở
tình thương và đạo đức. Nếu tư tưởng nhân nghĩa trong quan niệm Nho giáo là cách
đưa con người vào các mối quan hệ khuôn khổ phạm trù đạo đức để phục vụ cho mục
đích quản lí xã hội của nhà cầm quyền.
Nhưng tư tưởng nhân nghĩa trong Bình Ngơ đại cáo của Nguyễn Trãi đã trở thành
mục đích của cuộc kháng chiến. Bởi đặt trong hoàn cảnh thực tiễn của đất nước, nhân
nghĩa được cụ thể hóa thành yên dân. Nghĩa là làm cho nhân dân có cuộc sống ấm no
hạnh phúc. Muốn nhân dân được ấm no thì phải diệt trừ bạo ngược, đặc biệt đó chính
là qn Minh xâm lược. Từ tư tưởng nhân nghĩa của Nho giáo, Nguyễn Trãi đã
chuyển hóa vào thực tiễn đất nước ta. Và đây cũng chính là mục đích chiến đấu, là lý
tưởng cao đẹp mà suốt cuộc đời Nguyễn Trãi theo đuổi.
<b>Khẳng định chủ quyền lãnh thổ và nền độc lập dân tộc</b>
Khi phân tích đoạn 1 bài Bình Ngơ đại cáo, ta thấy sau khi nêu cơ sở chính nghĩa của
cuộc kháng chiến, Nguyễn Trãi đã khẳng định chủ quyền lãnh thổ bằng những căn cứ
lịch sử vô cùng xác đáng kết hợp với lời văn dõng dạc hào hùng đầy tự tin.
<i>“Như nước Đại Việt ta từ trước,</i>
<i>Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.</i>
<i>………….</i>
<i>Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,</i>
<i>Song hào kiệt đời nào cũng có”.</i>
Các phương diện được Nguyễn Trãi nêu ra để khẳng định chủ quyền là văn hiến, địa
phận, phong tục, nhà nước, nhân tài. Các phương diện ấy đều được trải dài theo suốt
chiều dài lịch sử dân tộc ta và đều mang dấu ấn riêng đại diện cho dân tộc. Đó là
những nét khác biệt khơng lẫn vào đâu của văn hóa và phong tục tập quán. Có thể so
về chiều dài lịch sử ta không bằng Trung Hoa, nhưng trong suốt chiều dài hình thành
và tồn tại thì dân tộc ta đã để lại dấu ấn cùng tinh thần dân tộc mạnh mẽ.
Việc liệt kê các triều đại của nước Đại Việt song song với các triều đại Trung Hoa đã
thể hiện rõ điều đó. Ta khơng hề kém cạnh Trung Hoa. Ta cũng có những nhà nước tự
trị ngay từ buổi bình minh lịch sử dân tộc. Ta có chủ quyền lãnh thổ riêng, có phong
tục tập quán, có tổ chức nhà nước với người đứng đầu là vua. Việc xưng đế đã thể
hiện ý chí tự tôn dân tộc. Bởi lẽ trong quan niệm ngày xưa, chỉ có Trung Hoa được
xưng đế cịn vua của nước nhỏ chỉ được xưng chư hầu không được xưng đế. Việc
xưng đế đã khẳng định chắc nịch một điều ta và Trung Hoa là những nước độc lập
bình đẳng với nhau. Chính vì vậy khơng có lí do gì để Trung Hoa kéo quân xâm lược
nước ta.
Điều quan trọng làm nên sự thịnh vượng của một vương triều không thể khơng kể đến
yếu tố nhân tài. Nhân tài chính là vận mệnh đất nước. Trong cả một quá trình xây
dựng và bảo vệ đất nước đã có biết bao nhiêu vị anh hùng làm rạng danh non sơng
cũng như có biết bao nhiêu thế hệ với ngàn ngàn lớp lớp người vô danh đã ngã xuống
để bảo vệ độc lập đất nước. Giọng thơ hào hùng, lập luận mạnh mẽ chặt chẽ thuyết
phục từ những chứng cứ lịch sử xác đáng khơng thể chối cãi. Qua đó ta thấy được ý
thức dân tộc sâu sắc của Nguyễn Trãi.
Sau khi khẳng định tiền đề chính nghĩa của cuộc kháng chiến cũng như khẳng định
chủ quyền dân tộc, Nguyễn Trãi đã nêu ra những chứng cứ lịch về sự thất bại nhục
nhã của giặc khi sang xâm lược nước ta.
<i>“Lưu Cung tham cơng nên thất bại,</i>
<i>Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong.</i>
<i>Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô,</i>
<i>Sông Bạch Đằng giết tươi Ơ Mã.</i>
<i>Việc xưa xem xét,</i>
<i>Chứng cớ cịn ghi”.</i>
Nguyễn Trãi đã lần lượt nêu ra những tên tướng giặc bại trận trong những trận chiến
phi nghĩa xâm lược Đại Việt. Đó là Lưu Cung, Triệu Tiết, Toa Đơ, Ô Mã. Chúng thất
bại bởi lẽ đây là một cuộc chiến phi nghĩa không nhằm bảo vệ cuộc sống nhân dân mà
chỉ vì “tham cơng”, “thích lớn”, chỉ để thỏa mãn khát vọng bành trướng quyền lực của
kẻ cầm đầu mà gieo tai vạ cho biết bao người dân vô tội.
Ngay từ mục đích xâm lược đã phi nghĩa nên chắc chắn cuộc xâm lược này sẽ “thất
bại”, “tiêu vong”. Những địa danh lịch sử gắn với những cuộc kháng chiến vĩ đại của
dân tộc ta cũng được Nguyễn Trãi nêu ra. Đó là cửa sơng bạch Đằng đã giết chết hàng
<i>“Chương Dương cướp giáo giặc.</i>
<i>Hàm Tử bắt quân thù”</i>
Tuy không trực tiếp nhắc đến chiến thắng của quân ta nhưng trong cách nói đó ta vẫn
thấy hiện lên vẻ đẹp sự oai hùng của những chiến công lịch sử vang dội. Đây chính là
minh chứng lịch sử rõ nét nhất cho tư tưởng nhân nghĩa. Cuộc kháng chiến của chúng
ta chính là cuộc kháng chiến vì chính nghĩa. Lẽ phải thuộc về nghĩa quân, thuộc về
dân tộc Đại Việt nên chắc chắn chiến thắng sẽ thuộc về ta.
<b>Vạch trần sự tàn bạo của giặc Minh cùng chiến tranh phi nghĩa</b>
Sau khi nêu ra tiền đề chính nghĩa của cuộc kháng chiến, Nguyễn Trãi đã vạch trần bộ
mặt xâm lược của giặc Minh:
<i>“Nhân họ Hồ chính sự phiền hà,</i>
<i>Để trong nước lịng dân ốn hận.</i>
<i>Qn cuồng Minh thừa cơ gây họa,</i>
<i>Bọn gian tà bán nước cầu vinh”.</i>
Trong tình cảnh đất nước rối ren, nhân dân khơng đồng lịng dưới chế độ nhà Hồ của
Hồ Quý Ly. Lợi dụng điều đó, núp dưới chiêu bài “phù Trần diệt Hồ”, giặc Minh đã
xâm lược nước ta. Nhưng thực chất giặc Minh không hề có ý tốt mà đó chỉ là cái cớ
để có cơ hội đặt chân xâm lược dân tộc. Điều đó đã được thể hiện rõ qua các từ
“nhân”, “thừa cơ gây họa” cho thấy rõ thái độ của Nguyễn Trãi đối với những kẻ
ngoại xâm này.
lộng quyền vì tham vinh hoa phú quý mà đẩy đất nước vào tình cảnh rối ren, ngàn cân
treo sợi tóc này.
<b>Tội ác của giặc Minh cùng thái độ phẫn uất của tác giả</b>
Không chỉ vạch trần bộ mặt thật của giặc, tác giả cịn nêu ra những tội ác trời khơng
dung đất không tha của kẻ thù:
<i>“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn</i>
<i>Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.</i>
<i>Dối trời lừa dân đủ mn nghìn kế,</i>
<i>Gây binh kết ốn trải hai mươi năm.</i>
<i>………..</i>
<i>Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng,</i>
<i>Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.</i>
<i>Nặng nề những nỗi phu phen</i>
<i>Tan tác cả nghề canh cửi”.</i>
Những tội ác giặc gây ra không thể kể hết. Biết bao nhiêu oán thương, uất hận chất
chồng. Giặc đã tàn sát dã man những người dân vô tội, cướp đi mạng sống cướp đi
hạnh phúc của biết bao gia đình êm ấm. Hình ảnh “con đỏ”, “dân đen” ý chỉ nhân dân
Đại Việt. Họ chỉ là những con người thấp cổ bé họng chỉ ước mong một cuộc sống
giản dị đời thường nhưng kể cả cái ước mơ nhỏ bé ấy cũng bị vùi dập.
Quân Minh đã phá đi cuộc sống của họ, phá tan biết bao cơ nghiệp, làm chảy máu và
nước mắt của biết bao gia đình. Khơng những thế chúng cịn đặt ra nhiều thứ thuế vơ
Quân Minh còn phá hoại cả sản xuất “nghề canh cửi”. Chúng đề ra những việc ép dân
nhân trở thành nô lệ, bóc lột tận cùng sức lao động của nhân dân.Tội ác của qn
Minh được nhìn nhận ở góc độ tác động đến cuộc sống của nhân dân. Từ đấy cũng
cho thấy tấm lòng của Nguyễn Trãi dành cho dân cho nước. Bên cạnh tình cảnh đáng
thương của nhân dân, Nguyễn Trãi cịn khắc họa hình ảnh của qn thù hiện lên một
cách man rợ “thằng há miệng đứa nhe răng máu mỡ bấy no nê chưa chán”. Tội ác ấy
khiến cho đất trời phẫn nộ”.
<i>“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,</i>
<i>Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.</i>
<i>Lẽ nào trời đất dung tha,</i>
<i>Ai bảo thần nhân chịu được?…”</i>
<b>Đánh giá tác phẩm khi cảm nhận đoạn 1 2 Bình ngơ đại cáo</b>
Bằng những lí lẽ sắc bén, cách lập luận chặt chẽ tài tình, Nguyễn Trãi đã nêu ra tiền
đề nhân nghĩa của cuộc kháng chiến. Ta chiến đấu là để bảo vệ đất nước, chiến đấu vì
mục đích nhân nghĩa – bảo vệ cuộc sống ấm no của nhân dân, chiến đấu vì độc lập
dân tộc – bảo vệ cơ đồ nghìn năm của dân tộc ta, và cuối cùng chiến đấu vì khơng thể
ngoảnh mặt làm ngơ trước tình cảnh của đất nước, của nhân dân. Những hình ảnh
mạnh mẽ, kết hợp với các biện pháp nghệ thuật đã tạo ra giọng điệu mạnh mẽ, đanh
thép oai hùng cho bài thơ.
<b>Gợi ý kết đề cảm nhận đoạn 1 2 Bình ngơ đại cáo của Nguyễn Trãi</b>
Kết bài 1: Chỉ với hai đoạn đầu nhưng ta có thể cảm nhận được sự hào hùng cũng như
bi thương của thời đại khởi nghĩa Lam Sơn. Thấy được tấm lòng của nghĩa quân thật
đáng quý và trân trọng biết bao. Bởi họ mưu tính nghiệp lớn không phải để lưu danh
sử sách mà là vì cuộc sống ấm no của nhân dân.
Kết bài 2: Với hai đoạn thơ súc tích ngắn gọn cùng với tài năng trong ngòi bút sắc sảo
của Nguyễn Trãi đã giúp làm nổi bật lên tư tưởng chính nghĩa của tác phẩm. Bên cạnh
đó khi cảm nhận đoạn 1 2 Bình Ngơ đại cáo, ta thấy tác phẩm đã tố cáo mạnh mẽ tội
ác cùng những hành động dã man của kẻ thù. Sâu xa trong ý nghĩa của bài cáo chính
là tinh thần yêu nước, niềm tự hào tự tôn dân tộc mãnh liệt của tác giả.
<b>4. Cảm nhận về đoạn 3 bài Bình ngơ Đại cáo</b>
Trong mối quan hệ giữa lịch sử và văn học, ta bắt gặp những thời điểm lịch sử đồng
thời cũng là thời điểm văn học. Điều đó được minh chứng cụ thể qua Nam quốc sơn
hà với chiến thắng sông Như Nguyệt, Hịch tướng sĩ với cuộc kháng chiến chống quân
Nguyên mông lần hai và Bình ngơ đại cáo cùng cuộc đại phá qn Minh tồn thắng.
Thế nhưng Bình ngơ đại cáo là trường hợp đặc biệt mà từ trước đến nay vẫn giữ vai
trị như áng “thiên cổ hùng văn” khơng tiền khoáng hậu. Cảm hứng về độc lập dân tộc
và tương lai đất nước đã hòa quyện và kết tinh thành sức mạnh của cuộc khởi nghĩa
Lam Sơn trong khổ thơ thứ ba.
Đại cáo bình Ngơ được đặt dưới hai nguồn cảm hứng là cảm hứng chính trị và cảm
hứng sáng tác. Cảm hứng chính trị đã đem đến cho dân tộc một bản tuyên ngôn độc
lập hùng hồn, đanh thép. Cảm hứng sáng tác đã khơi nguồn cảm xúc đem đến một
kiệt tác văn chương. Khi hai nguồn cảm hứng hòa quyện đã viết lên áng thiên cổ hùng
văn mang đậm giá trị tư tưởng và giá trị thẩm mĩ. Khổ thơ thứ ba nêu bật ý chí quyết
chiến quyết thắng của nhân dân Đại Việt.
Với cảm hứng dồi dào, phong phú tác giả đã dụng công khắc họa tháng ngày thắng lợi
vẻ vang nhất. Bám vào sườn lịch sử để cuộc khởi nghĩa hiện lên với tất cả tính chất
phong phú, lớn rộng, sinh động của nó. Bằng tài năng của mình, nguyễn Trãi đã tái
hiện tất cả diễn biến trong giai đoạn đầu của cuộc khởi nghĩa và tập trung chủ yếu làm
nổi bật đời sống tâm lí của người anh hùng Lê Lợi. Khắc họa hình tượng Lê Lợi tác
giả đã sử dụng điển “nếm mật nằm gai” nói về Việt Vương Câu Tiễn. Dường như
chính cảm hứng anh hùng của dân tộc đã giúp tác giả xây dựng thành công chân dung
người anh hùng Lê Lợi:
<i>Ngẫm thù lớn há đội trời chung,</i>
<i>Căm giặc nước thề không cùng sống.</i>
<i>Đau lịng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời;</i>
Với hoài bão và bầu nhiệt huyết yêu nước, Lê Lợi cùng những chiến hữu đã vững tay
chèo để vượt qua mọi gian nan thách thức, mọi gian khổ chông gai: thiếu nhân tài,
thiếu lương thực… Nhưng hơn tất cả nhờ “tấm lòng cứu nước”, nhờ “gắng chí khắc
phục gian nan” và nhờ “manh lệ chi đồ tứ lập”, “phụ tử chi binh nhất tâm” cuộc khởi
nghĩa dần bước qua khó khăn để buổi đầu đi đến cuộc tổng tiến công giành thắng lợi.
Xét về khoảng thời gian lịch sử từ năm 1418 đến 1424 là sáu năm “đau khổ” được
nhắc đến bằng hai sự kiện:
<i>Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần</i>
<i>Khi Khôi Huyện quân không một đội</i>
Nó khơng chỉ tiêu biểu cho buổi gian lao của cuộc chiến mà còn nổi bật với tinh thần
lạc quan của người dân: lạc quan ngay trong hoàn cảnh đen tối, tin tưởng ngay khi
tạm thời thất bại. Chúng ta vững ý chí, chúng ta chắc niềm tin vì tin tưởng nhân dân,
vì biết phát huy sức mạnh của dân, đặc biệt là tầng lớp manh lệ:
<i>Yết can vi kì, manh lệ chi đồ tứ lập</i>
<i>Đầu giao hưởng sĩ, phụ tử chi binh nhất tâm</i>
Đó là tư tưởng lớn mà mãi sau này đến khi Nguyễn Đình Chiểu ta mới một lần nữa
thấy nhân dân tấp nập. Trong bản tuyên ngơn như Bình ngơ đại cáo những người
manh lệ được nhắc đến công khai và đầy trịnh trọng “cũng là chưa thấy xưa nay”.
<i>Hai câu thơ có ý nghĩa như bản lề chuyển tiếp:</i>
<i>Đem đại nghĩa để thắng hung tàn</i>
<i>Lấy chí nhân để thay cường bạo</i>
Có thể nói sau bao suy tư, chiêm nghiệm, bao đớn đau, căm giận, sau bao lo lắng
quyết tâm đến lúc này tâm trạng tác giả mới thả lỏng đến hả hê, sảng khoái. Bao trùm
đoạn văn là những hình tượng phong phú, đa dạng được đo bằng thiên nhiên tráng lệ,
kì vĩ tiếp theo là vẽ ra khung cảnh chiến thắng “sấm vang chớp giật”, “trúc trẻ cho
bay”, “sạch khơng kình ngạc”, “tan tác chim mng”, “trút sạch lá khơ” khiến “đá núi
cũng mịn”, “nước sông cũng phải cạn”. Bên cạnh chiến công lẫy lừng của quân và
dân ta là thất bại ê chề của tướng giặc khi “máu chảy thành sông”, “máu trôi đỏ
nước”, “thây chất đầy nội”, “thây chất đầy đường”. Chiến trường khi ấy tan tác trăm
bề, thời gian, không gian như đắm chìm trong thuốc súng, khói bom “sắc phong vân
phải đổi”, “ánh phật nguyệt phải mờ” với những chuyển rung dồn dập, dữ dội. Các
tính từ chỉ mức độ ở điểm tối đa tạo thành hai mảng đối lập.
Bức tranh toàn cảnh về thất bại ê chề của kẻ thù thì mỗi tên một vẻ, mỗi đứa một
cảnh: Trần Hiệp phải chịu bêu đầu,… và gặp nhau ở một điểm là sự ham sống sợ chết
đến hèn nhát. Qua hình tượng kẻ thù hèn nhát và được tha tội chết đã nêu bật tính chất
chính nghĩa, nhân đạo sáng ngời của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn:
<i>Voi uống nước, nước sông phải cạn</i>
<i>Đánh hai trận, tan tác chim muông.</i>
Sự dồn dập như xương sống của đoạn văn để hịa quyện giữa hình ảnh, âm thanh, nhịp
điệu nhằm miêu tả một cách chân thật cuộc tổng phản công thắng lợi của khởi nghĩa
Lam Sơn.
ưu ái tạo mọi điều kiện tiếp tục sống, Nguyễn Trãi càng làm nổi bật tính chất chính
nghĩa, tư tưởng nhân nghĩa, nhân đạo sáng người của khởi nghĩa Lam Sơn.