TẠP CHÍ KHOA HỌC
Khoa học Xã hội, Số 21 (12/2020) tr. 89 - 95
DIỄN NGÔN THÂN THỂ VÀ TÂM THỨC NỮ QUYỀN
TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA TÁC GIẢ NỮ VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI
Trương Thị Thu Thanh
Trường Đại học Phú Yên
Tóm tắt: Diễn ngôn thân thể trong văn học thường gắn với những tác phẩm mang tâm thức nữ quyền. Bởi lẽ,
với những đặc trưng trong lối viết thân thể, thân thể phụ nữ như một phương tiện biểu đạt nội dung tác phẩm. Bài
viết đã vận dụng lý thuyết diễn ngôn và nữ quyền soi chiếu vào các nhân vật nữ trong truyện ngắn của tác giả nữ
Việt Nam đương đại. Từ đó, cho thấy sự thấu hiểu sâu sắc của các tác giả trước những số phận đàn bà và sự đề
cao đối với những người phụ nữ dám đứng lên đấu tranh địi tự do, bình đẳng và địi mưu cầu hạnh phúc.
Từ khoá: Truyện ngắn, bản ngã, diễn ngơn, thân thể, nữ quyền, phái tính, giới, nữ giới.
1. Mở đầu
Với sự phát triển khoa học xã hội và hội nhập,
giao lưu văn hóa, văn học nữ phát triển cùng
với một nền lý luận phê bình văn học phong
phú. Họ thể hiện tài năng văn chương trên từng
tác phẩm. Văn học nữ Việt Nam đương đại dần
phát triển về số lượng lẫn chất lượng. Xuyên
suốt các truyện ngắn là hình ảnh người phụ nữ
với nhiều số phận khác nhau. Họ hiện lên với
những khát khao yêu thương, sự dấn thân đi tìm
bản ngã đàn bà và đặc biệt là sự khẳng định vị
thế của mình trên văn đàn học thuật với tác giả
nam. Trong truyện ngắn, tác giả nữ đã thể hiện
lối viết thân thể đầy trải nghiệm. Diễn ngơn
thân thể như một phương cách cất lên tiếng nói
đấu tranh địi bình đẳng giới. Vì vậy, diễn ngơn
thân thể khơng chỉ có ý nghĩa về mặt văn hóa
mà cịn có ý nghĩa về mặt chính trị, xã hội. Có
thể nói, văn chương đương đại đang có nhiều
sự chuyển biến mới. Trong luồng chuyển động
đó, văn học nữ giới đang từng bước phá vỡ hệ
thống tư tưởng văn hóa phụ quyền, xác lập hệ
thống diễn ngơn mới: diễn ngơn khối lạc, diễn
ngôn nữ giới.
2. Nội dung
2.1. Diễn ngôn thân thể trong truyện ngắn
của tác giả nữ Việt Nam đương đại
2.1.1. Lý thuyết về diễn ngơn
Diễn ngơn là gì? Và diễn ngơn có tầm quan
trọng như thế nào trong trong nghiên cứu văn
học? Có rất nhiều quan điểm khác nhau về thuật
ngữ diễn ngôn cũng như hướng nghiên cứu
của từng trường phái văn học, trào lưu hay chủ
nghĩa văn học hoặc các ngành khoa học.
Đối với nhà ngôn ngữ học cấu trúc De
Sausure, diễn ngôn được đặt trong cấu trúc ngôn
ngữ. Ngôn ngữ gồm cái biểu đạt và cái được
biểu đạt. Cái biểu đạt gồm âm thanh, ngữ âm,
từ, câu,… và cái dược biểu đạt là ý nghĩa câu, tư
tưởng, nội dung. Nhưng đối lập với quan điểm
của các nhà ngôn ngữ học và chủ nghĩa hình
thức thì M. Bakhtin cho rằng cần nghiên cứu
diễn ngôn trong mối tương quan với đời sống
xã hội và ý thức hệ. Diễn ngôn là sự biểu đạt
trên câu tồn tại trong đời sống thực tiễn. “Tất
cả mọi đặc điểm của diễn ngôn mà tôi biết là
tính kí hiệu thuần tuý, tính thích ứng phổ biến
về ý thức hệ, tính tham dự giao tiếp đời sống”
[1]. Cịn đối với Foucault, diễn ngơn gắn với
loại hình tri thức và quyền lực xã hội. Chính vì
vậy, ngơn ngữ chính là phương thức biểu đạt
của tư tưởng và lịch sử. Diễn ngôn phải gắn với
sức mạnh của nhân văn và sức mạnh thực tiễn.
Diễn ngôn là một chỉnh thể thống nhất giữa nội
dung và hình thức, chỉnh thể trong cái chính thể
của xã hội. “Thuật ngữ diễn ngơn có thể xác
định là một chỉnh thể trần thuật hình thành hệ
thống đồng nhất.” [3]. Mặt khác, diễn ngơn
là cách nói năng, phương thức biểu đạt về con
người, thế giới, về các sự việc trong đời sống.
Nghiên cứu diễn ngơn chính là nghiên cứu ngôn
ngữ. Ngôn ngữ là tư duy của vỏ não con người.
Nhưng diều đó khơng đồng nghĩa rằng diễn
ngôn phải là công cụ diễn đạt mà là bản chất
của tư tưởng, là biểu hiện của một ý thức hệ.
Ngôn ngữ thể hiện tư tưởng, quan điểm, quyền
89
lực, địa vị của con người trong mối tương quan
với xã hội. Đối với nhà văn, diễn ngơn chính là
biểu hiện tư tưởng nghệ thuật, là lập trường, là
phong cách, là tài năng sử dụng ngơn ngữ,… Vì
vậy, diễn ngơn là hiện tượng siêu văn bản, liên
văn bản, liên văn hóa trong tính thống nhất, tính
hệ thống, tính chỉnh thể. Đó là một sự tụ họp,
kiến tạo. Có nghĩa rằng, một từ ngữ trong tác
phẩm văn học là sự tác động qua lại của tác giả
- người đọc - nhân vật, sự kiện. Qua đó, chúng
ta thấy, qua điểm của Foucault và của Bakhtin
giống nhau ở chỗ nhấn mạnh tính thực tiễn của
diễn ngơn.
Ở góc độ khác, diễn ngơn theo tiếng Pháp là
discourse, có nghĩa là lời nói, là phát ngơn, là
hành động lời nói tạo sinh văn bản gồm người
nghe bình đẳng với người nói” [2] quyền lực
đa dạng trong cuộc sống. Diễn ngôn cũng là
phương cách tạo lập nên tri thức cùng những
thực hành xã hội, các dạng thức của chủ thể
và mối quan hệ quyền lực. Còn theo Van Dijk
cho rằng, từ giữa những năm 1980, phân tích
- diễn ngôn bước vào giai đoạn phát triển theo
hướng chuyên mơn hố trong nội bộ chun
ngành. Bắt đầu xuất hiện các lí thuyết diễn
ngơn chun ngành, ví như lí thuyết diễn ngơn
tư tưởng hệ, lí thuyết diễn ngơn dân tộc học, lí
thuyết diễn ngơn của nhóm xã hội thiểu số, lí
thuyết diễn ngôn của chủ nghĩa phân biệt chủng
tộc,… Một trong những khuynh hướng rộng
lớn và nhiều cành nhánh nhất nghiên cứu về
diễn ngơn chính là phân tích - diễn ngơn. Trong
những năm cuối đời, bản thân Van Dijk cũng
tập trung vào lĩnh vực nghiên cứu diễn ngôn.
Tư tưởng hệ. J. Torfing khái qt, lí thuyết diễn
ngơn xuất hiện như là sự gặp gỡ của các ngành
khoa học ở ý đồ liên kết các quan điểm cốt lõi
của ngôn ngữ học và thông diễn học với những
tư tưởng then chốt của khoa học xã hội và khoa
học chính trị. Ý đồ đó được khuyến khích bởi
sự liên kết ngày càng chặt chẽ giữa ngơn ngữ
học và chính trị học trong q trình biến đổi xã
hội. Cịn nhìn ở góc độ phân tích - diễn ngơn
hậu cấu trúc luận thì chúng ta có thể tìm thấy
ở những cơng trình của Roland Barthes, Julia
Kristeva, Jacques Lacan. Trong đó, diễn ngơn
được xem là tổng thể các thực tiễn xã hội mà
mọi ý nghĩa và tư tưởng đều được kiến tạo và
tái tạo trong khuôn khổ của nó. Quan niệm diễn
90
ngơn của hậu cấu trúc luận tương đồng với khái
niệm ngôn ngữ của Richard Rorty và khái niệm
giao tiếp của Nicholas Luckmann. Nguồn mạch
tri thức của lí thuyết diễn ngơn hậu cấu trúc luận
cịn là những tư tưởng hậu marxiste của Louis
Althusser và Antonio Gramsci. Theo Jorgensen
và L. Phillips, diễn ngôn trước hết là hệ thống kí
hiệu bao gồm những thành phần như ngơn ngữ
và hình ảnh. Diễn ngôn không chỉ kiến tạo thế
giới, mà bản thân nó cũng do thế giới kiến tạo
nên. Hiện thực xã hội khách quan được xem là
cấu trúc có ảnh hưởng tới thực tiễn diễn ngôn.
Khảo sát qua những công trình nghiên cứu
về diễn ngơn, chúng tơi tạm kết lại rằng: Diễn
ngôn đã trở thành khái niệm của khoa học liên
ngành và khoa học đa ngành. Một hiện tượng
siêu văn bản, liên văn bản, liên văn hóa trong
tính thống nhất, và tính chỉnh thể. Diễn ngơn có
rất nhiều. Nếu gắn với ý thức hệ xã hội thì có
diễn ngơn tư sản, diễn ngôn vô sản, diễn ngôn
Mácxit, diễn ngôn hiện đại, diễn ngôn hậu hiện
đại. Nếu gắn với các lĩnh vực tri thức thì có diễn
ngơn văn học, diễn ngơn vật lí, diễn ngơn thi
ca. Nếu gắn với văn học thì có diễn ngơn tính
dục, diễn ngơn lý luận phê bình, diễn ngơn phức
điệu (đa âm, đa thanh), diễn ngơn các navan,
diễn ngôn nghịch dị, diễn ngôn nữ quyền, diễn
ngôn trần thuật, diễn ngôn tượng trưng, siêu
thực, diễn ngôn thơ cổ, diễn ngôn thơ mới, diễn
ngôn trần tục, diễn ngôn văn học sử thi, diễn
ngôn ám thị,… Nếu gắn với ngơn ngữ học thì
có diễn ngơn thường nhật, diễn ngơn đàm thoại.
Nếu gắn với các chủ nghĩa, trào lưu, khuynh
hướng văn học thì có diễn ngơn chủ nghĩa cổ
điển, diễn ngôn chủ nghĩa lãng mạn, diễn ngôn
chủ nghĩa hiện thực. Nếu gắn với quan hệ kinh
tế thị trường thì có: diễn ngôn tiếp thị, diễn
ngôn bán hàng, diễn ngôn tiêu dùng, diễn ngơn
chứng khốn. Ngồi ra cịn có diễn ngơn thể
chế hố, diễn ngơn chính trị, diễn ngơn truyền
thơng, diễn ngơn văn hóa, diễn ngơn triết học,
diễn ngơn điện ảnh, diễn ngôn đời tư - thế sự nhân văn, diễn ngơn lịch sử - văn hóa,...
2.1.2. Diễn ngơn thân thể trong truyện ngắn
của tác giả nữ Việt Nam đương đại
Vận dụng lý thuyết diễn ngôn vào nghiên cứu
văn học, chúng tôi nhận thấy các nhà văn nữ sử
dụng rất nhiều loại diễn ngơn trong q trình
sáng tác của mình: diễn ngơn trần thuật, diễn
ngơn tính dục, diễn ngôn nữ quyền, diễn ngôn
thân thể, diễn ngôn nữ giới,… Diễn ngơn nữ
giới chính là lời nói, lời phát ngơn, là hành động
lời nói của giới nữ tạo sinh văn bản gồm người
nghe bình đẳng với người nói, là sự tương tác
trong giao tiếp của phụ nữ với văn hố xã hội.
Diễn ngơn nữ giới thể hiện tri thức, quyền lực,
địa vị của phụ nữ đối với xã hội. Trong truyện
ngắn của tác giả nữ Việt Nam đương đại, các
tác giả nữ đã thể hiện lối viết thân thể đầy trải
nghiệm. Diễn ngôn thân thể như một phương
cách cất lên tiếng nói đấu tranh địi bình đẳng
giới. Vì vậy, diễn ngơn thân thể khơng chỉ có ý
nghĩa về mặt văn hóa mà cịn có ý nghĩa về mặt
chính trị, xã hội. Có thể nói, văn chương đương
đại đang có nhiều sự chuyển biến mới.
Vị trí của phụ nữ Việt Nam dần được xác lập
trong một xã hội dân chủ, đổi mới tồn diện.
Họ khơng những được khẳng định mình trong
xã hội, trên các phương diện chính trị, văn hố,
kinh tế mà cịn cả trong văn học nghệ thuật. Có
thể nói ý thức phái tính và tư tưởng nữ quyền
phát triển từ đời sống văn hố, chính trị, xã hội
đến địa hạt văn chương. Địa vị của phụ nữ và sự
bất bình đẳng giới bị chi phối bởi cơ chế chính
trị - xã hội. Tư tưởng nam nữ phụ quyền đã có
từ lâu và ăn sâu vào tâm thức con người trong
xã hội. Bởi lẽ, tư tưởng ấy gắn chặt với lịch sử
của tộc người và bao phủ lên vịng đời của một
cá nhân. Trong đó, phụ nữ là người gánh chịu
nhiều bất công hơn cả. Nhưng, phụ nữ khơng
bị gục ngã trước sự phi lí của xã hội, mà trái
lại, họ đã dũng cảm đấu tranh phá bỏ thủ tục
cổ hủ và tư tưởng nam quyền. Họ hành động
và tự tạo danh tính trong xã hội, chính trị và
nghệ thuật bằng chính ngơn ngữ của mình. Diễn
ngơn thân thể hiện lên đậm nét trên từng trang
văn của tác giả nữ. Yếu tố thân thể con người
- thân thể người phụ nữ được đề cập và khắc
họa rõ nét trong q trình đấu tranh địi bình
quyền. Bởi lẽ, thân thể tự nó đã là một ngơn
ngữ giao tiếp. Trong đời sống, thân thể như đầu,
tóc, chân, tay, mắt, mũi, miệng, trái tim, cơ quan
sinh dục… cùng các động tác của thân thể như:
đi, chạy, cắn, hôn, đau, nhức,… đều có thể là
ngơn ngữ giao tiếp của con người. Thân thể là
thân thể sống của con người. Và khi, thân thể
thấm nhuần cảm xúc tâm hồn con người thì thân
thể ấy sẽ trở thành ngơn ngữ. Vì vậy, diễn ngơn
thân thể được xem như một phương diện văn
hóa chứ khơng chỉ dừng lại ở nghĩa giản đơn và
tầm thường: thân thể chỉ là xác thịt. Diễn ngôn
thân thể trong truyện ngắn của tác giả nữ Việt
Nam đương đại là hành trình đi tìm bản ngã và
xác lập nhân vị đàn bà trong xã hội.
Nếu phụ nữ muốn bình đẳng thì bản thân họ
phải tự dấn thân và phản kháng để đấu tranh
cho sự tự do của mình. Họ phải tự tạo lập cuộc
đời và tự tạo danh tính. Hành trình dấn thân và
đấu tranh của phụ nữ trong xã hội không phải
là con đường bằng phẳng. Đó là một hành trình
đầy đau khổ và chịu nhiều nổi ám ảnh, đắng
cay. Họ bị ngay chính người yêu chà đạp nhân
phẩm, chiếm đoạt thân thể, rơi vào những cạm
bẫy tình yêu (truyện Ai chọn giùm tôi, truyện
27 bước chân là lên thiên đường của Y Ban).
Họ bị mẹ chồng và chồng bắt phải phá thai vì
đây là lần thứ ba sinh con gái mà lại là sinh đôi
(truyện Hai giọt sương của Nguyễn Anh Đào).
Hình ảnh cơ Hoa đau khổ khi một mình nằm
tênh hênh trên bàn bệnh viện vì bị người yêu lợi
dụng thân xác (truyện Trinh tiết xóm Chùa của
Đồn Lê). Họ phải hi sinh tuổi xuân của mình
khi ở bên cạnh người đàn ông cả đời chỉ biết
cống hiến cho nghệ thuật (truyện Tơi và anh của
Y Ban),… Thậm chí, một cơ gái mới lớn phải
tìm đến cái chết để kết thúc cuộc đời mình như
kết thúc cuộc tình với chàng “công tử” đã dày
kinh nghiệm yêu (truyện Khi người ta trẻ của
Phan Thị Vàng Anh). Tất cả nổi cay đắng, tủi
khổ dù lớn hay nhỏ cũng đều giày xéo tâm can
phụ nữ. Nhưng nếu vượt qua được những nổi
đau đó, phụ nữ sẽ ngày càng tự tin và mạnh mẽ
hơn trong cuộc sống.
Phụ nữ tự tin vững bước trên con đường
đi tìm bản ngã và khẳng định vị thế của mình.
Họ biết bản thân có lợi thế về sắc đẹp thân thể.
Họ tự mãn nguyện và kiêu hãnh với sắc đẹp
ấy. Đó khơng phải ngẫu nhiên khi các truyện
ngắn của tác giả nữ Việt Nam đương đại thường
miêu tả một cách trực diện về thân thể phụ nữ.
Diễn ngôn thân thể đã giúp họ khắc họa rõ nét
hơn về bức tranh người phụ nữ thời đương đại.
Những nét đẹp thân thể của phụ nữ khơng cịn
mang tính ước lệ của văn học xưa như “làn thu
thủy, nét xuân sơn” (Truyện Kiều của Nguyễn
Du) hay “Đơi gị bồng đảo sương còn ngậm/
91
Một lạch đào nguyên suối chửa thông” (Thiếu
nữ ngủ ngày của Hồ Xuân Hương). Thân thể
phụ nữ trong văn học đương đại Việt Nam hiện
ra với vẻ đẹp mang tính trần thế đầy gợi cảm,
gợi tình. Một làn da vỡ ra trắng nõn, mái tóc đã
vào cữ óng của cơ bé mới lớn trong Chợ rằm
dưới gốc cây cổ thụ của Y Ban. Dưới chiếc
váy thêu hoa duỗi song song đơi bàn chân lấm
láp bụi đỏ và mười ngón chân trông yêu như
mười chú tằm đang rụt đầu nhả tơ. Đôi hàng mi
khép hờ luôn rung động của “cô gái rừng với
đơi mắt hoang màu nâu” (truyện Gió hoang của
Võ Thị Hảo). Chị Phương hiện lên với vẻ đẹp
sang trọng, quý phái “và trên cái nền áo xám tao
nhã lượt là che phủ tấm thân kiều diễm đang cử
động uyển chuyển đó vươn cao một gương mặt
đàn bà đang độ tuổi chín mùi mẫn nhất của đời
mình. Đơi mắt bí ẩn khơng bao giờ mở to nhưng
ánh biếc của lịng mắt như lan tỏa xung quanh.
Chính điều đó mang lại cho chị vẻ quyễn rũ
không cưỡng nổi” (truyện Phiên chợ người Cùi
của Võ Thị Hảo). Những nét chấm phá nhỏ trên
khn mặt, ngoại hình cũng khiến lịng người
rung rinh, xao xuyến. “Cái cười làm lấp lánh cả
khúc sông” của người phụ nữ - mẹ của chị em
Nương (truyện Cánh đồng bất tận của Nguyễn
Ngọc Tư). “Mái tóc dài, đơi má xanh xao và
nhất là đôi mắt của Đức Mẹ Maria của Khánh
(truyện Ngôi đền sống của Trần Thùy Mai). Phụ
nữ biết yêu quý và tự hào về bản thân thì họ mới
có sức mạnh thơi thúc đứng lên đấu tranh địi tự
do và bình đẳng xã hội.
Ngồi nhà văn Y Ban với I am đàn bà, Nhân
tình, Hai bảy bước chân là lên thiên đường thì
Võ Thị Xuân Hà với Đàn sẻ ri bay ngang rừng,
Biển cứu rỗi, Vườn yêu, Con dại của đá; Đỗ
Hồng Diệu với Bóng đè, Vu quy; Nguyễn Ngọc
Tư với Cánh đồng bất tận,… cũng gây xôn xao
dư luận. Tuy các tác gia nữ khác nhau về vùng
miền, về tư tưởng quan điểm nghệ thuật cũng
như văn phong diễn đạt nhưng họ có điểm chung
trong quá trình miêu tả nét đẹp thân thể phụ nữ.
Hình ảnh bầu vú – đặc trưng của nét đẹp phồn
thực cũng được tác giả nữ phác họa như một bức
tranh về sự sinh sơi và ni dưỡng giống nịi.
Một “đơi vú ngời ngợi như hai vầng trăng”, một
“bộ ngực tròn trịa với bờ vai, đôi cánh tay mịn
màng (truyện Giàn thiêu của Võ Thị Hảo). “Bộ
ngực tròn trịa” của “cơ thể săn chắc mượt mà
92
vun đầy như tuổi hai mươi” (truyện Bóng đè của
Đỗ Hồng Diệu). “Đơi vú nhỏ nhắn với đôi núm
hồng”, một “lồng ngực căng vun” khiến Hưng
cảm giác “ngực cô mịn màng và sáng tỏa như
hào quang” (truyện Eva dại dột của Trần Thùy
Mai). “Đôi bầu vú nhỏ nhắn nhưng rắn chắc,
đượm mùi hương bảng lảng mà ngây dại bay
lên từ những kháp rượu nóng hổi” (truyện Rượu
trắng của Nguyễn Ngọc Tư). “Trong gương, da
thịt sáng loáng. Một tấm thân trịn mình cá trắm,
với hai cái bánh vú dày” (truyện Tự của Y Ban).
Nét đẹp đôi vú trong truyện ngắn của các chị
được miêu tả thật tự nhiên đầy gợi tình như một
bước đệm để tác giả nữ hướng đến những khát
khao yêu đương bản năng.
Sự thay đổi tư duy và sự mở rộng của tinh
thần dân chủ xã hội khiến nữ giới có điều kiện
tự do cất cao tiếng nói của mình với tư cách là
chủ thể độc lập. Bản thân nữ giới đã có những
thay đổi lớn về nhận thức. Họ có học vấn, có
điều kiện tự chủ kinh tế và có khả năng am hiểu
luật pháp. Các nhà văn nữ Việt Nam đương đại
ngày một trưởng thành hơn trong môi trường
trải nghiệm mới.
2.2. Âm hưởng nữ quyền qua diễn ngôn
thân thể trong truyện ngắn của tác giả nữ Việt
Nam đương đại
Phụ nữ thế kỷ XXI, khơng cịn phụ thuộc
vào đàn ơng. Họ có quyền u, quyền ly hôn.
Họ được tự do quyết định cuộc đời. Xã hội ngày
càng phát triển, phụ nữ càng được quan tâm
nhiều hơn. Nhưng để họ thật sự được bình đẳng
với nam giới thì địi hỏi một sự nỗ lực rất lớn từ
chính bản thân phụ nữ chủ yếu và phần nhiều từ
phía xã hội.
Các tác giả nữ đã khơng ngừng phấn đấu
hoàn thiện bản thân và nâng cao tài năng văn
chương. Kết quả cho sự nổ lực ấy là những tác
phẩm đặc sắc ra đời. Họ viết bằng tất cả niềm
đam mê và tình yêu văn chương. Mỗi trang
truyện ngắn hiện lên hình ảnh người phụ nữ
với thân thể đầy quyến rũ, đầy khát khao yêu
thương và mong muốn được tự do. Bức tranh
về hình ảnh người phụ nữ đẹp trong văn học
nữ đương đại Việt Nam không dừng lại ở sự
chiêm ngưỡng mà nó cịn mang thơng điệp bình
đẳng giới. Tất cả những gì thuộc về thân thể
cũng đều mang ý nghĩa giao tiếp. Vì vậy, ngơn
ngữ thân thể mang ý nghĩa văn hóa và chính trị
xã hội. Trong các truyện ngắn của tác giả nữ
Việt Nam đương đại, từ “bàn tay nhỏ nhắn và
mềm mại hiếm thấy”, “đôi chân dài miên man”,
những “bộ ngực tuyệt đẹp lấp ló”, hay “ánh mắt
và kh mơi đa tình, hờn dỗi” đến cái nhíu mày,
trợn mắt hay quát tháo cũng đều mang ý nghĩa
văn hóa xã hội. Các nhân vật nữ như đại diện
cho tiếng nói của phụ nữ trong q trình đấu
tranh địi bình quyền và khẳng định nhân vị đàn
bà. “Nàng” (truyện Em vẫn gọi tên anh là nước
Nga của Bích Ngân) là một người đàn bà khơng
cầu kì và biết tự u mình như những người đàn
bà khác. Họ “có quyền lực sai khiến bằng một
ánh mắt, một lời nói”. Họ có quyền quyết định
tất cả những việc liên quan đến cuộc đời của
mình. Người đàn bà khi ở tuổi ba mươi nhận ra
giá trị sâu sắc của bản thân. “Và người phụ nữ
nhận ra mình đẹp bắt đầu từ tuổi ba mươi, tự tin
rằng những người đàn ơng mình cần là những
người nhận ra được vẻ đẹp bên trong người đàn
bà” (truyện Đàn bà ba mươi của Trang Hạ). Họ
biết chăm sóc bản thân, biết làm cho mình ngày
càng giá trị, càng có sức hút với cánh đàn ơng.
Ngồi giờ đi làm và ngoại trừ lúc ngủ, thời gian
còn lại, nàng dành hết cho việc tự chăm sóc bản
thân, ưu tiên đặc biệt cho việc trùng tu, tơn tạo
và nâng cấp dung nhan của mình” (truyện Kẻ
tống tình của Bích Ngân”. Phụ nữ đương đại
khơng cịn là con mèo yếu ớt, sợ nước, sợ lạnh,
co rúc tìm hơi ấm của chồng mà trở thành một
người phụ nữ xinh đẹp, tự tin. Họ vứt hết những
bước đi e dè, rón rén thay cho những bước
chân lạnh lùng, kiêu kỳ của người đẹp trên sàn
catwalk.
Ngoài việc khẳng định nét đẹp thân thể và
nhân vị đàn bà, truyện ngắn của tác giả nữ Việt
Nam đương đại còn hướng đến những khát khao
hạnh phúc giản đơn, đời thường. Lam là một
người đàn bà có chồng và hai đứa con học giỏi.
Nhưng từ khi người chồng bị bệnh suy thận, ân
ái giữa vợ chồng khơng cịn mặn mà, chuyện
chăn gối ái ân mỗi ngày một xa thêm. Lam đã
tìm đến lớp học thể dục thẩm mỹ. Và, cơ nhanh
chóng phải lịng cậu thanh niên khoẻ mạnh kém
hơn mình bảy tuổi. Lam ngã nhanh vào vịng tay
hắn và mất hết lý trí trước những nụ hôn, những
cái ôm vồ vập của “hắn”. “Tay chân chị cứ lả đi,
yếu dần. Lam thấy mình mụ mị trước cơn sóng
đê mê dồn dập đến. Hấp tấp, cuống cuồng cả hai
kéo nhau vào khách sạn gần đó” (truyện Kẻ tống
tình của Bích Ngân). Hình ảnh nàng Lụa cũng
hiện lên đầy khao khát được người yêu ôm ấp,
mơn man da thịt. Đến cả trong những giấc mơ
mỗi đêm, nàng mơ thấy mình trong vịng tay ơm
chặt của Thắng. Những lúc như vậy, Lụa có cảm
giác như “da thịt mình tách ra”. “Giấc mơ đêm
lại đưa cơ vào cơn mê lạ. Thắng nằm bên cạnh
cô vuốt ve, bàn tay anh động đến đâu thì da thịt
cơ mở ra đến đó. Một luồng khí trời tinh khiết,
một dịng nước nguồn tinh khiết, một tia chớp
chói sáng bủa vây cơ thể Lụa. Cô nép vào người
Thắng” (truyện Chợ rằm dưới gốc cây cổ thụ
của Y Ban). Lynh Bacarbi cũng để cho nhân vật
tôi sống với những khát khao tự nhiên bản năng.
“Cô” thưởng thức “chiếc bánh bông lan” ngon
đến mức khiến người ta phải nhỏ nước bọt vì
cái vẻ ngồi hấp dẫn và mùi thơm quyến rũ. Sau
quá trình trải nghiệm thân thể, trải nghiệm yêu
đương, nhân vật nữ tự ngẫm lại tình u tuổi trẻ
để thấm thía sự trái ngang của cuộc đời từ chính
người đàn ơng của họ gây ra (truyện Tre rừng
của Luynh Bacardi).
Ở số phận khác, những người phụ nữ không
được may mắn về sắc đẹp nhưng trong tâm hồn
họ ngọn lửa khát yêu vẫn âm ĩ cháy. Đó là hình
ảnh về một cơ bé bị tật nguyền nhưng vẫn luôn
mong đợi những lá thư cổ tích trong truyện
ngắn Máu của lá của Võ Thị Hảo. Những người
đàn bà tật nguyền như Nấm (truyện Đàn bà
xấu thì khơng có q của Y Ban) vẫn ln nỗ
lực để đạt được tấm bằng tốt nghiệp đại học.
Hình ảnh về một cơ gái mù ln hình dung cuộc
đời qua những âm thanh vọng lại từ chiếc tivi
bên nhà hàng xóm trong truyện ngắn Làn mơi
đồng trinh của Võ Thị Hảo. Các nhân vật nữ
trong truyện ngắn có số phận khác nhau nhưng
ở họ có chung niềm mong ước gặp được người
u chân chính, cưới được người chồng tốt và
có được mái ấm gia đình hạnh phúc. Dù họ là
người đàn bà đẹp, tài năng hay chỉ là một cô gái
khơng may mắn về số phận thì phụ nữ vẫn mãi
chỉ là phái yếu. Phụ nữ ln cần tình u thương
và sự chở che.
Đi sâu khám phá vào nội tâm nhân vật nữ,
chúng tôi nhận thấy nổi ám ảnh đối với phụ nữ
không phải tiền, tài, danh vọng hay những giá
trị đạo đức xã hội mà là tình yêu. Dù cuộc sống
93
có nhiều bộn bề lo toan và đầy áp lực nhưng
người phụ nữ trong truyện ngắn Cưới chợ của
Y Ban khơng bao giờ nguội lạnh và bị dập tắt
về tình yêu. Trong truyện ngắn của tác giả nữ
Việt Nam đương đại, bạn đọc sẽ bắt gặp nhiều
hình ảnh về những cơ gái trẻ trung, năng động,
tràn đầy những hồi bảo và mạnh mẽ. Họ mang
nhiều phong cách hiện đại mới của một xã hội
đương đại. Họ dám phản kháng chống lại sự
hà khắc của chuẩn mực phong kiến để sống vì
mình. Họ sẵn sàng ngoại tình (truyện Một nửa
cuộc đời của Nguyễn Thị Thu Huệ, truyện Nhân
tình của Y Ban, truyện Cánh cửa thứ chín của
Trần Thùy Mai, truyện Cơn mưa cuối mùa của
Lê Minh Khuê,...) để sống thật với cái tôi bản
năng tự nhiên. Họ sẵn sàng khiêu chiến với
những chuẩn mực về công, dung, ngôn, hạnh
(truyện Kiếm ái của Phạm Thị Hoài, truyện
Vu quy của Đỗ Hoàng Diệu,...) nếu điều đó trở
thành rào cản hạnh phúc cá nhân. Phụ nữ đương
đại tự quyết định tình yêu và số phận của họ.
Họ biết yêu quý và quan tâm nhiều hơn đến sắc
đẹp thân thể. Họ hướng đến những hạnh phúc
thực tế hơn, đời thường hơn là những hạnh phúc
trong tâm tưởng và ảo mộng.
Những người phụ nữ dù lớn hay trẻ, dù trinh
trắng hay từng trải, dù khôn ngoan hay tầm
thường thì ai cũng khát yêu và được yêu. Họ sẵn
sàng bất chấp tất cả để đến với tình u. Hình ảnh
một cơ bé mới lớn trong truyện ngắn Biển ấm của
Nguyễn Thị Thu Huệ cũng vì tình yêu mà bỏ nhà
để tìm đến người đàn ơng lớn hơn mình mười
hai tuổi. Xun - một cơ gái đầy mâu thuẫn, đầy
ngông nghênh vẫn yêu Vỹ cháy bỏng, mặc dù
cô biết Vỹ đã có người yêu, “đã có một già nhân
ngãi, non vợ chồng dưới Long Xuyên” và luôn
đem lại đau khổ cho cô (truyện Khi người ta trẻ
của Phan Thị Vàng Anh). Lam trong truyện ngắn
Kẻ tống tình của Bích Ngân bất chấp dư luận xã
hội và chuẩn mực về sự thủy chung của người
phụ nữ đã có chồng, có con để đến với chàng
thanh niên nhỏ hơn mình bảy tuổi. Nàng trong
truyện ngắn Hai mươi bảy bước chân là lên thiên
đường của Y Ban bất chấp sự dễ dãi bản thân,
cám dỗ tình yêu để “theo anh vào khách sạn với
bước chân run rẩy”.
94
Với truyện ngắn của tác giả nữ Việt Nam
đương đại, người đọc có cái nhìn bao quát
hơn về những cung bậc cảm xúc khác nhau
của người phụ nữ. Họ không giống nhau về số
phận nhưng gặp nhau ở niềm khát khao được
hạnh phúc, được tự do. Phụ nữ đương đại luôn
tự hào và kiêu hãnh với chính bản thân mình.
Họ là những người đàn bà khơng những đẹp về
hình thể mà cịn tài năng. Tự tin, bản lĩnh trước
những biến động, đổi thay của cuộc sống và
số phận là điều quan trọng để phụ nữ vươn lên
giành lấy bình đẳng giới.
3. Kết luận
Các nhà văn nữ Việt Nam đương đại đã thể
hiện quan điểm nghệ thuật về con người. Họ
hướng đến hành trình đi tìm bản ngã đàn bà và
khẳng định vị thế phụ nữ trong xã hội. Những
nhân vật nữ trong truyện ngắn của tác giả nữ
Việt Nam đương đại hiện ra như bức tranh
tuyệt đẹp. Mỗi người một số phận khác nhau
nhưng điểm chung của họ là sự khát khao yêu
thương, sẵn sàng dấn thân để đi tìm hạnh phúc
và mạnh mẽ đứng lên đấu tranh để đòi sự tự
do. Qua những tác phẩm, các tác giả nữ đã thể
hiện niềm thương cảm của mình đối với phụ nữ
và cũng như góp thêm tiếng nói trong việc đấu
tranh địi bình đẳng giới. Họ đã từng bước phá
vỡ hệ thống tư tưởng nam quyền, phá vỡ cấu
trúc nhị phân đối lập và xác lập nhân vị đàn bà,
khẳng định quyền được sống, quyền được tự do
và quyền mưu cầu hạnh phúc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Bakhtin (1998), Bakhtin toàn tập (tập 2).
Nxb Giáo dục Hà bắc.
[2] V.I. Chiupa, Lã Nguyên dịch, 2013. Trần
thuật học như là khoa học phân tích diễn ngơn
trần thuật ( />php?option=com_content&id=14838&tmpl=
c o m p o n e n t & t a s k =
preview&lang=vi&site=142).
[3] Foucault M, 1998. Khảo cổ học tri thức,
Nxb Tam liờn, Thượng Hải.
PHYSICAL DISCOURSE AND FEMINIST CONSCIOUSNESS IN THE
SHORT STORIES BY VIETNAMESE MODERN WOMEN
Truong Thi Thu Thanh
Phu Yen University
Abstract: Physical discourse in literature is often associated with the works of feminist
consciousness. Owning to characteristics in the body writing style, the female body is a means
of expressing the content of the work. The article applies the theory of discourse and feminism to
illuminate female characters, which clarifies the deep understanding of the writers with the fate of
women and their appreciation to the women who dared to fight for freedom, equality and the pursuit
of happiness.
Keywords: Short stories, ego, discourse, body, feminism, gender, gender, female.
______________________________________________
Ngày nhận bài: 16/10/2019. Ngày nhận đăng: 21/02/2020.
Liên lạc: Trương Thị Thu Thanh; e-mail:
95