Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Nghệ thuật tiểu thuyết diêm liên khoa tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (559.78 KB, 27 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN NGUYNNnNGVInNNỆT HÀ
NGUYỄN THỊ THÚY HẠNH

NGHỆ THUẬT TIỂU THUYẾT DIÊM LIÊN KHOA

Chuyên ngành: Văn học nƣớc ngoài
Mã số: 9 22 02 45

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC NƢỚC NGOÀI

HÀ NỘI, 2019


Cơng trình đƣợc hồn thành tại:
Học viện Khoa học xã hội
Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS Nguyễn Thị Mai Chanh
PGS.TS Tôn Thị Thảo Miên
2. PGS.TS Nguyễn Thị Bích Thu
Phản biện 1: GS.TS Lộc Phƣơng Thủy
Phản biện 2: PGS.TS Đỗ Lai Thúy
Phản biện 3: PGS.TS Lê Nguyên Cẩn

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện,
tại: Học viện Khoa học xã hội, 477 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội


Vào hồi

giờ

ngày

tháng

năm 2019

Có thể tìm hiểu luận án tại: - Thư viện Quốc gia
- Thư viện Học viện


DANH MỤC CƠNG TRÌNH KHOA HỌC LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN

1. Nguyễn Thị Thúy Hạnh (2019), Từ không tưởng đến
giải/phản không tưởng: Sự vận động của diễn ngôn tự sự trong
tiểu thuyết Làng Thụ Hoạt, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 9
(517), tháng 9/2019, tr59 - 69.
2. Nguyễn Thị Thúy Hạnh (dịch), Chủ nghĩa thần thực
trong văn học đương đại (Diêm Liên Khoa), Tạp chí Nhà văn
và Tác phẩm, tr178-184, số 35, tháng 5-6/2019.
3. Nguyễn Thị Thúy Hạnh (2018), Diêm Liên Khoa: Từ
quan niệm đến sự thực hành chủ nghĩa thần thực, Tạp chí
Nghiên cứu Văn học, số tháng 11/2018, tr109 - 121.
4. Nguyễn Thị Thúy Hạnh (2019), Điểm nhìn và kết cấu
tự sự trong một số tiểu thuyết Diêm Liên Khoa, Tạp chí Từ điển
học và Bách khoa thư, số 2 (58), 3/2019, tr122 - 127.

5. Nguyễn Thị Thúy Hạnh (dịch), Con đường của nhà
văn (Diêm Liên Khoa), báo Văn nghệ, số 14/2018.
6. Nguyễn Thị Thúy Hạnh (2016), Diêm Liên Khoa Người đến muộn tiên phong, Tạp chí Tia sáng, số 14, 52 - 54.
7. Nguyễn Thị Thúy Hạnh (dịch), Sự đổ vỡ nội tâm của
sáng tác - hồi ký Giấc mộng làng Đinh (Diêm Liên Khoa), Tạp
chí Tia sáng, số tháng 7/2016.


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Theo đánh giá của giới nghiên cứu Trung Quốc và nhiều học giả
phương Tây hiện nay, Diêm Liên Khoa (1958-) là một trong những gương
mặt tiêu biểu của văn học Trung Quốc đương đại. Trong 40 năm cầm bút
(1979-2019), Diêm Liên Khoa đã công bố hơn 11 tiểu thuyết, 10 tập truyện
vừa và truyện ngắn, 5 tập tản văn và tiểu luận. Ông đã đạt được những giải
thưởng văn học khác nhau ở trong và ngoài nước, như: Giải thưởng Lỗ Tấn
lần thứ nhất và lần thứ 2, giải thưởng Lão Xá lần thứ 3, giải thưởng văn học
Hoa ngữ quốc tế, giải thưởng Văn học Kafka…
Cho đến nay, những nghiên cứu xung quanh tác phẩm của
Diêm Liên Khoa vẫn tồn tại những nhận định trái chiều, bên cạnh sự
ca ngợi hết lời cũng có ý kiến hồi nghi phê phán, nhưng khơng ai
phủ nhận những cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết của ông. Thời
gian gần đây, thông qua công tác dịch thuật và xuất bản, tên tuổi
Diêm Liên Khoa được bạn đọc Việt Nam biết đến nhiều hơn. Tìm
hiểu tác phẩm của Diêm Liên Khoa giúp người đọc thấy được sự vận
động của văn học sử Trung Quốc và các xu hướng phát triển của tiểu
thuyết Trung Quốc đương đại; hiểu rõ hơn chiều sâu, bản chất của xã
hội Trung Quốc, qua đó so sánh với đời sống xã hội Việt Nam để rút
ra được những kiến giải về lịch sử và nhân sinh.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
- Làm rõ các đặc điểm nghệ thuật tiểu thuyết Diêm Liên Khoa
qua việc tập trung nghiên cứu các phương diện: quan niệm nghệ
thuật, nghệ thuật tự sự, ngôn ngữ nghệ thuật.
1


- Phân tích sự kế thừa thành tựu văn học truyền thống Trung
Quốc cũng như việc tiếp thu, ảnh hưởng từ văn học nước ngoài của
Diêm Liên Khoa. Đồng thời chỉ ra đâu mới thực sự là đóng góp của
nhà văn đối với văn học Trung Quốc hiện đại.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu sự vận động của tư duy nghệ thuật (thể hiện qua
quan niệm và sự thực hành “chủ nghĩa thần thực” 神实主义
mythorealism) của Diêm Liên Khoa trong quá trình sáng tác, sự khác
biệt của tư tưởng nhà văn so với các tác giả trước và cùng thời.
- Trên cơ sở lý luận về tự sự học, khái quát hóa các đặc điểm
làm nên phong cách tự sự riêng của tiểu thuyết Diêm Liên Khoa;
phân tích những điểm kế thừa, cách tân trong nghệ thuật tự sự và
ngôn ngữ tiểu thuyết.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là các phương diện chính của nghệ thuật tiểu
thuyết Diêm Liên Khoa
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi khảo sát của luận án tập trung vào các tiểu thuyết nổi
bật nhất của Diêm Liên Khoa, bao gồm những cuốn đã dịch và chưa
được dịch ra tiếng Việt. Thao tác phân tích, khảo sát dựa trên văn bản
gốc của các tác phẩm: Ngàn năm trôi mãi (Nhật quang lưu niên, Nxb

Hoa Thành, 1998), Kiên ngạnh như thủy (Nxb Văn nghệ Trường
Giang, 2001), Làng Thụ Hoạt (Thụ Hoạt, Nxb Văn nghệ Xuân
Phong, 2004), Giấc mộng làng Đinh (Đinh trang mộng, Nxb Văn
nghệ Thượng Hải, 2006), Phong Nhã Tụng (Nxb Nhân dân Giang Tô,
2


2008), Tứ Thư (Nxb Mạch Điền, 2011); đồng thời có đối chiếu, tham
khảo (và trích dẫn khi cần) ở các bản dịch tiếng Việt.
- Trong q trình phân tích các tác phẩm, chúng tôi cũng mở
rộng khảo sát, liên hệ với các cuốn tiểu thuyết khác của nhà văn như:
Ngục tình cảm (Nxb Văn nghệ giải phóng 1991), Kim Liên, xin chào
(Nxb Văn học Trung Quốc, 1997), Bài hát Bá Lâu (Bá Lâu thiên ca,
Nxb Văn nghệ Bắc Nhạc, 2001), Ngày tháng năm (Nxb Nhân dân
Tân Cương, 2002), Tạc Liệt chí (Nxb Văn nghệ Thượng Hải, 2013),
Ngày tàn (Nxb Điền Mạch, 2016)...
4. Phƣơng pháp nghiên cứu của luận án
- Phương pháp tiếp cận hệ thống; Phương pháp loại hình; Phương
pháp so sánh; Phương pháp phân tích – tổng hợp.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Nghiên cứu tiểu thuyết Diêm Liên Khoa một cách chỉnh thể
dựa trên văn bản gốc, bao gồm cả việc phân tích những tiểu thuyết
tiêu biểu chưa được dịch ra tiếng Việt.
- Giới thiệu những khía cạnh đặc sắc về tư tưởng nghệ thuật, nghệ
thuật tự sự và ngôn ngữ nghệ thuật của nhà văn Diêm Liên Khoa.
-Vận dụng lý thuyết tự sự học của các nhà lý luận phương Tây
như Gerard Genette, Mikhail M. Bakhtin…; tiếp thu những thành tựu
nghiên cứu về tự sự học Trung Quốc của Andrew H. Plaks, Dương
Nghĩa và gần đây là Triệu Nghị Hành; đồng thời đặt đối tượng
nghiên cứu vào bối cảnh văn hóa, văn học Trung Quốc hiện đại nói

chung, luận án đưa ra những phân tích, kiến giải mới về nghệ thuật
tiểu thuyết Diêm Liên Khoa từ phương diện lý luận văn học cũng như
văn học sử.
3


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Luận án góp phần vào việc nghiên cứu tiểu thuyết Diêm Liên Khoa
nói riêng và văn học Trung Quốc nói chung ở Việt Nam.
7. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo
và Phụ lục, luận án được sắp xếp thành bốn chương:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu và quan điểm,
phương hướng tiếp cận của luận án
Chương 2. “Chủ nghĩa thần thực”: Từ quan niệm đến thực hành
Chương 3. Kỹ thuật tự sự
Chương 4. Diễn ngôn tự sự và ngôn ngữ tiểu thuyết
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ QUAN ĐIỂM,
PHƢƠNG HƢỚNG TIẾP CẬN CỦA LUẬN ÁN

1.1. Các giai đoạn nghiên cứu tiểu thuyết Diêm Liên Khoa ở
Trung Quốc
Tại Trung Quốc, cho đến nay, đã có một khối lượng lớn các
luận án, luận văn, bài tạp chí nghiên cứu về tiểu thuyết Diêm Liên
Khoa. Theo thống kê của thư viện học thuật trực tuyến CNKI (China
National Knowledge Infrastructure), truy cập ngày 1/7/2019, từ khóa
Diêm Liên Khoa cho ra 2206 kết quả, bao gồm 6 luận án tiến sĩ, 217
luận văn thạc sĩ, 13 hội thảo trong nước, 3 hội thảo quốc tế, 1757 bài tạp
chí, 210 bài báo.

Chúng tơi chia tình hình nghiên cứu về tiểu thuyết Diêm Liên
Khoa tại Trung Quốc làm 4 giai đoạn:
4


Giai đoạn 1991 – 1997: Đây là thời kỳ mà từ phương diện chủ
đề, nội dung cho đến nghệ thuật của dịng văn học viết về nơng thơn
của Diêm Liên Khoa được quan tâm, tiêu biểu nhất có thể kể đến các
cơng trình của Lâm Châu, Dương Hồi Châu, Lục Tân, Đậu Bằng,
Thái Quế Lâm, Trương Đức Tường, Từ Quốc Tuấn, Triệu Thuận
Hoành, Chu Hướng Tiền...
Giai đoạn 1998 – 2007: Xuất hiện những cơng trình nghiên
cứu về thế giới nghệ thuật của Diêm Liên Khoa, chủ yếu đứng từ giác
độ lịch sử văn hóa để nghiên cứu nội dung tiểu thuyết. Tiêu biểu cho
hướng nghiên cứu này là các công trình của Cốc Ngun Ngọc,
Trương Chí Trung, Thiệu n Qn, Trương Diên Quốc, Lô Tiêu
Dao, Liêu Tiểu Năng, Tôn Hiểu Đơng, Tống Hồng Linh, Thạch
Thự Bình...
Giai đoạn 2008 – 2013: Với sự phát triển của ngành Tự sự học
Trung Quốc bắt đầu từ những năm 80 của thập kỷ, giai đoạn này
bùng nổ một loạt nghiên cứu về tiểu thuyết Diêm Liên Khoa dưới
góc độ tự sự học. Theo xu hướng trên, nhiều tác giả đã chọn tự sự
làm hạt nhân lý luận để nghiên cứu tiểu thuyết của Diêm Liên Khoa
như Vũ Diễm Vĩ, Vương Đan Đan, Thường Lệ Nạp, Lâm Linh,
Vương Phỉ Phỉ, Tiền Phương, Mai Văn Bân...
Giai đoạn 2014 – 2019: Cùng với sự phát triển của ngành văn
học so sánh, việc so sánh phong cách tiểu thuyết Diêm Liên Khoa với
những tác giả khác trong và ngoài nước cũng là một hướng nghiên cứu
được nhiều người quan tâm, có thể kể đến các bài viết của Lý Doanh,
Dụ Sướng, Vương Vũ Đan… Ở giai đoạn này, các nhà nghiên cứu

Trung Quốc vận dụng cả lý thuyết của chủ nghĩa hình thức Nga, tự sự
5


học Genette, chủ nghĩa hiện thực huyền ảo Mỹ Latinh, lập trường văn
hóa dân gian để bình xét tác phẩm Diêm Liêm Khoa. Hướng nghiên
cứu này cho thấy tính hợp lý khi có thể nhận diện được Diêm Liên
Khoa ở cả hai mặt “truyền thống” và “hiện đại”.
1.2. Phiên dịch, nghiên cứu tiểu thuyết Diêm Liên Khoa ở
một số nƣớc trên thế giới
- Phiên dịch, giới thiệu tiểu thuyết Diêm Liên Khoa ở Đức và Pháp
+ Ở Đức, việc dịch thuật các tiểu thuyết của Diêm Liên Khoa
được thực hiện từ sớm. Năm 2007, Cuốn Vì nhân dân phục vụ (Dem
Volke dienen) được dịch sang tiếng Đức; năm 2009, Giấc mộng làng
Đinh cũng được xuất bản (Der Traum meines Groβ-vaters). Các nhà
nghiên cứu, phê bình người Đức như Verena Mayer, Frankfurter
Allgemeine Zeitung, Mark Siemons nhấn mạnh vào tính chất châm
biếm, trào phúng, phê phán xã hội của “tự sự cách mạng” trong tiểu
thuyết Diêm Liên Khoa.
+ Pháp là quốc gia có truyền thống về dịch thuật tác phẩm văn
học Trung Quốc, những tác phẩm mang yếu tố phản truyền thống
trong tiểu thuyết của Diêm Liên Khoa tạo cảm hứng và gây sự chú ý
với độc giả Pháp. Giấc mộng làng Đinh (Le Rêve du Village des
Ding), Ngày tháng năm (Les Jours, Les mois, Les Années), Làng Thụ
Hoạt (Bons baisers de Lénine) đều được các nhà phê bình Pháp đánh
giá cao, đồng thời Diêm Liên Khoa được nhận xét là “bậc thầy của
chủ nghĩa hiện thực huyền ảo tại Trung Quốc”.
- Nghiên cứu tiểu thuyết Diêm Liên Khoa ở Mỹ và Canada
+ Từ năm 2010 trở đi, những nghiên cứu về Diêm Liên Khoa
bắt đầu được mở rộng ở Mỹ. Năm 2011, tạp chí Văn học Trung Quốc

6


ngày nay của Đại học Oklahoma (Mỹ) đưa ra chùm 2 bài nghiên cứu
về với chủ đề “Hư cấu và sự thật trong tiểu thuyết của Diêm Liên
Khoa” của Laifong Leung và Thomas Chen. Ngoài ra, tiếp cận tiểu
thuyết Diêm Liên Khoa từ góc độ xã hội học, văn hóa học có các bài
viết của Rachel Leng, Xuenan Cao, Wang Yu. Từ những lý thuyết
mới mẻ, hiện đại, các nghiên cứu này đã đưa ra nhiều khám phá thú
vị như “đám cưới ma”, sự giải huyền thoại về quan hệ huyết tộc,
những sáng tác về hệ thống tự miễn dịch trong tiểu thuyết Diêm Liên
Khoa…
- Dịch thuật và giới thiệu Diêm Liên Khoa ở Nhật Bản
Các tiểu thuyết của Diêm Liên Khoa được dịch và xuất bản tại
Nhật gồm có: Giấc mộng làng Đinh (2007), Tôi và cha chú, Ngày
tháng năm, Tạc liệt chí (cùng được xuất bản vào năm 2016). Các tờ
báo nổi tiếng ở Nhật Bản như Triêu nhật tân văn, Độc mại tân văn,
Nhật Bản kinh tế tân văn khi giới thiệu văn học nước ngoài, đều dành
cho Diêm Liên Khoa nhiều lời khen ngợi. Năm 2014, tiểu thuyết
Làng Thụ Hoạt của Diêm Liên Khoa dành được giải thưởng văn học
Twitter ở Nhật Bản dành cho các tác phẩm văn học nước ngoài.
1.3. Nghiên cứu tiểu thuyết Diêm Liên Khoa ở Việt Nam
- Cho đến 8/2019, đã có 6 cuốn tiểu thuyết của Diêm Liên
Khoa được dịch sang tiếng Việt (Phong Nhã Tụng, Vì nhân dân
phục vụ, Kiên ngạnh như thủy, Nàng Kim Liên ở trấn Tây Môn,
Đinh trang mộng, Tứ Thư).
- Bên cạnh hoạt động dịch thuật, các bài nghiên cứu về tiểu
thuyết Diêm Liên Khoa cũng lần lượt xuất hiện tuy chiếm số lượng ít
ỏi. Diêm Liên Khoa: Từ quan niệm đến thực hành “Chủ nghĩa thần
7



thực” của Nguyễn Thị Thúy Hạnh (2018) là bài nghiên cứu đầu tiên
ở Việt Nam đã giới thiệu, phân tích những nội hàm quan trọng của
“chủ nghĩa thần thực” Diêm Liên Khoa. Bằng thao tác phân tích văn
bản, các bài viết: Liên văn bản trong tiểu thuyết Diêm Liên Khoa của
Nguyễn Thị Tịnh Thy (2018), Điểm nhìn và kết cấu tự sự trong một
số tiểu thuyết Diêm Liên Khoa (2019), Từ không tưởng đến giải/phản
không tưởng: Sự vận động của diễn ngôn tự sự trong tiểu thuyết Làng
Thụ Hoạt (2019) của Nguyễn Thị Thúy Hạnh đã chỉ ra những đặc
trưng cơ bản trong phong cách tự sự của nhà văn. Nhìn nhận Liêm
Liên Khoa là một trong Ba tác gia lớn của văn học đương đại Trung
Quốc thời kỳ sau cải cách mở cửa (cùng với Mạc Ngôn, Cao Hành
Kiện), tác giả Nguyễn Thị Mai Chanh (2019) đã trình bày khái quát
những thành tựu văn học mà Diêm Liên Khoa đạt được tính đến thời
điểm hiện tại. Đây là một số cơng trình nghiên cứu mang tính chất
chun sâu về đối tượng tính đến thời điểm này.
1.4. Những tranh luận quanh tiểu thuyết Diêm Liên Khoa
- Trong cuộc tranh luận xung quanh cuốn tiểu thuyết Phong
Nhã Tụng (2008) giữa một số nhà phê bình nổi tiếng ở Trung Quốc
như Tơn Úc, Trần Hiểu Minh, Vương Bân Bân, Triệu Yến Quân,
phái phản đối cho rằng Diêm Liên Khoa đã “cố tình nhạo báng,
xun tạc phần tử trí thức”, “cơng khai ám chỉ Đại học Bắc Kinh”.
- Đánh giá về phương diện nghê thuật tiểu thuyết Diêm Liên
Khoa cũng có những ý kiến trái chiều. Nhiều nhà nghiên cứu như
Vương Quang Đông, Hồng Phát Hữu, Vương Nghiêu, Tạ Hữu
Thuận, Trần Tư Hịa, Trần Chung Nghị, Trình Quang Vĩ, Tống Bính
Huy... dành sự ngợi khen cho tác phẩm của Diêm Liên Khoa, nhưng
8



cũng có những học giả như Tiêu Ưng, Quách Băng Như chỉ ra những
mặt thiếu sót trong tiểu thuyết của ông.
- Ở Trung Quốc đại lục, Tứ Thư bị liệt vào hàng sách cấm, nên
rất ít tác giả nghiên cứu về tiểu thuyết này (chẳng hạn Trình Quang
Vĩ, Lâm Bân Bân) nhưng lại được nhiều học giả nước ngoài quan
tâm. Sebastian Veg cho rằng, việc tiếp nhận Tứ Thư đồng thời mở ra
những tranh luận mới về lịch sử.
- Các tác phẩm của Diêm Liên Khoa khi xuất hiện đều tạo nên
những cuộc tranh luận với các mức độ khác nhau, vì thế, khơng phải
ngẫu nhiên mà Diêm Liên Khoa được đặt tên là “nhà văn gây tranh
cãi nhất ở Trung Quốc”. Những ý kiến trái ngược về tiểu thuyết
Diêm Liên Khoa cho thấy, đây thực sự là một hiện tượng văn học thú
vị, phức tạp và đáng để nghiên cứu; nhưng cũng cần chú ý rằng trong
quá trình tiếp nhận, không nên chỉ tán dương, ca ngợi một chiều.
1.5. Quan điểm và phƣơng hƣớng tiếp cận của luận án
- Tác giả thực hiện luận án trên tinh thần khách quan, sử dụng
các phương pháp nghiên cứu khoa học, có tham chiếu và đối thoại
với những quan điểm khác nhau về tiểu thuyết Diêm Liên Khoa, từ
đó đưa ra những đánh giá, lý giải và phân tích riêng.
- Bên cạnh vận dụng những hạt nhân lý thuyết của các nhà lý
luận phương Tây như Gerard Genette, Mikhail M. Bakhtin…, chúng
tôi đồng thời tiếp thu những thành tựu nghiên cứu về tự sự học Trung
Quốc của Andrew H. Plaks (Tự sự học Trung Quốc, NXB Đại học
Bắc Kinh, bản in lần thứ nhất, 1996), Dương Nghĩa (Tự sự học Trung
Quốc, NXB Nhân dân Bắc Kinh, 1997), và đặc biệt là Triệu Nghị
Hành với hai cơng trình Người tự sự khổ não – Hình thức tự sự và
9



văn hóa Trung Quốc của tiểu thuyết Trung Quốc (NXB Văn nghệ
Tháng Mười Bắc Kinh, 1994) và Tự sự học mở rộng (NXB Đại học
Tứ Xuyên, 2013) để nhận diện và phân tích đối tượng.
CHƢƠNG 2
“CHỦ NGHĨA THẦN THỰC”: TỪ QUAN NIỆM ĐẾN THỰC HÀNH

2.1. Quan niệm về “chủ nghĩa thần thực”
2.1.1.“Thần là cây cầu, thực là bờ bên kia”
Qua chuyên luận Phát hiện tiểu thuyết (XNB Đại học Nam Khai,
2001) và những biểu hiện cụ thể trong sáng tác của nhà văn, chúng tôi
cho rằng “chủ nghĩa thần thực” (神 实主义), Diêm Liên Khoa có những
nội hàm như sau:
- Chữ “thần” (神 ) trong khái niệm “chủ nghĩa thần thực” khơng
phải là thần kỳ, thần bí, “thần” chủ yếu được hiểu là “tinh thần”. “Thần
thực” (神 实) là hiện thực của tinh thần và tâm linh, xem nhẹ ngoại giới
mà nhấn mạnh vào phần “tinh thần” nội tại thuộc về tâm hồn, linh hồn
nhà văn.
- Trong sáng tác, nhà văn bỏ qua những quan hệ logic bề mặt của
hiện thực đời sống, đào sâu vào một dạng chân thực “khơng tồn tại”,
một thực tại khơng nhìn thấy, một hiện thực bị che lấp”.
- “Sự đặc sắc mới mẻ của chủ nghĩa thần thực đó là “sáng tạo
hiện thực, tìm kiếm hiện thực”, chứ không phải là “mô tả hiện thực”.
- Với tư cách là một khuynh hướng sáng tác, “chủ nghĩa thần
thực” bỏ qua logic của hiện thực bên ngoài, chú trọng khai thác “sự chân
thực bên trong” (内真实 nội chân thực), dị tìm chiều sâu thế giới tinh
thần, tâm linh của xã hội và con người.

10



- Tưởng tượng, dụ ngôn, thần thoại, truyền thuyết, hoang đường,
kỳ ảo, lai ghép… là những thủ pháp mà “chủ nghĩa thần thực” sử dụng
để miêu tả hiện thực.
2.1.2. “Vô nhân quả”, “bán nhân quả” và “nội nhân quả”
Để lý giải cụ thể hơn về “chủ nghĩa thần thực”, trong Phát hiện
tiểu thuyết, Diêm Liên Khoa đề xuất các khái niệm: “vô nhân quả”,
“bán nhân quả” và “nội nhân quả”.
- “Nhân quả” (= nguyên nhân + hệ quả): mối liên hệ và kết quả
diễn hóa của sự vật hiện tượng.
- “Vô nhân quả” (零因果): Trong sáng tác, “vô nhân quả”
được cắt nghĩa như: “sự phát sinh của câu chuyện, sự tái diễn giải và
chống lại quan hệ nhân quả của nhà văn, là một nỗ lực và thử nghiệm
của nhà văn trong việc sáng tạo ra một trật tự nhân quả mới” Phát
hiện tiểu thuyết; tr76
- “Bán nhân quả” (半因果): “lớn hơn hoặc nhỏ hơn tính tồn
vẹn và đồng đẳng của tồn nhân quả”, “khơng người đọc nào hồi
nghi về tính phi chân thực trong quan hệ logic của chúng” Phát hiện
tiểu thuyết; tr112-113. Đặc trưng cho tự sự “bán nhân quả” là Trăm
năm cô đơn. Theo Diêm Liên Khoa, “bán nhân quả” được coi là đặc
trưng cho phương pháp sáng tác của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo
Mỹ Latinh mà García Márquez là đại biểu.
- “Nội nhân quả” (内因果): “quá trình tồn tại của câu chuyện
và nhân vật trong tiểu thuyết, dựa vào nhân quả của sự chân thực bên
trong (nội chân thực) để thúc đẩy nhân vật và tình tiết biến đổi”. “Nội
nhân quả” chỉ tồn tại trong sự chân thực của tinh thần và linh hồn,
11


dựa vào tinh thần và linh hồn để “thúc đẩy, kéo dài câu chuyện và
biến hóa, hồn thiện nhân vật”, là “căn nguyên duy nhất để tâm hồn,

hành vi, ngôn ngữ của nhân vật phát triển”. “Nội nhân quả” chính là
phương thức tự sự đặc trưng của “chủ nghĩa thần thực” Phát hiện
tiểu thuyết; tr136.
2.2. Quá trình chuyển biến trong quan niệm nghệ thuật của
nhà văn: từ “hiện thực” đến “thần thực”
- Có thể phân chia những sáng tác về nông thôn của Diêm Liên
Khoa thành hai thời kỳ: Thời kỳ trước Ngày tháng năm (1997), tác phẩm
tập trung phê phán quyền lực ở địa phương, vì quyền lực mà con người
không tiếc thủ đoạn, bất chấp việc huynh đệ tương tàn; sử dụng thủ pháp
tự sự truyền thống của chủ nghĩa hiện thực và mang tính “phê bình khai
sáng”. Từ 1997 về sau, Diêm Liên Khoa trở thành cây bút nổi bật trên
văn đàn với các tác phẩm khoét sâu vào tầng dục vọng tăm tối của con
người, những tồn tại khổ đau và phi lý của thân phận, lịng can đảm và
dũng khí của họ khi chiến đấu với định mệnh.
- Sự thay đổi về mặt nhận thức trong quan niệm nghệ thuật và
phương pháp sáng tác của Diêm Liên Khoa khơng mang tính cá biệt, mà
nằm trong nhu cầu tái cấu trúc chủ nghĩa hiện thực ở Trung Quốc những
năm 90 nói chung, nhân sự xuất hiện của các sáng tác theo trào lưu “Tân
chủ nghĩa tả thực”.
- Diêm Liên Khoa thể hiện sự phủ nhận đối với phương pháp
sáng tác cũ của chủ nghĩa hiện thực, địi hỏi nhà văn phải tìm một
phương pháp sáng tác mới, một lối diễn đạt mới, một cách tự sự mới,
một chiều sâu nội dung mới, phản tư lại với những thủ pháp sáng tác
truyền thống, nhấn mạnh yêu cầu tái sáng tạo.
12


2.3. Chủ nghĩa thần thực của Diêm Liên Khoa trong quan hệ
với truyền thống văn học Trung Quốc
2.3.1. Gia nhập dòng văn học hương thổ

- Diêm Liên Khoa lấy dãy núi Bá Lâu làm bối cảnh sáng tác
cho loạt “tiểu thuyết hương thổ”. Các tác phẩm tiêu biểu của thời kỳ
này: Gia thi (家诗), Chuyện kể về dãy núi Bá Lâu (耙耧系列), Ngục
tình cảm (情感狱), Chuyện làng (乡里故事), Quê cũ Nhị Trình
(两程故里)…
- Khai thác những giới hạn và bi kịch của nơng thơn vùng
trung ngun trong tiến trình hiện đại hóa; phê phán sự ham muốn
quyền lực điên cuồng, sự biến dạng nhân tính bởi quyền lực.
2.3.2. Nối tiếp dịng văn học “Phản tỉnh dân tộc”
- Tiếp nối tinh thần phê phán của Lỗ Tấn, thể hiện qua nhiều
chủ đề khác nhau: thói nhu nhược của người trí thức (Phong Nhã
Tụng), chấn thương tinh thần thời kỳ Cách mạng Văn hóa (Tứ Thư),
sự đổ vỡ của nhân sinh trong giai đoạn hậu Cách mạng (Giấc mộng
làng Đinh, Làng Thụ Hoạt)…
2.3.3.Tiếp thu phương thức tự sự truyền thống
- Về mặt nghệ thuật tự sự, nhà văn coi trọng yếu tố tình tiết, cốt
truyện, chú ý đến những xung đột tình cảm của nhân vật và “khẩu vị của
người trần thuật” (A. H. Plaks).
- Tác phẩm của ông tuân theo một kết cấu rõ ràng, cốt truyện
mạch lạc, tính cách nhân vật được khắc họa nổi bật, yếu tố kịch được
đưa vào tác phẩm.
2.3.4. Khúc xạ tư tưởng “Đạo” gia

13


- Ảnh hưởng của tư tưởng Đạo gia đến tiểu thuyết Diêm Liên Khoa
được xâu chuỗi một cách hệ thống qua biểu tượng vùng núi Bá Lâu (“Bá
Lâu hệ liệt”) xuất hiện xuyên suốt nhiều tác phẩm. Được miêu tả như
một chốn “đào nguyên” lý tưởng nằm ngoài trần gian, hình tượng Bá

Lâu có nguồn gốc từ mơ hình “tiểu quốc quả dân” (nước nhỏ dân ít) của
Trang Tử.
- Thể hiện tinh thần “quý nhu” đề cao chữ “mẫu” của Đạo gia, nhân
vật nữ trong tiểu thuyết Diêm Liên Khoa thường được “thanh khiết hóa”
hoặc “lý tưởng hóa”.
- Tư tưởng Đạo gia còn ảnh hưởng đến những yếu tố “nội văn
bản”. Có thể tìm thấy dấu ấn của tư duy nhị phân (âm/dương) trong cách
tổ chức thời gian thực – mộng đan xen, mơ típ ra đi – trở về, không gian
lưỡng cực utopia/phản utopia…
2.4.Tiểu thuyết Diêm Liên Khoa trong sự tiếp thu và sáng tạo
từ văn học phƣơng Tây
2.4.1. Tiếp thu kỹ thuật tiểu thuyết phương Tây hiện đại
- Các nhà văn như Kafka, Juan Rulfo, Pedro Baramo, Marquez,
Faulkner… đều ít nhiều có ảnh hưởng tới các sáng tác của Diêm Liên
Khoa.
- Với mỗi cuốn tiểu thuyết, Diêm Liên Khoa đều tìm kiếm những
phương thức tự sự khác nhau để triển khai câu chuyện, như: sử dụng tự
sự của người chết, thời gian đảo thuật (analepsis), thủ pháp giễu nhại
(parody); đồng thời liên tục thử nghiệm những hình thức mới của văn
bản (dùng chú thích, trích dẫn, thể chữ in đậm, hịa trộn giữa phương
ngữ và ngơn ngữ hiện đại, ngơn ngữ tính dục và ngơn ngữ cách
mạng…).
14


2.4.2.Ảnh hưởng của tư tưởng hiện sinh chủ nghĩa
- Những ý niệm của chủ nghĩa hiện sinh: sự lo âu (angoisse),
tình trạng bị bỏ rơi (délaissement), sự tuyệt vọng (désespoir) đều xuất
hiện trong tiểu thuyết Diêm Liên Khoa.
- Ngôn ngữ hoang đản và sự kiện phi lý tạo thành cấu trúc dụ

ngôn của các cuốn tiểu thuyết.
- Các thủ pháp siêu thực như tượng trưng, khoa trương, phi lý,
mộng ảo được sử dụng để miêu tả một môi trường sống khắc nghiệt,
cực đoan hóa trạng thái tồn tại.
CHƢƠNG 3
KỸ THUẬT TỰ SỰ

3.1. Dụ ngơn hóa tự sự và phi lý hóa hiện thực
3.1.1. Dụ ngơn hóa tự sự
- Với Diêm Liên Khoa, chất dụ ngôn thể hiện sâu sắc nhất ở
những tiểu thuyết dụ ngơn chính trị, điển hình là Làng Thụ Hoạt.
- Nhà văn thường xuyên tái sử dụng những môtip kinh điển
trong thần thoại, Kinh Thánh trong các tác phẩm.
3.1.2. Phi lý hóa tự sự
- Thủ pháp “phi lý hóa tự sự” trong tiểu thuyết Diêm Liên Khoa
thể hiện qua hai phương diện: ảnh hưởng của truyền thống viết về cái
phi lý trong văn học Trung Quốc, và sự tiếp thu những thủ pháp nghệ
thuật của văn học phi lý phương Tây thế kỷ XX.
- Lối viết “phi lý hóa” dựa trên sức tưởng tượng của Diêm Liên
Khoa tưởng chừng mở rộng đến mức vơ giới hạn, thì vẫn bám vào
một ngun tắc nhất định, đó là “tính chân thực nội tại của văn bản
hư cấu”.
15


3.2. Điểm nhìn và kết cấu tự sự
3.2.1. Đa dạng hóa điểm nhìn
Các dạng điểm nhìn xuất hiện trong tiểu thuyết Diêm Liên Khoa:
- Điểm nhìn bên ngồi hạn tri; Điểm nhìn bên trong
- Điểm nhìn đơn tuyến; Điểm nhìn đa tuyến

- Điểm nhìn của người chết
3.2.2. Các dạng thức kết cấu tự sự
- Kết cấu thời gian

- Kết cấu đảo thuật

- Kết cấu song tuyến

- Kết cấu nội nhân quả

- Dùng chú thích để tạo thành kết cấu của tiểu thuyết
3.3. Siêu tiểu thuyết và gián cách hóa tự sự
- “Siêu tiểu thuyết” (metafiction) là “tiểu thuyết về tiểu thuyết”
- Các tiểu thuyết của Diêm Liên Khoa có hình thức “siêu tiểu
thuyết”: Kiên ngạnh như thủy, Tứ Thư, Tạc Liệt chí.
3.4. Mộng nhƣ một tự sự
- Xem “mộng” như một tự sự, Triệu Nghị Hành xếp mộng vào
một trong những biểu hiện của “tự sự tâm ảnh” (tự thuật tâm tượng)
- Những tiểu thuyết lấy “tự sự tâm ảnh” làm chủ đạo trong tiểu
thuyết Diêm Liên Khoa: Ngục tình cảm, Giấc mộng người Dao Câu,
Giấc mộng làng Đinh, Ngày tàn.
CHƢƠNG 4.
DIỄN NGÔN TỰ SỰ VÀ NGÔN NGỮ TIỂU THUYẾT

4.1. Diễn ngôn tự sự
4.1.1. Diễn ngôn song trùng
Diễn ngôn song trùng hay diễn ngơn kép (double discourse), là
hai hình thức giao tiếp hoặc biểu hiện khác nhau xảy ra đồng thời. Ở
16



hình thức đơn giản nhất, nó trình bày bởi một nhóm cá nhân trong đó
hai cuộc hội thoại xảy ra cùng lúc. Ở quy mơ lớn hơn, diễn ngơn kép
có thể xảy ra ở cấp độ xã hội và chính trị, khi một cá nhân hoặc một
nhóm có thể đưa ra hai ý tưởng, hai tuyên bố khác nhau. Trong nhiều
tiểu thuyết của Diêm Liên Khoa, hình thức hai diễn ngôn xuất hiện
đồng thời, đan xen tại một văn bản trở thành một đặc trưng của nghệ
thuật tự sự.
Thứ nhất, cặp diễn ngơn cách mạng – tính dục. Diễn ngơn
kép này xuyên suốt các tác phẩm: Vì nhân dân phục vụ, Kiên ngạnh
như thủy, Tứ Thư. Bằng sự miêu tả tình dục nhằm mục đích giễu
nhại, Diêm Liên Khoa đã xây dựng hình tượng người lính – nơng dân
rất khác so với truyền thống của tiểu thuyết quân đội.
Thứ hai, cặp diễn ngôn sinh mệnh – bệnh tật: diễn ngôn sinh
mệnh gắn liền với diễn ngôn về bệnh tật như một phản tư cho ý nghĩa
của tồn tại (Bài hát Bá Lâu, Ngàn năm trôi mãi, Làng Thụ Hoạt,
Giấc mộng làng Đinh). Những miêu tả về sinh mệnh thực ra đều gắn
với “trải nghiệm” thực tế của Diêm Liên Khoa khi bị bệnh, giúp nhà
văn cảm nhận sâu sắc hơn bi kịch của kiếp người, những ký ức đau
xót, những vết thương lịch sử trên thân thể Trung Hoa.
4.1.2. Viết chính trị trong bối cảnh hậu Mao
- Một số từ khóa liên quan đến chính trị là “quyền lực”, “cách
mạng”, “thể chế”, những từ này trở thành hạt nhân trong kết cấu của
Ngàn năm trôi mãi, Kiên ngạnh như thủy và Làng Thụ Hoạt.
- Thái độ hoài nghi thể chế, tinh thần phản tư hệ thống chính trị
Trung Quốc, đồng thời đả kích sự sùng bái lãnh tụ trở thành âm hưởng
chủ đạo trong những tiểu thuyết chính trị của Diêm Liên Khoa.
17



4.1.3. “Phản Utopia” như một bản sắc trần thuật
-Utopia theo quan niệm của Diêm Liên Khoa là một thế giới
tồn tại độc lập đứng ngoài xã hội hiện đại (Làng Thụ Hoạt, thơn
Tam Tính, thế giới Bá Lâu).
-Trong tác phẩm của Diêm Liên Khoa có thể thấy sự chuyển thừa,
nối tiếp của hai diễn ngôn: diễn ngôn utopia thể hiện tinh thần hồi quy về
thế giới đào nguyên; diễn ngôn phản Utopia hiện diện như một chất vấn
đối với quyền lực và tiến trình hiện đại hóa Trung Quốc.
4.2. Đặc sắc ngôn ngữ tiểu thuyết
4.2.1. Ngôn ngữ nhại
4.2.1.1. Nhại diễn ngơn cách mạng
- Trong các tiểu thuyết dụ ngơn chính trị của Diêm Liên Khoa
biểu tượng cuốn sách “Mao chủ tịch ngữ lục” được xuất hiện nhiều
lần với mục đích giễu nhại. Việc vận dụng thủ pháp nhại này bên
cạnh ý thức phê phán lại di sản tư tưởng Mao Trạch Đơng, cịn có ý
nghĩa phủ nhận thứ văn học thời Mao lấy quan làm bản vị, văn nghệ
phục tùng chính trị.
- Cả hai tiểu thuyết Vì nhân dân phục vụ và Kiên ngạnh như
thủy đều sử dụng mơ hình kết hợp: “cách mạng + tình dục” như một
cách thức để nhại. Còn trong Làng Thụ Hoạt, sự giễu nhại quyền lực
chính trị được nhấn mạnh qua việc xây dựng nhân vật Liễu Ưng
Tước nhằm khắc họa một nhân vật mang tính “điển hình” cho văn
hóa quyền lực kiểu Trung Quốc.
4.2.1.2. Nhại thể loại
- Các biểu hiện của nhại/parody trong tiểu thuyết Diêm Liên
Khoa: nhại thể loại thơ bằng cách kết hợp các thủ pháp ngôn ngữ khác
18


nhau như tạo tiết tấu, gieo vần, vận dụng các biện pháp tu từ, nhại thơ

ca cổ, nhại các giai điệu/ca từ cách mạng, nhại Kinh Thánh và nhại
thể loại nhật ký, nhại Kinh Thi, kịch hát Hà Nam, nhại thể loại chí…
- Nhại văn học cổ điển trong tiểu thuyết Diêm Liên Khoa
không phải để nhằm chế giễu văn bản gốc hay cười cợt những mẫu
mực kinh điển, ngoài hàm ý thách thức những định kiến, nó tạo ra
một hình thái diễn ngơn liên văn bản, từ đó kích thích tư duy đối
thoại, mời gọi những kinh nghiệm đọc đa dạng từ phía độc giả.
4.2.1.3. Tự nhại
- Nếu như ở Kiên ngạnh như thủy, hình bóng tác giả chỉ được
nhắc đến ở cuối tiểu thuyết thông qua tên tác phẩm, thì trong Ngày
tàn, vừa có nhại tác giả một cách trực tiếp, vừa nhại một cách bóng
gió, gián tiếp.
- Trong Tạc Liệt chí, sử dụng thể loại chí – một dạng văn bản
vốn ghi chép sự thực lịch sử với mục đích nhại – Diêm Liên Khoa đã
thể hiện một quan niệm mới về cách viết lịch sử mang tinh thần hậu
hiện đại: viết lịch sử đồng thời là một hoạt động hư cấu, lịch sử lúc
này là một lộ trình văn bản, trong đó, siêu tiểu thuyết là một sự chơi
văn bản, mỗi câu chuyện đều là một sự chơi mà bản thân tác giả đã
tham dự nhờ vào việc chơi nó (tự nhại).
4.2.2. Sử dụng và sáng tạo phương ngữ
4.2.2.1. Ý thức tái xác lập địa vị phương ngữ
Với những tác phẩm sử dụng hình tượng khơng gian Bá Lâu làm
bối cảnh, lối viết của Diêm Liên Khoa đã được hiện đại hóa, thuần
thục trong bút pháp: Ngày tháng năm, Ngàn năm trôi mãi, Bài ca núi
Bá Lâu, Kiên ngạnh như thủy, Làng Thụ Hoạt. Đồng thời với không
19


gian nghệ thuật này, ngôn ngữ trong tiểu thuyết Diêm Liên Khoa có
thể chia thành hai hệ thống ngơn ngữ: ngôn ngữ vùng núi Bá Lâu và

ngôn ngữ công cộng.
4.2.2.2. Gia tăng phương ngữ ngữ khí từ
- Trong tiểu thuyết Diêm Liên Khoa, dạng phương ngữ ngữ khí
từ 方言语气词 được vận dụng một cách linh hoạt tạo thành vùng khí
hậu riêng cho tác phẩm. Các phương ngữ ngữ khí từ như “哩”, “啊”,
“了”, “吧”, “哟”, “呢”, “哦”, “啦” với đặc trưng khẩu âm, khẩu ngữ
của vùng Dự Tây, không chỉ có tác dụng tu từ mà cịn “mềm hóa”
ngữ khí, truyền đạt lại trạng thái đời sống và tâm thức của người dân
Bá Lâu. Sự vận dụng một cách phong phú các ngữ khí từ này khiến
tác phẩm mang phong vị bản thổ, gia tăng nhạc tính cho câu chữ.
- Sự xâm nhập của ngơn ngữ - văn hóa dân gian vào ngơn ngữ và
văn hóa quan phương, tạo nên tính chất đa thanh, đối thoại của những
thế giới khác biệt cùng tồn tại trong tác phẩm.
4.2.2.3. Thể hiện đặc sắc văn hóa bản thổ
Sự vận dụng phương ngữ Dự Tây có tác dụng lớn trong việc thể
hiện trạng thái tồn tại và phong tục dân tình ở “thế giới Bá Lâu”.
- Ngay ở thời kỳ đầu, Diêm Liên Khoa đã sớm đưa phương ngữ
Dự Tây vào tiểu thuyết (Lưỡng trình cố lý, Hồnh hoạt, Đẩu kê….).
Khối lượng phương ngữ được gia tăng ngày càng nhiều trong các
sáng tác ở giai đoạn sau tạo nên một phong vị địa phương đặc thù của
tác phẩm.
- Ở Làng Thụ Hoạt (2003), phương ngữ Dự Tây đã hiện diện với
một số lượng lớn, phá vỡ qn tính đọc thơng thường. Khơng chỉ giới
hạn ở việc vận dụng khẩu ngữ, phương ngữ dân gian có sẵn, nhà văn
20


sáng tạo ra một hệ thống “phương ngữ Bá Lâu” (phương ngữ Dự
Tây) trong thế giới Thụ Hoạt, căn cứ vào văn bản để tạo lập bối cảnh
xã hội và tình tiết câu chuyện.

KẾT LUẬN

1.Khi đặt chủ nghĩa thần thực vào bối cảnh văn hóa, văn học
Trung Quốc và thế giới, chúng tơi thấy rằng “chủ nghĩa thần thực” có
sự tiếp thu những đặc sắc văn hóa bản địa, truyền thống tự sự Trung
Hoa, cũng như vận dụng một cách hợp lý và sáng tạo những thành
tựu của văn học hiện đại phương Tây. Mặc dù Diêm Liên Khoa
khẳng định, sự thống trị quá lâu của chủ nghĩa hiện thực sẽ trở thành
“mồ chôn của văn học”, nhưng thái độ quyết liệt này khơng có nghĩa
là tác giả bài trừ chủ nghĩa hiện thực, mà bởi ông nhận thấy quán tính
của chủ nghĩa hiện thực đã ngăn cản sự phát triển của văn học Trung
Quốc. “Chủ nghĩa thần thực” phủ định việc phản ánh hiện thực một
cách đơn giản, chủ trương dùng các thủ pháp của chủ nghĩa siêu hiện
thực để biểu hiện “sự chân thực khơng nhìn thấy” và “sự chân thực
không tồn tại”. Giá trị lớn nhất của “chủ nghĩa thần thực” nằm ở chỗ,
nó đã dũng cảm phá vỡ mô thức phương pháp sáng tác của chủ nghĩa
hiện thực truyền thống, sáng tạo nên một dạng hiện thực mới. “Chủ
nghĩa thần thực” nhấn mạnh vào sự chân thực của linh hồn và tinh
thần nhà văn, hướng người đọc suy nghĩ về ý nghĩa của tồn tại và
chiều sâu những vấn đề lịch sử xã hội. “Chủ nghĩa thần thực” có một
sức tưởng tượng phong phú cùng năng lực tạo dựng kết cấu mới mẻ;
bên cạnh việc vay mượn và dung hòa rất nhiều yếu tố của chủ nghĩa
hiện thực huyền ảo, chủ nghĩa hiện đại phương Tây, nó vẫn bám rễ
trên thổ nhưỡng Trung Hoa, mang đặc trưng văn hóa Trung Hoa.
“Chủ nghĩa thần thực” vì vậy là một dạng của chủ nghĩa siêu hiện
21


thực đã được bản thổ hóa. Sự hình thành của nó mang lại những đóng
góp mới trong văn học Trung Quốc đương đại.

Tuy có những diễn giải tương đối mới mẻ, nhưng trước sau
vẫn phải khẳng định rằng, “chủ nghĩa thần thực” không phải là một
lý luận mới, một lý thuyết hay trường phái mới. Trong văn học Trung
Quốc đương đại, “chủ nghĩa thần thực” chưa đủ sức thuyết phục tất
cả độc giả, nhưng ở một mức độ nhất định nó truyền cảm hứng cho
các nhà văn từ bỏ xiềng xích tư duy của quán tính hiện thực, tích cực
học hỏi và vận dụng thành tựu của văn học chủ nghĩa hiện đại
phương Tây, làm giàu có thêm cho nền văn học bản địa.
2.Trong mỗi tác phẩm, Diêm Liên Khoa ln tìm kiếm một
cách kể mới, những phương thức thể hiện mới phù hợp với ý đồ nghệ
thuật, đồng thời nhất quán với quan niệm về “chủ nghĩa thần thực”
mà ông theo đuổi. Bên cạnh việc duy trì những yếu tố của phương
thức tự sự truyền thống, tiểu thuyết Diêm Liên Khoa còn khúc xạ tư
tưởng Đạo gia, đồng thời chịu ảnh hưởng từ triết học hiện sinh
phương Tây ở tinh thần hồi nghi, cái nhìn bi đát, ý thức hiện sinh
cùng những suy tư về bản thể. Thế giới Bá Lâu được xây dựng trong
tiểu thuyết của Diêm Liên Khoa là một mơ hình thế giới Utopia cách
ly với đời sống xã hội – một thế giới đào nguyên bên ngồi cuộc đời,
trong đó, bước chuyển từ Utopia đến giải Utopia ẩn dụ cho quá trình
vận động của lịch sử xã hội.
3.Trong việc khai thác những vấn đề nhạy cảm như Cách mạng
Văn hóa, cuộc vận động Đại nhảy vọt, những biến tướng của nền
kinh tế hậu Cách mạng, quan hệ quyền lực ở nông thôn... Diêm Liên
Khoa đã có một lựa chọn hợp lý - sử dụng lối viết “phi lý hóa” và
“dụ ngơn hóa” để biểu hiện hiện thực xã hội. Bên cạnh đó, những
22


×