Tải bản đầy đủ (.docx) (182 trang)

Truyen ngan hay VNQD

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 182 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>Trang bản thảo chép thuê Chưa có cái nắng nào gay gắt như nắng ở miền đất đỏ nơi đây. Da trời sau cơn mưa và rừng cao su sau kỳ thay lá mới, cùng mang màu xanh thắm cũng chẳng làm cho nắng dịu đi. Tiếng súng ì ầm từ đường ranh vọng về như càng làm cho màu nắng chói chang hơn. Trưa hôm đó, một quân nhân cao lớn đang thả bước trên phố dẫn xuống chợ. Toàn bộ con người anh: từ cái mũ, vai áo, ống quần cho tới bao súng, chiếc xà-cột đều trát màu đỏ quạch. Đế giày của anh nặng chịch, thỉnh thoảng lại để rơi ra những lát đất, cánh tay phải bị thương đeo trước ngực. Bụi bặm và mệt nhọc. Anh có vẻ là một sĩ quan vừa bước ra khỏi trận đánh về đây. Có lẽ anh đang tìm kiếm ai, cặp mắt trũng sâu, hấp háy nắng cứ đảo hai bên hè đường ở cái thị trấn nhỏ gần biên giới này. Đi quanh quất, lên xuống mãi rồi, mặt lộ vẻ vui mừng, anh dừng lại dưới một tấm biển màu xanh: "Photocopy". Dưới nữa, cánh cửa sắt mắt cáo đang đóng im lìm. Nắng xế hắt lên những ô cửa han gỉ một vẻ buồn cũ, phong rêu như hàng năm nay không có bóng người qua lại, ra vào. Điều cảm nhận làm anh ngập ngừng… Bên kia đường, một cô gái mặc đồng phục thanh niên xung phong có cầu vai may bó khít trông thật nở nang, đang loay hoay tháo gỡ miếng tôn quăn queo, trên có hàng chữ bằng vôi trắng nguệch ngoạc: "Nhà đi vắng! Cám ơn". Anh qua đường. Người sĩ quan dùng tay trái khéo léo giúp cô gái nhổ nốt chiếc đinh cuối cùng rồi bắt chuyện. Chị vừa ở trên "chốt" về? - Sao anh biết? - Cô gái vui vẻ hỏi lại và hất mạnh mái tóc ngắn ra sau, để lộ khuôn mặt bầu bĩnh, rám nắng cùng đôi mắt lấp láy. Trông quần áo chị là biết à. Cô gái cười thật giòn, cái cổ tròn trĩnh hơi ngoẹo sang bên: - Đàn ông mà nhận xét tinh ghê! Thế còn anh? Chắc không phải vừa ở Sài Gòn lên chớ? Anh cán bộ cười xòa. Thế là hai người quen nhau một cách khá dễ dàng, bởi lẽ họ đã cùng mang màu đất đỏ trên quân phục không bao giờ giặt sạch được nữa, và họ đã cùng "ở chốt". Chị chắc ở đại đội "nhõng nhẽo?". - Sao cơ? Anh nói gì, tui nghe không hiểu? - Cô gái chúm môi cố nhịn cười. - Chà! Lính của đơn vị nữ thanh niên xung phong duy nhất, đi đâu cũng chả lẫn được. Sao không lẫn được? Cô gái hỏi lại. - À, cứ to đùng… Không, cứ duyên dáng, dịu dàng như văn công quân giải phóng ấy. Anh cũng nhộn nhỉ? - Nhộn vừa thôi. Sao? Nhà ai đi đâu mà chị tháo tấm biển của người ta? - Nhà em đó anh - Cô thanh niên xung phong đã chuyển thành tiếng em thân mật hơn: - Phiền quá. Chả hiểu thầy mẹ em nghe ai mà đùng rầm sơ tán cả về Bình Long. Ông bả sợ mai mốt bọn phản động Campu-chia thọc qua đây thiêu trụi sạch trơn. Thiệt rầu hết sức! Nghe tin, em giận quá trời, xin phép đơn vị về ngay. Thế là - Cô gái cười khúc khích - Thế là đâu lại vào đó. Ba cái thằng "Thổ" sức mấy hả anh? Ông bà già là dân công-tra hay sao mà gọi "thầy mẹ?". Thì bà con vùng này hầu hết gốc Bắc mà anh. Thế đâu cả rồi? Thầy mẹ chị ấy? - Đi chặt tre về vót chông từ hồi mơi kia. Ủa! Đứng hoài đây ta. Anh vào nhà uống nước đã. - Thôi, để lúc khác. Này chị, liệu cái tiệm Photocopy kia có nhận đánh máy thuê không? - Em mới về không rõ. Nhưng trước vẫn có đấy. Nhà con nhỏ bạn em mà. Con bé đánh máy ngon lắm. Cứ gọi là như múa nhé! Hay là… Em thử sang hỏi xem. Nhưng thôi, con nhỏ lúc này kỳ lắm! A kìa! Họ mở rồi đó. Có tiếng cửa sắt rít lên ken két. Người sĩ quan lau nhanh mồ hôi, tạm biệt người bạn mới quen, bước rảo qua đường. Bên trong cánh cửa, căn phòng mờ mờ tối hiện ra với mùi dầu mùi mực in và mùi kim khí mốc thếch. Cái bàn in photo bụi bậm chiếm trọn một góc phòng. Chiếc máy chữ cỡ trung nằm lênh khênh trên chồng bìa giấy ngổn ngang làm người khách nhẹ người. Anh bước nhanh tới, suýt quên cả chào người đàn bà trạc tứ tuần đang lạ lẫm nhìn mình. Chào thím! - Dạ! Có chi không chú? - Người đàn bà hỏi miễn cưỡng bằng cái giọng bắc rành rọt. - Thưa không có chi. Tôi muốn hỏi nhà ta có nhận đánh máy không ạ?.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> Chú muốn đánh máy? Dạ! Bà ta đưa mắt nhìn chiếc máy chữ, thoáng lưỡng lự. Người khách mỉm cười giải thích: - Tôi là phóng viên quân đội, vừa ở trận địa về. Thím đừng lo. Không phải tài liệu phi pháp gì đâu. Thím có thể xem… Bà chủ nhà nhìn lấy lệ tấm thẻ nhà báo, vẻ mặt vẫn có chiều lo toan. Anh phóng viên nhìn vào khuôn mặt sắc sảo, có đôi vết tàn nhang và chắc cũng có một thời xuân sắc đó, hồi hộp chờ đợi. Hầu như cả cái thị trấn biên giới này, chỉ có độc một hiệu photo đây thôi. Có cần lắm không, chú? - Dạ, cần! Rất cần! - Anh trả lời vội vàng và chợt nhìn thấy cái nón trên tay bà ta - Thím chắc… tính đi đâu? - Đi chạy chợ kiếm tiền đong gạo chú ạ. Không sao. Chú đưa tôi xem thử. Người đàn bà đón tập giấy nhàu nát trên tay anh, lật qua lật lại như đong, như cân. Nói thực với chú là máy hư lâu rồi. Dáng chừng bà ta chê ít anh nghĩ Nhưng vẫn gặng hỏi: Chắc sửa được, thím? - Chưa tìm được người, vả lại, đã lâu không có khách nên chưa tính sửa. Vậy… sao thím? Photo, chú có chịu không? Dạ chịu! Tay tôi đau không chép được. Trông chú có vẻ mất nhiều máu. Thế chú định in mấy bản? Chừng hai, ba gì đó, thím. Bà cười: - Ở đây chúng tôi chỉ nhận photo với số lượng lớn. ít quá khó làm mà tốn cho chú. Mực mắc lắm? Tốn là chừng bao nhiêu, thím. - Chú chịu không nổi đâu. Vừa đổi tiền xong, dễ mấy ai đã có được tiền trăm. Lại là bộ đội mấy chú. Thấy chú đau tay, tôi cũng muốn làm nhưng… chú cảm phiền vậy - Bà ta cầm lấy nón. Anh phóng viên thừ mặt, ngồi nán thêm chút nữa rồi cũng đành chặc lưỡi, đứng dậy. Cánh tay anh lúc ấy đột nhiên thấy nhức hơn. Bí thật! Sáng ngày mốt có người bạn ra ngoài đó, anh cần gửi gấp bài báo. Tòa soạn đang cần bài về biên giới. Vậy mà trong cả cái thị trấn biên giới heo hút này, anh không hề quen một ai để có thể nhờ chép hộ bản thảo cả. Và cũng sáng ngày mốt, anh phải trở lại "chốt" rồi. Còn nhiều việc dở dang ngoài đó. Hay cứ gửi bản nháp ra: càng không ổn! Bản thảo viết trên "chốt" lộn xộn, gạch xóa lèm nhèm, chữ nghĩa lụn vụn như củi que xếp lại, đến mình còn không đọc nổi nữa là mấy vị biên tập. Anh suy tính đắn đo. Vừa lúc đó, ở nhà trong, bất chợt có tiếng dép thật nhẹ đi ra. Một cô gái khoảng mười chín, đôi mươi, dong dỏng cao, mặc bộ đồ hoa xanh nhã nhặn. Nước da trắng xanh và mái tóc buông xõa kiểu học trò. Ở cái xứ đất đỏ làm cao su, làm rẫy, cạo mủ này, một cô gái ăn mặc kiểu đó, dáng dấp và nước da ấy kể cũng hiếm. Khuôn mặt thanh thoát của cô ta gợi nhớ được cái nhan sắc thuở nào của người mẹ. Duy có đôi mắt sau cặp kính trắng là phảng phất điều gì như tư lự, không vui. Theo thói quen, anh phóng viên thầm nhận xét như vậy khi đế giày vải cộm đất của anh đã chạm vào bậc cửa. - Cho cháu xem một chút được không, chú? - Cô gái nói, một giọng nói rất Nam Bộ cất lên khẽ khàng, có phần rụt rè. Anh phóng viên ngập ngừng quay lại, miễn cưỡng chìa tập bản thảo quăn quéo ra. Ít vậy viết tay được không chú? Viết tay? Dạ! Được!... được chứ! Nhưng… tốn công lắm. - Để cháu coi - Mấy ngón tay nhỏ nhắn lật giở từng trang - hơn ba mươi trang… Được, chú à. Chữ tôi khó xem lắm. Cô gái liếc mắt sơ qua trang giấy: - Không khó lắm đâu chú. Người mẹ đã ra đến đường, còn quay lại, nói hùn vào: - Ừ! Phải đó. Con có rảnh chép đỡ cho chú. Đỡ buồn mà lại có tiền xài. Ấy, chữ em nó đẹp lắm, chú đừng lo! Đây! Đây! - Bà đi nhanh vào nhà trong lấy ra một quyển vở tập bìa xanh - Chữ em nó đấy. Được không chú? - Má sao kỳ quá hà! - Cô gái khẽ nhíu lông mày trách mẹ, rồi giằng lấy quyển vở. Anh thoáng nhìn thấy những hàng chữ đều đặn, nghiêng nghiêng. Anh thấy vui hẳn lên. - Không cần chép đẹp lắm. Rõ ràng, dễ xem là tốt rồi. Nếu có thể được, chiều mai tôi đến lấy. Còn phải tranh thủ soát lại rồi gửi đi. Liệu kịp không cô?.

<span class='text_page_counter'>(3)</span> Dạ, kịp! Cô gái trả lời bình thản. - Thế thì tuyệt quá! - Cám ơn! Cám ơn em… à, cháu nhiều lắm. Thế còn… còn… - Anh trở nên lúng túng trong lúc cô gái ý tứ cầm tập giấy lẳng lặng đi vào. - Thế còn… còn… - Anh quay sang bà mẹ - Thím à! Thế này quả không phải, nhưng - Anh nói khô khan và lóng ngóng mở túi ngực - Tôi không có ý ngã giá, trả công… Nếu đánh máy được thì dễ, nó có giá chung rồi. Đằng này… thôi! Tôi còn hai chục đồng, thím cầm đưa cho cháu. Gọi là thù lao sức lao động. Người mẹ vặn vẹo quai nón trong tay: Ấy! Rồi hẵng, để tôi hỏi cháu xem ý nó thế nào. - Thôi, khỏi thím! Mẹ gật đầu là con cũng ưng mà (Thực ra anh ngượng đến chết nếu phải cò kè chuyện tiền nong với con gái. Các bà mẹ bao giờ cũng cụ thể hơn). Thím cứ cầm giùm. Nếu cô ấy kêu thiếu, tôi xin hoàn thêm. Gọi là đôi chút… Anh thoắt nóng bừng mặt. - Chà! Nắng ơi là nắng - Người mẹ nhìn ra đường làm ra vẻ thờ ơ khi cầm tiền nhét vào túi. Ra tới đường, anh thở phào. Thế là ổn. Mẹ nói tiếng Bắc, con nói tiếng Nam nghe thật vui tai! Kể ra, nếu đánh máy chỉ mất khoảng bảy, tám đồng là cùng. Mà thôi! Chả nhằm nhè gì. Trên chốt có cái quái gì để tiêu tiền đâu. Ấy vậy mà ở đây, trong lúc tiền còn đang nằm cả ở bàn thu đổi, hai mươi đồng bạc hẳn cũng cần cho bữa ăn của gia đình này. Anh mỉm cười nhìn lên đỉnh dốc, một chiếc xe chở nước về trận địa đang ậm ạch bò lên. Nước trắng xóa trào cả xuống tốp bộ đội quân cảnh đang án ngữ tại ngã ba. Xa nữa, chìm trong ánh nắng rung rinh, một hàng dài công an biên phòng đang hành quân vào phía trảng dầu. Bụi đỏ cuộn lên phủ đầy đầu tóc các cô thanh niên xung phong đang cuốc bộ cùng chiều. Tiếng cười ré lên. Nhưng phía dưới chợ, trong dãy tiệm giải khát vẫn có nhiều người đang thong thả chiêu từng ngụm nước ngọt. Kỳ lạ thật, nơi đây chỉ cách trận địa non chục cây số mà cuộc sống vẫn êm ả, cách biệt như chẳng hề dính líu gì. * * * Hình như đã lâu lắm rồi, người trong phố dốc mới lại thấy căn phòng riêng của cô gái có ánh đèn. Cô đang ngồi trên cái gác xép thật xinh, bày biện sơ sài. Trên tường còn in lại dấu vết ghim, gài của những tấm tranh, ảnh nhỏ to. Từ khung cửa sổ, hương sầu riêng thoang thoảng bay vào. Xa hơn chút nữa, nghe thấy cả tiếng vỏ trái su nứt nổ giòn khô. Dưới ánh đèn bàn tỏa màu dìu dịu, xếp giấy trắng mới chỉ có một hàng chữ đậm nét, mềm mại ở trang đầu "Những người giữ chốt" - Đó là tên bài báo mà cô nhận chép trưa nay. Cô thôi không bần thần tô đi tô lại cái đầu đề nữa, mắt ngước lên. Sau cặp kính, cái nhìn của cô gái thẫn thờ? Có cái gì mờ mờ ảo ảo, không rõ hình thù đang trỗi dậy trong lòng cô… Đúng! Lâu lắm rồi cô mới lại lên căn gác xép này, từ cái ngày ba của cô đi xa. Ánh đèn xanh, chiếc bàn hình bầu dục, chiếc đi-văng da màu trứng sáo, mái trần thấp có vết bò của rắn mối, giá sách ba ngăn ở góc phòng, mùi vị nồng thơm của giấy, của gỗ, của khoảng vườn dưới kia, tiếng động ban đêm… Tất, tất cả đều vô cùng quen thuộc đang thức dậy trong cô những năm tháng xa xưa… Ngày ấy cô còn chưa hiểu rõ ràng, nhưng thật luyến nhớ làm sao. Tuổi học trò yên ả của cô đã trôi qua ở căn gác này, trôi qua những bữa cơm sum họp thật vui. Lâu lâu, căn gác lại rung lên trong những tiếng nổ xa xôi để rồi lại tiếp chìm trong yên lặng. Một vài lần nghe bọn bạn kháo nhau có xác mấy ông "Việt Cộng" phơi ở dưới chợ, cô chỉ rùng mình và sau một giấc ngủ ngon, sáng ra, bầu trời lại thật đẹp! Ngày ấy hình như còn có cả tình yêu nữa. Anh con trai học trên cô hai lớp, tên Thanh, thông minh, khỏe mạnh, người vùng sông nước An Phú Đông… Đã có lần cô được xuôi thuyền trên dòng sông mênh mang ấy. Phải rồi! Thanh hay ngồi trên thành cửa sổ nói mãi không thôi về những chuyện hội thảo, xuống đường… Còn cô, cô vẫn ngồi ở ghế này, tai chẳng muốn nghe mà mắt vẫn nhìn lên. Thanh thật bướng bỉnh, chỉ ưa bàn chuyện học đường, chuyện hội họp. Giờ thì Thanh không còn nữa!... Có lẽ khuya lắm rồi. Nhà ai, tiếng vót chông xào xạo, nhỏ dần. Nghe tiếng dao đưa ngọt, biết mũi chông đã nhọn lắm. Đã một đôi lần, cô chuyển bút xuống trang giấy. Nhưng ngòi bi tuồng như chạm vật cứng, nó không chịu lướt đi. Tập bản thảo hoen ố nước mưa và đất cát vẫn nằm im góc bàn. Những hàng chữ lụn vụn leo kín cả hai bên lề những trang giấy. Ừ, lúc nhận chép, mình đâu có ngờ rơi vào tâm trạng này. Từ bữa đổi tiền đến giờ, má hay phàn nàn thiếu đủ này kia. Giúp má được đồng nào hay đồng đó, mình nghĩ vậy thôi. Vả lại mình cũng tò mò muốn biết "họ" viết lách thế nào. Từ ngày giải phóng tới giờ, mình đâu có sờ tới quyển sách mới nào đâu. Nếu như.

<span class='text_page_counter'>(4)</span> trước kia thì có bao giờ mình phải nhận cái việc "thuê mướn" ấy. Trước kia… Một nỗi chua xót dâng lên khiến cô cay cay sống mũi. Không bao giờ! Ngày ấy không bao giờ có cái cảnh này cả. Thỉnh thoảng tối thứ bảy, ba ở Sài Gòn về, mình cũng ngồi ở đây, bên khung cửa này, chép bản thảo cho ba. Và thế nào sáng mai, ba cũng thưởng cho một chầu đi Lái Thiêu… Sóng biển, xa lộ, cây trái đung đưa và những chiều trên đường về, da thịt đỏ sắc nắng… Bây giờ không có ba nữa. Ba ở đâu?... Ba có hay, má và con đang sống những ngày chờ đợi nôn nao, ba có hay con đang cắn bút trên trang bản thảo của người ta… Bâng khuâng, cô cầm tập bản thảo nhoè ố dịch vào quầng sáng đèn. Những hàng chữ xiên xẹo lờ mờ hiện ra: Cơn mưa đầu mùa bất thần ập xuống. Tổ trinh sát trùm vội tấm ni-lông lên đầu. Và họ sẽ cứ ngồi còng lưng suốt đêm như vậy nếu trận mưa không dứt. Để rồi sáng mai, họ lại phơi đầu chịu trọn một ngày nắng chói chang, không một tàu lá chở che… Viết "thật" quá! Cô rời tập bản thảo. Chả làm sao tìm được những áng văn óng ả như của ba ngày xưa. "Họ" đang viết về cuộc sống ở "trên ấy" đây. Cũng tội cho chú ấy, mới dòm, tưởng là người lính bình thường. Ba ngày xưa khác cơ. Bao giờ cũng đi, về bằng xe riêng, quân phục chải chuốt… Cũng phải thôi, vất vả như "họ" lấy đâu ra văn hay! Tuy vậy, con mắt cô vẫn tò mò lướt qua trang giấy. Chữ với nghĩa cứ rối tinh lên: Không ai bảo ai. Cục cơm vắt đều được nhét kín trong lần áo ngực để mai còn có thể nhai được mà giữ sức tuần này qua tuần khác… Mưa rổn rảng trên lá dầu. Mưa thấm ướt những lưng áo cả chục ngày nay không được giặt. Ôi chao! Thèm biết bao một mái nhà, một ánh lửa ấm cúng dưới kia. Cẩn thận nhé, đồng chí ơi! Chúng nó đang rình rập ở xung quanh. Ráng đừng để mắt díp lại… Bất giác, cô khẽ rùng mình như chính những giọt mưa kia đang rơi xuống người. Cô co vai lại và chợt ngửi thấy mùi nắng thơm trên vải áo của mình… Họ thèm một mái nhà, một ánh lửa… Vườn sầu riêng, gác xép tuổi thơ này… Cũng thật tội! Thanh! Thanh nữa! Cô thấy buốt nhói trong ngực. Chắc Thanh cũng phải trải qua tất cả cảnh này. Tại sao Thanh lại đi? Đáng lẽ năm nay Thanh ra trường rồi. Không thể yêu nhau được nữa thì thôi, việc gì Thanh phải bỏ cuộc sống êm ấm mà đi như vậy? Cô gái thảng thốt như nhìn thấy cặp mắt to, trung thực và nghiêm nghị của người con trai đang ẩn hiện trước mắt. Bình minh trên trảng dầu đến sớm như trên biển. Cây lá bỗng dưng ánh vàng lên, nhìn từ xa cứ ngỡ có một thành quách cổ xưa đang hiện ra nguy nga với những nàng công chúa sắp dạo gót trong rừng… Nhưng chỉ có những cô thanh niên xung phong đang bắt đầu một ngày rào lấp. Đông quá! Vui quá! Thật là trên lá dưới người. Tưởng như cả nước đang đến đây. Những cánh tay trần cùng với đất đá loang loáng trong nắng, những tấm lưng tròn con gái ướt đẫm mồ hôi và những tiếng cười ran lên đây đó. Cô gái chớp chớp mắt, lắc đầu. "Mình không tin ngoài ấy lại vui đến thế". Cuộc sống này khó hiểu quá đi thôi. Lưng tròn con gái ướt đẫm mồ hôi… Con Lan có ở chỗ ấy không? Ngay cả nó nữa, đứa bạn gái thân nhất cũng nỡ bỏ mình ở lại mà đi thanh niên xung phong. Cô đưa tay khép bớt cửa sổ lại. Nó đang ở đây, ngay trước cửa nhà mình. Nó được về phép. Chiều qua nhìn thấy nó khoác ba-lô nhảy xuống xe, mình muốn chạy ù ra mà chân cứ như có ai trói lại. Mình mong ngóng nó sang chơi từng phút ấy, vậy mà tối qua nó sang,mình lại lảng ra vườn! Nhìn thấy vóc dáng mạnh mẽ, cái nhìn rừng rực của nó, mình không chịu nổi. Liệu nó có giận mình không? Lan ơi! Tao đang khổ sở vì cô đơn, khổ sở vì tập bản thảo này, mày có cách gì giúp tao được không? Hãy giúp tao hiểu được cuộc sống mà mày đang đam mê này nữa. Mày sang với tao đi!... * * * Xế chiều hôm sau, nhà báo trẻ lại đi xuống dốc, nét mặt tươi cười. Đêm qua anh ngủ được. Cánh tay đã bớt đau. Vết thương đang kéo da non. Với tâm trạng sảng khoái, anh mường tượng những ngón tay thon thả của cô gái đang lia bút những hàng cuối cùng. Chưa biết chừng cô bé dễ thương ấy đã viết xong từ trưa, đang ngoẹo cổ soát lại giùm mình. Cha! Cha! Chắc bản thảo sáng sủa phải biết! Hết dốc. Anh dừng lại. Cánh cửa sắt mắt cáo vẫn im lìm vệt nắng phong rêu. Anh đưa tay bấm chuông. Khuôn mặt người mẹ ló ra: Mời chú vào nhà. Xong chưa thím? Anh vui vẻ hỏi ngay. Để tôi hỏi cháu. Mai ơi! Không tiếng trả lời Mai!.

<span class='text_page_counter'>(5)</span> Vẫn im lặng - Chú ngồi chơi uống miếng nước - Bà ta đi vào nhà trong. Anh ngồi đợi, ngước mắt nhìn bâng quơ. Đỉnh đầu, chiếc móc quạt trần treo trơ trọi. Phía dưới, một chiếc tủ kính kiểu cổ có mạng nhện chăng. Một con chuột từ đó phóng qua chân anh rột rẹt… Nhà có vẻ nghèo? Lát sau, người mẹ đi ra nói như xin lỗi: Cháu nó nói chưa viết xong chú ạ! Ấy chết!... Cô ấy hẹn chiều nay… Thế viết tới đâu rồi, thím? Cháu nó không nói. - Ơ hay! - Anh sốt ruột đứng dậy - Thím gọi giùm cô ấy tôi hỏi một chút. Nếu còn ít, tôi đọc cho cô ấy chép luôn. Dạ!... Mai ơi! Mai! Vẫn im lặng. Quái thật! Hay chữ nghĩa mình quá lỉnh kỉnh, cô ấy dò không được, ngại ra mắc cỡ? Hay tiền nong quá ít? Hay… thì cũng phải ra cho người ta hỏi một chút chứ - Anh thấy nhồn nhột ở sống lưng. - Sáng mai chú lại vậy. Để tôi bảo cháu - Bà mẹ nói với giọng ngượng ngùng. Anh cố giữ vẻ điềm tĩnh: Thôi cũng được. Sáng mai vậy. Chào thím. Anh bước nhanh ra cửa. Tự nhiên anh thấy bực bội với chính mình. Cô ta tránh mặt: thật vô lý! Đang cắm đầu đi, chợt có tiếng reo khẽ khiến anh giật mình, ngẩng lên: cô gái ở đại đội "nhõng nhẽo" đứng bên kia đường đang vẫy anh: - Em đang soạn đồ để sáng mai quá giang xe về "chốt". Anh có cùng đi không? Hồi đêm nghe súng nổ nhiều, em chắc đang đánh lớn. Nôn ruột quá! Đi à? Có… à, tất nhiên là đi Anh ậm ừ. Thế công việc xong chưa, anh? Anh cười gượng gạo: Xin lỗi, cho phép hỏi gia đình cô bạn của… Cô tên gì nhỉ? Lan. Gia đình cô bạn của Lan thế nào? Sao anh? - Tôi nhờ cô ấy viết hộ bản thảo mà lúc hẹn đến, lại tránh mặt không tiếp. - Nó làm gì kỳ cục quá trời vậy? - Cô gái kêu lên - Để em chạy sang hỏi xem. Việc quân sự mà giỡn. Khoan! Cô ta là người thế nào, hả Lan? - Được lắm anh à. Trước nó cùng học luật với em. Giải phóng về, nghỉ luôn. Mai bây giờ ở nhà làm vườn, thỉnh thoảng ra rẫy. Có việc thì đánh máy, in photo. Nhìn qua cách sống, cô ta có vẻ khó hiểu… như người cổ. Nét mặt Lan chợt rầu rầu: - Anh nói cũng đúng. Có lẽ Mai nó xa lánh xung quanh cũng một phần vì ba nó là thiếu tá tâm lý chiến đi học tập chưa về. Ông ngày trước làm văn, làm báo, viết cả quân sự nữa. - Lan nói sao? - Anh phóng viên dừng ly nước đá trên môi, chăm chú. Dạ!... Ông già cô ấy là sĩ quan tâm lý chiến đang cải tạo à? Dạ! Có viết văn viết báo nữa? Dạ! Hèn chi… Sao anh? Không… không có sao. Lắng đi một chút, anh phóng viên khẽ hỏi: Dạo này hai người còn chơi với nhau không? Cặp mắt Lan sa sầm xuống: - Ít lắm! Từ ngày thôi học tới giờ, Mai nó sống như cấm cung. Ngày xưa hai đứa em rất thân nhau. Từ ngày em đi thanh niên xung phong, nó lạnh nhạt hẳn đi. Mấy lần về phép em đều qua mà nó không cho em gặp. Ức ghê! - Cô gái tự nhiên rơm rớm nước mắt - Dạo này nó cũng buồn. Nghe đâu, cậu bạn trai của nó mới hy sinh gần đây. Nó càng cách biệt mọi người. Anh phóng viên nhìn đăm chiêu sang ngôi nhà photo, hơi trầm giọng: Lan có định sang chào bạn sáng mai đi không? Có nên không anh? Sợ nó lại không chịu ra. - Cứ sang, Lan ạ, chắc lúc này cô ấy cần có bạn. Nếu sang Lan nói giùm sáng mai tôi lại. Thôi, bản thảo cứ để đó, không cần phải chép nữa, Lan nhé! - Dạ!.

<span class='text_page_counter'>(6)</span> * * * Lúc người phóng viên tới, ở nhà trong, Mai đã nghe thấy hết. Mai nhìn rõ cả vẻ mặt chú ấy thoáng bực bội. Mai muốn ra lắm mà hai chân cứ như bị dán cứng xuống đất. Ra, biết ăn nói gì với người ta? Đã trót không ra lúc đầu, sau làm sao còn dám gặp? Chắc chú ấy giận mình lắm. Mình có sai lời hứa bao giờ đâu. Ngày xưa, Thanh hay nói: "Em hỏi tại sao anh yêu em? Anh không biết. Nhưng có một điều em khác nhiều cô gái khác là em không biết nói dối". Thế mà bây giờ… Mình có muốn như vậy đâu. Nhưng mình không tài nào viết nổi nữa. Khuya hôm qua,mới chép được mấy trang mà đầu óc ê ẩm, cứ nghĩ đâu đâu. Cuối cùng lại gạch xóa nhiều hơn cả bản thảo của chú ấy. Biết nông nỗi này, từ chối phắt ngay từ đầu lại xong. Để bây giờ kẹt cả hai: lỡ việc chú ấy mà mình lắm điều khó xử. Mai ăn quấy quá lưng chén cơm rồi lững thững đi lên gác. Cô nhăn mặt khi nhìn thấy tập giấy trắng. Oái oăm! Số phận trớ trêu sao! Con gái một viên sĩ quan tâm lý chiến Sài Gòn đang cải tạo, ngồi chép bản thảo thuê cho nhà báo Cách mạng. Đẹp chưa? Chưa nói người ấy hiểu ra sẽ khinh mình mà ngay chính mình cũng khinh mình. Thôi! Sáng mai cứ đem trả quách cho chú ấy và nói dối bị đau bụng. Sượng mặt một lúc là cùng chứ gì. Nhưng còn… bài báo của người ta cần gửi đi bị lỡ chuyến? Vẻ mặt chú ấy chân thành quá. Người đầy bụi bặm, cánh tay bị thương… chú ấy vừa ở nơi nắng mưa chết chóc về đây. Ba ngày xưa đâu có đi vào những nơi ấy. Con mắt chú ấy đầy hy vọng khi mình nhận chép giùm bản thảo. Không! Không được đâu. Mình không lòng nào. Hay… cô mở rộng cánh cửa sổ và thoáng nghĩ tới Lan… Không! Làm thế hèn lắm. Khi nó sang chơi, mình lánh mặt, bây giờ thấy kẹt lại mò sang. Mà nó cũng không rảnh. Nghe nói sớm mai nó lại đi. Ngoài ấy, súng nổ suốt đêm. "Nắng, mưa, cơm vắt, những bộ quần áo cả tuần không được thay…". Trời ơi! Chỉ còn đêm nay nữa, biết tính sao đây? Nào! Thử lần nữa coi. Bàn tay vô tình của cô gái lần giở những trang cuối. Vẫn những hàng chữ lụn vụn nối tiếp nhau… Sau một đêm ngủ chập chờn, chúng tôi thức dậy. Chác! Chác! Đấy! Bọn phản động đang chào bình minh bằng mấy phát bắn tỉa vào đội hình trinh sát. Lại yên tĩnh. Trung đội trưởng Tâm đang ngơ ngác tìm cái gì ở dưới những lá dầu khô? Thấy anh lộ vẻ thất vọng, tôi cũng đứng dậy. Ấy! Có cái gì đang ngọ nguậy trong nách tôi. Tôi thò tay vào giật nảy mình. Một cái gì nóng hổi, đang phập phồng trong đó. Tôi nín thở lôi vật đó ra và chút nữa cười phá lên: một chú sóc màu hung đang giương đôi mắt lay láy và ngoáy tít râu ngỗ ngược nhìn tôi. Tâm lao tới, mắt toát ra vẻ âu yếm pha chút giận hờn: - Đây rồi! Cô mình đây rồi mà để tôi tìm hoài. Con gái đi ngủ lang không biết mắc cỡ ư? Con sóc cái đó anh. Thế là bỗng dưng chúng tôi trở thành bạn thân. Tâm có đôi mắt màu xám tro, thăm thẳm và thâm trầm. Con mắt của người trinh sát nức tiếng dũng cảm trên toàn chiến lũy chốt chặn. Hôm qua, cũng đôi mắt tưởng như hơi quá nghiêm nghị ấy, tôi đã gặp anh khóc lúc đứng trước cái hố ngổn ngang gần trăm xác chết của bà con vừa bị bọn lính Cam-pu-chia giết bằng lưỡi cuốc. Lúc này nhìn thấy thân hình nở nang và những động tác dẻo dai của Tâm đang đùa vui với con sóc nhỏ, tôi hỏi: Chắc ông là người vùng sông nước? Sông Sài Gòn anh ạ! Trước khi lên đây Tâm ở đâu? Tôi đi học. Năm thứ mấy rồi? Đang học năm thứ hai. … Cô gái chợt lặng đi trong hơi thở bị dồn nén. Hàng chữ trước mắt cô nhảy nhót. Ai thế? Chú ấy viết về ai thế?... Đôi mắt thăm thẳm. Đôi mắt nghiêm nghị. Miền sông nước Sài Gòn. Một buổi nào Thanh đã đưa mình đi thuyền ở nơi ấy… Con sóc con ngỗ ngược ngoáy râu… Xưa kia Thanh cũng thường nuôi thú và hay tinh nghịch mang thú tới trường… Mang máng nhớ một tiết học, bà giáo già nghiệt ngã đang dõng dạc giảng về: "Những yếu tố thiết yếu để trở thành luật sư" thì, không hiểu Thanh dạy từ bao giờ, con vẹt nhảy thoắt lên bàn, hướng về phía bà giáo cất cái giọng trầm khàn: "Thanh ơi, có khách…"… Tâm! Thanh chứ. Sao lại là Tâm?.

<span class='text_page_counter'>(7)</span> Bàn tay cô gái cũng run run mở trang kế tiếp. Hiện tại, quá khứ, thực và hư cứ dằng dịt hiện về trong đầu Mai. Cái bữa Thanh từ biệt mình đi bộ đội, mình đã tỏ ra thờ ơ. Gia đình anh ấy đi theo cách mạng, anh có thể học tới đầu tới đũa, có đâu chịu lỡ dở như mình: "Phải rồi! Anh không muốn dây vào gia đình ngụy như tôi, anh bỏ đi chứ gì. Anh đâu còn yêu tôi. Anh muốn chạy trốn, nhưng việc gì mà phải đi đâu cho khổ". Mình còn nhớ, nghe nói thế, Thanh đã trừng mắt lên, con mắt thăm thẳm màu xám tro. Tưởng rằng Thanh sẽ quát lên. Nhưng không! Anh ấy chỉ thở dài và quay đi… Thế là xa nhau từ đấy. Khi nghe tin anh ấy hy sinh mình vừa buồn, vừa giận lại vừa thương… Thanh không yêu mình nữa. Thanh ích kỷ, Thanh chỉ nghĩ tới riêng mình. Mình việc gì mà phải sầu khổ cho nhiều. … Ngay đêm hôm ấy, tiểu đoàn xuất kích. Gần sáng, họ trở về lấm láp và im lặng khác thường. Cả trung đoàn địch đã bị quét sạch ra khỏi đường ranh. Nhưng họ không vui. Trong ánh nắng trong vắt sau mưa, một chiếc G.M.C sơn màu xám biếc đang bon về phía sau. Trên xe, hai hàng vệ binh quân phục chỉnh tề, lưỡi lê lóa nắng đang uy nghi đưa Tâm, người lính trinh sát dũng cảm của họ về nơi an nghỉ cuối cùng. Người con trai vùng sông nước ấy đã bắn tới trái đạn B.40 thứ mười hai vào giữa sào huyệt kẻ thù, tạo cửa mở cho cả đội hình tràn lên chiếm chốt. Một tù binh cấp tiểu đoàn tên Khơ Ron khai rằng: "Nếu bên các ông không có những trái đạn kinh khủng đó bắn tới thì chưa chắc chúng tôi đã bật ra. Và như thế, theo kế hoạch của Quân khu 23, ngày mai chúng tôi sẽ thọc xuống tận chợ, cách đường ranh 9 cây số đốt phá…". Cô gái bàng hoàng. Những hàng chữ nhoè đi. Ngoài trời, mây đang vần vũ. Gió đánh tung cánh cửa số tràn vào. Mái tóc mềm cô gái bay tung. Tiếng trái sầu riêng nào đứt cuống, rơi mạnh xuống đất. Cô gái nhắm chặt mắt lại không muốn đọc nữa, cô sợ một điều gì đó ghê gớm hơn sẽ đến. Nhưng những dòng chữ đã không buông tha, cứ cuốn lấy cô. "… Lúc Tâm chưa ngã xuống, có một đêm nằm gác giò lên nhau, tôi hỏi: Này! Ông đẹp trai thế, ở dưới ấy có người thương chưa? Tâm cười lặng lẽ (một điều ít thấy ở anh): - Kể ra cũng có. Nhưng chúng tôi xa nhau tính từ ngày tôi nhập ngũ. Cô ấy không hiểu tôi, nhưng tôi tin sớm muộn gì cô ta sẽ nhìn ra lẽ phải. Một cô gái tốt và thông minh. Tôi… tôi không quên được cô ấy… Mắt nhức nhối, tôi nhìn theo chiếc xe đang đưa người đồng đội của tôi về nghĩa trang rợp mát lá su. Giữa hai hàng vệ binh, con sóc nhỏ nhảy lên thành xe ngơ ngác như đang tìm ai…". Thanh ơi! Cô gái bật khóc nức nở. * * * Sau trận mưa đêm qua, không khí buổi sáng thật mát mẻ. Ngự trị lên tất cả cảnh vật là màu xanh thắm của da trời, của rừng cao-su bạt ngàn. Xuống hết dốc, anh bước tới góc hè quen thuộc và nhà báo hơi sững lại. Trước mặt anh, cánh cửa sắt mắt cáo mở ra từ lúc nào. Nắng theo đó ùa vào. Căn phòng đầy nắng và gió như thoáng đãng hơn. Trước cánh cửa rộng mở, cô gái đang đứng nhìn ra bằng đôi mắt mở to, nghiêm trang. Anh thấy hình như cô phờ phạc xanh xao hơn. Người phóng viên cất giọng nhẹ nhàng: - May quá, cô có nhà! Nếu có thể được, cô làm ơn cho tôi xin lại bản thảo. Tôi không còn thời gian nữa cô ạ! Mong cô cảm phiền. - Dạ! - Cô gái đứng lặng nhìn anh một thoáng như muốn nói điều gì rồi nhẹ nhàng bước đi vào. Anh phóng viên khẽ nhếch mép: kỳ quặc. Lẽ ra cô ấy cũng phải nói gì chứ? Có chép được hay không? Vẫn chỉ lặng lẽ thế! Thật khó hiểu. Không biết cái bản thảo khốn khổ của mình có còn nguyên vẹn hay lại bị gián nhấm, mạng nhện chăng mất rồi! Có tiếng dép nhẹ đi ra: Thưa chú đây Giọng cô thật ngoan. - Cám ơn! - Anh lơ đãng đưa tay ra và định đứng dậy đi luôn. Nhưng… anh bỗng sững sờ: kẹp giữa những.

<span class='text_page_counter'>(8)</span> ngón tay thon thon của cô gái, tập giấy trắng bong có những hàng chữ nghiêng nghiêng quen thuộc hiện ra đẹp làm sao, và bên ngoài, tập bản thảo được bọc ngay ngắn bằng một tấm bìa xanh nõn chuối. Anh nhìn lên: cô gái vẫn đứng đó, đôi mắt có quầng thâm đang đăm đắm nhìn anh như mới gặp lần đầu. Người phóng viên chợt lúng túng. Anh thấy ngợp trước ánh mắt vời vợi như chất chứa điều gì ấy. - Thưa chú! - Cô gái lên tiếng đột ngột - Nhân vật Tâm trong truyện chú viết, tên thực là Thanh. Cháu biết anh ấy. "Không phải đâu!" Anh phóng viên định kêu lên như thế. Thanh nào?... Rồi như một chớp loé, anh chợt hiểu. Thế rồi dù biết chắc Tâm không phải là Thanh, người phóng viên vẫn im lặng. Vừa khi đó, một giọng cười khúc khích phá tan không khí lặng lẽ ấy: Đã hài lòng chưa, đồng chí nhà báo ơi! Anh phóng viên ngẩng lên gật đầu chào cô thanh niên xung phong quân phục thẳng nếp, AK lên nước xanh biếc đang cùng với nắng ùa vào làm sáng rực căn phòng. - Đúng tám giờ xe chạy. Em chờ anh ở cổng thị đội - Nói xong, Lan ngồi xuống trước bạn, mặt hồng hào tươi tắn - Mai! Tao đi đây. Tao viết thư về, mày phải trả lời đấy nhé. Cô gái nhìn bạn khẽ mỉm cười, gật đầu. Người phóng viên nhận thấy mình chẳng còn lý do gì nán lại đây nữa, anh chào cô gái rồi bước ra đường. Một đoàn xe lam trên chất đầy những bàn chông đang nối nhau đi về phía đường ranh, vụt qua trước mặt anh. Và, chính cái lúc những âm thanh biên giới cùng với nắng gió đang dồn dập tràn về, lan tới tận những ngóc ngách sâu nhất của cái thị trấn nhỏ bé này, anh chợt nhìn thấy tờ hai mươi đồng màu xanh nằm thẳng thớm giữa hàng chữ nghiêng nghiêng, khoảng giữa những trang bản thảo. Mùa hoa liễu quế hương Thứ sáu, 09 Tháng 4 2010 10:59. Duyền đã một đời chồng. Ừ chồng, một lần quá vãng sang đò. Cái gã đàn ông chữa loa đài trên cái bến Vội chỗ con sông quê nghẹn dòng làm cuộc đời Duyền lỡ dở càng lỡ dở hơn khi em tôi cứ mải miết chờ anh bạn cùng học làm nghề địa chất... sự mỏi mòn, khốn khó, vô vọng... không biết có phải là tác nhân khiến đôi tai em tôi mềm đi trước lời ngon ngọt vào cái lần đợi đò gặp mưa, chiều xế ấy... Thằng Tê sinh ra chẳng giống ai vì bảy tháng năm ngày trong bụng mẹ ám ảnh bởi vô vàn suy nghĩ đan xen. Đúng ra nó có giông giống anh chàng địa chất hơn gã chữa loa đài. Kỳ lạ. Ngày đó chuyện thằng Tê con ai cứ như là gia vị thêm vui trong các cuộc vui, thêm buồn trong những bữa cỗ đám ma ở quê tôi. Kỳ lạ thế. “Cần gì thằng Tê phải giống người đàn ông nào cơ chứ” - Duyền xa xót. Gã chữa loa đài thì mặt nhăn như mặt khỉ dính mắm tôm: “Xằng bậy. Con gì mà con. Tôi đây đứng đắn...”. Lố bịch hơn gã cứ bai bải, dù chẳng ai khảo với khắp mặt mấy trăm người ở cái làng ngoài đê, ít ruộng này. Đê tiện. Lòng Duyền sắt lại. Thứ không đáng bỗng quàng vào em tôi như quàng sợi dây liên hệ vô hình, gỡ mà không dễ. Cái mảnh làng hình móng ngựa hẹp vanh vanh lại lắm lề thói, thuần phong. Mẹ buồn, anh ghét, xóm giềng on ỉ, làm nỗi khổ trong Duyền như đi tới tận cùng. Mấy lần, em tôi định quyên sinh xuống cái bến Vội, chỗ con sông cái nghẹn dòng nước xoáy nhất nhưng đời không dễ thế! Còn con, còn mẹ già. Gã chữa loa đài dở hơi cứ nhơn nhơn không trách nhiệm, đã chối bỏ giọt máu mình rồi, lại hay đón đường gây sự khiến cuộc sống mẹ con Duyền không yên, tê tái càng tê tái hơn. Hôm vừa rồi tôi về quê, nghe mợ tôi kể, thằng Tấn (anh Duyền) hầm hầm bảo thằng Tê: “Bảo với thằng bố hờ mày, gây với mẹ lần nữa tao vặt đầu chấm muối”. Nói xong, bác Tấn nó lia lưỡi dao làm đứt lìa cổ con ngỗng Bắc Kinh. Con ngỗng ịch xuống sân, hai chân đạp đạp..

<span class='text_page_counter'>(9)</span> Thằng Tê ngô nghê về kể nguyên văn với mẹ. Mẹ nó trợn mắt, ôm chặt nó vào lòng. Không hiểu sao chuyện cũng đến tai thằng cha chữa loa đài. Yên ắng vài tháng, xóm giềng không chứng kiến cảnh chèo kéo khó coi. Thằng Tấn gật đầu: “Thằng cò bợ này biết sợ”. Sợ cái gì?! Chỉ Duyền là thấu... nỗi buồn trong Duyền càng nhân lên khi ngày tháng cứ bải hoải trôi. Thằng Tê thì ỏng bụng, gầy tong tựa mo cau phơi nắng phồng. Mợ tôi thở dài: “Khổ thân nó, gió thổi một cái là bay”. Ngó cháu cặp sách trĩu vai những chiều lệnh khệnh đi trên đê mà hú hồn. Cuộc sống mẹ con Duyền ậm ạch như bánh xe bò hỏng bi. Vẫn phải lăn, phải quay. Mà đường quê nhiều ổ gà, ổ chó! Kỳ lạ, sao Duyền vẫn đẹp dù đôn đáo trần vai cáng ba miệng ăn và tai luôn nghe những lời đàm tiếu như xát muối vào lòng. Quê tôi ấy, mang tiếng đất bãi nhưng lẫn hai phần sỏi ống, cây lúa cứ tòn hon rạc không ra thóc. Làng ít ruộng, làm cật lực vẫn thiếu trước hụt sau. Một hôm Tấn như lên đồng, đạp xe ra tận chợ chỗ em đang bán gánh dây khoai. Duyền, tí về qua tao nhé. “Chắc bố thằng Tê lại gây chuyện?” - Duyền cúi mặt lẩm bẩm, rồi quáng quàng về nhà anh. Mày có đi xuất khẩu lao động ở Đài Loan không? Không, em không đi. Ơ!. Tấn chưng hửng. Rồi thằng Tấn nói sao? Thuyết phục sao? Năm ngày sau cái Duyền chịu. Mười ngày sau thì làm xong mọi thủ tục, chỉ có điều đi không đúng cửa chi phí mất những ba mươi triệu. Toàn tiền vay mượn. Ngày Duyền lên đường, vật dụng chẳng có gì. Tấn ra thị trấn Hèo mua cho em cái valy bằng giấy nện. Thượng vàng hạ cám, xách nhẹ tông tênh. Thằng Tê cóm róm, sướt mướt từ mấy hôm trước: “Mẹ đi mất rồi... hi hi...”. Ai nhìn cũng phải quay mặt, gạt vô khối nước mắt. Duyền đi đã ba tháng mà chẳng có tin. Mợ tôi ở nhà mòn mỏi. Thằng Tê ngơ ngác. Rồi có thư và tiền Duyền gửi về. Bốn lá, một cho mẹ, một cho con, cho Tấn và cho tôi. Trông nó có da có thịt hơn ở nhà. Mợ tôi run run ngắm ảnh Duyền. - Thì không phải chổng tĩ đốt lưng ngoài ruộng. Rõ trắng trẻo, mỡ màng. Tấn bĩu môi. Ở nhà, em tôi vốn là đứa đẹp trong làng. Đẹp kiểu phụ nữ nông thôn, khoẻ mạnh, mông nở, ngực to, bắp chân chắc lẳn. Nó còn lạc đâu vào mái tóc mây, lúc nào cũng bồng bồng, trông ròn mắt đáo để. Thằng Tê tối đó đòi phải có ảnh mẹ bên cạnh mới chịu đi ngủ. Lần đầu tiên trong đời mợ tôi cầm trên tay vài triệu. “Thiếu hụt về tình cảm nhưng gia đình thoát khỏi bế tắc kinh tế” - Bác Tăng nói nhỏ rồi nhìn vội mợ tôi. Có tiền, mợ mua ngay cho thằng Tê hai bộ quần áo và thay cho nó chiếc cặp sách thủng như đít rổ. Duyền sang bên kia không làm trong nhà máy, xí nghiệp mà giúp việc trong các gia đình Đài Loan. Nó ở một thị trấn có rất nhiều cây liễu quế hương thuộc tỉnh Kính Tung, Đài Loan. Em tôi làm nội trợ cho một gia đình có ba người, hai vợ chồng và đứa con trai mười lăm tuổi. Người chồng khỏe khoắn, hiền lành, tên là Cao Cúa Pính. Người vợ bị liệt phải ngồi xe lăn, nhiều hơn chồng những bốn tuổi. Bà vợ tuy tàn tật hai chân nhưng dáng người mé trên rất cáu cạnh, kiêu sa. Pính con thì lẻo khẻo, chẳng giống bố điểm nào? Mới đến, Duyền cứ thắc mắc. Gia đình này buôn bán đồ chơi trẻ con ở chợ đêm Bình Đông. Ngoài việc làm nội trợ, Duyền dần dần thành trợ thủ đắc lực trong việc kinh doanh của nhà chủ. Sau, Duyền xin được bổ hoa quả đóng hộp để bán thêm. Tất nhiên lãi nhà chủ hưởng, chỉ thưởng cho Duyền chút đỉnh. Tuy là một tiểu thương lèng xèng nhưng gia đình này có mức thu nhập kha khá ở thị trấn Bình Đông, cất được nhà và có ôtô ba chấm. - “Chị à. Mỗi đêm bán đồ chơi cộng lãi từ xe hoa quả tính tiền Việt những năm triệu, thế mà lương em chỉ được bốn triệu một tháng”..

<span class='text_page_counter'>(10)</span> Đọc thư, tôi rớt nước mắt. - “Bận rộn thì thôi chứ ngơi là em nhớ nhà không chịu được. Lúc buồn em hay ra cổng, đứng ngóng về … ”. Ngày tháng qua đi, bàn tay em tôi cứ nhợt ra, mòn dần hoa ngón cái... còn tay bà chủ thì trắng muốt. Khi gió mùa tràn về bán đảo lắm cây dừa này vài lần; khi những bông hoa liễu quế hương trước nhà rụng xuống vàng gốc thì em tôi đã ở được hai phần ba thời gian hợp đồng lao động. Hàng họ năm ấy ế ẩm lại đúng vào lúc gia đình Đài Loan này gặp biến động. Cao Cúa Pính lên Đài Bắc thăm bố bị ốm. Chân ướt chân ráo ra bệnh viện thì có tin ở Kính Tung công an ập đến nhà. Nhận điện, Pính bấn lên. “Giậu đổ bìm leo quá”. Mẹ Pính buồn rầu: “Con cứ về, cha có mẹ và em lo rồi”. Bố Pính khật khừ nói với Pính. Pính gạt nước mắt ra ga tàu hỏa. Cái còng sắt lạnh ngắt sập ngay vào tay lúc Pính về đến nhà. Pính giật mình khi thấy vô khối là súng bắn đạn nhựa cứng, mìn tạo tiếng nổ inh tai, dao găm mười lưỡi... chỉ có điều không phải đồ thật mà là đồ chơi bạo lực bị cấm ngặt xếp ngật ngưỡng trong ki ốt, đến một xe ôtô tải. Pính nhìn vợ, con Xơng quay mặt đi chỗ khác. Pính ngó Duyền, Duyền xụt xùi nhìn ra đống hoa quả mới đi lấy từ Cao Hùng về. Người công an đen nhẻm, thân mỏng như tầu lá ấn tờ biên bản vào tay Pính. “Không!” Duyền thốt khẽ. Pính nhìn Duyền cầu khẩn rồi ký vội vào tờ biên bản. Con Xơng mặt lạnh tanh. Duyền nhìn nó. Nó vẫn trơ trơ, mắt trừng lên. Tiếng ôtô chở Pính phóng vèo ra cổng. Đến chiều thì Pính được về nhà. Trống ngực Duyền đập thình thịch. Duyền oà khóc. Vào trong nhà, Pính quỳ xuống trước Duyền: “Tôi ăn lá thay cơm, lạy Duyền. Duyền thương tôi, thương Pính con đừng khai sự thật...!”. “Nói với con ở thế!”. Ả Xơng lắc đầu, khinh khỉnh. Duyền nước mắt vòng quanh: “Pính tốt quá, sao lại dại thế, nếu con Xơng nhận tội có khi...”. Duyền xua xua tay, lùi về phòng mình. Đêm, Duyền không ngủ được, cứ thao thức. Duyền thấy bên ngoài hàng trăm con đom đóm về đậu kín những gốc liễu quế hương. Cứ vài ngày, Pính lại bị gọi đi thẩm vấn. Một lần, Duyền nhận được điện thoại con Xơng: - Duyền, mày về mang cho tao cái đơn ra bưu điện. Duyền vội xếp gọn hàng hóa. “Sao lại gửi đơn? Chắc con Xơng khiếu nại chuyện gì?” Duyền tò mò. Bì thư lại không dán. Duyền ghé mắt đọc, giật thót: Đơn ly hôn. “Con Xơng này... tán tận lương tâm”. Mà lý do gì cơ chứ? Thử hỏi cái nhà này rời tay Pính? Rồi ngay tối hôm đó... Duyền mệt mỏi quá bèn khóa ki ốt về nhà. Duyền lặng lẽ đi lối cửa sau. Vào đến trong, Duyền nghe thấy tiếng thở gấp... tiếng vòi nước nhỏ long tong... đèn ngom ngóm một ngọn đỏ nhờ hắt ánh sáng ma quái lên tấm gương chính diện. Trước mắt Duyền là một người đàn ông lạ, nồng nỗng, trắng tựa lợn cạo đang gồng mình úp mặt vào giữa đôi chân thõng thượt như dải lụa của con Xơng. Con Xơng rú từng chặp tựa mèo hoang. Bên ngoài, đêm khô đục, lây rây vài ngọn gió hoang. Duyền tái nhợt người. Cả khi bị cưỡng bức nước mắt ròng ròng Duyền cũng chưa bao giờ tưởng tượng chuyện đàn ông, đàn bà lại nhẫy nhụa, dơ dáy đến thế kia. Duyền lùi ra khỏi nhà, cùn cụt đi về chợ đêm mà con Xơng không hay biết gì. Ngày hôm sau, Duyền bị sốt nóng, sốt lạnh đùng đùng phải nằm bệt. Từ đấy, Duyền luôn có ý nghĩ trong đầu: “Con Xơng đích thực là yêu tinh cá chép hiện lốt người”. Vài ngày qua đi. Bác Chéng vào mạng điệu nghệ lắm. Pính con khoe. Chéng nào hả? Duyền hỏi Pính con. Pính con nói: Bác Chéng đến lúc sáng đấy, Duyền. Bác Chéng là bạn chat của mày à? - Lúc đầu là bạn của cháu, sau của mẹ. Mấy năm rồi. Thì ra gã đàn ông tên Chéng kia cùng con Xơng ngoại tình với nhau trên mạng đã vài năm mà Pính không hề biết. - Cái lão béo khờ cũng quen con Xơng trên mạng chị ạ - Duyền tức tối tâm sự với tôi:.

<span class='text_page_counter'>(11)</span> Giọng con Xơng êm ái và cuốn hút lắm. Có thời bưu điện Bình Đông đã thuê nó ghi âm giọng nói, để hướng dẫn các dịch vụ bưu điện. Mặt nó lại đẹp thế làm gì lão Pính không chết. Xưa, Pính đi nghĩa vụ quân sự đóng quân ở trên Đài Bắc, là lính đảo cách đất liền bảy tiếng đồng hồ đi tàu thủy. Lúc buồn, vào mạng kết bạn là thú giao lưu cuốn hút nhất của các chàng trai trẻ. Một ngày Pính gặp con Xơng, webcam chỉ nhìn thấy nửa người. Giọng nói ngọt ngào, cái mũi hơi hếch, nước da trắng, đôi mắt lúc nào cũng ươn ướt. “Cứ như công chúa nước Hàn. Đội vương miện, kém gì!”. Pính mê tít, rồi hết nghĩa vụ quân sự, Pính lồng về Kính Tung gặp cô què. Què, Pính cũng cưới dù mọi người trong nhà không ủng hộ. Gia đình Pính nền nếp sống ở thành phố Cơ Long. Bố mẹ là người lao động chắt chiu mà xây dựng nên cơ nghiệp. Pính là con thứ hai. Người chị là chủ nhà hàng, cậu út học hành cao, làm giám đốc một xí nghiệp chế biến gỗ. Ngày Duyền về chơi, bố mẹ Pính nhìn Duyền phát thèm. Pính này cũng rắc rối, chỉ gặp nhau trên mạng, mê là lấy cô gái tật nguyền rồi cúc cung phục vụ, yêu thương hết mình mười mấy năm, sau mới ngã ngửa nó chẳng trọng. Và... chuyện này, Duyền biết tỏng nhưng không hề hé răng với Pính. Đó là Pính con. Pính con đâu phải con của Pính. Mặt Pính bố tròn tròn, tóc mượt. Mặt Pính con dài thượt, tóc quăn tít. Hai con mắt Pính con ti hi, ti hí. Ngày xưa từ đảo về, gặp mặt, Pính cưới ngay Xơng mà không biết trong cái bán thân kia đã có hình hài Pính con. - Ở nhà, sao không bảo con học hành tử tế? Suốt ngày chỉ xem tivi, vào mạng. Mắt con Xơng vằn lên: Nó đâu phải con ông. Hão huyền! Xơng trắng phớ vào mặt Pính khi Pính vừa ở chỗ thẩm vấn về. Mà sao ả này giữ kín thế? Những mười mấy năm. Hoạ có bổ đầu ả ra! Sự thật phũ phàng quá khiến Pính như bị sét đánh giữa đường. Pính nhìn thấy mặt mình xanh lét trong gương. Ruột gan thì lỏng lẻo, muốn tan ra. Con Xơng lại cứ giương mắt lên thách thức chứ. Pính xô tới. Hai bàn tay gồng ra như móc sắt. Con Xơng che cổ! Chiếc đồng hồ quả lắc trên tường bỗng buông một tiếng: Boong. Pính chợt tỉnh, lệch đệch gieo mình xuống ghế, ngồi như đổ sáp. Cuối cùng Pính cũng nói được một câu với con Xơng: - Nó không phải là con đẻ nhưng từ bé tôi nuôi nấng, chăm sóc, tôi vẫn coi nó như con đẻ. Con Xơng trố mắt, đầu lắc lắc. Nó vươn dài cổ ngó theo cái dáng bập bạp lầm lũi của chồng trên đường ra chợ. Trời cao thẳm, trát những vệt vàng lên rặng liễu quế hương im lìm. Tình cảm vợ chồng Pính sa sút trông thấy. Không ai nói với ai, ăn cơm cũng không cùng mâm. Tối, Pính ôm gối ngủ ngoài phòng khách. Nhà như có tang. Pính con được thể trốn học chơi bời. Có hôm nửa đêm Duyền vẫn phải lặn lội lôi nó từ ca-si-nô thị trấn về. Duyền như bị kẹp giữa hai bức tường và nhiều lúc còn phải làm trọng tài bất đắc dĩ những chuyện không cùng cho cái gia đình Đài Loan này.. * Xơng cùng Pính con đi Phu Khẹt - Thái Lan nghỉ biển không báo cho Pính biết. Ở chợ đêm về, Duyền lăn ra ngủ. Chiều vụt xuống. Sáng nay Duyền nghe tin có trận sóng thần lớn lắm, mấy nước xung quanh thiệt hại bao nhiêu người và của. Chợ Bình Đông từ ngày mai đóng cửa mấy hôm để chữa mái vòm. Duyền xăng xái đi mua đồ, sửa soạn một bữa ăn Việt Nam cho Pính. Pính như trẻ ra, vui hẳn khi thoát khỏi con Xơng. Pính đi cắt tóc, cạo mặt, quần áo gọn gàng trông rõ bảnh. Anh ăn đi, phải thương mình chứ. Duyền ân cần, thấy Pính chẳng gắp thức ăn, cứ hớp từng ngụm rượu nhỏ, rồi nhìn mình. - Duyền biết không, tôi sút mất chín cân đấy..

<span class='text_page_counter'>(12)</span> Buổi tối, Duyền đính lại mấy chiếc khuy áo bị đứt cho Pính. Pính ngồi xem ti vi bên cạnh. Lúc chiều, Pính cứ lăng xăng quanh Duyền nấu bữa ăn. Ăn xong Pính đòi dọn rửa. Duyền không chịu. Trăng lung linh tròn vạnh. Gió vân vi trên ngọn mấy cây liễu quế hương làm rụng những cánh hoa lấm tấm vàng rực cả gốc. Dịp này, sáng nào Duyền cũng phải ra quét những bông hoa liễu quế hương tàn. Duyền về phòng nghỉ sớm. Pính vẫn ngồi xem tivi ở phòng khách. Rồi Pính tắt vụt tivi... Ngôi nhà rộng thênh bỗng trở nên chật chội. Gió lào xào trên mái hiên. Trăng thì cứ lồ lộ buông ánh sáng vàng nhạt xuống mọi nơi. Lần đầu tiên, Duyền nghe thấy tiếng dế kêu ran. Pính hướng mắt về phía phòng Duyền. Con thạch sùng trên trần nhà giương mắt ngó Pính. Pính tiến đến cánh cửa phòng Duyền lúc nào không hay... bên kia, Duyền cũng đang đứng, chộn rộn. Hơi thở của Pính gấp gáp, hổn hển, có lúc ngợp ngạp, xa xôi... Gió ngưng thổi. Dế bên ngoài thôi ran. Con thạch sùng sắp tuột giác rơi xuống. Hai bầu vú Duyền cương cứng thây lẩy chực đội tung chiếc áo ngủ đang mặc. Mồ hôi Duyền toát ra. Nước trong cơ thể cô đặc, dồn tụ thành mạch nguồn âm ấm... ri rỉ... nhúa cả kheo chân. Quả đấm cửa hút dần tay Pính và tay Duyền... Reng... Reng! Chuông điện thoại bỗng kêu vang. Pính sực tỉnh, nhấc ống nói. - Bố à, bên Phu Khẹt bị sóng thần. Sang đến Băng Cốc thì phải quay lại. Con sắp về đến nhà rồi.. * Những cơn mưa xập xì kéo về khi rặng liễu quế hương trước nhà nẩy lộc non thì thời hạn hết hợp đồng lao động đến gần. Duyền hoàn thành thủ tục với văn phòng đại diện của Việt Nam rồi nhờ người đăng ký vé máy bay về nước. Ngày Duyền về, hai bố con Pính tiễn ra tận sân bay. Pính con mếu máo, hai mắt ti hí nhèm nước. Bước chân vào phòng cách ly Duyền thở phào nhưng chợt thấy trong lòng dâng lên điều gì khó tả, cứ man mác, xeo xeo, níu kéo, khâu khíu, tiếc nuối, cả trách hờn... Duyền ngẩng nhìn qua cửa sổ máy bay. Khóe mắt ứa ra giọt lệ. Hình ảnh cha con Pính, một to lớn béo mập, một gầy nhằng cao đêu nhòa nhạt trong mưa phía xa cứ vảng vất trong đầu Duyền suốt chặng đường trở về Việt Nam.. * Duyền về nước, tạo ra khoảng trống không bù được trong nhà Pính. Pính, Xơng nhớ Duyền cứ điện thoại sang liên tục. “Gọi nheo nhéo. Điện thoại quốc tế mà nói chuyện lâu thế hả Duyền?”. Hôm Duyền ra nhà chơi, tôi phát sốt ruột gan. “Con Xơng bảo em: "Mày lấy tim tao rồi, rõ mầu mè. Anh Pính kể: hàng hoá bỏ bê, nhà vắng vẻ quá. Các mối hàng ở chợ đêm mất vãn từ khi em về”. Duyền rầu rầu. Nhớ lần Pính sang du lịch Việt Nam (khoảng một năm rưỡi sau khi Duyền đến nhà họ) có ghé thăm mợ tôi dăm ngày. Duyền cũng được về. Tôi cắt phép lên chơi với em. Nhìn vợ chồng cọc cạch người Đài tôi đã nghĩ: “Đây là mẫu mực về sự hy sinh”. Ngắm Pính.

<span class='text_page_counter'>(13)</span> chăm sóc vợ mà phát thèm! Mọi sinh hoạt đến vệ sinh cá nhân của Xơng, Pính phải kham hết. Ả vợ lại khó tính, gắt gỏng suốt ngày. - Ở Đài Loan, công việc này em làm, về đây Pính ngại không dám nhờ. Duyền nói nhỏ với tôi. Nhiều lúc Pính tỏ ra ngây ngô, hiền lành đáng yêu lắm: - Xừ - lá... Sao chị em mà bà này không đẹp như cô Duyền. - Đồ khỉ béo. Người làng ai cũng bảo tao đẹp hơn hẳn cái Duyền! Biết thế nào mà so sánh. Tao với nó chỉ là chị em họ! Cái Duyền dịch lại nguyên văn cho Pính nghe. Pính cười như phá, trông thật phúc hậu. Chỉ tiếp xúc vài ngày, mọi người trong nhà đã có cảm tình với Pính. Ông chủ, người nước ngoài gì mà không ngại ở căn nhà nông thôn xập xệ, thiếu tiện nghi. Nhà thằng Tấn khang trang, gió sông lồng lộng, lại có đầm cá rộng. Cạnh đầm, thằng Tấn xây dãy chuồng nuôi mấy chục con lợn. Thằng Tấn muốn mời vợ chồng Pính ra ở ngoài ấy, ả vợ thích lắm còn Pính xem chừng không hào hứng! Pính không nề hà một việc gì, nó quét sân, quét nhà, rồi ngày hai lần tắm rửa cho đàn lợn nhà eng Tấn. Bà con trong làng không thể tin vào mắt mình được.. * Heo may về xơ xác triền đê. Gió lao xao nhặt những chấm cỏ may tung xuống vạt đồng xanh lìm lịm. Bấm đốt, Duyền về nước đã được bốn tháng. Dạo này em tôi trầm tính và ít nói hẳn. Một ngày, đột nhiên thấy Pính lù lù xả dốc đê về nhà mợ tôi. Tóc tai Pính bù xù, mặt mày ủ dột, đồ đạc chẳng có gì, không tay xách nách mang như lần trước. Mẹ ơi... con Xơng nằng nặc bỏ con. Pính vẫn gọi mợ tôi vậy. Duyền thấy nghẹn trong ngực, giơ tay ra hiệu. Thế thằng Pính con? Nó hùa với mẹ ruồng rẫy tôi. Duyền nói trong nước mắt. Nhà cửa, tài sản thì sao? Thằng Tấn buột miệng. Pính lắc đầu. Pính nói con Xơng muốn trả một món tiền lớn vì đứng nguyên đơn ly dị nhưng nó không cần. Giờ, Pính trắng tay rồi. - Sao không về Đài Bắc, chỗ nhà máy của em trai ấy. Pính lắc đầu, rồi nhìn Duyền thật lâu. Duyền cúi mặt xuống. Pính vượt mấy ngàn cây số tìm đến Duyền, mong được chia xẻ, dựa dẫm. Nó định bụng nói hết tình cảm của mình với Duyền, tùy mọi điều ở Duyền. Trước khi sang đây Pính đã xin hoãn thi hành án lần hai, kỳ này về sẽ vào trại luôn (điều này mãi gần đây tôi vẫn không giải thích nổi). Mợ tôi, thằng Tấn và tôi đứng như trời trồng trước Pính. Duyền chạy thụt xuống bếp khóc hu hu. Mắt thằng Pính tràn trệ nước. - Thôi chuyện đâu có đó, Duyền bảo thằng Pính đi tắm rửa, tối mời bác Tăng sang ta bàn. Tôi nói to rồi gật đầu với thằng Tấn. Thằng Tấn bước tới vỗ vỗ vào vai Pính, dắt nó vào trong nhà. Buổi tối, thằng Tấn khéo léo bảo Pính ra nhà nó để mọi người bàn chuyện. Làm tuần trà, hút xong điếu thuốc lào bác Tăng hắng giọng: Ý cháu Duyền thế nào? Suy nghĩ một lúc, Duyền ầm ừ câu gì đó rồi yên bặt. - Muốn, thì lấy nó. Sang bên đó làm ăn, thích thì ở, không, lại về nhà. Như gà mắc tóc. Trẻ trung gì! Thằng Tấn buông một câu. Duyền như đỉa phải vôi:.

<span class='text_page_counter'>(14)</span> Không, em không ở hẳn bên ấy đâu, còn con em. - Xì - Thằng Tấn rề giọng - Con em! Cái gì cũng muốn. Muốn lấy thằng Pính, lại muốn không bỏ thằng Tê. Xin cô. Tấn. Tôi lườm nó. Mắt Duyền ầng ậng nước. Cuối cùng Duyền chỉ nói được một câu: - Bác, mẹ, các anh chị thương phận nào, con nhờ phận ấy. Không khí ba gian nhà ngói cũ ắng đi. Thế thằng Pính xong thủ tục ly dị vợ chưa? Bác Tăng thận trọng. - Anh ấy đã làm xong, có mang cả giấy chứng nhận ly hôn sang, con xem rồi. Anh ấy bảo... sau sẽ, thằng Tê... - Gớm, biết kỹ thế - Thằng Tấn ngào ngào - Làm đám cưới nó rồi qua bên đó, thằng Tê để tao lo. Mày không nhẹ nhàng với em được sao? Mợ tôi nói nhỏ, rồi giơ cánh tay quệt khóe mắt. - Thôi, bác quyết định. Cái Duyền lấy thằng Pính. Thằng Tê trước mắt vẫn ở với bà. Chị Thùy ra ngoài Hà Nội hỏi rõ thủ tục kết hôn với người nước ngoài, lo lắng đến nơi đến chốn cho các em. Mọi việc phải đúng pháp luật. Cuộc họp gia đình kết thúc, và tôi biết người vui, lo lắng nhất vẫn là Duyền. Từ hôm đó mọi người đã coi Pính là người trong nhà. Cũng lạ, không ai đả động đến chuyện đi tù của Pính. Nó thì thụ động chờ sự giúp đỡ và cứ như là ăn vạ Duyền. Hàng ngày Pính chăm đàn lợn nhà Tấn và sốt sắng ra đồng gặt lúa hộ mợ, hộ bác Tăng tôi. Có đêm Pính không ngủ, lên bờ đê ngồi hút thuốc, ngóng mắt ra xa. Mợ tôi không cầm lòng, lên dắt nó về nhà. Ở Hà Nội, tôi tích cực xúc tiến các thủ tục lấy chồng người nước ngoài cho em tôi. Rồi chẳng mấy, chúng nó nhận được giấy mời ra văn phòng đại diện Đài Loan phỏng vấn. Số chúng nó vất vả hay thấy Duyền già già, lớn tuổi, Pính lại trẻ, đẹp khác hẳn những đôi xin kết hôn khác mà cứ bị hẹn lên, hẹn xuống làm chúng đi lại năm lần bảy lượt. Thấy người đàn ông đại diện văn phòng Đài Loan cứ vòng vo, Pính nổi khùng: - Nếu khó khăn quá không đưa được Duyền sang Đài Loan, tôi sẽ xin ở Việt Nam định cư. Không biết lúc ấy thái độ Pính cương quyết, chắc nịch thế nào mà ông ta viết ngay giấy, giới thiệu hai đứa về sở tư pháp tỉnh làm thủ tục đăng ký kết hôn. Tối hôm đó hai đứa nghỉ ở nhà tôi. Tôi mạnh dạn cho chúng ngủ chung ngoài phòng khách, trải đệm nằm dưới nền nhà. Nhà cao tầng, quạt máy mát rời rợi. Hôm ấy là đêm tân hôn hay bao ngày chất chứa, nhớ nhung, tù túng, bức xúc, thèm muốn, kìm nén mà căn hộ tập thể tầng bốn của tôi cứ uỳnh ụych suốt cả đêm. Thỉnh thoảng tôi nghe thấy tiếng thở gằn, phì phì, kèm vài câu tiếng Đài líu ríu. Những vệt sáng dưới đường hắt bóng hai đứa in lên tấm mành trúc, lúc dựng ngược, đổ nghiêng, lúc thấy người Pính, lúc thấy mái tóc Duyền. Mươi ngày sau các em tôi làm đám cưới ở quê. Chúng chụp bao nhiêu là ảnh. Mợ tôi cứ khóc mãi, mợ vui và lại lo lắng, thương Duyền hơn. Đám cưới xong, hai đứa đi ra Hà Nội làm thủ tục xuất cảnh. Rồi Duyền sang Đài Loan cùng Pính, nhưng có điều người đại diện văn phòng Đài Loan yêu cầu Duyền phải quay về Việt Nam lần nữa rồi mới được vĩnh viễn nhập quốc tịch bên ấy. Khi xuống sân bay Cao Hùng thì Pính từ biệt Duyền vào trại thi hành án phạt tù. Duyền một mình về nhà chồng trên Cơ Long. Bố mẹ Pính vui lắm, bảo với Duyền: Pính ra tù, sẽ làm đám cưới linh đình, nghe con dâu. Duyền bẽn lẽn cúi đầu. Mỗi tháng, Duyền lại xuống Đài Nam thăm chồng. Pính phải đi tù một năm rưỡi. Lần về nước vừa rồi Duyền tâm sự:.

<span class='text_page_counter'>(15)</span> - Em đã hỏi rồi, có một xí nghiệp sản xuất đồ nhựa gần trại giam anh Pính, tuyển công nhân. Em sẽ xin phép bố mẹ anh Pính vào làm cũng để tiện thăm nom, chứ mỗi lần từ Đài Bắc đi mấy trăm cây số xuống, tốn kém lắm - Giọng Duyền chợt buồn vệt: Chị à, dịp này bên ấy hoa liễu quế hương đang nở! Tôi nhìn Duyền ái ngại. - Ừ. Nó còn tốt hơn khối đàn ông Việt Nam. Ra tù, vợ chồng bảo ban nhau làm ăn, có tiền, thích về Việt Nam sinh sống cũng đâu khó quá. Nói thì nói vậy, nhưng mắt tôi cứ cay xè. Con đường tình yêu, con đường hạnh phúc của em tôi sao mà dặm trường! Mùa hoa cải bên sông Thứ hai, 04 Tháng 1 2010 09:59. Truyện ngắn: NGUYỄN QUANG THIỀU Đêm xuống. Con thuyền neo lại giữa sông. Ngọn lửa bếp trên mui thuyền hắt một vầng sáng dịu dàng xuống mặt nước. Người trong xóm trại trên bến Chùa không biết con thuyền này từ đâu đến neo lại trên khúc sông này đã hơn một tháng nay. Hàng ngày những người trong gia đình trên chiếc thuyền ấy làm một công việc là lấy cát rồi bán cho các gia đình trên thị trấn nhỏ bên kia sông đang thi nhau xây nhà. Hơn một tháng không ai thấy những người trên chiếc thuyền lên bờ. Họ đội cát bằng những cái thúng to, đi nhún nhảy trên tấm ván. Khi đến đầu tấm ván nối lên bờ, họ đổ cát xuống bãi cỏ cho người mua, bàn chân không hề chạm mặt đất. Hàng xóm của họ là những chiếc thuyền đánh cá, thuyền chở hàng thuê... Chủ chiếc thuyền cát là một ông già ngoài sáu mươi, mái tóc dài được búi gọn trên đầu, chàm râu bạc xòa che gần kín bồng ngực vồ lên như tảng đá. Đôi vai ông u lên, đỏ sậm và rạn như vai trâu cày. Cơ thể ông đanh lại như đá tạc, nhưng đôi mắt thì khác, đôi mắt lúc nào cũng u buồn, ngơ ngác như vừa đánh mất một điều gì. Ông Lư (ông già chủ thuyền) ngồi im lặng trên sàn gỗ của mui thuyền. Bên cạnh ông là một quả bầu khô lớn đựng rượu, một thứ rượu do ôngcất lấy ngâm với củ cỏ gấu, loại củ già đen bóng như sừng. Trước ông là một đĩa cá sông nướng và một chiếc rổ con đựng những con trùng trục đã hấp chín với gừng khô. Chiều nào ông cũng ngồi uống rượu như thế cho tới khuya và không hề động đến một hạt cơm. Chỉ những đêm mưa bão ông mới chịu ở trong chiếc nhà thuyền. _ Anh cả đâu ? Ông khẽ gọi. Tiếng ông trầm và nặng đổ xuống mặt sông đêm. _ Dạ bố bảo gì con ? Một người đàn ông gần bốn mươi tuổi trong nhà thuyền chui ra. _ Mai nghỉ việc, lặn mặt trời thì đi Bãi Yên. Nói chị cả chuẩn bị mọi thứ cho đủ. Ông nói, người không nhúc nhích, đôi mắt mở to nhìn hút về xa. Ngày mai cả nhà ông sẽ đi Bãi Yên. Đó là đoạn sông rộng và êm chạy ven chân một dãy núi đá vôi. ở dưới đáy khúc sông đó là mộ người vợ bất hạnh của ông. Thế là đã hơn mười năm rồi. Con sông đổ biết bao nhiêu nước ra biển cũng như ông có biết bao thay đổi trên đời.Vào mùa hè cách đây mười hai năm. Đó là mùa hè đầy bệnh tật và đói kém. Dọc hai bên bờ sông ông qua, ngày nào cũng vọng tiếng kèn đám ma thảm thiết và thấp thoáng sau những lùm tre gầy nhằng, úa vàng là những chiếc cờ tang vật vờ bay. Rồi vợ ông cũng trở thành nạn nhân của mùa hè ghê rợn ấy. Bà để lại cho ông ba đứa con. Đứa con gái hồi đó mới hơn bốn tuổi. Trong suốt ba ngày ròng rã, ông ngồi trên mui.

<span class='text_page_counter'>(16)</span> thuyền trước xác vợ. Hai đứa con trai ông vừa chèo thuyền vừa dỗ đứa em gái của mình ốm yếu khóc ngặt nghẽo suốt ngày. Ông cập thuyền vào những đám dân cư hai bên sông để xin được chôn cất vợ. Nhưng không một nơi nào chấp thuận. Họ xua đuổi gia đình ông như xua đuổi một thứ ma quỷ chuyên đi gieo rắc cái chết. Họ sợ bị lây bệnh dịch. Ông không còn biết về đâu. Ông sinh ra trên chiếc thuyền này. Ông chỉ biết con thuyền và dòng sông. Đến tối ngày thứ ba, ông ôm xác vợ khóc. Giữa dòng sông mênh mang, con thuyền vật vờ trôi với một ngọn đèn dầu héo hắt trên mui thuyền. Cuối cùng chỉ còn lại dòng sông mở rộng lòng đón nhận mọi số phận. Ông chôn vợ xuống đáy dòng sông ở chỗ khúc sông rộng và êm nhất. Ông cùng hai đứa con dùng gàu sắt thường dùng để lấy cát đào một cái hố dưới đáy sông và để người đàn bà yên nghỉ ở đó. Họ chở một thuyền đá xanh xếp lên thành chiếc mộ để tránh nước cuốn đi. Đêm đó ông xõa tóc, đốt hương lễ thần sông. Ông đổ hết một bầu rượu lớn xuống sông và nguyền rằng: tất cả những người trong gia đình ông sẽ không bao giờ đặt chân lên mặt đất. Họ sẽ sống một cuộc đời trên sông. Ông luôn luôn nói với con cái rằng: Nếu chúng nó để gót chân chạm vào mặt đất đôi bờ thì trái tim chúng sẽ biến thành trái tim quỷ, chúng sẽ trở thành những con thú độc ác. Hằng năm cứ đến ngày giỗ vợ, dù công việc bận thế nào gia đình ông cũng nghỉ. Ông sắm sửa lễ vật và khi mặt trời khuất núi thì cả gia đình chèo thuyền đến Bãi Yên. Ông xõa tóc và mặc áo, đây là ngày duy nhất trong năm ông mặc áo trừ những ngày đông rét mướt. Sau khi làm lễ ông cùng hai người con trai lặn xuống đáy sông sửa sang lại ngôi mộ. ít năm sau người con trai cả lấy vợ. Cô dâu là con gái một bạn thuyền của ông. Ngày cưới con, ông cho đứa con trai thứ hai bơi chiếc mủng nhỏ đi suốt mấy ngày dọc một bãi sông mời bạn thuyền. Đám cưới được tổ chức ở Bãi Yên với hàng chục chiếc thuyền các loại kết lại thành một chiếc bè lớn. Đêm hôm sau, khi vầng trăng cuối tháng hiện lên phía ven trời thì chiếc thuyền từ Bãi Yên trở lại bến Chùa. _ Bố ! Ông nghe tiếng cô con gái út run run gọi ông ở phía sau. Cô ngồi xuống bên cạnh và ôm lấy cánh tay ông- Bố đưa mẹ lên bờ đi. Bố đừng để mẹ ở mãi dưới sông nữa. Đã bao nhiêu lần cô nói như van lạy ông. Nhưng lần nào ông cũng nhìn cô bằng đôi mắt ngầu đỏ, u uất. _ Không đứa nào trong nhà này được nói đến điều đó- Ông rít lên- Không đứa nào được giẫm lên lời nguyền của ta. Nhưng ngay sau đó chính lòng ông đầy đau khổ, giày vò. Ông nhìn con xót xa. Chinh, đứa con gái duy nhất của ông, đã sinh ra trong chiếc thuyền trong dòng sông này. Ngày Chinh ra đời, ông cắt rốn con thả xuống dòng sông và cầu nguyện cho con. Chinh lớn lên khỏe mạnh, dịu dàng và âm vang như dòng sông. Là đứa con gái duy nhất, nhưng cô xông xáo táo bạo hơn các anh cô. Những đêm trăng mùa hạ, cô thích thả mình xuống dòng sông. Cô bơi mềm mại như một nàng tiên cá trong chuyện cổ. Đâu đây có những đàn cá lạ lấp lánh ánh trăng xuyên qua mặt nước bơi theo cô. Thỉnh thoảng cô co người lại, hai tay ôm bó gối để cho cơ thể tuổi dậy thì lóng lánh như một giọt thủy ngân lắng dần xuống đáy sông. Rồi bất chợt, cô ngoi lên khỏi mặt nước gọi bố và cười vang. Ông Lư ngồi trên mũi thuuyền nhìn về phía cô gọi, đôi mắt chợt non tơ đến ngỡ ngàng. Ông không lo lắng gì khi thả cô xuống dòng sông ngay cả mùa nước lớn, nhưng ông lại lo sợ nếu như con gái ông để gót chân chạm vào đất đôi bờ. Nhưng cô thèm khát đôi bờ. Thuở mẹ cô còn sống, cô vẫn được mẹ cô đưa lên bờ đi chợ hoặc kiếm củi khô trên những bãi vải, bãi ổi ven sông. Sau ngày mẹ cô mất, các anh cô và cô không ai dám bước chân lên bờ. Và thế là hơn mười năm rồi, cuộc đời cô chỉ có con thuyền và dòng sông. Cô thèm khát được đặt chân lên dải đất mịn màng phù sa. Cô muốn được nằm trên thảm cỏ xanh ven đê làng. Có nhiều đêm cô bơi sát vào bờ và khi nghe thấy tiếng lá ngô khua xào xạc, khi ngửi thấy mùi râu ngô non dịu ngọt và mùi cỏ non hăng hăng, người cô lại cảm thấy nao nao, nhịp tim cô dồn dập. Nhưng sau đó cô phải trườn mình quay lại con thuyền ngay khi nghe tiếng mõ gọi của bố. Có một lần cô nhìn thấy xác một người chết trôi qua thuyền. Mặt nạn nhân bị chém nhiều nhát, vết thương đã rữa tỏa mùi tanh nồng nặc. Cô ôm lấy bố run lên: "Trời ơi, ai làm sao vậy bố ? Bố vớt người ta lên bờ đi". "Người trên mặt đất họ giết nhau đấy". Ông Lư trả lời lạnh.

<span class='text_page_counter'>(17)</span> băng và đẩy cô vào nhà thuyền. Suốt ngày hôm đó cha cô không cho ai chạm vào dòng sông. Ông nói: "Hãy để nước sông đêm cuốn đi mọi bẩn thỉu của mặt đất. Đừng chạm tay vào nước sông cho đến sáng mai". Một lần khác cô hỏi Sỏi- người anh trai cả của cô: "Anh không thích lên bờ à ?"- "Trên bờ có cái quái gì mà lên"- Sỏi nói- "Cứ ở đây, chẳng phải động chạm đến đứa nào. Làm gì thì làm. Ngày xưa ở trên bờ tao thấy chúng nó suốt ngày cãi chửi nhau."- "Lúc nào anh cũng ngày xưa, thế còn anh Cát ?", cô quay sang người anh trai thứ hai. Cát đang nằm ngủ trên sàn thuyền: "Tao chán cảnh này lắm rồi, cứ như ở tù"- "Mày tưởng tên bờ là thiên đường chắc ? Nhà tù đấy em ạ, gà vịt cũng còn bị tù nữa đấy !". Sỏi nhìn Cát càu nhàu. "Nhưng chắc chắn đó cũng là cái nhà tù rộng rãi hơn cái nhà tù thuyền này !"-"Ai, ai tù mày ? Bố tù mày hay tao, hay con Chinh tù mày ?"- Sỏi thốt lên giọng the thé, Cát thủng thẳng: "Chẳng có ai tù ai hết cả. Ngu dốt nó tù tất cả". Nói xong anh ngửa mặt lên cười. Rồi anh chống tay đứng dậy đi lảo đảo và cười. Rồi tiếng cười vụt tắt. "Trời ơi, - anh kêu lên nức nở- Một ông già độc đoán tự cho mình quyền ngự trị tất cả. Ông bỏ tù chính ông, bỏ tù một cặp đực cái, bỏ tù một thằng hèn hạ như tôi, bỏ tù cả con bé đẹp nhưng mù chữ. Tất cả ỉa đái xuống dòng sông rồi lại nói nước sông trong sạch, lấy nước sông ăn, lấy nước sông uống !"- "Câm đi đồ mất dạy. Bố mà ở nhà bố sẽ giết mày". "Mất dạy hả ? Có đứa nào được dạy dỗ gì đâu mà mất" ! Buổi tối ông Lư trở về. Cô con dâu thì thọt kể lại chuyện cãi nhau giữa hai anh em Sỏi cho ông nghe. Ông nhìn Cát rồi nói: "Mày muốn lên bờ hả ? Được. Tao sẽ chặt đứt đôi chân mày và vứt mày lên bờ để xem mày có phải bò về với dòng sông không ?"- Nói rồi ông cầm lấy lưỡi rìu ấn mạnh vào bắp tay, máu trào ra. Ông lấy lưỡi rìu lau máu và chém phập vào mạn thuyền: "Hày nhìn lưỡi rìu đi. Máu tao đã chảy ở đó. Sáng mai mày hãy trả lời xem mày có thích lên bờ không?" Rồi Cát cũng không lên bờ. Con thuyền lại tiếp tục các công việc của nó. Thế rồi một mùa xuân lại đến. Chinh đã lên tuổi mười bảy. Một buổi sáng thức dậy ra mạn thuyền vo gạo, cô bỗng thấy trên bãi sông Bến Chùa, một thảm màu vàng tươi, một màu vàng xôn xao, ấm áp ùa vào mắt cô. Hoa cải gặp gió ấm đêm qua đã bung nở. Mỗi khi có ngọn gió chạy qua, cả bãi hoa vàng rợn lên như sóng. "Đẹp quá"- Chinh khe khẽ thốt lên. Cái rá gạo từ từ tuột khỏi tay cô trôi theo dòng nước. Suốt cả ngày hôm đó cô không thể nào rời tâm trí khỏi thảm hoa vàng kia. Một cái gì náo nức vẫy gọi cô. Cô đã bước sang tuổi mười bảy. Thỉnh thoảng có đêm thức giấc, cô cảm thấy một cái gì chập chờn, quấn quít ở đâu đây. Không phải tiếng nước sông chảy trong đêm, không phải tiếng reo của ngọn lửa, không phải hương ổi chín từ bãi sông đưa lại, cũng không phải tiếng gọi nhau của bầy chim ri từ những lùm dứa dại ven đê. Một cái gì đấy làm cô đang chải tóc chợt dừng tay. Cái đó chợt đến, chợt đi, chợt rời ra, quấn quýt. Một hôm, sau bữa cơm chiều, cô nói với bố là cô đi thả lưỡi câu. Ông Lư chìu con và dặn: "Đi về sớm, trời lạnh đấy". Cô vội vã cởi dây thừng neo chiếc thuyền mủng. Cô không thả lưới mà bơi mủng vào bờ. Cô cắm mủng ở đó và đi về phía bãi cát. Đêm lạnh nhưng trời có trăng. Cô ngồi xuống bên cạnh luống hoa. Đôi tay nâng khẽ những chùm hoa cải ướt sương. Một ngọn gió lướt qua những bông hoa đong đưa chạm vào má cô. Người cô run lên. Những bông hoa nhảy múa và trò chuyện với cô. Cô khẽ áp đôi môi mình vào hết chùm hoa này đến chùm hoa khác. Bỗng cô nghe tiếng mõ tre từ chiếc thuyền cái. Tiếng mõ được quy định thay tiếng gọi nhau của những người sống trên sông. Một lúc sau tiếng mõ lại vang lên. Chinh cuống quít, cô quơ tay đứt những chùm hoa cải. Lần thứ ba, tiếng mõ nghe gấp và chói. Cô biết bố cô đã nổi giận. Cô ôm bó hoa gãy nhàu chạy xuống bờ sông. Vừa ngồi vào mủng, cô vội gõ trả lời và hối hả bơi về thuyền. "Mày đi đâu mà không trả lời". "Con tưởng bố gọi anh cả". Ông im lặng, nghi ngờ nhìn cô. Rồi đêm sau cô lại tìm cách lên bờ. Và trước khi trở lại thuyền, cô lại ngắt những chùm hoa cải đem về. Nhưng đến đêm thứ ba thì có người phát hiện ra việc làm của cô. Đó là một chàng trai chừng ba mươi tuổi mặc một bộ quân phục đã cũ. Những ngày trước đó bà mẹ chàng trai thường xuống bến sớm và phát hiện những luống hoa cải bà để giống.

<span class='text_page_counter'>(18)</span> cho vụ sau bị ai đó ngắt nham nhở từng quầng. Bà ca thán với con và chàng trai quyết rình bắt cho được kẻ phá hoại. Khi Chinh đang quỳ trước đám hoa cải vừa vuốt ve chúng vừa thì thầm trò chuyện thì nghe tiếng quát khẽ nhưng rất gắt của chàng trai. Cô giật mình hoảng hốt quay lại, và vẫn trong tư thế quỳ, cô ngước mắt lên nhìn chàng trai, người run lên vì sợ hãi. Cô không khái niệm đuợc sự sai trái do việc làm của mình, mà sợ hãi vì trước cô trong đêm trăng lạnh là một người lạ. _ Cô là ai? Cô làm gì ở đây ? Chàng trai hỏi và bước lại gần cô. Cô lúng túng đứng dậy. Chợt những làn mây mỏng tan đi. ánh trăng trong veo đổ tràn gương mặt cô. Bây giờ thì đến lượt chàng trai giật mình. "Đẹp quá !". Anh thầm kêu lên. Sao trong đêm tĩnh lặng trên bãi sông ở một làng quê hẻo lánh này lại xuất hiện một người con gái đẹp như thế ? Chiếc áo tối màu và ánh trăng làm ngời lên đôi bàn tay, cái cổ thon và gương mặt đẹp. Đôi môi cô khẽ mím lại còn đôi mắt thì mở to. Chàng trai hồi hộp, liếc nhanh cơ thể cô và nhận ra dưới lớp trăng mỏng, dưới lớp áo tối màu, là tuổi dậy thì nóng hổi, dịu dàng và phập phồng thở. _ Em ở đâu đến ?- Chàng trai nói bằng hơi thở. Giọng nói và gương mặt đàn ông đầy độ lượng của anh đã làm cô hết sợ. Cô mỉm cười nhìn xuống dòng sông, ở đó tỏa một quầng sáng đèn dầu. "à", anh chợt hiểu. Hàng tuần về thăm mẹ, anh vẫn thấy chiếc thuyền cát ấy neo ở bến sông làng anh. Biết vậy nhưng anh vẫn hỏi lại: _ Em ở dưới thuyền à ? Cô gật đầu. _ Em thèm ăn rau cải à ? Chinh bật cười. Nụ cười ngộp lên người anh. Anh thấy mình mê đi trong khoảnh khắc. _ Thế em muốm gì ? Anh lúng túng hỏi. Chinh không trả lời mà giơ một nắm ngọn cải nhiều hoa ra trước anh. _ Hoa cải ? Em thích hoa cải?- Anh ngạc nhiên hỏi. Cô gái lại gật đầu. _ Em về đây. Bố em gọi ! Anh bỗng hoảng hốt sợ cô biến mất. Anh đứng lặng nhìn cô và rồi vội vã ngắt những chùm hoa cải. Chinh nhận bó hoa cải từ tay anh rồi quay người đi xuống bến. _ Này em !Chàng trai chạy theoTên em là gì? _ Chinh. _ Anh là Thao. Nhà anh ở kia kìa. Mai em lên nhé. Hoa cải nhà anh đấy. Chinh mỉm cười gật đầu và đi xuống bến. Anh nhìn theo. Đến lúc này anh mới nhận ra mái tóc như thiên thần của cô. Anh ngửa mặt lên trời. Có lẽ mái tóc ấy đã từ vầng trăng chảy xuống. Sáng sau, Thao dậy sớm. Suốt đêm qua hầu như anh không ngủ. Anh nghe tiếng bà mẹ ca thán dưới bếp: "Không biết đứa nào lại phá luống hoa cải đêm qua". Thao mỉm cười sung sướng. Anh chạy theo con đường nhỏ xuống bờ sông. ở giữa sông, chiếc thuyền của gia đình Chinh nằm bình yên trên mặt nước. Một ngọn khói xanh tỏa ra từ con thuyền lặng lẽ tan xuống mặt sông như sương. Thao đứng trên bờ hồi hộp đợi, nhưng không thấy bóng một người con gái nào. Chỉ có hai người đàn ông đang loay hoay làm gì đó trên mui thuyền. Hay là đêm qua anh nằm mơ. Có phải thật sự đêm qua anh đã gặp một người con gái như thế không? Thao chờ mãi và cuối cùng anh buồn bã trở lại bãi hoa cải. Bên luống hoa vẫn còn in những dấu chân. Và cạnh đó là những cánh hoa cải rụng lấm tấm vàng. Rồi một đêm sau đó ít ngày, Chinh lại chèo chiếc mủng nhỏ lên bờ. Họ đứng nhìn nhau trong ánh sáng mờ mờ của trăng bị mây mỏng che khất. Họ chưa biết gì về nhau nhưng cả hai đều nhận thấy có một cái gì đó mỏng, trong suốt đang quấn vào họ như tơ nhện. _ Bố em đi rồiChinh thì thào. _ Đi đâu? _ Bố đi có vệc mấy ngày tận cuối sông. _ Đêm nay em ở lại trên bờ vớio anh nhé. Em đừng về. _ Bữa trước ở dưới thuyền em nhìn thấy anh, nhưng em không dám ra. u anh nhìn thấy em anh gọi thì bố em giết chết em. _ Sao lại giết? Thao hỏi và bật cười..

<span class='text_page_counter'>(19)</span> _ Thật đấy. Cô nói và nhìn anh bằng đôi mắt buồn, rồi cầm tay anh đi về phía bãi hoa. Họ ngồi xuống giữa những luống hoa cải. Hơi thở họ phả nóng mặt nhau. Xung quanh họ hoa cải vàng lấp lánh dưới trăng. _ Anh yêu em ! Anh nói như cố gắng hết sức mình. Cô nhìn anh lặng lẽ như không hiểu điều anh nói. Anh nâng gương mặt cô lên. _ Anh yêu em. Chinh vẫn im lặng. Gương mặt cô như đang ngủ trong lòng đôi bàn tay anh. Anh cúi xuống hôn cô và thấy cô rùng mình. Đôi môi cô khẽ mím. Cô không biết đó là tình yêu. Cô chỉ thấy rằng ngực cô như bị nén chặt. Người cô bừng nóng. Cô cảm thấy hơi nóng của mẹ cô từ những năm tháng xưa đang tỏa vào cô. Cô vội đứng dậy. Thao ngơ ngác đứng theo. Bỗng cô ôm lấy anh khóc nức nở. Một lúc sau, cô ngước lên nhìn anh và hỏi: _ Anh là người mặt đất à? _ Trước đây, anh là một người lính- Anh nói. * ** Trời mỗi ngày một ấm lên. Những cánh hoa cải rụng xuống mỗi ngày một nhiều. Rồi đến một hôm anh giật mình nhận thấy hoa cải đang rụng gần hết, chỉ còn lại những bông nở muộn. Anh cứ cảm thấy rằng khi cánh hoa cuối cùng rụng xuống thì Chinh sẽ biến mất. _ Em phải ở lại đây với anh. Em sẽ ở nhà anh với mẹ. Em không đuợc đi đâu cả. Cô nhìn anh lắc đầu. Anh rút trong túi ra một tờ giấy đưa cho cô. _ Anh chép thơ tặng em đấy. Thơ Tago em biết không? _ Em không biết chữ. _ Sao, có thật thế không ? Anh ngạc nhiên hỏi và lòng anh bỗng xót xa, anh đỡ cô ngồi xuống và ôm cô vào lòng. _ Anh sẽ dạy em học. Anh cũng đang đi học đấy. Bây giờ anh giúp gì được em nào, em nói đi ! Chinh xoay người ngồi tựa vào lòng anh. Cô kể cho anh nghe cuộc đời của gia đình cô. Cuối cùng cô quay lại nhìn anh và nói: _ Em muốn nhờ anh một việc. Em muốn đưa mẹ em lên bờ. _ Lên bờ ! Đúng rồi. Chúng mình sẽ đưa mẹ lên bờ. Chúng mình sẽ để mẹ yên nghỉ ở bãi sông này. Anh sẽ trồng nhiều hoa cải bên mộ mẹ. Cô gật đầu cười hạnh phúc. Thế là gần một năm gia đình ông Lư ở lại bến sông làng Chùa. Đôi khi họ cũng vắng bóng dăm ba ngày. Một mùa hè lại đến. Đêm đêm Chinh thích thả mình xuống dòng sông. Bơi bên cô là Thao. Anh có một cơ thể khoẻ mạnh cân đối. Năm năm rèn luyện trong lực lượng đặc công nước đã cho anh vốn sức khoẻ và sự phát triển cơ thể ấy. Sau ngày giải ngũ, anh thi vào đại học ngoại ngữ khoa tiếng Anh. Những đêm trên dòng sông dịu dàng chảy, họ quấn quýt với nhau như một đôi cá thần. Dòng sông bí mật truyền vào cuộc đời họ sức mạnh hạnh phúc và sự khổ đau. Một lần khi đang bơi bên anh,Chinh thấy chóng mặt, cô ôm lấy vai anh thở dốc. Dòng sông chợt dừng chảy, im phắt lắng nghe cô, rồi bỗng trào lên những ngọn sóng reo vui, nhảy nối nhau loan báo cho các loài thủy tộc biết điều hạnh phúc thiêng liêng. Quanh họ, có những con cá bay lên khỏi mặt nước như một mảnh trăng con lấp lóa. Như thường lệ, vào ngày giỗ bà mẹ, cả gia đình ông Lư nghỉ việc nhổ neo về Bãi Yên. Cũng chính ngày này Thao thay Chinh đốt những nén hương cắm trên mộ của bà mẹ. Thao đã bí mật đưa phần mộ của bà lên bờ mấy tháng nay và chôn ngay trong vườn nhà anh. ở Bãi Yên sau khi làm lễ xong, ông Lư sai Sỏi lặng xuống đáy sông để kiểm tra lại ngôi mộ. Gần một phút sau, tăm nổi lên sùng sục và Sỏi nhao lên khỏi mặt nước kêu thảng thốt: "Mộ bị phá ! Mộ bị phá rồi". Một ngọn lửa bỏng rát táp vào mặt ông Lư. Ông lao xuống sông hít một hơi dài và lặn xuống. Những hòn đá xanh đã bị vứt ngổn ngang. Ông Lư biết không phải nước mà có một ngời nào đó đã phá ngôi mộ. Nhưng ai đã làm việc đó ? Câu hỏi ấy làm máu ông sôi lên. Không ai biết ngôi mộ này ngoài những ngời trong gia đình ông. Ông ngoi lên và ra lệnh: "Thả gầu xúc cát xuống". Họ bắt đầu đào. Sau gần nửa tiếng đồng hồ ông mệt mỏi trèo lên thuyền. Ông lẩy bẩy bước đến cửa nhà thuyền đỡ lấy quả bầu khô đựng rượu, ngữa cổ lên uống..

<span class='text_page_counter'>(20)</span> _ Đứa nào ?- Ông gầm lên- Đứa... ưa... ưa... na...ào... ào? Tiếng ông kéo dài như tiếng rú khản đặc dội vào đôi bờ, vọng lại rền rền trên mặt sông. Tất cả những người trên thuyền cúi đầu im lặng. Trong góc nhà thuyền, Chinh ôm chiếc gối vào lòng kinh hoàng. Đến gần nửa đêm chiếc thuyền mới quay trở lại bến Chùa. Ông Lư ngồi gục đầu trên mui thuyền, trông ông già đi hàng chục tuổi. Hai anh con trai im lặng chèo thuyền. Buổi sáng hôm sau mọi người dậy rất sớm. ở ngoài mui thuyền ông Lư vẫn ngồi đấy. Ông đã ngồi như thế suốt đêm qua. Bỗng cô con dâu chạy từ trong nhà thuyền ra. _ Bố !- cô gấp gáp gọi ông và giúi vào tay ông một xếp giấy cũ nhàu. _ Cái gì thế này ? ông hỏi và giơ những tờ giấy ra... Ông không biết chữ nhưng linh cảm thấy một điều không bình thường trong những tờ giấy. _ Cả đâu !- Ông gọi. Sỏi đang hút thuốc lào vội chạy ra- Mày đọc xem cái gì đây. Sỏi cầm lấy những tờ giấy và đọc. Trước khi mẹ Sỏi mất, ông Lư vẫn gửi Sỏi đến học một trường làng cùng con một ông bạn thuyền làm nghề chở đò ngang. _ thưa bố. Đây là thư của một đứa nào đấy gửi cho con Chinh. Chúng nó nói chuyện yêu đương. nhưng con Chinh có biết chữ đâu nhỉ. _ Con Chinh đâu ? Ra đây. Ông Lư gầm lên, từ trong nhà thuyền, Chinh vừa khóc vừa chui ra. Cô đã nghe thấy câu chuyện vừa rồi. _ Đứa nào ? Của đứa nào?- Ông gầm lên và giúi nắm giấy vào mặt cô. Cô khóc nấc lên. _ Của... của anh ấy. Con xin bố. Con lạy bố ! Ông Lư giáng một cái tát vào mặt cô. Chinh ngã vật xuống sàn thuyền. Cô chống tay ngồi dậy khóc nức nở. Cô chắp tay lạy ông. _ Con xin bố. Con lạy bố. Con và anh ấy yêu nhau. _ Trời ơi ! Ông Lư kêu lên- Thế là nó đã lên bờ rồi. Nó đã đạp lên lời nguyền của ta. Nó giết chết cả gia đình này rồi ! Ông túm lấy mái tóc dài của cô, giúi đầu cô xuống sàn thuyền và vung rìu chặt đứt mái tóc. Ông nắm phần tóc bị đứt ném xuống sông. Một cơn gió ở đâu ào đến. Gió cuốn mái tóc lên không. Mái tóc bay rối bời, quằn quại. _ Đánh tuốt xương nó ra- Ông nói và rút chiếc cần câu trên mái liếp của nhà thuyền quất vào cô vun vút. Chinh vòng tay ôm lấy bụng. Người cô giật lên từng cơn. Một lúc sau ông dừng lại, túm lấy áo cô giật mạnh. Chiếc áo rách chỉ còn lại hai đoạn vạt áo. _ Tao sẽ lột hết quần áo và vứt mày lên bờ... Ông nói đến đó bỗng dừng lại, mắt mở tròn. Những người trong gia đình cô cũng chững người lại nhìn cô. Trước mắt họ cô đang ngồi khóc không thành tiếng, mái tóc dứt nham nhở dính bết vào lưng cô đầy máu. Đôi vú cô hơi sệ xuống, núm vú thâm lại, chiếc bụng chửa đã năm tháng của cô bây giờ bỗng to hẳn lên, hổn hển thở. _ Nó có chửa. Nó có chửa, bố ơi ! Sỏi thảng thốt kêu lên. Đôi mắt ông Lư đờ đẫn. Chân tay ông run lên như bị bệnh thần kinh. _ Thảo nào...- Cô con dâu chặt lưỡi- Đúng là con của ma của quỷ nên nhìn đẹp đến lạnh cả người. Đúng lúc đó Thao bám mạn thuyền nhảy lên. Anh chạy lại ôm lấy Chinh. _ Anh ơi !Cô nấc lên. _ Các người không được làm thế. Các người thật dã man. Thao rít lên, lòng anh đầy đau đớn và uất hận. ở sân nhà, anh đã nghe thấy tiếng kêu gào, khóc lóc của Chinh.Anh chạy xuống bến và nhận thấy ông Lư đang đánh Chinh trên thuyền. Anh không kịp cởi.

<span class='text_page_counter'>(21)</span> quần áo dài, cứ thế bơi đến nơi con thuyền đậu. _ Mày, chính là mày- Ông Lư bước lại trước Thao- Mày đã hại đời nó. Tao sẽ giết mày. Tao phải giết mày. _ Chính ông đã giết chết cuộc đời cô ta. Ông đã chôn vùi bà mẹ dưới đáy sông lạnh lẽo tối tăm, ông đã chôn vùi cuộc đời con cái ông trên chiếc thuyền này. _ Trời ! Ngôi mộ... ngôi mộ. ở đâu ? Mày, mày... ngôi mộ. _ Đúng. Chính tôi đã đưa ngôi mộ bà mẹ lên bờ. Con gái của ông đã nhờ tôi. Cô ta đã làm đúng lương tâm và lòng hiếu thảo của một người con. Chính ông và gia đình này phải cảm ơn cô ấy. Bây giờ ông chỉ biết quyền lực của ông. Chỉ vài năm nữa ông chết đi. Nhưng ông đã và đang đày ải những người khác sống một cuộc đời tối tăm vô nghĩa. Bây giờ ông phải cho cô ấy lên bờ. Anh cúi xuống nhìn xót xa tấm lưng cô, lưng Chinh bầm tím và ứa máu. Rồi anh ngẩng nhìn mọi người nói: _ áo đâu ? Đưa áo cho cô ấy mặc. Cát lặng lẽ đi vào nhà thuyền và mang ra một chiếc áo đưa cho anh. Anh mặc áo cho cô và đỡ cô vào nhà thuyền. Một lúc sau anh bước ra nhìn ông Lư và nói: _ Ông phải cho cô ấy lên bờ và chính cả ông nữa. Tôi yêu cô ấy và tôi sẽ cưới cô ấy làm vợ. _ Mày là một con quỷ. Mày đã phá hại gia đình tao. Mày phải mang trả lại cho tao ngôi mộ. _ Nếu ông chấp nhận cho cô ấy lên bờ thì tôi sẽ chỉ cho ông biết ngôi mộ ấy ở đâu. Nhưng ông cũng không được đưa ngôi mộ ấy trở lại dòng sông. Bây giờ tôi về lấy thuốc cho cô ấy. * ** Khi Thao đi mua được thuốc cho Chinh trở về thì chiếc thuyền không còn trên bến Chùa nữa. Ông Lư đã cho chiếc thuyền nhổ neo ngay sau khi anh rời chiếc thuyền. Anh không biết con thuyền đi về hướng nào. Anh quyết định chạy theo hướng dòng sông chảy. Ông Lư biết trước chuyện đó. Ông căng buồm cho thuyền chạy ngược dòng. Ông ngồi giữ bánh lái. Còn Sỏi và Cát phải lên bờ để kéo phụ cho chiếc thuyền đi nhanh hơn. Mây đen bỗng cuồn cuộn đổ về. Mưa mùa hạ ập xuống như trút nước. Dòng sông rộng nên gió càng thổi mạnh. Thao vừa đi vừa thở trong mưa. Đất trời mù mịt. Trên dòng sông lác đác có những con thuyền cập vào hai bờ tránh bão. Cứ thấy bóng một con thuyền Thao lại cất tiếng gọi. Nhưng chỉ thấy gió bão trả lời anh. Anh rét run lên rồi trong ngực như có một ngọn lửa. Ngọn lửa đốt nóng rát lồng ngực. Ngọn lửa chui qua cổ anh lên mũi, lên mồm. Thao phải quay về nhà. Anh không đủ sức đi tiếp. Vừa về đến nhà thì cơn sốt lên đến lúc cao nhất. Anh cố gắng thay quần áo và nằm vật ra giường. Bà mẹ hốt hoảng đắp chăn cho anh và đi rang cám đánh giá cho anh. Mọi người vội vã đưa anh đi bệnh viện. Mỗi khi tỉnh lại anh lại hỏi: _ Thuyền về chưa ? Không ai hiểu câu anh hỏi. Mọi người nhìn anh lo lắng. Còn anh cứ mỗi khi nhắm mắt thiếp đi lại thấy chiếc thuyền, thấy dòng sông và Chinh bơi đến bên anh. Bỗng Chinh dừng bơi, ôm chặt lấy anh kêu lên khe khẽ. Gương mặt cô vừa đau đớn vừa hạnh phúc. Cô mỉm cười và trán đẫm mồ hôi. Rồi anh nghe tiếng trẻ kóc. Tiếng khóc âm vang náo nức cả dòng sông. Anh bế đứa bé nâng lên hkỏi mặt nước. Nhưng rồi đôi tay anh nhẹ bẫng. Anh giật mình, đôi mắt dài dại mở ra nhìn mọi người, môi anh thì thào: _ Thuyền đã về chưa ? Khi cơn sốt chưa kịp khỏi hẳn, anh quyết định đi tìm Chinh. Anh nói với bà mẹ rằng có lẽ hai tuần tới anh không về nhà. Anh phải đọc một số sách cho năm học mới. Anh lấy xe đạp và bắt đầu cuộc hành trình dọc sông Đáy nhưng suốt một tuần đầu anh không được một tin gì về Chinh. Anh la cà ở những nơi thuyền tụ tập đông đúc. Anh kể cho những.

<span class='text_page_counter'>(22)</span> người làm nghề sông nước về gia đình cô. Có người nói họ nhìn thấy chiếc thuyền đó qua nơi họ đã ở mấy hôm trước. ở trên mui thuyền có một cô gái hai tay bị trói vào cọc. Có người lại kể rằng họ thấy một thuyền câu nhỏ cứ quay tròn trôi theo làn nước, trong thuyền có một đứa bé mới đẻ. Một đôi vợ chồng già không có con đã đón đứa bé ấy về nuôi. Rồi lại có người nói rằng họ nghe đồn có một người đàn bà chết trôi, trên bụng có một đứa bé mắt tròn như mắt cá. Đứa bé ấy nhìn vào bờ cứ cười ba tiếng lại khóc ba tiếng... Thao cứ đi mãi theo những lời đồn đại như chuyện cổ tích của những người dân chài cho đến khi ra đến biển. Biền tít tắp không bờ không bến và rền rĩ tiếng sóng. Cho đến một buổi sáng Thao dậy sớm. Suốt cả bãi sông làng anh rực vàng hoa cải. Những bông hoa cải nhỏ nhắn, mềm mại, ấp áp đung đưa trong gió. Thao bỗng thấy trái tim rung lên đập hối hả. Anh chạy ùa xuống bến. Bỗng anh quỳ xuống bên luống cải. Trước mắt anh, trên mặt phù sa rụng lấm tấm những cánh hoa mỏng và từ đó kéo dài xuống bến sông là những dấu chân mỏng và nhỏ nhắn. Anh Sức Thứ sáu, 18 Tháng 12 2009 10:53 Truyện ngắn. KHUẤT QUANG THỤY Ông trưởng phòng tổ chức của nông trường lật đi lật lại tập hồ sơ của tôi, rồi ông giương kính lên và bắt đầu đọc. Ông đọc rất say mê mặc dù tôi biết chắc chắn ông đã đọc tập hồ sơ của tôi ít nhất cũng dăm bảy lần. Cũng như mọi lần, sau khi đọc qua mỗi trang, ông cẩn thận thấm nước bọt vào đầu ngón tay rồi mới lật qua trang khác và điểm thêm bằng những tiếng khen "Được" hoặc "Cái này được".. Cái kiểu đọc như vậy, dĩ nhiên khiến tôi rất sốt ruột. Như mọi lần, tôi chuẩn bị để nghe ông kết thúc bằng câu "Thôi được! Anh cứ để hồ sơ lại đây để chúng tôi xem lại đã". Cái cảnh đi xin việc, năm lần ra ba lần vào là chuyện thường. Nhưng lần này ông ta đọc có vẻ lâu hơn, bình tĩnh hơn, thỉnh thoảng ông còn dừng đọc, ngước lên nhìn tôi một lượt như để xem có cái gì không được khớp giữa tôi và những dòng chữ trong tập hồ sơ vậy? Cuối cùng, tôi thở phào, ông đã gỡ kính ra, tin cậy đặt nó lên tập hồ sơ của tôi. - Được! Được đấy. Lý lịch của anh thật là tuyệt. Chưa có một dấu vết gì cả. Nhưng này Ông đột ngột nhô nửa người qua bàn - nghề nghiệp chính của anh là gì? Tôi sốt ruột nên đáp hơi sẵng giọng: Nghề chính của tôi là… đánh giặc ạ. - Ái chà! Đánh giặc - ông bỗng cất tiếng cười vang - Khá đấy! Nhưng ở đây làm gì có giặc nhỉ? - Bỏ ngay cái giọng công thần ấy đi, anh bạn trẻ nhé. Tuy vậy, tôi thích anh, anh đại đội trưởng xe tăng ạ. Ban giám đốc đã đồng ý tiếp nhận anh rồi đấy. Nhưng… ở đây chúng tôi không có xe tăng cho anh chỉ huy, gay thế? - Tôi có thể lái xe xích, xe cần cẩu hay bất kỳ loại xe hơi nào. - Thế thì tốt. Ông trưởng phòng xoa hai bàn tay vào nhau - nhưng rất tiếc ở đây chúng tôi có vài cái xe rách thì xe nào cũng có ít nhất là ba anh tài xế rồi. Tuy vậy… chúng tôi đã quyết định giao cho anh phụ trách cả một đội xe, được chứ? Dạ… tôi cũng có thể… - Nghĩa là được, phải không? Một đội hơn hai chục đầu xe chứ ít ỏi đâu. Nhưng là xe bò kéo, chứ không phải xe hơi đâu nhé! Nói xong ông lại cười vang và có vẻ thích thú ngắm nhìn bộ mặt ảo não của tôi. Vậy ra người ta giao cho tôi… lái xe bò? Thật chẳng còn ra làm sao. Nhưng chẳng lẽ cứ ăn không ngồi rồi mãi? Tôi là thương binh, được phục viên đã gần một năm nay rồi. Giá như tôi ở nông thôn thì mọi việc đơn giản hơn nhiều. Chỉ việc đến ban quản trị xin nhận vài sào ruộng khoán là ổn. Khốn nỗi tôi lại là dân thành thị, vườn tược chẳng có mà các nghề khác thì… tôi chưa kịp học một nghề gì trước khi đi bộ đội cả. Các đồng chí bên uỷ ban nhân dân thị xã có gợi ý mời tôi lên làm ở văn phòng uỷ ban. Nhưng tôi biết tôi không thể ngồi yên ở bất kỳ cái văn phòng nào lấy một tuần. Tôi thích làm việc ngoài trời, được đi lại, xê dịch hoặc đôi khi còn hò hét nữa. Tôi chỉ sợ nhận làm việc ở cái nơi cực kỳ nghiêm chỉnh ấy mà tính khí của tôi lại hơi bồng bột, không khéo dăm bữa nửa.

<span class='text_page_counter'>(23)</span> tháng tôi ngứa chân ngứa tay, rồi làm ăn cẩu thả hay nói năng không được chững chạc cho lắm, lại phiền cho những người cưu mang mình. Vậy nên tôi từ chối để vác hồ sơ đi xin việc ở khắp nơi, cho đến khi gặp cái ông trưởng phòng. - Thế nào? - Ông trưởng phòng lại hướng về phía tôi - Chắc là đồng chí sẽ không nhận việc này chứ gì? - Tôi biết mà… Cánh thanh niên các anh thì chỉ thích nơi nào tao nhã một chút. Cái nghề đánh xe bò… Nhưng thôi được!... Ưu tiên đồng chí là thương binh, tôi có thể xếp đồng chí làm việc ở bộ phận hành chính… - Không, tôi vội xua tay - Tôi xin nhận xuống đội xe bò. Hả? Bác cứ cho tôi xuống đội xe. - Nếu vậy thì hay lắm. Ông trưởng phòng xoa tay hể hả. Có thế chứ! Đúng là là… phẩm chất của giai cấp công nhân. Nếu đồng chí về đó thì chúng tôi yên tâm lắm. Xem ra phải hơi cứng đầu một chút thì mới cầm cương được cánh xe bò kéo. Chà… chà! Một ổ tiêu cực đấy! Đời thuở nhà ai họ dám bán cha cả bò của nông trường rồi vu cho kẻ trộm lấy mất. Dĩ nhiên là những kẻ như vậy là vào tù rồi. Nhưng… cũng chưa phải rồi mọi việc xấu xa ấy sẽ chấm dứt. Hừm… lạ thật! Táo gan thật! Về đó anh phải đặc biệt chú ý đến tay Nguyễn Văn Sức. Hừm… một tay đã từng lái xe bộ đội Trường Sơn. Cũng vào sinh ra tử cả đấy. Đến khi hoà bình, chuyển ra làm đội trưởng đội xe vận chuyển dân chính thì bắt đầu trở chứng. Quả là… Anh tính, đời thuở nhà ai anh ta dám bán gần hết cả một xe vải quý cho con buôn để lấy tiền chia nhau? To gan thế đấy! Dĩ nhiên rồi đến cái đoạn phải chịu kỷ luật, bị đuổi về. Không bị đi tù còn là may đấy. Ấy thế mà rồi thì… Về đây, anh ta làm cách nào đó, có giời biết, mà ông phó giám đốc nhà này cứ say như điếu đổ, rồi nhận anh ta vào làm ở đội xe. Tôi biết mà, hắn lại định nhắm vào cái khâu tiếp xúc với nhiều cơ sở vật chất nhất. Để làm gì, hả? Với những người như anh ta, thì không phải để làm cách mạng đâu, anh nhớ lấy điều đó! Mặc dù năm vừa qua anh ta được bầu là chiến sĩ thi đua hẳn hoi. Nhưng tôi vẫn ngờ lắm. Cái tay đội trưởng cũ ngu ngơ quá, bị chúng nó xỏ mũi cả. Anh thì phải khác, nhớ đấy! Vì anh là cán bộ, đảng viên lại xuất thân từ giai cấp công nhân. Nếu anh mà cũng lơ mơ thì… cứ cứ… coi chừng đấy! Ông trưởng phòng đe nẹt tôi một cách thân ái rồi trịnh trọng mở cặp ra lấy tờ quyết định tiếp nhận trao cho tôi. - Đấy… Việc của anh thế là xong. Anh làm nốt các thủ tục còn lại rồi nhanh chóng về mà nhận bàn giao công tác. Kể từ ngày hôm nay anh chính thức là… cán bộ của nông trường này rồi. Những lời huấn thị của ông trưởng phòng tổ chức không làm tôi bực mình lắm mặc dù nó thấm đậm chất gia trưởng. Có lẽ vì tôi đang vui. Dù sao thì mọi việc chạy xuôi chạy ngược cũng đã kết thúc. Từ nay tôi đã là anh đội trưởng một đội xe bò kéo của nông trường. Chứ đâu phải chuyện chơi? * * * Cũng như tất cả các vị thủ trưởng mới nhậm chức, sau khi nhận bàn giao tài liệu, sổ sách, bản thống kê tài sản v.v… tôi quyết định bỏ ra vài ngày để làm quen với công việc và anh em công nhân dưới quyền chỉ huy của mình. Tôi định tổ chức hẳn một cuộc họp để ra mắt và "ra tuyên bố" về "chính sách" của mình… Nhưng đã gần hết một tuần mà tôi không làm sao gom đủ quân về trụ sở để tổ chức cuộc họp ấy. Cuối cùng, tôi phải bãi bỏ ý định ấy và đành "nhập gia tuỳ tục". Nghĩa là tiếp tục dùng cái bảng thông báo ở đầu nhà để phân công công việc và ra những chỉ thị cần thiết. Sau đó tôi quyết định đi theo anh em chở hàng một vài chuyến để tìm hiểu công việc. Tuy chưa nói với ai, nhưng tôi định chuyến đầu sẽ đi với anh Nguyễn Văn Sức. Tôi chọn đi với anh là vì hai lẽ. Thứ nhất, vì những lời lưu ý đặc biệt của ông trưởng phòng tổ chức. Thứ hai, sau một tuần làm việc ở cơ quan, tôi đã có vài lần được tiếp xúc với anh Sức. Tự nhiên tôi lại có cảm tình với anh. Ở anh có một cái gì đó chững chạc, bền vững chứ không có những nét xộc xệch cẩu thả, tạm bợ như số đông anh em đánh xe ở đây. Tôi không nghĩ rằng người ta đã phạm kỷ luật, thậm chí phạm tội một lần thì không thể thay đổi được. Ông trưởng phòng có vẻ mê cái lý lịch của tôi. Nhưng, tất cả những sự tốt.

<span class='text_page_counter'>(24)</span> đẹp, trong sạch của quá khứ có bảo đảm để tôi mãi mãi là người tốt hay không lại là chuyện khác. Tôi đã từng biết không ít những người vẫn được coi là tốt, là trong sạch đã nhanh chóng hư hỏng như thế nào. Ngược lại, tôi từng biết những người phạm tội, xa xẩy đã vươn lên để trở lại với bản chất tốt đẹp của một con người chân chính như thế nào. Quá trình thứ hai, chắc chắn phải gian khổ, vất vả hơn quá trình thứ nhất. Vì thế, tôi muốn đi với anh một chặng đường. Khi tôi đến, anh em trong đội đang nhận hàng để chuẩn bị cho chuyến đi ngày hôm ấy. Một số anh em đã đóng hàng xong đang quây quần xung quanh bác Mạc, một người nhiều tuổi nhất trong đội. Cánh thanh niên vừa chuyền tay nhau cái điếu cày chạm khắc rất cầu kỳ của bác Mạc vừa cười nói ồn ào. Sức không ở trong đám đông ấy, anh vẫn đang loay hoay bên xe của mình. Thấy tôi tới, một thanh niên ở trần, mặc quần bò, đội mũ cối rộng vành liền la lên: - Thủ trưởng tới đấy… Chú ý! Bò bê… Tất cả nghiêm! Mọi người cười rộ cả lên. Tôi cố làm ra vẻ tự nhiên bước tới. Chào anh em!... Mọi việc ổn cả rồi chứ? - Xong cả rồi đấy anh ạ. - Bác Mạc lên tiếng trả lời thay mọi người - Ba xe chở cỏ khô. Năm xe chở gạch và xi măng vào cho đội Sáu xây lò đường. Riêng xe của anh Sức và xe của tôi thì chở phân đạm và vào xóm Trại cho đội Mười hai bón thúc ngô. Sau đó hình như chở gỗ từ đó ngược ra Sơn Tây giao cho nhà máy đường để đổi lấy mắm mari. Anh muốn đi với xe nào thì tuỳ. Ông thủ trưởng trước, dạo mới về cũng đã đi thử với tôi một chuyến! Nhưng chỉ được vài cây số thì ông ta bắt đầu ngáp, rồi gật, bập cả đầu vào thành xe. Tôi đành phải trải chiếu lên trên hàng cho ông ta ngả lưng. Nhờ giời, ông ta ngủ liền một mạch đến tận nơi trả hàng. Khi lay ông dậy, tôi nói đùa "Nếu tôi mà tiêu cực thì tôi bán quách cả thủ trưởng cho mấy con mẹ phe ngoài chợ Ba Trại rồi". Mọi người lại cười ồ lên. Tôi cũng cười theo rồi vỗ vai bác. - Thôi, thế thì tôi sẽ đi với bác và anh Sức. Nếu tôi ngủ dọc đường, hai bác cứ việc quẳng tôi xuống đường. - Lại nói cái chuyện ngủ - Bác Mạc hào hứng tiếp tục câu chuyện - Có lần đi chở than ngoài cảng Sơn Tây về đêm. Trăng thanh gió mát, xe cứ nhẩn nha lọc cọc lăn trên đường. Tựa lưng vào tải cỏ khô, tôi ngủ cha nó lúc nào chẳng biết. Đến khi mở choàng mắt ra thì… Quái! Đây là đâu thế nhỉ? Bỏ mẹ, đây đã tới gần đập Phùng rồi cơ à? Thì ra cái con mẹ này nó định kéo mình về Hà Nội chơi một chuyến chăng? Nghĩ đi nghĩ lại vẫn còn thấy may. Giá mà gặp thằng bợm nào nó trèo lên, xúc cha nó hết than có lẽ cũng chẳng biết. Vô phúc còn bị nó xịt ê-te cho mình lịm đi rồi tháo mất bò như ông Sáu Đỗ ngoài Sơn Tây thì cũng đành chịu chứ biết làm sao? - Năm ngoái anh Sức đã chẳng chơi cho cái bọn mất dạy ấy một vố ra trò ấy à? - Cậu thanh niên đội mũ cói rộng vành lên tiếng - Xe anh ấy chở phân đạm từ Sơn Tây về, đến quá dốc Đồi Thông, đang mơ mơ màng màng thì bốn thằng ập tới. Chúng dí dao găm vào cổ anh và đòi anh phải để cho chúng lấy vài tải đạm. Cưỡng lại thì chúng đâm chết ngay. Anh Sức rất khôn ngoan liền bảo chúng "Các ông đã định lấy thì cứ khuân tất cả xuống rồi trói tôi lại. Sáng mai có người đi qua, tôi sẽ kêu họ cởi trói lập biên bản. Chứ các ông chỉ lấy một vài bao rồi tha tôi thì về cơ quan tôi cũng đến chết". Bọn kia tưởng chuyến này "trúng quả", máu tham liền nổi lên. Thế là chúng bảo anh dừng xe, rồi ì ạch khuân hàng xuống. Chúng tưởng gặp phải anh chàng yếu đuối nên càng chủ quan chẳng đề phòng nữa, xúm cả lại bốc hàng. Thế là anh Sức lựa lúc chúng sơ hở, rút được cây gậy cài bên thành xe rồi nhảy bổ tới phang cho hai thằng gần nhất mỗi thằng một gậy gục ngay tại chỗ. Hai thằng còn lại hốt hoảng tháo chạy. Anh trói gô hai đứa bị đòn lại, quẳng lên xe rồi đưa vào giao cho một đơn vị bộ đội đóng quân gần đó. Mấy hôm sau công an tóm được nốt hai thằng còn lại. Hồi đó nhà báo chả về tận nơi phỏng vấn, rồi chụp ảnh, viết bài đăng trên báo là gì? - Có, tớ có đọc bài báo ấy - Một anh khác vội chen vào - Phải nói bài báo viết rất hấp dẫn ly kỳ. Nhưng… tớ không khoái cái đoạn anh Sức nghĩ. Lúc ấy thì làm quái gì mà nghĩ được nhiều thế? Thậm chí lại còn nghĩ đến cả mấy chục héc-ta ngô, lạc của nông trường đang chờ phân nữa? A… anh Sức đây rồi! Này, lúc ấy anh có nghĩ lắm như thế không anh Sức? - Nghĩ gì? - Sức vừa bước tới nên chẳng hiểu mô tê gì cả - cho mình mượn cái điếu..

<span class='text_page_counter'>(25)</span> Chuẩn bị đi thôi chứ còn gì. Bò bê nó đang dậm chân dậm cẳng ầm ầm lên kia kìa. - Bọn tôi đang kể cho xếp mới nghe cái tích anh đánh cướp cứu tài sản xã hội chủ nghĩa đấy. Cậu thanh niên đội mũ rộng vành vừa nói vừa khẽ nháy mắt - Hôm nay thủ trưởng sẽ tiếp tục đi sâu đi sát để tìm hiểu đồng chí chiến sĩ thi đua của đội xế bò ta đấy. Sức quay lại, nhìn thấy tôi anh khẽ gật đầu thay cho câu chào rồi hỏi. Anh định vào đội xóm Trại à? Vâng, tôi muốn đi với anh một chuyến. - Được, xin mời anh - Sức trả lời sau khi rít một hơi thuốc lào - Anh lên xe tôi, bò của bác Mạc hôm nay không được khoẻ lắm đâu. Anh em đánh xe cũng vội vã trở về xe của mình. Tiếng giục bò vang lên. Tiếng bánh xe lăn trên con đường rải đá lọc cọc. Một hồi kẻng đổ rền báo giờ làm việc buổi sáng đã đến. Các cô trong đội trồng dừa từ ngôi nhà tập thể túa ra đường. Cô nào cô nấy nai nịt như thể sắp bay vào vũ trụ: Chân đi giày ủng, tay đeo găng bảo hộ lao động, khăn trùm đầu trùm cổ kín mít, chỉ có hai con mắt là các cô vẫn phải để cho nó lóng lánh, liếc ngang liếc dọc nhoay nhoáy. Chẳng bù cho lính của tôi, mười người thì tới sáu bảy người ở trần phơi ra những mảng lưng, mảng ngực đen cháy, những bắp thịt cuồn cuộn. Vậy mà cái duyên bóc trần ra ấy của "Lính xế bò" vẫn buộc các cô phải để mắt tới. - Ê… Này các em đội dấm dớ… A quên, đội giồng dừa chứ nhẩy! - Cậu đội mũ rộng vành ngồi ngất ngưởng trên chiếc xe chở cỏ khô vung roi hét lên. - Muốn ăn cơm tám với giò, lại đây mà ủn xe bò với anh. Nào…! Anh Phong ơi! Cho bọn em ngồi ca-bin xe bò với nào. Lên đây! Lên đây. Ca-bin của anh đây thì êm hết xẩy!. - Nhưng mùi nước đái bò… khai lắm! Các cô cùng cười ré lên khiến anh chàng đội mũ rộng vành cứng họng, mắt đỏ phừng lên. Bị hố với các em, anh ta đâm cáu, hai cái mông bò bị vụt lia lịa một hồi. Nhưng… chỉ một lát sau đã thấy anh ta nằm ngửa trên đống cỏ khô, vừa dứ dứ cái roi lên trời vừa hát vang lên. Ra đến ngã ba, mấy chiếc xe chở cỏ khô rẽ lối khác. Xe của Sức và của bác Mạc nhằm thẳng vào hướng Ba Vì đi tới. Trước mắt chúng tôi là những đồi cỏ sữa của trung tâm bò giống Môn-ca-đa, thứ cỏ có sức sống mãnh liệt và có hương vị đặc biệt do nước bạn Cu-ba giúp ta gây giống và gieo trồng. Vào ban đêm, mùi cỏ bị nắng nung khô tái, suốt ngày toả ra mùi hương nồng say, thấm đậm trong không gian, khiến bất kỳ ai đi qua đây cũng thấy nao lòng. Buổi sớm, sương còn đọng long lanh trên những ngọn cỏ, hương thơm vẫn nồng nàn khiến ta cứ ngỡ chính những giọt sương kia đã toả ra cái hương vị lạ lùng ấy! Nhưng rồi mặt trời lên, sương tan. Sự hào nhoáng của những giọt sương mỏng manh tan biến ngay dưới ánh ắng mặt trời nhưng hương cỏ thì vẫn nồng đượm, vẫn lắng đọng, quanh quất đâu đây, êm dịu luồn lách vào tận da thịt, như nhắc ta đừng bao giờ quên cái hương vị diệu kỳ này. Nhưng làm sao có thể quên, dù chỉ một lần qua đây? - Buổi sáng thật tuyệt vời, phải không anh Sức? Tôi hỏi và đợi câu tán đồng của anh. Nhưng hình như anh không nghe tiếng, như quên cả sự có mặt của tôi trên chiếc xe này. Mắt anh nhìn đăm đắm như bị hút vào một điểm nào đó ở phía trước. Gương mặt anh lúc đó thật đẹp. Một vẻ đẹp đầy nam tính, khoẻ khoắn, góc cạnh và lộ rõ vẻ từng trải, dày dặn nhưng chưa hề chai sạn. - Anh có thuốc lá không? Anh hỏi khẽ và vẫn không nhúc nhích. - Có đây. Tôi trả lời rồi vội rút bao thuốc lá trong túi ra đưa cho anh. - Cám ơn! Anh nói khẽ khi điếu thuốc đã bắt lửa. Sau đó anh lại im lặng. Anh ngậm điếu thuốc trên môi và lặng lẽ hút, lặng lẽ nhả khói, không một lần nhấc ra khỏi môi cho đến khi điếu thuốc chỉ còn một mẩu nhỏ anh mới thổi phù một cái cho mẩu thuốc bay ra vệ đường. - Anh nghiện thuốc lắm, phải không? Tôi hỏi khi nhìn thấy cung cách hút sách lạ lùng ấy của anh. - Không. Tôi không nghiện bất cứ thứ gì. Nhưng thứ gì cũng chơi được tới cùng như bất cứ một kẻ nghiện ngập chính cống nào..

<span class='text_page_counter'>(26)</span> - Anh đã từng là lái xe mà - Tôi nói như để thừa nhận sự sành sỏi của anh. Nhưng anh lại cười khẩy. - Chắc ông Phục trưởng phòng tổ chức đã kể cho anh nghe đủ điều xấu xa về tôi, phải không? Tôi gật đầu xác nhận điều đó vì tôi biết, trước những người như anh mà nói dối là một sự ngốc nghếch. Nhưng anh có tin không? Không. - Thế thì anh lầm rồi. Tất cả những điều ông ta nói về quá khứ của tôi đều đúng cả đấy. Ông ta biết rất kỹ và nhớ rất dai - Anh bỗng cười vang rồi sôi nổi nói tiếp - Có điều… chưa bao giờ ông ta hiểu đúng tôi cả. Ông ta là một người… Biết nói thế nào nhỉ? Có thể nói là một người trong sạch, tận tuỵ và rất nghiêm khắc. Ông ta có thể ngồi miệt mài bên đống hồ sơ ngày này qua ngày khác, bất chấp giờ giấc, thời tiết, ngày nghỉ hay ngày lễ… Và nếu anh đến xin việc chẳng hạn, vô phúc lại tưởng ông ta cũng giống như một số cán bộ tổ chức khác, mà định giúi cho ông ta một thứ gì đó, dù chỉ là một bao thuốc lá loại rẻ tiền thôi thì… anh sẽ hết đời! Ông ta sẽ liệt ngay anh vào danh sách những thằng vứt đi của xã hội. Chẳng thế mà, tuy đã từng là cán bộ tổ chức của một xí nghiệp vận tải, nghĩa là ngồi ở cái vị trí mà người ta có thể hái ra tiền, nhưng ông ta vẫn sống rất nghèo, rất thanh bạch, hàng ngày vẫn đi về bằng chiếc xe đạp mà ông cụ đẻ ra ông ra mua từ hồi còn thằng Tây kia. Về mặt ấy và về sự tận tuỵ với công việc, ông ta thật là một người đáng kính trọng. Nhưng ông ta có một cái lỗi, thậm chí là một cái tội nữa, là chỉ tin vào lý lịch, chỉ làm việc với những hồ sơ khô cứng chứ không tin vào con người với tất cả những cái tốt và cái chưa tốt của họ. Với ông ấy, chỉ có hai loại người, loại đã có tội, đã bị kỷ luật hoặc có lý lịch không trong sạch và loại hoàn toàn trong sạch, chưa có "phốt" gì bị ghi trong lý lịch hồ sơ. Với loại thứ nhất, ông ta coi như hoàn toàn khả nghi, không thể dùng được, phải lập tức tìm cách mà xéo đi cơ quan khác. Tôi cũng là người đã từng bị ông ta xếp vào loại này. Rất không may cho tôi là về tới tận cái xó xỉnh này tôi đã lại thấy ông ta lù lù ngồi đó rồi. Thực ra, sau khi bị kỷ luật, tôi cũng chẳng thiết tha trở lại làm một anh công nhân viên chức Nhà nước làm gì. Nhưng nhờ có ông phó giám đốc nhà này, ông Thức ấy mà, ông ta động viên, tạo điều kiện cho tôi vào làm việc ở nông trường, không phải vì ông ấy thấy tôi cần phải trở lại biên chế nhà nước để có miếng cơm manh áo. Ông ấy hiểu tôi, biết tôi hoàn toàn không phải người xấu, không có ích gì cho xã hội nữa. Được ông Thức khuyến khích, tôi làm đơn xin vào nông trường. Đến khi bước vào phòng tổ chức cán bộ, vừa nhìn thấy ông Phục, tôi đã phát ớn, định quay về. Nhưng tôi lại nghĩ. Thì đã sao? Nếu mình rút lui, chẳng hoá ra những ý nghĩ của ông ta về mình là vĩnh viễn đúng hay sao? Mình không thể trở thành người tốt, người có ích cho xã hội nữa hay sao? Nghĩ vậy, tôi cứ liều tiến tới. Dĩ nhiên ông ta ngạc nhiên, và ông ta kiên quyết không chịu chấp nhận tôi. Cuối cùng, có lẽ nể ông Thức nên ông ta tạm dẹp những nguyên tắc của mình qua một bên để hé cửa cho tôi trở lại làm anh công nhân. Nhưng… ông ta luôn luôn cảnh giác với tôi. Có lẽ ông luôn nghĩ rằng Sức này định tuồn vào để moi của Nhà nước một lần nữa đây. Ngay cả cái lần tôi đánh nhau với bọn cướp để cứu tài sản Nhà nước ấy mà ông ta vẫn nhìn hiện tượng ấy bằng cặp mắt cảnh giác. Tôi được anh em tín nhiệm bầu làm tổ trưởng, rồi chiến sĩ thi đua, ông ta cũng chưa tin, có lẽ ông ta nghĩ rằng tôi chuẩn bị một "cú" gì đây nên mới ra vẻ tích cực, liêm khiết đến thế? Anh thấy ông già ấy có kỳ cục không - Anh lại cất tiếng cười vang rồi kết luận - Tuy vậy, tôi không hề thù ghét ông ta. Vì, suy cho cùng, ông ta vẫn là một người tốt, một cán bộ tận tuỵ trong công việc và liêm khiết, trong sáng. Ông ta trong sáng ngay cả trong sự thành kiến một cách kỳ quặc với những người như tôi. Những lời kết luận của anh Sức về ông trưởng phòng tổ chức khiến tôi ngạc nhiên. Khi ngẫm nghĩ lại tôi hiểu và càng mến phục anh hơn. Tôi biết, trước mặt tôi là một con người có phẩm cách, có ý chí và nhân hậu. Cuộc đời của anh hẳn lắm thăng trầm, chỉ có sự từng trải mới tạo nên cho con người những phẩm chất ấy, mới giúp con người có khả năng để không ngộ nhận, để có thể phân biệt được những khoảng sáng và những vùng còn tối tăm trong mỗi con người. Tôi muốn biết về những thăng trầm ấy của cuộc đời anh vì tôi biết, ở đó những phẩm chất của anh đã được bộc lộ và thử thách. * * *.

<span class='text_page_counter'>(27)</span> Tuy vậy, tôi vẫn im lặng chờ đợi. Đã qua hết những đồi cỏ và bây giờ, trước mắt chúng tôi là những đồi dâu của nông trường dâu đồi. Ai là người đầu tiên đã mang cây dâu từ miền bãi lên vùng đồi cằn cỗi này nhỉ? Cũng là một cuộc cách mạng, một cuộc biến cải chứ đâu phải chuyện bình thường. Ấy vậy mà bây giờ cây dâu mọc xanh tươi ở đây, được chấp nhận ở đây một cách tự nhiên, như tạo hoá sinh ra vốn đã như thế. Người qua kẻ lại cũng coi sự có mặt của cây dâu kia ở đây là chuyện thường tình, chẳng ai biết tới sự trăn trở đau đớn của cây dâu và của những người lần đầu tiên đặt cây dâu xuống vùng đồi đá ong này. Anh Sức không phải là người sinh ra ở đây và cũng không phải vào đời bằng nghề đánh xe bò. Nhưng phải tới đêm hôm ấy, tôi mới được biết vì sao anh đã đến đây và trở nên gắn bó với vùng đất này. Lượt trở về xe chúng tôi chở gỗ ván xẻ. Chúng tôi gỡ mui xe ra, chất gỗ lên rồi trải chiếu nằm khểnh trên đó mà ngắm trăng, mặc cho đôi bò tận tuỵ và trung thành nhẩn nha kéo đi. Những lúc như thế này mới thấy nghề đánh xe bò cũng không phải tồi tệ gì. Có thể nói là thơ mộng ấy chứ. Suy cho cùng thì nghề nào mà chẳng có những lúc nhọc nhằn cay đắng và những lúc thảnh thơi nhàn hạ như những ông hoàng? Đêm nay chúng tôi là những ông hoàng. Ngửa mặt lên gặp một trời đầy trăng; xung quanh mặt đất ngạt ngào hương cỏ, hương cây, thuốc lá trong túi còn đủ hút tới sáng: nước chè đặc đầy hai bi đông và nếu đói bụng thì đã có một rổ khoai luộc chị em đội xóm Trại vừa biếu hồi chiều. Xe của bác Mạc nằm lại đợi sáng mai chở lợn về nông trường. Có lẽ vì thế mà tôi và anh Sức cảm thấy hoàn toàn được tự do. Chúng tôi có thể lang thang trên đường suốt cả đêm mà không bị ông già khó chịu và cẩn thận luôn miệng thúc giục. - Hồi còn lái xe ở Trường Sơn những đêm trăng như thế này thật quý vô cùng - Anh Sức bắt đầu câu chuyện khi xe chúng tôi ra đến đường lớn. Bọn mình có thể đàng hoàng chạy trên những con đường bị bom đạn địch cày xới tơi bời mà không phải dùng đèn. Bỏ nghề lâu rồi mà bây giờ cứ tới những đêm trăng như thế này tôi vẫn thấy nao nao cả người, cứ như sắp sửa nhảy lên xe mà phóng vù đi vậy. Anh chuyển sang lái xe dân chính từ hồi nào? - Năm bảy mươi sáu - anh kể. Như anh biết đấy, sau chiến tranh, người lính nào cũng bắt đầu nghĩ đến cuộc đời mình, đến cái tổ ấm của mình. Đó là lẽ tự nhiên. Tôi cũng vậy. Những năm còn là bộ đội Trường Sơn, tiếng là ở phía trước nhưng năm nào tôi chẳng có dịp ghé qua nhà vài ba lần. Nhưng đi thì đi, về thì về, tôi nào có để ý nhiều đến cái gia đình riêng nbỏ bé của mình. Hình như mọi cái đều ổn cả. Cái nhà do bố mẹ làm cho, dù là nhà lợp lá, nhưng vẫn còn có vẻ chắc chắn. Vợ đẻ sòn sòn ba năm đôi, nhưng "giời sinh voi giời sinh cỏ" các cháu vẫn lớn đều, vẫn có cơm ăn áo mặc, chứ có đến nỗi nào mà phải lo. Tuy vẫn chưa hơn cuộc sống thanh đạm của ông cha xưa bao nhiêu nhưng thời chiến, đòi hỏi nhiều làm gì. Vợ ở nhà vẫn phải vo vo véo véo mới đủ ăn, đủ mặc thật đấy nhưng thỉnh thoảng chồng còn ghé thăm nhà được trong khi chồng con người ta vẫn đi biền biệt, thế là mình hơn người rồi. Đòi hỏi gì nữa? Mình cũng vậy, sau bao ngày vào sống ra chết, được ra nhận hàng một chuyến, được tranh thủ ghé về thăm vợ thăm con, thế là nhất rồi, hơn người rồi. Đòi hỏi gì nữa. Cứ nghĩ, có lẽ cuộc đời chỉ cần thế này là đủ, miễn là không còn chiến tranh, không còn nay sống mai chết. Nhưng rồi chiến tranh cũng đến lúc chấm dứt. Cả dân tộc vui mừng, hể hả vài ngày, vài tháng rồi mỗi người phải tiếp tục cuộc sống riêng của mình. Hoà bình rồi, cũng phải thu xếp đời sống sao cho kha khá hơn một chút chứ. Vợ bắt đầu nhắc tôi chuyện nhà đã dột, giá như có tiền xây lên, lợp ngói thì tuyệt. Hợp tác đưa điện về, hoà bình rồi phải dần dần điện khí hoá nông thôn chứ. Nhưng có điện thì có nhu cầu về đồ điện. Chí ít cũng phải có cái đài cho con nghe, có cái quạt đỡ ngày nóng bức cho những đứa bé… Trong xóm đã có nhà người ta khuân được ti vi, tủ lạnh về rồi kia kìa. Mà họ cũng là cán bộ, bộ đội cả đấy chứ? Bấy giờ về thăm nhà mới thấy cái nghèo của mình lòi ra. Vợ con mình sống vất vả quá. Nhà cửa của mình loang toàng quá. Không thể thế này mãi được! Là cái thằng đàn ông, để vợ con nhếch nhác, thua kém mọi người đủ đường thì còn ra làm sao? Mình là bộ đội, làm gì thì làm thế nào được? Nhưng hà cớ gì mình phải ở bộ đội mãi nhỉ? Mà làm lính suốt đời được à? Hoà bình rồi, mình đã hoàn thành nghĩa vụ với Tổ quốc. Còn nghĩa vụ với.

<span class='text_page_counter'>(28)</span> gia đình thì… Thế là tôi viết đơn xin chuyển ngành. Đúng dịp đó đơn vị cũng đang thu gọn đội hình nên tôi được chấp thuận ngay. Hồi ấy bộ đội lái xe Trường Sơn có giá lắm nên tôi dễ dàng được tiếp nhận vào một xí nghiệp vận tải của Bộ Nội thương và được giao phụ trách một đội xe chạy đường dài. Tất cả dễ dàng như được sắp đặt từ trước vậy. Những tháng đầu chưa có chuyện gì xảy ra, tôi vẫn còn giữ được cái chất của một người chiến sĩ. Nói như cách nói của cánh lái xe dưới quyền tôi lúc bấy giờ là tôi vẫn còn "sặc mùi lính tráng". Tuy vậy thu nhập của tôi cứ tăng dần lên. Nhiều khoản phụ thu lạ lùng đến mức tôi không thể hiểu nổi, nhưng thực tình, cũng cố làm ra vẻ vô tâm, không tìm hiểu xem đồng tiền từ ngõ ngách nào mà cứ chảy về ngày một nhiều hơn. Có tiền tôi tiêu pha rộng rãi hơn, thỉnh thoảng gửi về cho vợ dăm ba trăm hoặc mua sắm một vài thứ cần thiết. Tôi cam đoan với anh rằng người ta làm quen với cái sự sung sướng, đầy đủ dễ dàng hơn làm quen với gian khổ, hy sinh rất nhiều. Chẳng bao lâu tôi đã không thể hút nổi một điếu thuốc rẻ tiền như chúng ta vừa hút và sáng nào không có một tách cà phê thì mồm cứ nhạt hoét và làm ăn sẽ chểnh mảng suốt cả buổi. Tôi càng khó tính trong ăn uống, hút sách bao nhiêu thì ngược lại, càng trở nên dễ tính hơn với những thói hư tật xấu của anh em trong đội bấy nhiêu. Bên tai tôi thỉnh thoảng đã vang lên lời khen ngợi của những người dưới thẩm quyền "Thủ trưởng của chúng ta dạo này chịu chơi lắm rồi!". Tôi cảm thấy yên tâm, khi lầm tưởng rằng mình đã hoà nhập được với môi trường mới. Nhưng rồi, cái ranh giới cuối cùng cũng phải đến. Một sợi dây mỏng manh đã giăng ra trên đường. Có bước qua cái sợi dây ấy hay không? Ở bên này có nghĩa là tôi vẫn ít nhiều còn là tôi. Còn nếu bước qua bên kia tôi sẽ trở thành một kẻ khác. Bấy nay, mặc dù có lờ mờ cảm thấy những khoản tiền "phụ thu" mà anh em trong đội thỉnh thoảng chia cho là tiền bất minh. Nhưng tôi vẫn lờ đi, coi như chưa biết gì. Đã đến lúc tôi phải đối mặt với chính tôi. Số phận đã định thế rồi. Lần ấy tôi trực tiếp đi với anh em một chuyến vào miền Nam với ý định sẽ kết hợp mua một vài thứ đồ điện về cho gia đình. Vào đến Vinh thì chúng tôi dừng lại nghỉ đêm. Tôi thấy mấy anh em lái xe thỉnh thoảng lại chụm đầu bàn bạc với cậu đi áp tải hàng. Họ bàn bạc có vẻ căng thẳng và thỉnh thoảng lại liếc mắt về phía tôi. Cuối cùng, một cậu đại diện cho họ quyết định trao đổi thẳng thừng với tôi. Sau khi rào trước, đón sau cậu ta cho tôi biết là trên xe "thừa ra" khoảng hơn chục kiện vải quý. Nghe mà kinh người! Tôi quyết định phải kiểm tra lại hàng và quả nhiên số hàng thừa trên xe hoàn toàn có thực. Mọi người đang chờ tôi quyết định "xử lý" số hàng thừa đó. Giá như nó chỉ có một ít thì họ có thể đủ gan để tự giải quyết rồi. Cái cậu được phân công vận động tôi không rời nửa bước. Cậu ta quả là có tài thuyết khách. Cậu ta vạch ra đủ mọi viễn cảnh khi chúng tôi có trong tay món tiền khổng lồ nếu đem "đẩy" số hàng ấy cho con buôn. Cậu ta hứa chuyến này vào Sài Gòn sẽ trực tiếp đi tìm mua cho tôi một tủ lạnh và một chiếc ti vi thật "nghiêm chỉnh". Cậu ta cũng không quên nhắc đi nhắc lại rằng với số tiền đó vợ con tôi có thể "tiến thẳng" từ cuộc sống còn chật vật thiếu thốn hiện nay lên một cuộc sống sung túc tiện nghi. Vả lại, có ma nào biết chứ? Hàng xuất ra khỏi kho rồi, chúng tôi cứ giao đủ cho nơi nhận theo hoá đơn, chứng từ là được rồi, ai biết đấy là đâu? Tôi đề nghị được suy nghĩ một đêm, sáng mai tôi sẽ quyết định. Tôi có biết đâu đó là cái đêm khắc nghiệt nhất, cái đêm tôi phải quyết định lấy số phận mình, nhân cách của mình. Cái đêm tôi phải quyết định có bước qua sợi dây ghê gớm kia không? Tôi nằm trằn trọc suy nghĩ. Đêm đó trong tôi có hai con người co kéo nhau, tranh cãi với nhau. Đó là cái người đích thực của tôi, và hắn, kẻ bấy nay còn xa lạ, mặc dù đã lảng vảng quanh tôi. Cuối cùng, hắn đã thắng. Tôi bước vào một ngày mới với bộ mặt hốc hác vì mất ngủ. Thực ra, không phải tôi đang bước đi mà hắn đã bắt được tôi làm tù binh và đang giải tôi đi. Trước khi hạ vũ khí, lý lẽ của tôi thật đơn giản. Thôi, ta chỉ làm một cú này thôi. Với số tiền ấy, ta đủ để xây cho vợ con cái nhà, mua sắm vài đồ dùng cần thiết và sau đó… sẽ không bao giờ ta làm bậy nữa. Nhưng thật không may cho tôi. Ở tổng kho, sau khi thấy mất hàng, họ đã rà lại tất cả các.

<span class='text_page_counter'>(29)</span> đầu mối đến nhận hàng và chú ý ngay tới đoàn xe của tôi, là đơn vị nhận hàng nhiều nhất ngày hôm đó. Ngay ngày hôm sau đoàn xe của tôi đã bị ách lại dọc đường để kiểm tra. Dĩ nhiên, người ta không thấy số hàng đó trên xe nữa. Nhưng… không hiểu sao tôi lại tin rằng cuối cùng người ta vẫn cứ tìm ra thủ phạm nên ngay sau khi các đồng chí công an và thanh tra của ngành ra lệnh cho đoàn xe của tôi tiếp tục chạy thì tôi đột ngột quyết định phải thú nhận tất cả. Tôi đã làm việc đó trước những lời xỉ vả của cánh lái xe. Mặc họ! Với tôi thế là hết rồi. Tôi được miễn truy tố vì hành động thành khẩn đó và… có thành tích trong kháng chiến chống Mỹ. Thật là điều nhục nhã! Tôi chỉ bị buộc phải thôi việc. Thế là… sau hơn chục năm làm chiến sĩ tôi đã trở về quê hương như một kẻ tội phạm. Ở làng, không hiểu vì sao mọi người cũng biết được chuyện ấy? Nhiều người nhìn tôi bằng ánh mắt khinh bỉ. Tôi cắn răng chịu đựng tất cả. Nhưng một hôm, tôi đang ngồi ở nhà buồn rũ rượi thì có một người lộc cộc chống nạng bước vào sân nhà tôi. Tôi sửng sốt kêu lên khi nhận ra đó là Thân, bạn chiến đấu cũ của tôi ở cuối huyện. Anh đã bị thương trong cái lần cùng tôi chở hàng vào Tây Thừa Thiên. Đã lâu lắm tôi không gặp anh, sao hôm nay anh lại tự lần tới tận nhà tìm tôi? Tôi chồm dậy, định chạy ra đón anh thì anh đứng sững lại, cầm cây nạng chỉ thẳng vào mặt tôi mà hét lên: "Đồ hèn! Sức dài vai rộng làm gì không nuôi nổi vợ con mà phải đi ăn cắp!". Tôi chết điếng người, chưa kịp định thần thì anh đã quay mặt, lộc cộc chống nạng đi thẳng. Tôi lao vội theo anh, rên rỉ "Anh Thân! Ở đây đã… tôi muốn… tôi muốn nói…" "Thôi im mồm đi! - Anh quay lại quát - Tao lặn lội đến đây chỉ để nói với mày một câu thế thôi. Để yên cho tao đi không tao phang cho một gậy bây giờ!". Nhìn thẳng vào đôi mắt bừng bừng lửa giận của anh tôi phát hoảng. Và, tôi không đủ sức để giữ anh lại nữa. Sau cú đó tôi gục xuống ốm một trận thập tử nhất sinh. Tất cả mọi thứ bệnh tật trong chiến tranh tưởng đã nằm yên trong người tôi bỗng ầm ầm trỗi dậy. Tôi nằm bẹp suốt hai tháng giời. Vợ tôi tất bật ngược xuôi chạy thuốc chạy thang. Những thứ tôi mua sắm về được lần lượt "đội nón ra đi". Thật là của thiên lại trả địa. Năm đó lại đúng vào năm mất mùa. Nhà tôi hết ăn ngay từ trước tết nhưng vợ tôi vẫn tần tảo chạy vạy ngược xuôi để bố con tôi vẫn có bữa rau bữa cháo. Ăn miếng cơm của vợ mà nước mắt tôi cứ trào ra. Lời xỉ mắng của Thân như một vết khắc bằng lửa vào tim tôi. Nhục nhã, ê chề quá phải không anh? Nhưng rồi tôi khỏi bệnh. Cùng với sự chiến thắng bệnh tật, một ý nghĩ lúc nào cũng thiêu đốt lòng tôi: "Ta phải tự tay ta làm nên tất cả. Phải chứng minh với mọi người rằng thằng Sức này không phải đã hoàn toàn bỏ đi, không phải chỉ ăn cắp mới sống được, mới nuôi được vợ con!" Bằng cách gì tôi chưa biết nhưng tôi quyết định phải chứng minh được điều ấy. Anh Sức đột ngột dừng câu chuyện ở đó rồi cho bò dừng lại nghỉ. Sau khi ném cho đôi bò một ít cỏ khô, anh lấy chiếc chiếu trên xe xuống, trải ra vệ đường rồi bảo tôi: - Ta lót dạ vài củ khoai chứ. Các cô đội xóm Trại nổi tiếng mát tay đấy. Khoai của họ ngọt lừ. Anh ăn thử vài củ đi cho vui. Chúng tôi ngồi bên vệ đường, vừa ăn khoai luộc, uống nước chè tươi đặc sánh, vừa ngắm trăng. Câu chuyện của anh Sức vẫn còn ám ảnh tôi nên tôi ăn uống không thấy ngon miệng nữa. Hình như biết tôi sốt ruột, một lát sau anh lên tiếng kể tiếp: - Sáng mai mời anh ghé thăm "trang trại" của tôi. Cái gì chớ sắn, khoai, lạc, đỗ thì chỗ nào trong nhà tôi cũng có. Cũng đã có lần ông Phục ghé thăm nhà tôi. Dĩ nhiên, ông đã nhìn cơ ngơi của tôi bằng con mắt ngờ vực. Sao cái thằng quái này lại giàu có thế này. Trông cứ như cơ ngơi của một thằng địa chủ vậy. Với ông ta, tôi chẳng thể giải thích gì được. Nhưng với anh thì… tôi muốn kể cho anh nghe để anh hiểu. Bởi vì, anh là đồng đội của tôi. Không gì có thể đáng buồn hơn là bị đồng đội nghi ngờ, phải không anh. - … Sau khi khỏi bệnh - anh Sức kể tiếp - tôi quyết định ra đi. Nhiều hôm tôi nằm trên chiếc chõng tre ngoài thềm, nhìn lên ngọn Ba Vì này và nghĩ rằng ở đây vẫn còn nhiều đất, hẳn tôi có thể bằng sức lực và trí thông minh của mình làm ra ngô lúa, sắn khoai, tạo dựng được cơ nghiệp. Tôi tin như vậy và quyết định ra đi. Trước khi đi tôi đến gặp Thân. Thấy tôi đến anh không nói một lời mà chỉ lẳng lặng đi pha nước mời tôi uống. Nhưng tôi không uống, mà cũng không ngồi xuống nữa. Tôi nói luôn: - "Anh Thân ạ. Tôi biết anh rất giận tôi. Nói cho đúng ra anh rất thương tôi, anh chỉ căm ghét những gì xấu xa trong tôi thôi. Vì vậy, tôi đến để gặp anh không phải để thanh minh mà yêu cầu anh.

<span class='text_page_counter'>(30)</span> giúp đỡ. Lúc này các cháu đang đói, tôi đang gặp khó khăn. Nhưng tôi sẽ nghe lời anh, sẽ bằng sức lực và trí tuệ của mình để làm nên cơm áo nuôi vợ nuôi con và trở thành một người có ích cho xã hội. Để có thể bắt đầu, tôi muốn anh đỡ đầu tôi ít nhiều làm vốn liếng! Tôi không đi buôn đâu. Nhà tôi sẽ lên núi - Tôi vừa nói chỉ lên Ba Vì - ở đó, với bàn tay này tôi có thể làm nên tất cả". "Nếu vậy thì được - Anh Thân gật đầu và dịu giọng Tôi sẽ không tiếc anh bất cứ cái gì nếu tôi có. Vậy, anh cần gì". "Anh cho tôi vay đỡ hai chục cân gạo và hai trăm đồng bạc. Có vậy thôi. Tôi cũng nói trước rằng số tiền gạo này có thể còn lâu tôi mới hoàn lại cho anh được". Thân gọi vợ vào bảo xúc cho tôi hai chục cân gạo và đưa ngay cho tôi hai trăm đồng bạc. Tôi xin phép đi ngay mặc dù anh cố giữ tôi lại. Số tiền, gạo ấy tôi chia đôi, một nửa mang về cho vợ con, một nửa mang theo. Hành lý của tôi gồm hai bộ quần áo bộ đội đã cũ, một bộ tăng võng, một chiếc ca men bộ đội, một con dao và một cái cuốc. Ngoài ra còn phải kể đến chiếc xe đạp tồng tộc và một gói thuốc sốt rét nữa chứ. Tôi cũng không nói cho vợ con biết rằng mình sẽ đi đâu, làm gì. Vợ tôi vốn rất tin tôi nên cũng chẳng giữ, chỉ dặn tôi chú ý giữ gìn sức khoẻ và giúi cho tôi một hộp dầu cao sao vàng đề phòng khi cảm mạo, ốm đau. Thế là tôi đến với Ba Vì. Vùng này, như anh biết đấy, cũng không phải hoang vu gì. Đất đai đã được khai phá nhiều chỉ còn những nơi đất đã bạc màu hoặc ở thật sâu trong các khe núi, hoặc dưới trầm trũng. Tôi đạp xe đi "kiểm tra" suốt một lượt dọc theo các con đường mà chiếc xe tồng tộc có thể đưa tôi tới được. Sau đó tôi nghĩ, nếu một mình, với vốn liếng nhỏ nhoi này mà lao vào "làm ăn lớn" ngay thì sẽ gãy. Phải vừa làm vừa tự kiếm sống và thỉnh thoảng gửi được chút ít gì về để đỡ đần vợ con. Thế là tôi chọn được một phương án cực kỳ khôn ngoan. Tôi không lao vào núi mà lại đạp ngược trở ra tận ngoài dốc Đá Bạc rồi bắt đầu triển khai công việc. Cứ dọc theo hai bên đường từ đó vào tận chân núi, hễ nơi nào còn một vạt đất có thể đặt được trăm gốc sắn là tôi dừng lại, phát cỏ dọn dẹp qua loa rồi đi xin hom sắn về đặt. Những thẻo đất như thế thường còn rất nhiều ở hai bên đường, không ai chú ý tới vì chẳng bõ công. Nhưng với tôi thì lại khác. Nó đỡ tôi được bao nhiêu công sức trong việc khai phá. Hàng ngày tôi vừa trồng sắn vừa đi mót sắn được ít nào tôi cũng thái luôn rồi quẳng lên đường nhựa. Cứ như thế, hai ba tuần tôi cũng có được một hai tải sắn khô mang về cho gia đình ăn độn và chăn nuôi. Đồng thời, mỗi tuần tôi cũng đặt vào lòng đất được vài ngàn hốc sắn. Dọc theo đường quốc lộ và ven những triền đồi từ Sơn Tây vào Ba Vì nơi nào tôi cũng có sắn. Chỉ có điều không bao giờ có nương lớn cả. Ấy vậy mà trong năm đầu tôi đã có gần ba vạn hốc sắn chứ không ít ỏi gì đâu. Đôi khi gặp phải trằm bùn sụt tới bụng, đất rất tốt nhưng không ai nghĩ đến chuyện cấy lúa. Thế thì tôi làm. Tôi đi đẵn cây chuối về, ghép thành những cái bè rồi đi xin mạ. Tôi thả bè xuống mặt trằm rồi cứ ngồi trên đó mà cắm mạ xuống. Những người địa phương nhìn thấy tôi cấy lúa trằm, ai cũng lắc đầu le lưỡi. Nhưng trời ơi, lúa ở những nơi ấy mới tốt làm sao! Mà nào có phải phân gio, cỏ giả gì đâu. Có ai ngờ tôi đã thu được một tấn lúa ở những cái trằm như vậy. Hàng ngày tôi làm việc say sưa. Tối đến, bạ đâu tôi ngủ đấy. Khi thì ngủ trọ trong nhà dân, khi thì treo võng nằm ngoài rừng. Dần dần, suốt một nẻo từ Đá Bạc vào Ba Vì ở đâu người ta cũng biết tôi. Lúc đầu người ta cứ nghĩ rằng tôi là một thằng ngớ ngẩn. Nhưng dần dần họ hiểu tôi và nhiều người đã coi tôi như bạn bè. Tôi có thể đi về, ăn ngủ, gửi thóc lúa sắn khoai ở nhà họ bất kỳ lúc nào. Những ngày lang thang, gối đất màn sương ấy với tôi thật đáng ghi nhớ suốt đời. Anh thử tưởng tượng những đêm tôi treo võng nằm ngoài nương một mình, buồn tới mức nào? Nhưng tôi không hề nản, vì tôi tin ở ý chí của mình, tin ở bàn tay và khối óc của mình. Tôi biết trước mắt, tôi chưa có ích cho xã hội, nhưng tôi đã có ích cho gia đình. Vợ con tôi đã đỡ chật vật hơn nhờ kết quả lao động của tôi. Tới vụ thu hoạch sắn anh có biết tôi làm thế nào không? Cũng là một thứ ranh vặt thôi. Tôi bán cứ một đồng một gốc, cho dân xe thồ. Sắn của tôi hầu hết ở bên vệ đường, nên rất dễ bán. Còn đâu chưa bán được tôi thái phơi khô gửi khắp nơi. Lúa cũng vậy, tôi chỉ gửi về cho các cháu vài ba tạ, còn gửi thiên hạ tất. Thế là chỉ một năm, tôi đã có một vốn bốn liếng.

<span class='text_page_counter'>(31)</span> đáng kể để có thể tiếp tục "sự nghiệp" của mình rồi. Nhưng có được như vậy thật gian khổ, đôi khi phải chịu nhẫn nhục, cay đắng nữa. Tôi đã vượt qua được tất cả. Tôi bắt đầu nghĩ đến chuyện đưa vợ con lên định cư ở vùng này. Quê tôi là một vùng đồng chiêm trũng, lụt úng liên miên, dân số lại quá đông nên làm ăn rất chật vật. Nhưng, chỉ mới hé răng nói ra một câu, vợ tôi đã gạt phắt đi. Rồi một dịp may tới, khiến tôi buộc phải quyết định một bước ngoặt lớn của cuộc đời. Tình cờ tôi làm quen được với ông chủ tịch xã cái xã mà hiện nay tôi đang ở. Trước ở đây ông ta đã từng chỉ huy một đội thanh niên xung phong của huyện ở hoả tuyến nên rất thông cảm với cánh lính Trường Sơn chúng tôi. Ông ta vận động tôi xin lên định cư ở xã nhà và hứa sẽ giúp tôi tạo dựng cơ nghiệp. Tôi đồng ý ngay và về xin phép xã để đưa gia đình đi định cư. Xã đồng ý, nhưng vợ tôi nhất định không chịu đi. Tôi quyết định bước đầu hãy đưa đứa con lớn lên trước. Khi bố con tôi dắt nhau lên trên này, chính quyền địa phương liền "cấp" hẳn cho một quả đồi. Ngày mai anh sẽ thấy các vị trong chính quyền địa phương ở đây hào phóng tới mức nào. Nhưng lúc đầu hai bố con tôi ra đứng ngắm khu đồi được chia mà ngao ngán cả người. Đồi trọc lóc, chỉ lơ thơ vài cây sim mua, đất đá ong trơ ra đỏ quạch. Nhưng tôi không ngán, vì tôi biết không có thứ đất nào lại là đất bỏ đi cả. Suốt mấy tháng trời hai bố con tôi xoay trần ra, đánh vật với quả đồi ấy. Trước tiên tôi đào một con hào chạy vòng quanh quả đồi để dẫn nước vào, bởi vì tôi biết muốn cải tạo đất, muốn phủ xanh đồi trọc thì trước hết phải có nước cái đã. Đào xong hào thì số đá ong vật lên cũng đủ để hai bố con tôi xây dựng cả một "lâu dài" rồi. Ngày mai anh tới sẽ thấy, mấy ngôi nhà của tôi đều xây bằng đá ong vật từ con hào quanh đồi lên cả đấy… Bây giờ con hào ấy vừa là nơi chứa nước, vừa là nơi thả cá thả lươn của gia đình tôi… Hai bên bờ hào tôi trồng dừa, trồng chuối và đủ các loại cây ăn quả. Ngày mai mời anh ghé qua, thưởng thức những thứ cây nhà lá vườn ấy với tôi cho vui… Nhưng thôi… ta đi chứ? Ngồi lâu quá có lẽ bò nó buồn ngủ rồi đấy. À, đôi bò này tôi cũng mua vào dịp ấy đấy. Hồi ấy không đắt như bây giờ. Khi bố con tôi dắt về năm sáu con bê một lúc nhiều người đã kêu ầm lên là bố con tôi giàu ngầm. Nhưng hồi đó có đáng bao nhiêu, chỉ dăm tạ lúa là đủ. Vậy mà khi bán lại hai chú này cho nông trường, tôi đã được lời gấp mấy lần rồi. Mà bán với giá rẻ chứ đâu có bán đắt như ngoài chợ. Nào các chú mày dứng dậy cả đi chứ! Gối mỏi chân chồn rồi hả! Đường còn xa đấy chứ đừng có tưởng giỡn nhé! * * * Sáng hôm sau, trên đường từ Sơn Tây về tôi đã trở thành một vị khách quý của gia đình anh Sức. Tôi sững sờ đứng trước cái cơ ngơi rất khang trang mà gia đình anh đã tạo lập nên do bàn tay lao động của mình. Một ngôi nhà năm gian xây bằng đá ong rất cao ráo và thoáng đãng. Ngoài ra còn chuồng lợn, chuồng gà, chuồng bò và các công trình phụ. Toàn bộ quả đồi sau nhà anh đã được phủ xanh bằng chè, dứa, mía, và các loại cây ăn quả. Trước cửa nhà là khu vườn toàn là giống mận Lạng Sơn, có lẽ chỉ năm tới là bói quả. Khi tôi bước vào cổng, hai đàn lợn nái gần hai chục con, nghễu nghện diễu qua trước mắt như để giới thiệu với tôi sự chuyên cần của chủ nhà. Chỉ tính sơ số lượng ấy sắp sửa cho anh hơn chục ngàn bạc rồi. Anh Sức chỉ đàn lợn, rồi cười: - Giống của nhà bác Thân đấy, anh ạ. Năm kia lên thăm tôi, bác ấy phê bình kịch liệt tôi về cái chuyện không nuôi lợn nái trong khi ở đây thức ăn rất sẵn. Khi trở về, bác cho cậu em trai mang ngay lên cho tôi một đôi lợn giống. Bây giờ thì anh thấy đấy, hai đàn lợn ấy sẽ giúp tôi bao nhiêu việc. Trước hết tôi phải mua một cái máy bơm nước, phải có máy bơm thì mới có thể mở rộng diện tích cây ăn quả được, anh ạ. Suốt buổi sáng, tôi đi thăm vườn tược, cây cối, đàn gia súc của anh Sức. Gần trưa hai anh em tôi ra con hào đánh cá trắm cỏ về cho chị Sức làm cơm. Tôi không được biết vào cái đận anh Sức bị kỷ luật trở về, rồi lăn ra ốm, chị vất vả ra sao? Nhưng bây giờ chỉ nhìn qua cũng biết ngay rằng chị hài lòng với cuộc sống hiện tại của mình..

<span class='text_page_counter'>(32)</span> - Tôi đi làm ở nhà cũng lấn bấn đấy, anh ạ! - Anh Sức nói khi chúng tôi đã ngồi xuống bộ bàn ghế sa lông còn thơm mùi gỗ - Việc nhà đã bận, lại còn việc hợp tác. Thằng cháu lớn thì vừa đi bộ đội. Cũng lại được đi học lái xe. Không khéo lại giẫm phải vết chân của bố thì chẳng ra làm sao. Trước hôm cháu đi, bố con tôi thức gần hết đêm. Tôi đã nói hết lẽ đời với cháu. Cũng chẳng giấu cháu điều gì về quá khứ của mình để cháu tự rút lấy bài học mà vào đời. Nhưng có lẽ cháu nó khá, anh ạ. Điều cơ bản là nó ý thức lao động, có ý chí, có lòng tự trọng và biết tôn trọng mọi người. Hồi mới vào bộ đội, tôi đâu có hiểu biết nhiều và chín chắn được như nó. Anh trông kia kìa - Anh chỉ lên một tấm ảnh lồng trong khung kính - Tôi với bác Thân chụp chung hồi vừa học xong khoá lái xe đấy. Nom cái mặt tôi mới ghét chứ, cứ câng câng ra ấy! Tôi chăm chú nhìn bức ảnh hai người lính mà nhận ngay ra anh Sức, mặc dù anh và người lính trong ảnh chẳng còn mấy nét giống nhau. Thời gian và những nỗi gian truân vấp váp trên đường đời đã biến anh lính vô tư có đôi mắt nhìn ngước lên như thách thức với tất cả kia thành một người từng trải, dày dạn và rất hiểu mình. Đôi mắt của người đang ngồi trước mặt tôi đã thoáng xuất hiện sự mệt mỏi như đôi mắt của một người vừa đi bộ qua một chặng đường nhiều đèo dốc. Tuy vậy, đôi mắt ấy vẫn ấm áp, nhân hậu, tự tin và đôi khi vẫn ánh lên những tia sáng của một nghị lực sắt thép mà chúng ta vẫn thường nhìn thấy trong ánh mắt của những người chiến sĩ. Hoa tay Thứ sáu, 31 Tháng 7 2009 09:55. - Cậu chuẩn bị để cùng tôi thay mặt dân phố đi thăm tết thằng Chiến, nghe. Ông Thế, tổ trưởng khu phố nói với tôi vậy. Tôi đã có kế hoạch Nguyên Đán này đi rong ở miệt vườn, đón giao thừa trên trên sông Tiền, ngày mai lên đường rồi, chẳng lẽ dừng lại để đi tìm thăm tết một người dưng ở heo hút rú khe? Tôi bèn tìm cách nói khó: - Nào đã biết đích xác anh ta ở đâu mà thăm thú. - Hắn ở xã Lộc Tấn, huyện Lộc Ninh? Cứ đến ủy ban xã là lần ra được nhà cái thằng vừa ra khỏi nhà đá ấy, bây giờ các địa phương quản lý dân nhập cư chặt lắm. Cậu cũng nên đến xem hoa tay của anh ta độ này ra sao? Nếu tiện, ta xin một câu đối về chưng tết, thú vị lắm đó. Tôi suýt reo lên, đâu ngờ ông tổ trưởng dân phố cục mịch quê kiểng của chúng tôi vẫn nhớ đến tài viết chữ của anh Chiến. Ngày còn ở khu phố này, cứ đến áp Nguyên Đán là anh Chiến biếu những gia đình thích chơi chữ mỗi nhà đôi câu đối, hay bài thơ, hoặc một câu lời vàng ý ngọc, được lồng trong khung kính để chưng tết. Anh viết chữ theo kiểu thư pháp, rồng bay phượng múa, vô cùng tài hoa, nhiều người gọi là tranh chữ của thầy Chiến. Dân ta vốn trọng người có chữ nên họ gọi Chiến là thầy. Không biết từ lúc nào người ta đồn ba ngày tết thờ tranh chữ của Chiến sẽ gặp may mắn cả năm nên cứ đến gần tết là dân khu phố đến xin chữa anh về trưng ở khách. Ông Thế nói tiếp: Cậu với thằng Chiến cùng quê, phải không? Đúng vậy, Chiến sinh ra ở làng Thịnh Văn, cách làng Phúc Nghĩa của tôi đâu ba cây số, nhưng tính khí dân hai làng khác nhau lắm. Dân làng tôi thích làm việc nặng, bạt núi dựng nhà, khai khẩn những triền đồi trọc sim mua thành đất trồng sắn, chè, ngăn sông đắp đập, đào kênh, mương dẫn nước vào ruộng. Cái làng Thịnh Văn của Chiến làm nghề thủ công, đan lát thúng mủng, dần sàng, và nổi tiếng ham học, trong lúc tay cài đan, mắt vẫn liếc trang sách để bên, miệng vẫn gieo vần, nối thơ, ra câu đối cho nhau. Đó là một địa chỉ văn hóa, một trong những làng học của xứ Nghệ. Ngày trước những ông thầy ở Thịnh Văn biết luyện cho học trò thi đậu nên nhà giàu ở các làng trong huyện,.

<span class='text_page_counter'>(33)</span> trong tỉnh thường đưa con đến đó học. Dân làng quan niệm, lập thân trước hết phải luyện chữ, chữ viết thể hiện tính cách con người. Hàng năm, vào ngày rằm tháng giêng, làng tổ chức thi viết chữ đẹp. Ngoài việc làm vườn, người có học trong làng thường viết câu đối để bán ở chợ Gôi, chợ Choi trong dịp xuân về, tết đến. Chữ của những ông đồ làng Thịnh Văn hay đến độ các ông đồ huyện khác khâm phục. Những năm học phổ thông, nhiều phen Chiến đoạt giải thi viết chữ đẹp. Vào bộ đội, Chiến chỉ làm mỗi một công việc là viết giấy khen thưởng, trang trí hội trường. Nói theo ngôn ngữ của lính là nghề đóng đinh leo thang. Chiến đóng quân ở đâu, dân ở đó đều có những bức trướng viết theo kiểu thư pháp để chưng treo ở nhà. Phòng khách mà có một bức trướng bằng chữ thảo một bài thơ nổi tiếng nào đó thì sang hẳn. Người có học vị cao trong khu phố tôi đều nói vậy. Cuộc đời anh Chiến thăng hoa nhờ viết chữ đẹp. Nét chữ của anh làm mê mẫn bao nhiêu người. Một cô gái đẹp ở Bình Dương, tên là Lệ, đã bị chữ anh viết hút hồn, đã vượt qua sự ngăn cản của cha mẹ, sự đàm tiếu của bạn bè, ôm đồ áo đến làm tình nguyện làm vợ anh. Nghe đâu thời gian đầu mới sống với nhau, thỉnh thoảng chị lật bàn tay anh xem chỉ và lấy làm hãnh diện vì tài viết chữ đẹp của chồng. Chơi chữ, chưng chữ, thờ chữ, đó là thời chữ nghĩa đang được quí, còn bây giờ thời cắt chữ bằng máy vi tính liệu có ai treo chữ trong nhà? Hơn thế, đánh đường đi vài trăm cây số để xin câu đối về chưng tết, có mà khùng! Như đoán được sự ngần ngại của tôi, ông Thế dồn tiếp: - Nhiều lần cậu lảng việc khu phố giao, bà con không bằng lòng đâu. Cho cậu hay, sau này cơ quan cậu lấy ý kiến sự tín nhiệm của nhân dân địa phương với cậu đấy. Nghe ông nói vậy, tôi vội gật đầu: - Vâng, vâng, để tôi đi. Tôi biết có từ chối cũng không xong với ông tổ trưởng dân phố này. Mỗi khi ông bấm chuông nhà nào là biết tiền phải ra khỏi nhà rồi. Sống ở phố phải đóng góp thường xuyên, nào là quĩ dân phòng, xóa đói giảm nghèo, làm nhà tình thương, ủng hộ vùng bị thiên tai. Thôi thì đủ thứ tiền. Mỗi khi nghe chuông cổng, ngó ra thấy dáng thấp đậm của ông đứng như cắm bên cửa chờ là liệu mà mở hầu bao. Ông nói về khoản thu như ra lệnh, đợi chủ nhân đưa tiền ra bằng được mới chịu qua nhà khác. Thôi thì, đóng đi để ông biến khỏi cửa cho nhẹ mắt. Giờ đây ông khoanh tay thuyết phục tôi: - Chúng ta đi cho có tình người cùng phố, cậu có nhớ thời anh ấy làm tổ trưởng? Câu nói ấy khiến tôi mềm lòng. Phải, anh Chiến đã giúp khu phố trong đó có tôi nhiều lắm. Đó là vào khoảng dầu năm chín mươi, mỗi gia đình chúng tôi được chia một trăm mét vuông ở bãi đất trống, mấp mô gò đống, vũng lầy phập phềnh bè rau muống, cụm bèo tây, nằm ven sân bay này. Cầm giấy chủ quyền sử dụng đất, nhưng chẳng ai dám nghĩ đến chuyện dựng nhà. Có người tính bán. Nhưng anh Chiến ngăn lại. Cô bác yên tâm, tôi sẽ giúp bà con dựng bằng được nhà. Anh nói vậy. Anh lấy cái tài hoa tay và cách ăn nói có duyên , để ngoại giao, giúp cho dân phố có nhà. Dạo ấy, vật liệu xây dựng khan lắm, anh lên mạn Long Khánh kẻ bảng hiệu cho các trụ sở chính quyền địa phương để đổi lấy đá về làm móng. Anh đến nhà máy xi măng Hà Tiên mua xi măng rời, giá rẻ như cho về xây. Ông giám đốc nhà máy mê thơ, sáng tác rất nhiều thơ, tôi phải bò ra cả tuần để chép thơ ông ta theo lối thư pháp vào cuốn sổ to mới mua được thứ keo kết dính gạch với giá như biếu không này đấy. Anh nói hãnh diện. Rồi anh tới cơ sở sản xuất tấm lợp xin loại thứ phẩm để về tấp mái. Tôi phải kẻ nhãn hiệu nhà máy lên bức tường cao cả chục mét của tòa nhà văn phòng để đổi thứ tấm lợp này. Nhờ anh mà các gia đình đều có chốn nương thân. Chưa hết, anh còn chạy đến các nơi liên hệ kéo điện dùng, bắc ống dẫn nước sinh hoạt, đặt ống thoát nước thải, rải nhựa các con hẻm. Đến đâu anh cũng đem cái hoa tay của mình ra thu phục thiên hạ. Lộc tay anh cả khu phố được hưởng. Ơn ấy làm sao chúng tôi quên nổi. Ông Thế nói, giọng bâng khuâng: - Dạo anh ấy làm tổ trưởng, tết đến khu phố ta được chưng những khẩu hiệu viết thật đẹp. Chữ anh ấy viết có hồn vía, còn thứ chữ cắt bằng vi tính cứ trơ ra, mới ngó đã tức đến nổ mắt. Chúng tôi đi xe đò lên Lộc Ninh vào sáng ngày hăm sáu tháng Chạp. Gió lạnh, gợi không khí nguyên Đán đang tới gần..

<span class='text_page_counter'>(34)</span> Ông Thế hỏi tôi: Cậu có tin thuyết tài mệnh tương đố không? Tôi khẽ lắc đầu. Ông nói: - Tôi tin lắm. Nếu như anh Chiến chỉ là người không có hoa tay như bọn ta chắc anh ấy sẽ có một cuộc sống bình thường, đằng này anh ấy tài quá, anh hoa phát tiết ra hai bàn tay nên trời đất ghen nên mới đày như vậy. Không phải vậy, nhưng tôi không dám tranh luận với ông Thế. Ông Thế có tính hiếu thắng và hễ cãi nhau là gân cổ nổi lên, nói như quát, át tất cả. Đứng về phương diện cãi nhau, ông già gốc Quảng Nam này chưa hề chịu thua ai. Tôi biết, tai hoạ của anh Chiến bắt đầu từ ông Xoàn, Tổng giám đốc khu chế xuất Nam Sài Gòn. Nhà ông Xoàn ở đường Trường Sơn, cách đường phố chúng tôi ở chỉ non nửa cây số. Tài viết chữ đẹp, tính tháo vát của anh Chiến đã lọt vào mắt xanh ông tự bao giờ. Những lúc rỗi, vị Tổng giám đốc hói đầu này thường đến nhà xem anh Chiến viết chữ, mà ông thường gọi là vẽ chữ. Cho đến hôm, ông đến nhà anh Chiến, sau tuần trà, ông nói: - Chú khá lắm. Chú là người tôi đang tìm đấy. Ông cho anh Chiến hay, trong khu chế xuất Nam Sài Gòn do ông phụ trách có đến mấy trăm công ty, xí nghiệp, hàng ngàn công nhân. Hai ngày nghỉ cuối tuần họ đều chuí đầu vào các cỗ bài, bàn nhậu, hay đốt thời gian trong quán cà phê đèn mờ. Cần phải có người tập hợp họ vào câu lạc bộ văn hóa. Nghe ông nói vậy, anh Chiến phân vân, mình đã cầm sổ hưu rồi, có nên nhảy ra làm việc nữa không? Ông Xoàn đặt tay lên ngực rồi búng nhẹ lên trán anh: “ Chú hãy đánh thức con tim và khối óc đang ngủ này dậy, đem tài năng phục vụ con người”. Anh Chiến cúi mặt mắc cỡ. Nhưng ông Xoàn vẫn nói, ông nói về chân tài thời nào cũng hiếm, nó là nguyên khí của quốc gia. Tài năng của một người phải do người ngoài nhận biết. Mà không phải ai cũng nhận ra người tài, vì người tài thường sống giản dị, khiêm nhường, bị che khuất bởi số đông bất tài” . Nghe ông Tổng giám đốc hót vậy, mũi anh Chiến rựng phỗng lên như trái cà chua chín. Rồi ông kết luận: “ Tài của chú có thể sánh với Lan Đình, Tào Mạt, nhưng chú hơn những người ấy ở chỗ, chú có tính tháo vát, bằng tay trắng chú đã dựng lên một dãy phố, một khu phố. Thế rồi anh Chiến nhà tôi được bổ nhiệm là giám đốc Câu lạc bộ văn hóa doanh nhân khu chế xuất Nam Sài Gòn. Có văn phòng, có chức danh hẳn hoi. Bữa ra mắt xôm trò đáo để, các phóng viên truyền hình khệ nệ vác máy quay phim, nhà báo viết vai mang túi, máy ảnh, tay cầm sổ đứng lố nhố khắp nơi. Giám đốc Chiến diện vés xám, áo lót cổ cồn trắng, thắt cà vạt vàng, dõng dạc đọc diễn văn dài hơn một giờ, lời lẽ bóng bẩy, nhưng chẳng có ý tưởng gì mới mẻ, nhưng vẫn được người nghe vỗ tay dậy lên. Tiếng vỗ tay vì phong bì khá nặng và bữa tiệc đứng chắc chắn rất thịnh soạn đang chờ ở phòng bên. Còn bài phát biểu miệng của Ông Xoài mới là trọng tâm, ông nói đến phải trang bị cho công nhân, cho người quản lý kinh tế kiến thức văn hóa, văn nghệ, rằng xã hội muốn phát triển bền vững, văn hóa phải đi trước một bước, tạo nên môi trường sống nhân văn và cho con người ta phẩm chất tốt đẹp. Đồng chí Tống Trần Chiến là cái đầu tàu của khu chế xuất Nam Sài Gòn này. Từ khi được thăng chức giám đốc Câu lạc bộ văn hóa doanh nhân, cuộc sống của anh Chiến thay đổi hẳn, sáng nào cũng có xe hơi đến tận cổng nhà rước, đến sẫm tối, có khi tới khuya mới trở về. Mỗi khi xe dừng, cậu lái xuống mở cửa, đưa tay lên đầu anh Chiến như sợ đụng phải thành xe. Có đêm mưa, vừa bước xuống, Chiến ta vội đến chân cột điện vạch quần, cậu lái giương ô che cho Chiến đái! Đến vua chúa cũng được hầu đến vậy là cùng. Chiếc cặp da bóng lộn bên người Chiến căng phồng. Nhiều thứ giấy tờ quan trọng lắm, cậu à. Anh hăm hở nói và cho tôi xem những bản hợp đồng kinh tế với ngân hàng, với các xí nghiệp, công ty, hóa đơn tiếp khách. Cậu thấy đấy, mỗi bản hợp đồng cỏn con này nhưng giá trị bạc tỷ. Tôi ngốt mắt. Anh đắc chí: - Con người ta có bắt tay vào làm việc mới biết mình có những năng lực khác thường. Tài năng của tôi đâu dè phát ở lĩnh vực văn hóa kinh tế. Văn hóa kinh tế, nghe anh thao thao mà tôi chẳng hiểu ất giáp gì cả. Cũng chẳng dám hỏi vì sợ anh chê dốt, lạc hậu với thời cuộc. Vóc dáng anh cũng đã thay đổi người có bụng, mặt căng bóng, ánh mắt lấp lánh tự tin. Đâu còn anh Chiến tổ trưởng dân phố.

<span class='text_page_counter'>(35)</span> nước da sốt rừng, bộ quân phục cũ nhàu, màu nước dưa, lúc nào cũng đôn đáo đi liên hệ công nhân đến sửa chữa lưới điện, mắc điện kế, điện thoại cho bà con trong phố nữa. Anh nói với tôi: - Ngày xưa Nguyễn Công Trứ ở tuổi bảy mươi vẫn lãnh đạo nông dân đắp đê lấn biển, xẻ đồng thành kênh thủy lợi, bây giờ có anh Chiến của cậu đã cầm sổ hưu vẫn làm giám đốc, đưa văn hóa đến với các nhà doanh nghiệp. Anh Chiến đâu có phét lác, hàng tuần anh đã tổ chức cho các nhà doanh nghiệp giao lưu văn hóa, mời văn nghệ sỹ đến nói chuyện thơ văn, tổ chức hội diễn ca hát ở khu chế xuất và được đài truyền hình trực tiếp truyền trực tiếp cho bàn dân thiên hạ cùng thưởng thức. Trong những buổi giao lưu ấy, anh Chiến đạo diễn, dàn dựng và kiêm luôn dẫn chương trình. Danh tiếng của anh nổi như cồn. Thỉnh thoảng tôi mới được gặp anh, thường là khi về khuya, tôi ra đầu phố ăn cháo hoa để lấy sức về đọc sách. Một lần, tôi gặp xe đưa Chiến về đến đầu hẻm, anh nhoài ra, người nồng hơi men, anh ta chỉ mặt tôi: - Tránh ra cho ta đi, hỡi thằng viết báo thông tấn kia. Tôi chỉ biết ngậm ngùi nín lặng đi thật nhanh như chạy trốn con người vừa được chức, được tiền ấy. Phải, tôi biết mình kém cõi trong việc kiếm tiền. Đâu được như anh, một giám đốc văn hóa doanh nhân của khu chế xuất lớn nhất nước. Chồng có chức quyền, vợ được cậy, người lên hương nhất vẫn là chị Lệ. Mặt chị bừng ửng, mắt lóng lánh, chị nói, chị cười, thật rạng rỡ. Lần đầu tiên ngó bàn tay anh ấy, tôi biết thế nào ảnh cũng có vị trí xứng đáng trong xã hội. Vậy tôi mới khước từ lời cầu hôn của anh con trai nhà có hàng chục héc ta vườn cây ăn trái ở Lái Thiêu, có tiệm sửa xe hơi ở Bình Mỹ để theo ảnh chớ. Đâu dè ảnh phát giám đốc khi đã cầm sổ hưu. Chị nói vậy. Và chị được nhập vào câu lạc bộ phu nhân giám đốc. Chị mướn người giúp việc nội trợ. Chị đến các siêu thị lớn sắm đồ, lúc nào cũng diện quần áo lùa thùa như đào cải lương. Giám đốc Chiến hành sự được đâu bốn năm. Bốn cái tết dân khu phố tôi không còn được anh cho chữ để chưng tết. Tôi mắc bận lắm, thời gia đâu mà hầu mấy con chữ cho bà con được. Anh nói vậy. Chúng tôi cũng biết anh đã là người của quốc gia, đang làm chuyện lớn, cả nước sẽ được hưởng tài của anh, đừng vì ba cái chữ để xài riêng trong từng nhà mà làm ảnh hưởng cái sự nghiệp lớn anh đang thực thi. Nhưng hỡi ôi, được mất ở đời này ai mà lường được, trong lúc tôi đang thầm phục Chiến, thì đùng một cái anh bị khởi tố vì tội lạm dụng chức quyền gây hiệu quả nghiệm trọng. Anh đã làm thất thoát của nhà nước năm tỷ đồng, bị khởi tố, tay tra vào còng đưa vào nhà giam, đợi ngày hầu tòa. Đến lúc này chúng tôi mới hay, anh đã lấy giấy chủ quyền nhà để vay ngân hàng đến hai lần. Và còn làm giả giấy tờ gì đó để vay hai tỷ. Trong giờ nghỉ trước khi toà luận tội, anh nói với tôi: - Tôi đâu ngờ sự thể thế này. Bây giờ tính sao cậu. Vào tù chứ làm sao nữa. Tôi nghĩ . Anh bị kết án năm năm tù giam, ngôi nhà bị ngân hàng xiết nợ. Vợ anh vội đưa con về gửi nhờ ba má đẻ. Chị bàng hoàng, đâu dè tai họa giáng lẹ đến tế. Chị cũng chẳng biết làm gì để sinh sống, mà cái tính thích ăn ngon mặc đẹp đã nhiễm vào người từ lúc nào, không thể dứt nổi. Rồi nghe đâu, chị trở thành gái bao của một người Hàn Quốc làm ở xí nghiệp may nào đó. Khi tay này về nước, hắn sang cho một thằng kế nhiệm. Sau một thời gian thằng cha ấy đã bỏ của chạy lấy người. Không còn đất sống ở đây, chị dạt sang Campuchia. Không biết số phận người đàn bà ấy hiện nay ra sao? Thời gian Chiến thi hành án, hàng năm cứ vào dịp giáp tết, khu phố tôi cử người đến thăm, tặng quà. Mấy lần ông Thế cử tôi, nhưng tôi kiếm cớ thác bằng được. Sau khi thi hành án, Chiến không dám trở về khu phố cũ, mà về đây cũng chẳng biết ở đâu, bây giờ tôi mới hay anh đang làm rẫy ở miệt Lộc Ninh.. Đến thị trấn Lộc Ninh chúng tôi đi hon đa ôm vào xã Lộc Tấn. Hai bên đường là rừng cao su đang mùa thay áo, lá rụng phủ rực đường lô. Con đường nhựa đen nháng, hun hút.

<span class='text_page_counter'>(36)</span> giữa hai vòm cây tưởng như dài vô tận. Tiếng chim gõ kiến vọng đến đều đều, không gian yên tĩnh. Đến gần trụ sở ủy ban xã, ông Thế đã chỉ tấm biển trước cửa, reo lên: - Chữ của thằng Chiến kìa! Đúng là chữ của anh Chiến, dù anh viết theo lối chân phương vẫn nhận ra. Vừa gặp chúng tôi, chị chủ tịch xã đã hớn hở khoe: - Tất cả các khẩu hiệu, bảng niêm yết qui chế của ủy ban xã đều do anh Chiến viết. Hiện nay nhà anh nhiều người mướn viết câu đối để chưng Tết. Tôi hỏi dồn: - Ở chốn rú bụi này người ta vẫn thờ chữ đến thế sao? Chị chủ tịch nói, giọng nhỏ nhẹ: - Được làm chủ ruộng đất, mấy năm nay mủ cao su, hàng nông sản, được giá, đời sống nhân dân khá hẳn, nhiều người tìm thú phong lưu qua chơi tranh, chơi chữ. Vả lại không biết từ khi nào, người ta cho rằng ngày Nguyên Đán trong nhà treo chữ của anh Chiến cả năm sẽ gặp may mắn. Thế là ai cũng muốn có một bức tranh chữ của anh ấy. Trên đường dẫn chúng tôi đến thăm nhà anh Chiến, chị chủ tịch cho hay, cái ấp Đổi đời Chiến đang ở phần lớn là dân sau khi mãn hạn ăn cơm tù, không còn nơi nương tựa, đến đây làm lại cuộc đời. Trong đó có nhiều người có học vị, từng giữ những chức tước khá cao. Trong xã, chỉ ấp Đổi đời là có nhà văn hóa, có phòng đọc sách, có sạp báo. Tất cả đều nhờ anh Chiến mà có. Chúng tôi đang lấy ấp này làm điển hình để các ấp khác làm theo. Chị nói. Không biết ai báo trước, Chiến chờ chúng tôi ở cửa. Nom anh kiện tráng như thanh niên, da bánh mật, dáng nhanh nhẹn, cho dù nửa mái đầu đã hoa râm. Tuy túi mắt đã trĩu xuống. Chẳng lẽ cơm tù, sống ở chốn giữa rừng cây lấy mủ này khiến anh khỏe ra vậy? Anh nói: - Ở đây tuy chốn heo hút rừng rú nhưng đầu xã có chuyện gì, cuối xã lập tức biết. Hơn thế, nhà tôi khách ra vào thường xuyên nên có chuyện gì xảy ra là người ta báo cho tôi liền. Tôi nhận được tin khi các anh đang vào trình báo ở ủy ban xã. Nhà của Chiến cất theo lối nhà rường Nam Bộ, ba gian toàn gỗ thau lau vàng và căm xe nâu. Trên những thân cột có những câu đối chạm khắc thật sắc nét. Và rất nhiều câu liễn nghênh tết, mừng xuân, viết trên giấy dó, mành tre trúc, bảng gỗ. Anh viết chữ Quốc ngữ theo lối thư pháp. Nét chữ chân phương thì thật chân phương, bay bướm rấy bay bướm, lắm khi uốn lượn theo kiểu viết chữ Hán thời xưa. Tôi liếc nhìn nội dung, những lời cầu mong giàu sang, phú quí, nghĩa là vẫn theo kiểu chúc tết phúc, lộc, thọ, khang, ninh như thời não, thời nào. Trời, đâu dè đã sang thời này người ta vẫn hảo cũ đến thế? Chiến nói như thanh minh: - Ai yêu cầu gì, tôi viết vậy. Ý tứ của họ, tôi chỉ là người thể hiện chữ. Tôi hỏi: Anh sống ở đây chắc yên tĩnh lắm? Chiến cười to: - Thì đã dạt đến chốn giáp hông đất nước này không yên sao được. Tôi có bảy công vườn cao su, mướn người làm, chứ người đã có tuổi còn sức đâu mà trần lưng ra dưới nắng để cuốc đất, trồng cây. Cái việc chính của tôi hàng ngày là kẻ bảng hiệu, viết chữ, cũng là một cách kiếm thêm thu nhập. Chị chủ tịch nói: - Anh Chiến giúp chính quyền địa phương nhiều việc lắm, nhất là trang trí hội trường, sân vận động khi có hội lớn. Ngoài ra anh còn kẻ khẩu hiệu cho các trường học. Có người đến tìm, chị chủ tịch về trụ sở giải quyết công việc. Chiến đưa chúng tôi đi xem vườn cây cảnh. Những gốc si, cây đa, những búi cây giống hệt cây mây. Chưa bao giờ tôi thấy vườn cây cảnh như thế này. Các loại cây này tôi lấy trong rừng đó. Điều quan trọng của cây cảnh thuộc về tài năng của nghệ nhân, khi ở rừng là cây dại, nhưng đem về, cho vào bình, vào chậu, tỉa tót, uốn nắn, tạo dáng, là thành cây cảnh quí. Anh nói. Khi chúng tôi trở vào nhà, một người đàn ông vóc dáng đẫy đà, cầm tờ giấy khổ lớn,.

<span class='text_page_counter'>(37)</span> láng bóng từ ngoài ngõ nện những bước chân đi vào. Đến sân, anh ta phô rất hách: - Thằng Chiến! Viết giùm tao mấy chữ để chưng tết, mầy? Anh Chiến chạy ra thềm đưa hai tay đón tờ giấy, giọng anh ra chiều cung kính lắm: - Mời anh Sáu dùng nước đã. - Thôi, dẹp chuyện nước nôi đi. Mầy viết lẹ lên, tao mắc nhiều công chuyện quan trọng, thì giờ đâu mà trà nước, chuyện vãn với mầy. - Thưa, viết chữ gì, anh Sáu? - Mầy viết câu cát tường như ý. - Nhưng tôi không biết chữ Hán. - Ủa, ai biểu mày viết chữ đó làm chi. Mầy cứ viết bằng chữ ta mà. Chiến căng tờ giấy ra bàn, lấy bút lông viết. Tay anh như múa trên tờ giấy. Một lúc mấy chữ hiện lên tờ giấy đẹp như bức tranh. Mọi người xuýt xoa, trầm trồ. Người đàn ông mừng đến run lên, tính chộp lấy bức tranh chữ, nhưng Chiến đã ngăn lại: Cẩn thận kẽo nhòe mất, để khô mực đã, anh Sáu! Anh ta lừ mắt nhìn Chiến nhưng vẫn để cho Chiến đem bức tranh chữ ra cái bàn ngoài hiên căng ra để hong cho khô. Người đàn ông hất hàm hách dịch: - Thằng Chiến có biết cát tường như ý là gì không? Chiến lắc đầu. Anh ta la lớn: - Nghĩa là niềm vui như ý mình. Viết được chữ mà không hiểu nghĩa, mầy ngu như bò! Anh ta quắc mắt với Chiến rồi ra hè cuộn tờ giấy lại, thủng thẳng đi về. Tôi nóng mặt như chính mình bị xúc phạm: - Ông ta là ai mà hiếp đáp anh dữ vậy? Chiến lặng đi một lát, hình như anh mắc cỡ với chúng tôi lắm. Mặt anh tái đi, giọng run lên: - Trước đây, khi làm giám đốc Văn hóa doanh nhân, hắn là Tổng giám đốc công ty may mặc lớn nhất khu chế xuất, tôi còn nợ hắn một trăm triệu. - Nhưng tại sao hắn ở đây. - Tôi vô trại cải tạo một năm, anh ta cũng vào. Hắn ta làm thất thoát của nhà nước đâu mười ba tỷ, lãnh án bảy năm tù, sau khi được ân xá, hắn về Sài Gòn một thời gian rồi lên đây tậu đất trồng tiêu, trồng điều và lập trang trại chăn nuôi bò sữa. Chiến như nuốt cái gì nghèn nghẹn trong họng. Một lát, anh nói như chiết từng tiếng: - Chữ nghĩa nô lệ cho đồng tiền là nhục, tôi cảm thấy nhục, nhục quá.. Chiến vào nhà khệ nệ bưng bình rượu thuốc to cỡ bằng cái vò, một con rắn hổ bằng cổ tay khoanh tròn và những mảnh rể cây, ra tiếp chúng tôi. Tôi và ông Thế chỉ nhấp một ly chiều lòng chủ nhân. Còn Chiến, anh uống rất nhiều, nốc cạn ly này đến ly khác. Hình như anh nuốn dùng chất men để xoá tủi, để chôn hờn chăng? Ngôi nhà Chiến khá rộng, thoáng mát, khu vườn ngoài cây cảnh còn có rất nhiều cây lấy quả, những hàng điều đang trổ hoa, những cây sầu riêng vừa bói quả. Tôi thầm mừng cho Chiến, sau họa nạn có được cơ ngơi thế này là may mắn lắm. Từ đây, anh sẽ làm lại tất cả, người đàn ông mới ngoài năm mươi vẫn còn đủ thời gian xây dựng lại cuộc đời. Chiến cúi mặt một lát rồi ngẩng lên, giọng nẫu nhợt nhưng lời sắc như dao: - Làm người có chữ nhưng không biết giữ mình, là rước lấy sự nhục nhã. Mặt Chiến sồ ra, đôi mắt vằn tia máu, anh ngó ra chân trời bạc. Ngoài kia cao su đang thay lá bừng xanh sẫm. Cái lạnh cuối năm ở vùng rừng như đang dần cô lại Xóm.

<span class='text_page_counter'>(38)</span> sở Mỹ Thứ sáu, 24 Tháng 7 2009 10:37. Lần này Smith vào nhà, chị Trửng không đóng kín cửa mà để he hé. Cô bé Bạch ngập ngừng, lớ ngớ đứng trước hàng hiên. Tiếng má gọi cô rát rạt cách một con đường đất đỏ và hai hàng dâm bụt đầy hoa: - Bạch… về! Đứng đó coi Mỹ nó ở truồng phải không? Mỹ nó ở truồng? Mấy lần chị Trửng đóng kín cửa thì Bạch không biết nhưng lần này, Bạch biết. Qua khe cửa, Bạch thấy Smith nép đầu vào ngực chị Trửng, nó khóc như mưa. Tiếng người lớn, mà lại là người lớn Mỹ khóc nghe mới lạ làm sao! Làm sao Smith khóc vậy? Chị Trửng đang xoa đầu nó như xoa đầu một đứa trẻ rồi xí xô xí xào cái gì đấy. Một lần nữa, Bạch nghển cổ nhìn vào khe cửa… Tiếng roi rít dữ dằn trên lưng cô bé: Đồ con ngựa! Muốn làm sở Mỹ phải không, về! Người mẹ đã đánh tan sự tò mò của con bé bảy tuổi bằng chiếc roi mây dài hơn người nó. Ngồi trước hiên nhà, Bạch thấy hai đôi mắt, hai cái lưỡi le dài qua khe hở hàng rào dâm bụt phía bên kia: - Ê, lêu lêu cái đứa đi coi Mỹ ở truồng bị má đánh, lêu lêu… Bạch cũng không vừa, cô bé phun nước bọt về phía thằng Lì và con Anh: - Kệ cha tao! Mỹ nó ở truồng hồi nào mà bây biết, tụi bây muốn coi thì có… Hai đôi mắt, hai cái lưỡi le dài còn nhí nhố thêm một chút nữa nhưng Bạch không thèm quan tâm. Cô bé vẫn còn nghĩ đến Smith, không biết giờ này nó thôi khóc chưa. Không, anh ấy thôi khóc chưa. Tại sao mọi người ở cái xóm sở Mỹ này không cho con nít gọi mấy người lính Mỹ là anh, ông hoặc chú, bác gì đó. Một lần nói chuyện với thằng Lì, Bạch bảo “anh Mít”. Bác Tám xe lam đang lui cui lau xe gần đó bảo, tụi bây không được kêu đám lính Mỹ bằng anh, mà cứ “nó” mà kêu. Chị Trửng mặc áo xệ nửa ngực đứng bên kia hàng rào hong tóc cười ha há: “Kêu gì cũng được, you you hết á mà!”. Ừ, thì you cho dễ chịu. Smith you, Tom you, John you, Henry you. Nhưng Bạch thích Smith you hơn cả. Smith dễ thương nhất. Anh ấy… Bạch lại nhìn quanh, ừ, mình nghĩ trong đầu, có ai nghe đâu mà sợ bị người lớn la. Anh ấy có nụ cười đẹp và thích công kênh thằng cu Tẹo con cô Xí quét rác trên vai. Anh ấy có mái tóc vàng và đôi mắt xanh màu nước biển. Anh ấy hay xoa đầu Bạch và cho Bạch sô-cô-la. Chị Trửng bảo, Smith cũng có một cô em gái bằng tuổi Bạch ở bên kia nước Mỹ… Bạch lại dõi mắt qua bên phòng chị Trửng. Smith đẩy cửa bước ra. Ô, sao anh ấy về nhanh thế. À, tại vì hôm nay anh ấy khóc chứ không vui vẻ như mọi hôm. Smith đi lướt qua con đường đất đỏ thân quen trước mặt Bạch. Cô bé nhìn trước ngó sau rồi phóng tọt theo: Mít, ê lô, nô can đu! Bạch cũng không biết mình nói gì nhưng Smith hiểu đó là sự sẻ chia của cô bạn nhỏ, anh đưa tay xoa đầu cô bé rồi bye bye. Quay lại ngồi trước hiên nhà, nhìn qua bên kia, Bạch thấy chị Trửng vừa phơi quần áo vừa trả lời với ai đó: - Ừ, Smith về sớm tại nó buồn, hôm qua nó có thằng bạn thân chết trận. Rồi chị cúi xuống nhặt áo phơi tiếp. Bạch lại nghe tiếng chị Trửng: - Nhìn gì nhìn dữ vậy cha nội, đi chỗ khác chơi dùm con, vú con cũng như vú vợ cha thôi mà! Cha ba Gà dê nhất xóm cười hề hề bỏ đi. Chị Trửng lại vừa phơi đồ vừa hát. Hẹn chiều nay mà sao không thấy anh. Gió hiu hiu lòng bỗng nghe lạnh thêm. Chiều mù sương hay mù khói thuốc anh. Anh không lại anh nhủ lòng sao anh. Anh cứ hẹn chiều nay rồi lại không thấy anh. Áo ai xanh hờ hững đi vào đêm… Bạch chống tay lên cằm thở dài, chị Trửng hát sao nghe buồn quá, còn Smith thì lại vừa có người bạn bị chết, hèn gì lần này anh ấy quên không mang kẹo cho cô… Xóm của Bạch bị gọi là xóm sở Mỹ vì có nhiều người ngăn nhà làm phòng cho mấy cô,.

<span class='text_page_counter'>(39)</span> mấy chị làm sở Mỹ thuê. “Sở Mỹ” lớn nhất gần xóm Bạch là sân bay Biên Hòa. Lính Mỹ trong sân bay cần người lau dọn, giặt giũ, đấm bóp chi chi đó thì đã có những cô gái Việt thất nghiệp tuổi mười tám, đôi mươi. Sau này lớn lên, Bạch biết còn có những người vào sở Mỹ làm văn phòng, phiên dịch. Còn các cô, các chị làm sở Mỹ thuê nhà trong xóm Bạch toàn những người dọn phòng cho lính Mỹ. Ngoài chị Trửng, còn có chị Xuân, chị Hồng, chị Tuyết… Hết giờ vào sở Mỹ lau dọn, mỗi chị mang về một ông Mỹ. Họ vi vu với nhau vài giờ trong căn phòng kín mít của mỗi người. Sau đó mấy ông Mỹ lên xe jeep phóng ào về sân bay. Đám gái làm sở Mỹ bắt đầu trửng giởn với nhau hoặc hè ra tắm giặt. Những người ở xóm sở Mỹ ghét lính Mỹ, khinh gái làm sở Mỹ nhưng không thể không sống nhờ vào những dịch vụ từ họ. Có ít nhất năm nhà trong xóm sống bằng tiền cho họ thuê nhà. Bà năm Bồng nấu cơm tháng cho đám chị Trửng. Họ đóng tiền sòng phẳng cả tháng nhưng bữa ăn bữa bỏ nên không thừa đầu này cũng thừa đầu kia. Chị Xí quét rác được Smith đưa vào sở Mỹ nhặt rác. Từ rác, chị nhặt ra nào bánh kẹo, đồ hộp, sách báo… bán lại cũng đủ tiền nuôi thằng cu Tẹo không cha. Ông Tám xe lam ghét lính Mỹ nhất xóm nhưng cũng không thể bỏ được mối đưa đón các cô, các chị đi làm sở Mỹ… Xóm sở Mỹ có trăm ngàn cách ghét lính Mỹ và khinh gái sở Mỹ. Mỗi lần đám lính Mỹ đến tìm các cô, các chị thì y như rằng, họ phải nghe những lời chửi đổng của mấy ông bà già xuyên suốt hai bờ rào dâm bụt. Mẹ cha nó, đất nước mình nó xâm chiếm, còn có sẵn gái cho nó nữa chớ. Ông bà nó, thứ Mỹ gì mà hôi như cú, đi qua tám chục thước còn nghe mùi. Nhưng đám lính Mỹ vẫn nhe răng cười, có hiểu gì đâu mà không cười. Biết dân xóm bực dọc mình một điều gì đó nhưng chắc là không đáng kể nên cứ cười cho xong. Mấy đứa con nít thì cứ rồng rắn theo sau. Ê, hé lô, Tôm, no can đu. Thế là có kẹo ăn. Đến đám gái làm sở Mỹ như đám chị Trửng mới thật khốn nạn cuộc đời. Mỗi lần các chị đi làm về, đường vào nhà trọ chỉ vài chục mét thôi, mà mỗi chị đều bị “lãnh đạn” vào mông hoặc ngực. “Đạn” là những bì giấy cuộn tròn bằng ngón tay út xếp đôi, được bắn từ những chiếc giàn thun tự chế của đám mấy thằng phá như quỉ núp trên những chạc cây hai bên đường. Người lớn biết chuyện mất dạy này của đám nhỏ nhưng không la rầy gì hết, bởi theo lời bà hai Đảnh bán thuốc lá đầu xóm: “Kệ mẹ nó, cho mấy con quỉ bớt đú đởn với Mỹ!”. Có lần chị Xí dặn lại: “Không có mấy bả đú đởn với Mỹ lấy ai cho bà bán thuốc lá?”. Thế là hai bà quần nhau đến rách mặt, tét tai. Nhưng đáng gờm nhất với đám lính Mỹ vẫn là bọn con trai xóm sở Mỹ. Dân hiền lành có cắp sách đến trường như anh Tòng, anh Tâm… thì không nói. Sợ nhất là mấy ông nghỉ học giữa chừng, trốn lính hay dân vệ. Chiều nào mấy ổng tụ tập lại nhậu nhẹt, gõ nồi gõ mâm hát nhạc lính chiến thì y như rằng sau đó có khiêu khích, ấu đả với đám lính Mỹ. Chỉ mỗi cái tội mà ông Tính dân vệ tuyên bố không đội trời chung với lính Mỹ là tội “xốp” đàn bà, con gái Việt Nam. Có lần Tom và John, bạn của chị Hồng - chị Tuyết bị mấy ổng “bề hội đồng” úp bao bố rồi đổ nước mắm tôm pha loãng lên đầu. Sau đó đám bề hội đồng phải trốn biệt vì Tom và John quay trở lại hằn thù với hai súng hai tay. Cũng may mà không lâu sau đó, Tom và John ra trận. Chị Hồng, chị Tuyết lại cặp bồ với mấy ông lính Mỹ mới. Cũng vì cái tội “xốp” đàn bà, con gái Việt Nam mà có lần Smith bị đám nhậu bắt trói vào nọc trầu đầy kiến lửa của nhà bà hai Đảnh. Tim Bạch đập thùng thùng, cô bé hớt hải chạy đi báo chị Trửng. Chị Trửng không có nhà. Chết, không có chị Trửng ở nhà thì Smith mò vào xóm làm gì. Bạch chạy quýnh quáng như con kiến bò trong chảo nóng. Có ai, có ai không, cứu giùm Smith. Anh ấy không thể chết vì đám nhậu. Anh ấy dễ thương như thế. Mới hôm qua, anh ấy còn cho bà Sáu già cuối xóm tiền đi khám bệnh. Mới hôm kia, anh ấy còn khóc khi đưa tang anh lính tên Hòa chết trận. Ba Bạch bảo, Smith được, Smith dễ thương nhất trong số những người bạn Mỹ của các me Mỹ trong xóm. Đang rối bời lên như thế thì Bạch gặp anh cu Kiệt bước qua cầu chiếc cầu mỏng mảnh được bắc qua hai bờ rạch bằng một tấm vỉ sắt rỉ sét. Chiếc cầu nối những khu nhà trong xóm và đường ray xe lửa cùng những cánh đồng mênh mông bát ngát bên kia. Bên kia những cánh đồng không có người ở. Chỉ có những túp lều của người chăn vịt. Anh cu Kiệt ăn, ngủ và ở luôn tại một trong những túp lều đó. Từ ngày nhận biết được bà con chòm xóm, Bạch thấy anh cu Kiệt chỉ có một mình, không cha mẹ, anh em, bà con thân thích. Anh đang quảy trên vai một chiếc túi lòng thòng, chắc là mang mớ ếch vừa soi được qua xóm bán. Anh cu Kiệt! Gì đó nhỏ? Đi cứu Smith đi! Cứu Mỹ hả? Mày thương Mỹ lắm sao? Nước mắt Bạch ứa ra. Cô bé không nghĩ mình thương Mỹ mà chỉ thấy Smith hiền, không.

<span class='text_page_counter'>(40)</span> đáng tội chết vì kiến lửa. Nói vậy nhưng anh cu Kiệt bước lại xoa đầu Bạch: - Được rồi, sao mít ướt vậy, đám nhậu đang hành hình Smith ở đâu? Anh cu Kiệt khoảng mười tám, mười chín tuổi thôi nhưng có uy với đám nhậu trong xóm vì nói được lời hay, uống rượu giỏi và hay cung cấp “mồi” cho họ. Anh làm chuyện gì cũng dứt khoát, có hiệu quả. Người anh cao nghều, ốm nhom ốm nhách, đen thủi đen thui, quanh năm suốt tháng mặc áo quần bà ba đen, đội nón lá rách te tua, quần thảo suốt ngày ngoài đồng, hết soi ếch lại câu cá. Người trong xóm nói anh là Việt cộng nằm vùng, phải tránh xa, nếu không sẽ bị vạ lây bởi sự săn lùng của đám cảnh sát quốc gia. Cũng như chuyện gắn bó với Smith, ai nói gì anh cu Kiệt mặc tình, Bạch thấy anh dễ thương là được. Có lúc đi soi ếch về muộn, cu Kiệt ra quán đầu xóm mua mì gói nấu ăn, mì hết, anh cầm tô kêu Bạch về xin má cơm nguội. Má rít chặt hai hàm răng: “Gan quá ha, biết nó là gì không mà tiếp tế cơm nguội?”. Lúc nào ba cũng đứng phía sau Bạch: “Bà sao hay quá! Quan trọng làm gì với con trẻ chuyện hàng xóm khi tắt lửa tối đèn”. Vậy là ba múc cho anh một tô cơm đầy tú hụ, có cả khứa cá lóc kho tiêu láng váng mỡ hành… Như người chết đuối vớ được cọc, Bạch đưa tay áo chùi nước mắt, nắm tay anh cu Kiệt lôi đi băng băng… Anh chạng chân, chống nạnh giữa đám nhậu ồn ào: Đứa nào trói thằng Mít vô cột vậy bây? Có tiếng đằng hắng: Mắc gì hỏi? Bộ Mỹ là ông nội mày hay sao? Không phải là ông nội nhưng nó cũng là giống người. Đám đông lè nhè, nhao nhao: - Nhà tụi bây có trồng cây mít không? Vậy sao nó tên Mít? Nó đi đám ma thằng Hòa chết trận khóc tu tu? - Xời, nói vậy cũng nói, nó nghĩ đến thân nó nay mai gì cũng chết trận cà! Còn hơn có đứa hèn trốn quân dịch! Có tiếng xô bàn: Mẹ, mày nói gì? Anh cu Kiệt không nao núng: - Tao nói tụi bây thả thằng Mít ra, đừng để tụi M.P mò tới thì tụi bây khốn! - Cảnh sát Mỹ hả? Tụi tao chấp mười cái đầu thằng cảnh sát Mỹ, mày đi báo đi! Xời, tưởng gì, Việt cộng nằm vùng mà bênh Mỹ ta ơi! - Không có Việt cộng nằm vùng hay Mỹ gì ở đây, thời buổi chiến chinh, là đàn ông con trai, có ngon, tụi bây ra mặt trận, đừng có hằn thù lặt vặt thấy buồn cười quá! Trống ngực Bạch lại đánh thình thình khi anh cu Kiệt quay ra. Vậy là sao. Vậy là không ai cứu được Smith. Cô bé chạy theo níu tay anh cu Kiệt: Anh ơi, còn Mít… Một cánh tay dài hơn tay Bạch níu lấy vai áo anh cu Kiệt: - Ê, nói vậy mà bỏ đi thiệt sao, có gì chuộc thằng Mỹ không? Anh cu Kiệt đưa ra cái túi lùng nhùng: - Cá đây, ếch đây, tụi bây nhậu cho hết rồi đừng có làm trò hù dọa Mỹ lung tung nữa nghe chưa! Muốn cái gì thì phải rõ ràng, xứng đáng! Mày nhậu với tụi tao chớ! Không, tao về! Rồi Tom, John không một lần quay lại xóm sở Mỹ. Bạch nghe chị Trửng nói dường như hai người đó bị thương rồi được cho về nước. Chị Hồng, chị Tuyết thay bồ như thay áo. Nhưng hai bà lúc nào cũng xuất hiện xập xệ trước mắt mọi người. Mặt mũi thất thần, quần áo thì nhếch nha nhếch nhác. Có lần mấy bà đang ngồi xúm xít ăn bún riêu ở hàng của chị Bông cuối xóm, chị Trửng phải la lên: - Áo ngực đâu sao không mặc, đàn bà con gái mà để vú mớm lòng thòng thấy ớn! Chị Tuyết gắp một miếng đậu hũ chấm mắm tôm rồi cười, nụ cười vừa nhạt vừa hôi mùi rượu: - Mỹ sắp về nước hết rồi, tụi nó thua trận liên tục, mày không nghe đài báo tin chiến sự sao? Chị Trửng vừa tròn mắt ngạc nhiên, vừa gắp thêm cho Bạch đang ngồi bên cạnh một miếng chạo cua: Ủa, Mỹ rút thì kệ nó, ăn thua gì tụi bây? - Ừa, mày được thằng Mít thương đàng hoàng nên thấy không ăn thua, nó lại làm lính văn phòng, đời nào biết lo nỗi lo chết trận như mấy thằng bồ của tụi tao..

<span class='text_page_counter'>(41)</span> - Nói sàm! Mỹ rút thì tính đường làm ăn đàng hoàng để làm lại cuộc đời chớ! Chị Hồng nhún vai: - Làm lại cuộc đời? Mày không thấy trong xóm này, ai cũng khinh mình như chó sao? Chị Xuân ngồi ăn bánh cuốn cách đó mấy hàng thở ra dài thườn thượt: - Thôi đừng cãi cọ nữa, mấy người ở lại vui vẻ, mai tui về quê. Chị Tuyết quay sang: Về quê làm gì? Giọng chị Xuân có nước mắt: Chẳng biết làm gì nhưng Henry không còn… Chị Trửng đá chân chị Tuyết: - Đừng hỏi lôi thôi nữa, thằng Henry thương con Xuân thật lòng, chiều qua mới có tin báo Henry chết trận. Bạch nghe mấy chị làm sở Mỹ nói lùng bùng hai cái lỗ tai. Cái gì chiến sự, rồi chết trận, bị thương, cô bé không hiểu gì cả. Chỉ biết một điều, xóm sở Mỹ không còn nhiều Mỹ đến chơi như xưa. Các cô, các chị làm sở Mỹ lần lượt trả nhà thuê. Ông Tám xe lam mất mối chở khách, sáng sáng mắc võng, nằm giữa hai đầu cột nhà hát Dạ cổ hoài lang. Bà năm Bồng không còn mối nấu cơm tháng, phải sắm một xe bánh mì bán đầu ngõ. Chị Xí đưa thằng cu Tẹo về quê, rồi hai mẹ con ở lại luôn đó, nghe nói làm ruộng với ông bà ngoại. Xóm sở Mỹ chỉ còn mỗi chị Trửng thuê nhà. Chị nghỉ làm sở Mỹ, chờ ngày theo Smith về nước. Thấy chị và Smith yêu thương nhau thật lòng nên mấy bà già thôi lầm bầm chửi Mỹ khi mỗi chiều Smith đạp xe ra xóm chơi. Có một chiều, sau cơn mưa thật to, người dân xóm sở Mỹ lại nghe tiếng súng ì đùng phía trại giam bên kia suối. Chuyện thường như cơm bữa, ông Tám xe lam bảo, điệu này chắc mấy cha lính gác lô-cốt quanh trại giam lại ngủ gục để mấy ông Việt cộng đột nhập tháo súng hay lựu đạn gì rồi. Rồi sẽ có màn dân xóm sở Mỹ bị xét Tờ khai gia đình, đám đàn ông trai tráng trong xóm sẽ bị truy hỏi rát ràn rạt. Anh cu Kiệt sẽ bị mọi người nghi ngờ vì tội làm xáo trộn cuộc sống chung. Dẫu vậy, sau mấy lần nghe chửi đổng, anh vẫn cười hề hề: “Thì lâu lâu cũng phải cho mấy thằng lính gác trại giam có việc làm, chớ để tụi nó ngủ gục mà ăn lương quốc gia à?”. Mọi người chửi đổng vậy thôi chứ cũng không có chứng cứ buộc anh là người cướp vũ khí… Tiếng súng ngơi đi một lúc, dân xóm sở Mỹ lại nghe tiếng kêu cứu người chết đuối. Con suối chảy ngoằn ngoèo dọc theo xóm là miệng thủy thần hung hãn sau những trận mưa to. Ở xóm sở Mỹ, năm nào cũng có số người chết đuối gần bằng số người chết vì súng đạn. Mọi người lại ùn ùn đổ ra bờ suối, có cả Smith. Bạch vừa nhón chân, kịp thấy cái chấm đen đang hụt hẫng giữa dòng thì nhanh như cắt, Smith đã phóng ào xuống. Năm phút, mười phút, mười lăm phút trôi qua. Cuối cùng, tay bơi cừ khôi Smith cũng lôi được người chết đuối vào bờ. Mọi người ồ lên khi thấy người được cứu là anh cu Kiệt. Lại có tiếng lao xao. Ủa, cu Kiệt bơi giỏi lắm mà sao đuối vậy. Chắc là bị chuột rút. Smith cùng chị Trửng và mọi người xúm lại làm hô hấp nhân tạo cho anh cu Kiệt… Nạn nhân vừa bắt đầu thở lại yếu ớt, mọi người chưa kịp mừng vui, đã nghe tiếng còi cảnh sát. Theo yêu cầu, tất cả phải dạt ra để cảnh sát khám xét anh cu Kiệt. Ngồi tuốt trên chạc ba cây ổi ven bờ suối với đám thằng Lì, con Anh; Bạch thấy cảnh sát lật tới lật lui anh cu Kiệt như lật một cái bánh tráng đang nướng. Rốt cuộc cũng chẳng có gì đáng ngờ, đám cảnh sát phóng xe đi, để lại những đụn khói trắng mờ mịt hơi xăng. Bà năm Bồng tức mình chửi đổng: “Mẹ cha nó, làm ăn như hạch mà đi tới đâu cũng xe pháo rầm rầm, rồ rộ!”. Trên bờ cát chằng chịt những vết giày đinh, anh cu Kiệt nằm rũ ra như người chết đuối lần thứ hai, chị Trửng và Smith nhóm cho anh một đống lửa… Hơn ba mươi năm sau, Smith và chị Trửng mới quay về Việt Nam, họ vẫn là một đôi hạnh phúc và tuổi đều đã xấp xỉ lục tuần. Cả hai tìm đến xóm sở Mỹ để thăm cô bé Bạch của ngày xưa. Bạch vẫn ở trên nền nhà cũ của ba má nhưng mái nhà ngói đơn sơ đã được thay bằng ngôi nhà lầu ba tầng. Không riêng gì nhà Bạch, trong xóm cũng có nhiều nhà khang trang hơn xưa. Cuộc sống đã tiến bộ nhiều. Xóm sở Mỹ đổi thành khu phố Hưng Phú. Vẫn như xưa, Smith ôm choàng lấy vai Bạch khi nhận ra nụ cười thân quen của cô bé có chiếc răng khểnh: Chào Bạch, em có khỏe không? Bạch tròn mắt ngạc nhiên, Smith đã nói được tiếng Việt. Chị Trửng giải thích, Smith cũng là học trò của chị trong những giờ chị dạy tiếng Việt cho hai con. Ra vậy, họ đã có với.

<span class='text_page_counter'>(42)</span> nhau hai người con, chiến tranh đưa đẩy thật diệu kỳ. Sau những thăm hỏi ban đầu, Smith nhắc đến anh cu Kiệt. Anh cu Kiệt bây giờ làm to lắm, nói cho Smith dễ hiểu, Bạch bảo, đấy là một trong những ông quan cấp tỉnh. Smith hỏi làm cách nào để gặp được Kiệt. Bạch hứa sẽ liên hệ giúp Smith. Chị Trửng đưa Smith đi thăm lại bà con khắp xóm. Họ được bà năm Bồng mời một bữa cơm và ở lại hàn huyên với bà chủ nhà trọ năm xưa suốt buổi chiều. Anh cu Kiệt mời cơm Bạch và vợ chồng Smith tại một nhà hàng. Kiệt vẫn nói cười sảng khoái như xưa và tỏ ra đặc biệt thích thú khi được nói chuyện với Smith bằng tiếng Việt. Bắt đầu bữa ăn, Kiệt xin phép hai người phụ nữ rót ra hai ly rượu đầy: - Smith, đây là ly rượu tôi đợi chờ anh hơn ba mươi năm qua gọi là cảm ơn. Smith nghiêng đầu dí dỏm: Tôi phải là người cảm ơn cu Kiệt mới đúng! Vì sao anh phải cảm ơn tôi? - Nếu không có anh và Bạch thì hôm đó tôi đã chết với bầy kiến lửa rồi. Kiệt cười rung cả hai vai: - Xin lỗi, ngày ấy tôi cứu anh vì bất bình với bọn đàn ông vặt vãnh đấy thôi. Chứ… xin lỗi, bà con xóm sở Mỹ ngờ vực không sai, tôi là Việt cộng nằm vùng thật đấy. Thuở ấy, tôi là giao liên của một đơn vị nội tuyến, tôi làm việc có tổ chức. Rất may là Smith và các ông Mỹ của các me Mỹ ở cái xóm sở Mỹ không nằm trong tầm ngắm của đơn vị tôi. Smith cũng cười khà khà: - Có như vậy mới là chiến tranh chứ! Còn anh thì cũng không phải cảm ơn tôi đâu, lúc tôi nhảy xuống dòng suối cuồn cuộn nước cũng không biết là đang được cứu ông quan lớn cu Kiệt bây giờ… Chị Trửng nâng ly: - Hai chị em tôi xin hưởng ứng, chúc mừng sự hội ngộ của hai người đàn ông “giữa đường thấy chuyện bất bình chẳng tha”! Bữa cơm thân mật kéo dài hơn hai giờ. Mọi người thi nhau nhắc chuyện cũ. Ngồi với những người là người lớn so với mình bé bỏng ngày xưa, Bạch thấy vô cùng hạnh phúc. Dù bây giờ đã là một cô giáo và đã có hai con, Bạch thấy mình vẫn được quyền dựa vai chị Trửng để nghe tóc chị thơm thơm mùi bồ kết. Người lớn nói gì đấy mà Bạch không quan tâm, tựa đầu vào vai chị Trửng, Bạch nhắm mắt lại tưởng đến giấc mơ trước ngày Smith về nước. Đêm ấy, sau khi khóc chia tay với chị Trửng và Smith, Bạch về thao thức mãi không thôi, chỉ thương người đi xa biết đến bao giờ mới trở lại. Đến gần sáng thì cô bé mới chợp mắt được một chút. Cô mơ thấy mình được Smith và anh cu Kiệt nhấc bổng lên giữa hai đường ray phía sau nhà. Còn hai người thì lướt như bay trên hai thanh sắt. Cả ba đi về phía một đoàn tàu đang tăng tốc, hai người đàn ông vẫn cười, còn cô bé sợ quá khóc thét lên trong mơ… Sáng thức dậy, Bạch bước sang bên nhà tìm, chị Trửng và Smith đã ra sân bay tự bao giờ. Sự trống rỗng tạo ra cảm giác sợ phải một mình, cô bé chạy qua cây cầu rỉ sét, lao như bay đến chiếc lều vịt của anh cu Kiệt, chiếc lều trống huơ trống hoác… Chẳng biết anh cu Kiệt đi đâu mà ngày mấy chú bộ đội cụ Hồ tiến vào giải phóng thành phố, Bạch thấy anh ngồi dẫn đường trên một chiếc xe tăng… …Cuộc hội ngộ không thể nấn ná thêm phút nào nữa, xe đón vợ chồng Smith ra sân bay về Mỹ đã bóp còi liên tục ngoài cổng nhà hàng. Đã hẹn gặp lại rồi mà ai cũng không muốn rời nhau. Cuối cùng, chị Trửng phải kéo Smith đứng lên trước: - Thôi, không bịn rịn nữa, Smith! You trả đồ cho anh cu Kiệt đi! Anh cu Kiệt ngớ ra: Trả cái gì? Smith hạ giọng: - Vậy mà vợ chồng tôi có nợ anh đấy! Xin anh cầm cho. Đây là số vũ khí tôi phát hiện được chúng trong túi áo anh khi anh đang chìm dần vào lòng suối. Tôi biết, nếu để chúng trong người anh sẽ không có lợi cho anh. Mà quả tình tôi đoán không sai, sau đó cảnh sát đã ập đến… Giọng anh cu Kiệt ngỡ ngàng: Ôi… Vậy là Smith đã giữ nó trong bao nhiêu năm… - Không, tôi cũng chẳng dại gì giữ nó trong người rồi lại nhiêu khê lén mang nó qua mấy ông hải quan của cả hai nước. Cách đây mấy hôm, chúng tôi đã quay lại nhà bà năm Bồng, bà chủ cho các me Mỹ thuê nhà đấy, anh còn nhớ không? Chúng tôi đã đào nó lên từ dưới gốc một cây si già phía sau dãy nhà cho thuê ngày ấy. Rất may là người ta chưa chặt cây và cất nhà lên đó. Đây anh xem, hơn ba mươi năm rồi, chúng rỉ sét như.

<span class='text_page_counter'>(43)</span> chiếc cầu bắc qua cánh đồng của anh ngày xưa… Anh cu Kiệt run run đón hai khẩu súng ngắn từ tay Smith. Xúc động quá, anh cũng không thể nói một lời từ biệt hay cảm ơn người lính Mỹ năm xưa. Vợ chồng Smith vội vã ra xe. Xe phóng ào đi trong cơn nắng trưa rát rạt mặt người… Bạch ngồi xuống cạnh cu Kiệt, rót cho anh một ly nước. Mãi một lúc sau anh mới cười xòa, xoa xoa tóc Bạch như ngày xưa: - Mẹ cha thằng Mỹ, đào chôn súng dưới gốc cây mà nó không nói tao tiếng nào. Báo hại hôm sau, chờ nước ròng, tao mò mẫm dưới suối rộp cả hai tay, hai chân! - Buổi chiều hôm ấy, anh là người đi cướp súng ở trại tù phải không? - Chớ ai trồng khoai đất này! Mà xui thiệt, hôm đó nước chảy xiết quá, lính bắn theo, đạn bay chiu chíu trên đầu. Đúng là họa vô đơn chí, lúc đó, tao lại bị chuột rút mới chết chớ… Anh đi cướp súng bao nhiêu lần như vậy? - Biết bao nhiêu mà kể! Tao nói bà con xóm sở Mỹ nghi ngờ không sai mà! Bạch, bây giờ em uống với anh ly rượu há? Vì cái gì? - Vì chuyện mày biết tao với thằng Smith có ân oán với nhau! Bạch nâng ly rượu uống cạn, chị không uống vì anh cu Kiệt và Smith có ân oán với nhau mà vì chị rất tin rằng, dù trong hoàn cảnh nào, mỗi người đều có một ngóc ngách trong trẻo để soi rọi vì nhau Chuyện thời con gái Thứ sáu, 17 Tháng 7 2009 09:41. Bà mẹ ân cần rót một bát nước còn bốc khói, niềm nở đặt vào tận tay chị: Chị uống tạm. Ở nhà quê chỉ có nước chè tươi. Khách mỉm cười: - Cháu xin bác. Trời nóng quá. Cháu cũng rất thích chè tươi ạ Rồi chị khẽ thổi, ghé môi uống từng ngụm nhỏ ngon lành, trong lúc bà mẹ cầm quạt ngồi bên, vừa phe phẩy quạt cho chị, vừa ngắm vầng trán thanh khiết rịn mồ hôi của người khách lạ. Một người đàn bà thành phố đã đứng tuổi, ăn vận giản dị, tấm áo sơ mi xám nhạt rất hợp với đôi mắt to phảng phất buồn. Khuôn mặt tao nhã tuy không còn những nét trẻ trung, nhưng sự điềm tĩnh toát ra từ cái nhìn đằm thắm lại có một sức hút kỳ lạ. Vậy ra chị là… Bà mẹ buông lời thăm dò. Thực ra, bà cũng chưa biết người khách lạ này là ai? Vì việc gì chị ghé vào căn nhà đơn chiếc vốn chỉ có tiếng nói cười, những lời chào hỏi vồn vã vào những dịp lễ tết, khi các đoàn thể, chính quyền địa phương đến chúc tụng những gia đình có người hy sinh vì cách mạng. Ngoài những phút vui hiếm hoi ấy thì chỉ có mình bà lão vào ra thầm lặng. Bà chỉ biết rằng, từ lúc khách bước qua rặng cúc tần ngoài ngõ và ngồi xuống bên bà, thì tất cả những đồ vật quen thuộc đến tẻ ngắt ở đây bỗng như có một sức sống mới, từ bức tranh mẹ con gà đã ố vàng dán trên tường, cái chum sành đựng nước mưa dưới gốc cây cau già trước mảnh sân đất nện, đến những cái chén cũ sạch bóng nhưng lạnh lẽo vì ít khi có bàn tay người động đến… Tất cả đều có vẻ niềm nở, sống động khác thường. Căn nhà nhỏ bé của bà mẹ dường như ấm cúng hẳn lên. - Dạ, cháu làm việc trên tờ báo tỉnh. Nhân hôm nay về xã có chút việc, cháu rẽ vào thăm bác. Quý hoá quá. Nhà ta cũng vắng vẻ nhỉ, thưa bác? - Chẳng giấu gì chị - bà mẹ thực thà kể lể - ông lão hy sinh từ ngày đánh Pháp, tôi chỉ được hai em. Con chị lấy chồng bên kia sông, chỉ những ngày giỗ tết mẹ con nó mới bồng bế nhau về thăm bên ngoại. Còn thằng em, nó thuộc diện con một, lại là con liệt sĩ được xã miễn trừ nghĩa vụ. Nhưng nó nhập ngũ ở trường học. Vào bộ đội rồi nó mới biên thư về nhà. Đấy, em nó đấy. Bà mẹ nói và chỉ tay lên kệ thờ. Trên ấy, tấm ảnh Đạt trẻ măng, tóc rẽ lệch, vẫn cái nhìn.

<span class='text_page_counter'>(44)</span> hồn nhiên có phần nghịch ngợm như ngày nào nhìn chị thân thiết quá khiến chị chỉ muốn khóc. Bao nhiêu kỷ niệm tưởng như đã quên lãng chợt xô về: những bông hoa trinh nữ tím biếc khẽ đung đưa; cơn gió phóng khoáng trên triền đồi nóng như hun một ngày hè, và những tàu cọ xanh nõn bình yên chở che trên đầu hai người… Khung cảnh thật bình yên, thơ thới, nếu dưới kia, không xa, những chiếc Míc sơn màu nguỵ trang không là lời cảnh báo nhọn hoắt về những bất trắc có thể xảy ra bất kỳ lúc nào… Chị nuốt thầm nước mắt, cố xua đi những hoài niệm dai dẳng, nắm lấy bàn tay khô gày của bà mẹ, giọng ngàn ngạt: Bác ạ, trước đây con là… là… bạn học của anh Đạt. - Trời đất! - Bà mẹ kêu lên thảng thốt. Chiếc quạt đột nhiên tuột khỏi tay. Bà ôm lấy đôi vai chị, lắp bắp. - Sao con không nói ngay. Thế thì… con phải ở đây ăn cơm với bác. Chị mà từ chối là tôi giận đấy. Ăn cơm với bác, nghe không? Nỗi vui đột ngột làm bà mẹ cứ cuống lên, chẳng biết xưng hô thế nào cho phải. Khách mỉm cười, nói giản dị: - Vâng, con sẽ ngủ lại đây với bác đêm nay. Con xin ăn cơm nhưng có gì ăn nấy, đừng mua bán phiền phức, bác ạ. - Được rồi. Được rồi. Có gì ăn nấy. Chị đi rửa mặt cho mát, nước mưa đầy chum kia, rồi ngồi nghỉ. Bác chỉ làm một loáng là có cơm nóng ăn ngay. * * * Bà mẹ xách rổ tất tả đi ra ngõ, niềm vui khiến cho tấm lưng còng như thẳng lên, dáng nhanh nhẹn hẳn. Bây giờ trong nhà chỉ còn lại mình Hạnh. Chị đứng lên, đầu óc bỗng chao đảo như say sóng. Chị vội vịn vào tường, khẽ nhắm mắt. Khi trống ngực đã bớt đập thảng thốt, chị đến bên kệ thờ, châm ba nén hương, mắt như mờ đi, chị nhìn chăm chú bức ảnh của Đạt chắc là chụp từ ngày anh mới nhập ngũ, lòng thổn thức: Anh ơi, em đây, Hạnh đây. Hôm nay em mới về thăm mẹ được. Em có lỗi. Mong anh hãy thay lỗi cho em. Thế mà đã hơn hai mươi năm rồi! Khói nhang bốc mờ mờ. Mùi trầm xa vắng. Tấm ảnh Đạt trên kệ thờ khi tỏ khi nhạt. Cái nhìn thân thiết của anh khiến vết xước găm vào tim chị, từ lâu, bỗng nhói đau. Hình ảnh của anh những ngày đầu hai người mới quen biết chợt buốt giá một vùng nhớ. Một cơn lạnh chạy dọc sống lưng, Hạnh rùng mình. Ngày ấy, chị, một sinh viên khoa văn mới ra trường. Chiến tranh. Bom đạn và những lần đi công tác đạp xe suốt đêm cũng chẳng là gì đối với tuổi trẻ. Ở toà soạn báo nơi chị về thực tập, khi được hỏi nguyện vọng, chị xin viết về đề tài chiến tranh. Lúc ấy, trưởng ban biên tập, cặp mắt kính trễ trên sống mũi không giấu nổi cái nhìn ái ngại: đúng là ngựa non thì háu đá. Hoặc là cô ta còn non nớt quá! Đấy là một đề tài hóc búa nhất, hơn nữa, để có tài liệu mà viết phải có những chuyến đi vất vả, hiểm nguy nữa. Hạnh cảm thấy nóng mặt nhưng vẫn giữ ý mình. Chị biết rằng, ngòi bút chỉ có cảm hứng khi viết về những gì ta căm ghét nhất, hoặc ngược lại, yêu thương đến ngạt thở. Chị khâm phục sự chịu đựng gian khổ của những người lính, nhất là những giây phút họ dũng cảm ngẩng mặt đối diện với cái chết. Từ ngày còn là học sinh phổ thông Hạnh đã yêu thích môn văn, vì văn học chính là sự giãi bày tấm lòng mình, đồng thời là sự lý giải những hiện tượng, những số phận con người ở xung quanh ta bằng những cảm nhận tinh tế nhất Hạnh nghĩ thế. Và chị khát khao lý giải một cách thấu đáo hành động quên mình của các chiến sĩ. Năm 1972. Hà Nội là trọng điểm oanh tạc của bọn phi công Mỹ. Những lần chúng lẻn vào đánh phá Thủ đô, những chiếc Míc bé nhỏ lại lập công xuất sắc. Sau lần phi công ta bắn rơi chiếc "Thần Sấm" xuống Ngọc Hà, tấm ảnh chụp cô gái làng hoa bình thản cầm bình nước tưới cho những bông hoa tươi rói bên cạnh cái xác chết kềnh càng của "Thần Sấm" Mỹ làm Hạnh xúc động. Chị quyết định phải gặp gỡ các chàng trai điều khiển những chiếc Míc dũng cảm để viết bài về họ. Sân bay quân sự là một thung lũng nằm lọt giữa những nếp đồi cọ rất nên thơ ở phía Bắc Hà Nội. Rõ ràng không khí thời chiến, tiếng động cơ máy bay đinh tai nhức óc mỗi khi khởi động không ảnh hưởng đến quy luật sinh tồn của thiên nhiên. Những thân cọ sù sì trên những sườn đồi vẫn đều đặn mỗi mùa trăng lại nảy sinh một phiến lá xanh - một màu xanh non trẻ đến ngỡ ngàng. Hạnh đạp xe lên vùng đồi cọ vào tầm chiều. Đồng chí chính uỷ đoàn bay Lam Sơn thay mặt đơn vị tiếp nhà báo trẻ. Anh nhìn chiếc xe đạp dầu dãi trát kín bụi đỏ của Hạnh, cười điềm đạm: - Nhà báo lên tận đây vất vả quá. Mời chị vào sở chỉ huy ta làm việc. Hạnh hơi đỏ mặt vì tiếng "chị" được thốt ra một cách trân trọng ở người chỉ huy dày dạn.

<span class='text_page_counter'>(45)</span> này, cả cái từ "sở chỉ huy" là lạ đối với một phóng viên quèn khiến chị ngượng ngập. Chị nói nhẹ nhàng: - Em là Hạnh. Xin anh cứ gọi em là cô cho tiện. Em có một đề nghị là xin được gặp đồng chí phi công nào vừa bắn rơi máy bay địch mới đây. Chính uỷ đoàn bay tỏ ý ngần ngại: - Cậu ấy đang ở ca trực ngoài sân bay. Sau giờ trực chiến thì phải ngủ và nghỉ ngơi, đó cũng là kỷ luật. Thời chiến, anh em lái bọn tôi rất ít khi được rảnh rỗi cô Hạnh ạ. Hạnh cố nài: - Cái nghề làm báo… Anh thông cảm, trăm điều nghe không bằng một thấy. Hay là… em xin ra chỗ anh ấy đang trực. Em sẽ không làm mất nhiều thì giờ của các anh đâu. Được không ạ? Hạnh được ra sân bay trên chiếc commăngca dã chiến. Từ sở chỉ huy ra đấy họ phải đi theo con đường đất đỏ ngoằn ngoèo dưới chân đồi. Đây là lần đầu tiên Hạnh được nhìn thấy những chiếc Míc gần đến thế. Đậu trên sân bay dưới những tấm bạt nguỵ trang, ngoan ngoãn để cho những người thợ máy lau chùi, chăm sóc, những chiếc máy bay từng vào sinh ra tử nom vẻ rất đỗi hiền lành, thân thiết. Chị thú vị thầm nghĩ. Những phi công của ca trực đang có mặt trong căn hầm rộng đào ngoàm vào sườn đồi. Trần hầm căng dù hoa, bên dưới là những giường cá nhân có trải nệm tinh tươm nhưng không có ai nằm trên đấy cả. Anh em đang túm tụm chơi bài tú lơ khơ trong những bộ đồ bay có nhiều khóa thép, nút thắt rối rắm và những ống bơm cao áp gắn bên sườn, nom họ có vẻ kềnh càng, di chuyển chậm chạp tựa những người trên hành tinh khác trong tờ báo nước ngoài có lần Hạnh đã nhìn thấy. Khi đồng chí chính uỷ đoàn bay giới thiệu nữ nhà báo trẻ, các phi công nhìn chị, mỉm cười thân thiện. Đồng chí biên đội trưởng, người đã lập công trong trận không chiến bảo vệ thủ đô mới đây đến gần bắt tay Hạnh. Anh có vẻ là người vui tính: - Tôi là Độ, quê ở Thanh Chương, đã một vợ, gần hai con. Về mặt này tôi tự nhận là cựu binh. Ở đây anh em nhiều người chưa vợ, chưa cả người yêu cô Hạnh ạ. Hạnh bật cười, chị thấy có cảm tình ngay với người đàn ông vạm vỡ nói giọng xứ Nghệ đặc sệt này: - Người Hà Nội rất hả dạ được tận mắt thấy máy bay Mỹ rơi ngay trên đất Thủ đô. Em muốn biết những chi biết khi anh bắn hạ chiếc "Thần Sấm" ấy. Độ hấp háy mắt nhìn lên vòm hầm căng dù hoa: - Biết nói thế nào nhỉ. Có lẽ các nhà văn, nhà báo có óc tưởng tượng phong phú nên nghĩ ra nhiều chuyện đấy thôi. Thật ra, với bọn tôi thì khá đơn giản. Điều cốt yếu là phải có một tập thể hiệp đồng chặt chẽ, ăn ý. Tôi nói thật chứ không khiêm tốn vờ đâu. Cô Hạnh biết không? Phải có rađa mặt đất phát hiện mục tiêu chính xác, rồi đài chỉ huy hướng dẫn đường bay tỉnh táo. Việc còn lại là… là bọn tôi phải bám sát mục tiêu, khi nào chúng nó lọt vào vòng ngắm thì phải nhả đạn lập tức, không được chậm trễ. Có vậy thôi. Hạnh xịu mặt nói như hờn dỗi: Anh kể đơn giản thế thì em đến thất nghiệp mất. Biên đội trưởng cười hiền lành: Đúng thế. Tôi có bịa đâu. À, có chuyện này. Sao ạ? - Hôm ấy tôi suýt nguy nếu cậu Đạt, số 2 của kíp bay không nhanh mắt phát hiện một máy bay địch từ tầng cao bổ nhào vào tôi. May thật. Anh nói đến đây thì một liên lạc chạy đến, mời biên đội trưởng đi hội ý. Độ xin lỗi, đứng lên, rồi ngoái lại phía sau, gọi: - Đạt ơi, lại đây nào - và anh mỉm cười - có lẽ cậu sinh viên Hà Nội này hợp chuyện với nhà báo hơn. Đấy là lần đầu hai người gặp nhau, rất tình cờ, nhưng định mệnh hình như đã sắp đặt cho cuộc đời Hạnh có những vết khắc rớm máu trong tim. Nhưng lúc ấy chị hoàn toàn không dự cảm được điều ấy, chỉ biết rằng khi anh rời các bạn, cười ngượng ngập bước đến gần, chị nhận ra người sinh viên Hà Nội này cao hơn mình hẳn nửa cái đầu và khá điển trai. Đạt vui vẻ nói trước: - Nhà báo gặp may đấy. Chiều nay không hiểu sao chỉ có một lần báo động, chứ mọi ngày bọn tôi chẳng được ngồi yên đâu. Hạnh nói: - Anh Đạt, em muốn hỏi chuyện bắn máy bay mà anh Độ không chịu kể. - Đồng chí biên đội trưởng của chúng tôi đấy ư? Một người tuyệt vời đấy..

<span class='text_page_counter'>(46)</span> Vậy theo anh, thế nào là một người tuyệt vời? - À, trong hoàn cảnh cụ thể hiện nay thì đơn giản là thế này, anh ấy mà xuất kích thì bọn địch hãy liệu hồn! Bọn tôi thường nói vụng với nhau: Biên đội trưởng say đánh địch hơn là mình say người yêu. Đến lượt Hạnh bật cười. Không hiểu sao chị cảm thấy nói chuyện với anh thật dễ chịu. Có lẽ anh chỉ hơn Hạnh vài ba tuổi. Nhưng rõ ràng nếp sống quân ngũ, sự luyện tập khắc nghiệt và những lần đối mặt với nguy hiểm đã giúp anh bớt đi sự phù phiếm và những non nớt trong ứng xử. Không hề kiểu cách, Đạt rất cởi mở và anh biết cách diễn đạt ý mình một cách độc đáo. Bất giác, chị bỗng nảy ra ý muốn trêu chọc người đối diện: - Nói như vậy tức là… là anh Đạt đã có người để say mê rồi? Câu hỏi vừa buột ra Hạnh bỗng thấy mình sao ngốc quá. Một câu hỏi thật vô ý. Và chị đỏ mặt nhìn nhanh Đạt. Ánh mắt họ gặp nhau. Rồi cả hai cùng nhìn lảng đi, ngượng ngập. Câu hỏi không có lời giải đáp. Vừa lúc ấy chiếc kẻng treo trên cành bạch đàn cụt ngọn ngoài cửa hầm bỗng khua dồn dập. Đạt vội đứng lên, anh nói nhanh: "Hẹn gặp Hạnh sau vậy nhé!". Những phi công vội vã rời cửa hầm. Hạnh nhìn thấy Đạt chạy trong tốp đầu tiên, anh vừa sải bước vừa sửa lại chiếc mũ bay nặng trịch trên đầu. Rồi chị nhận ra cái dáng vạm vỡ của Độ từ đài chỉ huy bước vội xuống những bậc tam cấp. Chị hiểu rằng đồng chí biên đội trưởng đã không chịu bỏ lỡ trận chiến. Những người thợ máy đã nhanh chóng có mặt dưới chân thang máy bay. Một người đỡ khoang buồng lái. Đạt trèo lên khoang máy, ngồi xuống. Tiếng động cơ lập tức gầm lên khởi động. Không khí nóng ngột như rung lên. Bạt ngàn cỏ dại bên đường băng thi nhau ngả rạp xuống. Kể từ giây phút ấy mặc nắng nóng và gió quật vào tóc rối bời, Hạnh không sao rời mắt khỏi những con chim sắt giờ đây đã trở nên rất thân thiết đối với tâm hồn chị. Chiếc Míc đầu tiên do Độ lái đã rời đường băng. Liền sau đó, máy bay của Đạt lăn bánh trên nền xi măng đẫm nắng. Hạnh để hết tâm trí mình dõi theo những chuyển biến mau lẹ trước mắt. Rồi chị sửng sốt nhận thấy, trong một tích tắc trước lúc rời đường băng, hình như Đạt còn quay lại, thoáng giơ một bàn tay vẫy về phía chị. Rồi những cánh bay nhanh chóng xa dần, mất hút vào vòm trời xanh nhức mắt. Đồng chí chính uỷ đoàn bay đứng sau Hạnh chợt nói: "Địch vào hai tốp, tám chiếc. Chúng định giở trò gì đây?". Trái tim Hạnh bỗng thắt lại vì lo sợ: Phía quân mình chỉ có bốn máy bay xuất kích, lực lượng chênh lệch quá. Lạy trời cầu mong cho các anh ấy an toàn trở về! * * * Khó có thể nói rằng, đấy là chuyến đi thực tế thành công hay thất bại đối với Hạnh. Tuy nhiên, nếu hiểu một cách đơn giản, là năng lực của nhà báo phải căn cứ vào số lượng bài in ra, thì cuộc gặp gỡ các phi công lần ấy với chị không có được kết quả cụ thể. Chị không thể chỉ viết bằng những khái niệm mơ hồ hoặc sự bịa đặt sống sượng. Nhưng trong sâu thẳm lòng mình, Hạnh hiểu rằng từ nay, tâm hồn chị sẽ giầu có hơn vì sự quen biết một vùng đất mới có rất nhiều những phiến lá cọ bình thản đón nắng, và những người bạn mới đáng yêu. Và chính vì những tình cảm chưa chuyển tải được lên trang viết lại khiến tâm trí Hạnh luôn hướng về nơi đó như một món nợ chưa trả xong. Khi chị lên sân bay lần thứ hai, không quên mang theo dăm số báo mới nhất và mấy cuốn sách văn nghệ tặng thư viện đoàn Lam Sơn, thì mọi người ở đây đối với nhà báo trẻ đã trở nên rất thân thiết. Hôm ấy, những phi công chị đã quen trong giờ nghỉ. Họ ở trong doanh trại - những căn nhà cấp 4 nằm sơ tán dưới chân đồi cọ. Anh em đang xúm quanh bàn bóng. Tiếng cầu nhựa đập trên sàn gỗ và tiếng cười trẻ trung, sôi nổi. Hạnh đến, họ vui vẻ kéo chị cùng tham gia cuộc vui. Và làm như vô tình mọi người ghép Hạnh và Đạt là một đôi nam nữ phối hợp trong cuộc thi đấu. Hình như sự có mặt một cô gái đẹp từ Hà Nội đến khiến cho không khí thêm hào hứng. Các phi công trổ hết tài năng. Họ thực sự là những cây vợt đáng nể. Nhưng Hạnh cũng từng là cây vợt không thuộc loại xoàng của toà soạn. Kết cục là hai người giành phần thắng. Chính uỷ đoàn bay vui vẻ bắt tay Hạnh và trao phần thưởng cho họ: một hộp kẹo ngon mà ngày ấy, chỉ những phi công được hưởng chế độ ưu đãi đặc biệt mới có. Một rắc rối nho nhỏ đã nảy sinh: Họ có chung quyền sử dụng chiến lợi phẩm. Hạnh muốn cùng mọi người chia xẻ nhưng Đạt ngăn lại, anh tuyên bố tất cả phần thưởng là của Hạnh và chị phải mang nó về Hà Nội làm quà. Mọi người xung quanh rào rào vỗ tay khiến Hạnh thật khó từ chối. Chị cười, đôi mắt đẹp nhìn Đạt cảm kích. Nhưng các chàng trai trong phút vui cuồng nhiệt lại không hài lòng với cử chỉ rụt rè ấy của chị. Họ đều đã được huấn luyện lái máy bay chiến đấu ở một xứ sở có nhiều tuyết rơi về mùa đông. Ở đấy, con trai con gái gặp nhau.

<span class='text_page_counter'>(47)</span> dạn dĩ hơn, phóng khoáng hơn. Và họ đồng thanh hét lên: "Hôn đi! Hôn đi!" Hạnh lúng túng thật sự, chị đỏ mặt. Nhưng mọi người vẫn không tha. "Hôn đi! Hôn đi!". Họ giục giã. Và chị cảm thấy đôi môi Đạt lướt qua má mình. Sau đấy, hai người ngồi bên nhau trên sườn đồi. Xung quanh họ, những cụm cỏ trinh nữ đầy gai nhọn có những bông tím khẽ đu đưa mỗi khi một cơn gió thổi tới. Mùi hoa chè thơm thoảng đâu đây. Mặt trời đã lặn bên kia đồi. Những tia nắng cuối cùng của ngày hè tưới đẫm lên những tàu cọ non, biến chúng thành màu vàng chanh lộng lẫy. Hạnh thích thú ngắm nhìn những sắc màu biến đổi nhanh chóng trước mặt. Chị nói mơ màng: Khi anh bay trên ấy nhìn xuống hẳn là thú vị lắm? Đạt cười: - Không hẳn thế đâu. Khi ngồi vào buồng lái bọn anh thậm chí không có thì giờ để cảm nhận trời đẹp hay xấu, vì còn phải theo dõi những đồng hồ bay để kiểm tra máy móc, xăng dầu và tốc độ bay, rồi còn phải giữ liên lạc với mặt đất nữa. Em cũng muốn biết… Đạt nheo mắt: À, cuộc phỏng vấn bắt đầu? Hạnh cũng cười: - Không, không phải phỏng vấn. Em chỉ muốn biết cảm giác khi anh rời mặt đất. Đạt nói nhẹ nhàng: - Với người khác thế nào không rõ. Còn với anh, ngay sau khi người thợ máy đóng nắp cabin buồng lái, bước xuống đất, ở vào khoảnh khắc ấy, với anh, tất cả những gì thân thiết đã ở phía sau rồi, trước mắt người lái chỉ còn bầu trời rộng khôn cùng với vô vàn những bất trắc có thể xảy ra trong một cái chớp mắt… Đạt ngừng lời, hình như anh đang chọn từ ngữ để diễn đạt cho chính xác những ý nghĩ của mình. Anh nói đi. - Nói thật nhà báo đừng cười. Lúc ấy tôi thấy rất rõ cảm giác cô đơn. Cô đơn đến thắt lòng. Rất may cảm giác hẫng hụt ấy qua đi mau. Ngay sau lúc hệ thống máy móc bắt đầu hoạt động thì tâm trí người lái lập tức bị hút vào công việc: phải bảo vệ đồng đội và tuyệt đối tuân theo sự chỉ huy của biên đội trưởng bay phía trước. Hạnh bỗng sực nhớ: À, cả buổi chiều nay em không thấy anh Độ? - Anh ấy đi công tác - Đạt trả lời và cảm thấy đôi mắt đen lo lắng nhìn anh chăm chú, lặng câm trong một câu hỏi bồn chồn, thôi thúc. Không thể đừng, anh ghé tai chị nói nhỏ điều gì. - Thế thì tốt quá! - Hạnh thở ra nhẹ nhõm, nhưng thực tình chị cũng chẳng rõ mình vui sướng vì sao. Vì anh đã tin cậy thổ lộ với chị những ý nghĩ và công việc của một phi công trong chiến trận? Vì một kiểu máy bay mới họ sắp được trang bị để đối phó hiệu quả hơn với bọn kẻ cướp nhà giàu? Vì không phải Độ đã gặp chuyện chẳng lành như chị đã hoang tưởng? Hay vì chị đang được ngồi cạnh Đạt trong một buổi chiều hiếm hoi tuyệt đẹp này? Hạnh không rõ, chỉ biết rằng, những điều chị đã cảm nhận thật cần thiết cho công việc và cho cuộc đời chị. Đạt quay sang Hạnh. Khi nhìn nghiêng, khuôn mặt chị thật dịu dàng, sống mũi nhỏ, cái nhìn đầm ấm và vầng trán cao thanh khiết. Một người thông minh và tốt bụng, anh nghĩ thế và mạnh dạn nắm lấy bàn tay rám nắng, trên cườm tay có đeo một chiếc lắc nhỏ bằng bạc của chị. Anh nói ngập ngừng: - Lần trước Hạnh về rồi anh Độ cứ nhắc mãi. Còn anh thì tin rằng nhất định em sẽ lên. - Điều gì làm anh tin như vậy? Giọng chị hơi run, tim đập thảng thốt, nhưng Hạnh không tìm cách rút tay về. Linh tính. Vậy, giả dụ em không lên? Thì có dịp, anh sẽ về Hà Nội tìm em. Hạnh bối rối im lặng. Đạt nhìn vào mắt Hạnh, nói thêm: - Nhưng điều ấy đối với bọn anh lúc này hơi khó, em hiểu không? Chị ngoan ngoãn gật đầu, lại chợt nhớ đến điều anh ấy vừa nói về cái cảm giác cô đơn khi người phi công rời mặt đất, Hạnh bỗng thấy một niềm xót thương lẫn sự trìu mến tràn ngập khiến ngực chị đau nhói. Cần phải nói một câu gì, hay làm một điều gì để anh ấy luôn cảm thấy rằng, trên ấy và dưới này luôn là sự ràng buộc chặt chẽ, rằng tất thảy mọi người và cả chị nữa, luôn luôn ở bên anh ấy, rằng anh ấy phải chiến thắng trở về… Hạnh nghĩ thế, nhưng tất cả những điều đang diễn ra trong lòng chị thật khó nói nên lời, vì thế, chị chỉ khẽ rút chiếc lắc bạc trên cườm tay trao cho anh và nói ngập ngừng:.

<span class='text_page_counter'>(48)</span> Anh giữ lấy. Và hãy… nhớ em luôn. Điều kỳ lạ là dường như anh đã hiểu tất cả những điều chị chưa kịp nói. Anh trân trọng đón tặng vật và bỏ nó vào túi áo bên trái tim mình: - Nó sẽ ở đây, mãi mãi, kể cả lúc anh phải quần nhau với chúng nó. Hạnh ơi, từ nay anh đã có nơi để mà mong nhớ, phải không em? Hạnh không trả lời, chỉ ngước nhìn anh bằng ánh mắt tràn ngập sung sướng. Và đấy là lần đầu tiên trong đời con gái, chị run rẩy đón nhận nụ hôn bỡ ngỡ của mối tình đầu trong trắng, để sau này những kỷ niệm về nó trở thành vết xước trong trái tim chị. Thời gian có thể làm lành vết thương, nhưng vết sẹo thì vẫn còn đó, mãi mãi ghi dấu vào cuộc đời người đàn bà. Cuối năm 1972. Bầu trời Hà Nội luôn bị xé nát bởi những luồng đạn phòng không và tiếng rú đột ngột của còi báo động. Những pháo đài bay B.52 đã cắt bom rải thảm xuống cả bệnh viện và những khu phố đông dân. Công việc của một phóng viên chiến tranh ngày càng vất vả hơn. Ban đêm Hạnh cặm cụi viết bài. Ban ngày chị đội mũ rơm đến các cụm pháo bảo vệ cầu Long Biên. Có lần chị xông vào tận Hoả Lò gặp những giặc lái Mỹ vừa bị bắn hạ, nghe chúng kể: "Những chiếc Míc bé nhỏ thật đáng sợ. Họ dám lao đến gần vùng điểm nổ mới ấn nút phóng tên lửa. Theo lý thuyết thì không được phép làm như thế. Ở vùng điểm nổ, nếu tên lửa trúng đích, máy bay đối phương bốc cháy có thể gây sát thương cả cho mình. Chúng tôi bị bất ngờ. Hoàn toàn bất ngờ". Hôm sau ở toà soạn Hạnh nhận được bức thư của Đạt chỉ vẻn vẹn một câu ngắn ngủi: "Anh mãi yêu em. Bên dưới là chữ ký rắn rỏi quen thuộc. Hạnh khóc. Nước mắt chị thấm ướt những nét chữ phóng khoáng của người yêu. Lâu nay hai người vẫn trao đổi những bức thư đắm say. Rồi qua những dòng chữ nhiều hoặc ít của anh, chị thầm đoán định mức độ ác liệt của những cuộc không chiến. Bức thư gần đây anh viết: "Thật kỳ lạ, từ khi có em, anh thấy dường như cái chấm xanh lung linh dưới chân Tháp Rùa, mỗi khung cửa sổ sáng đèn trong đêm Hà Nội, cả những lối mòn ven đê như gắn bó máu thịt với mình hơn. Vì ở đó có em - cái dáng bé nhỏ vô cùng thương mến trong tấm áo màu cỏ mải miết đạp xe đi về, cặm cụi làm việc và lo lắng cho anh… Còn bây giờ, chị hiểu rằng anh không có nhiều thì giờ dành cho tình yêu. Khoảng hơn tháng sau, vào một ngày vùng trời Hà Nội chẳng mấy lúc được yên tĩnh, toà soạn nhận tin có một máy bay rơi xuống vùng ngoại ô. Khi Hạnh đến nơi thì đám ruộng nước ở ven đê đã có đông bà con tụ tập. Mọi người ra sức đào bới. Gần một tiếng sau thì những mảng kim loại cháy đen đã bị biến dạng khi va chạm mạnh lúc rơi xuống đất, nhưng vẫn có thể nhận ra đấy là cái bộ phận buồng lái được đưa lên khỏi mặt ruộng vũng vĩnh bùn. Một cán bộ huyện đội, sau khi xem xét kỹ đã xác định đấy là máy bay ta. Có người còn cam đoan rằng đã nhìn rõ mảnh vỡ này bốc lửa ở trên cao nhưng không thấy dù bật ra. Hạnh hồi hộp chen trong đám đông cố đến gần khoang lái với chiếc máy ảnh trong tay. Mọi người không ai nghĩ đến việc can ngăn cô phóng viên khi chị loay hoay chui đầu vào khoang lái. Ở đấy, Hạnh cố sức quan sát, lục lọi, mong tìm thấy những dấu vết còn lại của người chiến sĩ đã hy sinh. Rồi chị run bắn người lên khi chợt nhận ra, trong đống tàn tro và những thanh sắt cong queo có một vật sáng lấp lánh. Hạnh nhặt lên và nhận ra chiếc lắc bạc quen thuộc của chính mình. Chiếc máy ảnh tuột khỏi tay Hạnh. Mặt trời, ruộng lúa và những đám mây quay tròn, quay tròn, Hạnh gục xuống ngất đi… Ít lâu sau Hạnh nhận được một bức thư đóng dấu bưu điện từ sân bay vùng đồi cọ. Đó là thư của đồng chí biên đội trưởng. Trong thư Độ viết: Em Hạnh thân mến! Cho phép tôi coi em như người thân thiết trong gia đình phi công. Bởi vì trước đây, có lần Đạt đã tâm sự với tôi về tình yêu của hai người. Biết được tin ấy cả đơn vị chúng tôi vui mừng lắm. Thú thật, tôi còn chút thầm ghen tị với hạnh phúc của các bạn đấy. Thật là một lứa đôi lý tưởng. Và tôi tin chắc rằng tình yêu của các em sẽ mãi mãi bền vững. Vậy nên lúc này tôi đã đắn đo rất nhiều khi cầm bút viết thư này cho em, nhưng tôi tự thấy mình không được quyền giấu em cái tin Đạt đã hy sinh trong một trận không chiến ở vùng trời Hà Nội. Tôi thông cảm nỗi đau đớn này của em, nhưng nếu có chút nào an ủi được em thì đấy là một trường hợp hy sinh rất dũng cảm, là cái chết của một người anh hùng. Em biết không? Hôm ấy, bọn B.52 chúng nó vào Hà Nội nhiều đợt. Anh em chúng tôi phải xuất kích nhiều phen. Cũng như những lần trước đây, tôi rất yên tâm mỗi khi có Đạt là số hai yểm trợ phía sau. Chúng tôi đã cùng bay đôi nhiều lần. Cậu ấy không bao giờ để tôi bị hở sườn hoặc để chúng nó bám đuôi mình. Và lần ấy, cả hai chúng tôi đều đã lập công. Đạt phóng hai quả tên lửa làm tan xác một "Con ma", còn tôi thì bắn hạ một.

<span class='text_page_counter'>(49)</span> B.52. Sau đấy chúng tôi đã hết đạn, đang trên đường quay về lại nghe tin có thêm Pháo đài bay chúng nó đang vào không phận Hà Nội. Và những chiếc tiêm kích đi kèm yểm trợ B.52 đã rất xảo quyệt xông vào công kích bọn tôi. Tôi ra lệnh cho Đạt phải cố tránh cuộc giao chiến không cân sức, trở về sân bay an toàn. Hạnh biết đấy, mỗi chiếc Míc với đất nước còn nghèo khó của chúng ta là cả một tài sản khổng lồ. Trong hoàn cảnh ấy tôi cho rằng, đưa được máy bay an toàn trở về là một nhiệm vụ không dễ dàng. Và chỉ còn khoảng 3 phút bay nữa chúng tôi đã về đến vùng đồi cọ. Đúng lúc ấy, tôi nhận thấy bọn B.52 đã cắt bom rải thảm xuống Hà Nội do những đợt sóng xung kích va đập trên không trung. Rồi tôi thấy mình bỗng mất liên lạc với Đạt. Thoạt đầu tôi ngờ cậu ấy bị bọn tiêm kích bắn hạ, bèn cố sức quan sát xung quanh, nhưng tôi đã không hề nhận thấy có dấu hiệu xấu, chỉ đơn giản là Đạt không trả lời những mệnh lệnh của tôi. Lúc ấy tôi không khỏi bực bội trong lòng. Đấy là lần đầu số 2 có hành động vô kỷ luật trong chiến đấu. Tôi đâu biết rằng, Đạt đã lẳng lặng cho máy bay vòng trở lại, vừa cố tránh bọn tiêm kích, cậu ấy vừa tìm cách tiếp cận pháo Pháo đài bay. Vì Đạt đã quyết định sẽ dùng chính máy bay của mình làm quả đạn thứ ba. Tăng hết tốc lực, cậu ấy cho chiếc Míc đâm thẳng vào chiếc B.52 gần nhất. Một đám cháy khổng lồ đã thiêu rụi chiếc Pháo đài bay khốn kiếp. Nhưng Hạnh ơi, người yêu của em thì không trở về nữa. Sau đấy, kỳ tích của người anh hùng của chúng ta đã được cả quân chủng chúng tôi học tập, noi theo… * * * Hai người đàn bà đã dùng xong bữa. Hạnh thấy ngon miệng với bát canh hoa lý nấu trứng tôm ăn với cà muối xổi và món cá rô ron rán vàng chấm với nước mắm chanh ớt. Quả thật những món ăn không chút cầu kỳ này chị thích hơn nhiều những lần dự tiệc tùng trong đời làm báo. Hạnh thành thật nói ra điều ấy khiến bà mẹ rất vui: - Tưởng chị ưa ăn các thứ cao sang gì, chứ thích những món nhà quê ấy thì cứ ở lại đây với bác một tháng. Con cũng muốn thế, nhưng còn công việc và các cháu. À, bác sơ ý thật. Anh chị được mấy cháu rồi? Dạ hai. Cháu lớn năm nay đã vào đại học. Quý hoá quá. Anh ấy chắc cũng làm việc trên tỉnh? - Vâng - Khách đáp gọn rồi ánh mắt chị ngó mung ra mảnh vườn nhỏ. Ngoài ấy, chút ráng đỏ cuối ngày còn ửng lên chiếc đọt cau mềm lả. Những nụ hoa trinh bạch lấm tấm rơi quanh chum nước. Không khí yên tĩnh thoảng mùi hoa cau thơm ngọt. Xa xa vẳng tới tiếng vạc gọi đàn. Đã lâu lắm, lâu lắm Hạnh mới có một buổi chiều tĩnh lặng, không có tiếng động cơ rú nhức óc, không bụi bậm phù du chốn thị thành, không cả mùi thuốc lá ám ảnh trong căn hộ tập thể trên tầng bốn có chiếc cầu thang tôi tối lúc nào cũng thoảng mùi khai để nghe lòng mình lắng lại với những kỷ niệm của thời con gái. Không thấy chị nói gì thêm, lúc sau bà mẹ ngước nhìn lên và nhận ra nét buồn đang đọng trên gương mặt thiếu phụ. Chị ấy không nói gì về chồng. Lạ nhỉ. Nếu được sung sướng người đàn bà nào cũng muốn san sẻ niềm vui. Nhưng không lẽ người đẹp như thế mà không có hạnh phúc? Bà mẹ băn khoăn. Và bà mẹ đã đoán không sai. Niềm vui thì khó giấu, còn nỗi buồn chỉ muốn nén chặt trong tim. Sau ngày mất Đạt, Hạnh buồn đến ngơ ngẩn. Chị không còn chú ý gì đến xung quanh. Nhiều đồng nghiệp săn đón cô phóng viên trẻ đẹp chỉ được đáp lại bằng thái độ lạnh lẽo. Tám năm sau, Hạnh đồng ý lấy một người bạn học cũ. Người ta bảo Quý là một kiến trúc sư có tài. Có thể đúng vậy. Những bản vẽ thiết kế của anh về các biệt thự, nhà cao tầng và công sở bao giờ cũng được cơ quan đánh giá cao. Nhưng Quý bĩu môi: "Đồng lương rẻ mạt, còn thù lao chẳng ra quái gì. Giá làm cho nước ngoài hay các liên doanh mạnh, bản thiết kế của anh phải được trả 7, 8 ngàn đô". Hạnh nói nhỏ: "Đòi hỏi thì vô cùng, nhà mình còn thiếu gì đâu". Quý cười khẩy: "Em lạ thật. Tự bằng lòng với cái lồng nhỏ này thì còn gì là ý chí vươn lên nữa. Làm thằng đàn ông cho ra thằng đàn ông phải có một gia đình sung túc! Rồi anh sẽ kiếm đủ tiền cho em được nghỉ ngơi". Hạnh hiểu, hai chữ "nghỉ ngơi" theo cách của Quý nghĩa là chị sẽ hoàn toàn phụ thuộc vào chồng. Hàng tháng anh sẽ chi cho vợ một món tiền chợ dư dả gộp cả tiền mua son phấn, giầy dép và quà bánh hàng năm đôi lần chị về thăm bên ngoại. Rồi hàng ngày chị lo thay đổi món ăn và các thứ tráng miệng sao cho hợp khẩu vị của chồng. Tối đến thì nằm dài trên đi văng coi ti vi và dũa móng tay móng chân… Tóm lại, một kiếp sống của loài tầm gửi. Thế thôi. Hạnh không tưởng tượng nổi mình sẽ biến thành một mệnh phụ ăn nói kiểu cách như thế nào. Chị yêu công việc của mình và cố không động đến những món thu nhập thêm của chồng. Đêm đêm nằm bên Quý nghe anh tính toán về cuộc sống.

<span class='text_page_counter'>(50)</span> tương lai sung túc, tự nhiên chị lại nhớ Đạt. Anh ấy nhập ngũ khi học năm cuối cùng đại học ngoại ngữ. Chưa bao giờ anh ấy nghĩ đến việc làm cho người nước ngoài chỉ vì mục đích kiếm tiền. Anh ấy yêu Hà Nội… Nước mắt ứa ra, chị lặng lẽ cố nhích xa cái bụng đã bắt đầu xệ vì bia bọt của Quý. Với chồng, Hạnh chưa bao giờ tìm thấy sự đồng điệu về tâm hồn. - Bác ơi, ngày ấy… người ta báo tử về trường hợp hy sinh của anh Đạt vào thời gian nào? Tháng 4 năm 1973, chị ạ. - Từ dạo ấy đơn vị có cử người về thăm gia đình ta không ạ? Bà mẹ ngừng nhai trầu: - Có đấy. Năm nào đơn vị cũng cho người về. Mới đây có một anh cao to nói giọng xứ Nghệ, bảo là bạn chiến đấu của em nó. Bác cũng giữ lại ăn cơm. Anh ấy ở chơi cả buổi sáng. Anh ấy có nói gì không ạ? - Kể nhiều chuyện từ ngày em nó còn, hai anh em lúc nào cũng ở bên nhau. Có điều… Sao ạ? Bà mẹ kéo vạt áo, chấm mắt: - Bác có nhờ anh ấy đề nghị giúp với đơn vị: em nó đã hy sinh vì nước cũng là vinh dự cho gia đình. Giờ bác chỉ có một ước nguyện được đưa em nó về cho có mẹ có con. Anh ấy đã hứa sẽ báo cáo lại với cấp trên. Nhưng bác chờ đã lâu không thấy đơn vị hồi âm. Mà bác thì mỗi tuổi một yếu. - Mẹ ơi! Chị buột gọi mẹ một tiếng rồi thốt im bặt, ngực lại nhói đau. Có lẽ hơn ai hết, chỉ mình chị biết được điều này, rằng hôm ấy anh đã chấp nhận hy sinh cùng cánh bay yêu quý với cả thể xác và linh hồn mình cho tình yêu Hà Nội, bởi vậy, phần mộ của anh hiện giờ ở nghĩa trang đơn vị chỉ đơn thuần là sự tưởng nhớ công lao của người anh hùng, là sự tiếc thương của những tấm lòng đồng đội với người bạn chiến đấu không còn nữa. Nhưng chuyện ấy làm sao có thể nói với mẹ? Và chính điều đó cũng là nỗi khổ tâm của Độ, anh đã không thể đáp ứng yêu cầu của mẹ. Chị xích ngồi gần lại, lặng lẽ ôm lấy đôi vai gày của mẹ và nhận ra rằng mình đã đến đây hôm nay thật đúng lúc, vì chỉ có chị, với những vật chứng quý giá mới có thể an ủi tuổi già của mẹ. Hạnh lặng lẽ mở túi xách lấy ra một tấm ảnh khổ lớn đưa cho mẹ. Bà mẹ ngỡ ngàng giơ tay đón lấy tấm ảnh chụp một ngôi mộ kiểu dáng đẹp, khá bề thế. Các em thiếu nhi và những quân nhân mũ nâng ngang ngực đứng trang nghiêm trước bó hương đang nghi ngút toả khói. Bà lập cập đeo kính và nhẩm đánh vần những hàng chữ trên tấm bia đen: Liệt sĩ Phan Hữu Đạt. Sinh 15-1-1950. Quê thôn Hạ, xã Ngọc Châu… Khi bà mẹ sững sờ ngẩng lên, đôi mắt bà ràn rụa ướt: Thế ra con đã… Chị ngẹn ngào: - Vâng. Con đã đến với anh ấy - Ngừng một lát, chị nói thêm. - Mẹ ơi, vong hồn anh ấy sẽ về đây, ở bên mẹ. Còn phần mộ ở đơn vị đã có đồng đội anh ấy chăm lo. Mẹ cứ yên tâm. Mẹ đã già yếu. Đường sá cách trở. Con xin mẹ nghe con. Bà mẹ nấc khe khẽ. Cả chị nữa, chị cũng không cầm được nước mắt. Đã bao năm nay chị mới được thoả lòng khóc nhớ anh ở chính căn nhà đã bao lần chị muốn đến mà chưa được thoả nguyện. Lâu sau chị ngẩng lên lau nước mắt: Mẹ à, còn cái này. Đây là di vật… Hạnh tháo chiếc lắc bạc từ ngày ấy vẫn không rời tay chị, trao cho mẹ. Cầm chiếc vòng bạc, bà mẹ khóc oà. Bà vẫn không quên, lần ấy anh về phép đã vui vẻ khoe với mẹ vật này đây. Anh còn đoan chắc rằng sẽ đưa cô gái của chiếc vòng bạc này về với mẹ. Bà đã chờ đợi, và hy vọng rất nhiều. Nhưng con của mẹ đã không trở về, giờ chỉ còn chiếc vòng bạc này trong tay mẹ… Hạnh nhẹ đỡ mái đầu bạc của mẹ để tựa vào vai mình. Nước mắt bà thấm ướt áo chị. Khi nỗi đau theo nước mắt đã nguôi ngoai, bà mẹ bỗng lờ mờ cảm thấy rằng, người có chiếc vòng bạc mà con trai mẹ nặng lòng yêu chính là thiếu phụ này. Chính là chị - mối tình đầu trong sáng, niềm say mê bền bỉ đã tạo nên niềm vui rạng ngời trên nét mặt anh cả trong những tháng ngày chiến đấu gian nan là người đàn bà này. Bà tin chắc vào điều đó, bằng trái tim đau khổ và mẫn cảm của người mẹ, rằng chính nỗi đau của tình yêu đã để lại nét buồn thẳm sâu trên gương mặt khả ái của chị. Vẫn gục đầu trên vai Hạnh, bà mẹ nghẹn ngào thì thầm gọi: "Con ơi!". Và tiếng gọi thân thiết xiết bao mong ước ấy khiến nỗi đau của mẹ như đã được chia sẻ. Còn Hạnh, chị biết rằng mình đã nói với mẹ những điều chỉ xuất phát từ tấm lòng chị. Nhưng chuyện ấy thực sự không quan trọng,.

<span class='text_page_counter'>(51)</span> miễn là mẹ được thanh thản sống vui những ngày cuối đời. Ngoài kia, bóng tối đã choàng lên mảnh vườn nhỏ. Sương đã xuống trong gió đêm lành lạnh. Nhưng cái lạnh đêm nay với hai người đàn bà đã trải qua nỗi đau mất mát chỉ càng làm họ gần gũi, thân thiết nhau hơn. Một quãng đời và cả cuộc đời Thứ sáu, 10 Tháng 7 2009 17:07. Thế là xong! Ký xoẹt một cái, tôi quẳng chiếc bút xuống mặt bàn. Ðứng dậy, nhìn bản như nhìn một công trình khó nhọc, bám riết lấy tôi, hút máu thịt tôi, nay đã được hoàn thành, đã ra khỏi cơ thể của mình. Nó không thuộc về tôi nữa. Cũng như người đàn bà nhỏ bé đang run rẩy như chiếc bút tôi vừa bỏ xuống, bây giờ đã trở thành người dưng nước lã. Tôi hơi buồn cười với ý nghĩ chua chát nảy lên trong đầu: cô nàng xanh xao kia mới đây là của tôi đấy nhỉ? Bà thẩm phán dán mắt vào bàn tay lóng ngóng của cô ta, mãi không cầm được cây bút cho vừa ý, chợt dịu giọng hỏi: -. Cô. -. Dạ.... -. Cô. hoàn. có. điều. không toàn. đồng. gì ạ ý. cho. băn. khoăn. Cô. ta. đứa. con. về. nữa khẽ. sống. không? lắc. với. ba. đầu. nó. chứ?. - Dạ... - Cô ta thoáng giật mình, khuôn mặt gầy gò biến sắc, tái mét và run bắn lên. Ngòi bút vừa chạm tờ giấy vội rụt lại. Bà thẩm phán đặt tay lên một góc tờ giấy. Bà ta làm gì thế nhỉ? Tôi nhăn mặt, sốt ruột. Hai ngày qua, chúng tôi đã trả lời cả một loạt câu hỏi rồi. Chúng tôi không thể sống với nhau bởi giữa chúng tôi không còn tình yêu. Cô ta đã phản bội tôi. Hai năm qua tôi ở chiến trường, cô ta đã to bụng với một tay lái máy cày nào đó. Tôi cũng chưa biết mặt. Cái thai đã bị sẩy, lạy trời! Trước khi lấy nhau chúng tôi đã giao ước với nhau về trường hợp này. Tôi không còn muốn nhìn thấy cô ta, nghe thấy cô ta, thậm chí cảm thấy cô ta ở bên cạnh. Vậy sống với nhau thế nào được! Nghe nói cái anh lái máy cày kia, đến làng tôi làm và xin nghỉ trong một gian xép của nhà trường, nơi vợ tôi dạy học và vợ tôi đã chung chạ với anh ta... Tôi với anh trai cô ta ở chung một đơn vị gắn bó với nhau mười mấy năm trời và chính anh đã giới thiệu em gái cho tôi. Hôm tôi về phép nhằm bữa đơn vị báo động luyện tập phương án chiến đấu, anh kéo tôi ra một đoạn vắng, dựa súng vào vách hào nói chuyện. Trước sự việc tệ hại, anh và tôi đều cảm thấy khó xử. Dù biết không hề có lỗi, thâm tâm chúng tôi vẫn trách móc lẫn nhau. Anh nhấc hai khẩu súng dằn mạnh sang bên, khẽ chạm vào tay tôi, nói: - Tôi biết chú sẽ giải quyết như thế nào rồi. Tôi hoàn toàn đồng ý. - Mong anh hiểu cho - Tôi nặng nề nói, tôi có tính xấu là cố chấp. Bởi cố chấp nên đã muộn vợ và có lẽ suốt đời phải chịu cô đơn. - Cố chấp chưa hẳn là xấu - Anh tiếp lời ngay, người lính không thể cúi đầu chịu đựng tất cả mọi thứ rác rưởi của xã hội. Tiền tuyến không phải là cái bãi phế thải của hậu phương - Giọng anh gay gắt bất ngờ rồi dường như nhớ đang đứng ở đâu, nét mặt giãn ra cởi mở - Dù thế nào cũng đến thăm mẹ tôi chốc lát nhé. Ðến lượt tôi cảm thấy bối rối. Anh vừa vượt qua cương vị người anh vợ thẳng thắn trở.

<span class='text_page_counter'>(52)</span> về. người. đồng. đội.. Tôi. xúc. động. hứa. với. anh. là. sẽ. tới.. Ðêm tháng năm, chẳng mấy chốc đã sang canh, bà con anh em vê từ lâu tôi vẫn ngồi bên bàn. Sờ ấm nước thấy hết, tôi bấm đèn pin xuống bếp, bắt gặp cô ta ngồi thu lu trong ngách nhà. Cô ta nhìn tôi rất nhanh, hoảng hốt co chân về tránh đường cho tôi và cúi gằm mặt giấu vào hai đầu gối. Múc xong bát nước, tôi đã toan bước đi nhưng nghĩ sao lại dừng lại. Cô ta ngửng lên lí nhí hỏi: -. Anh. sẽ. bỏ. em. phải. không?. Câu hỏi thật thẳng thừng và nếu không thẳng thừng như thế chắc tôi sẽ không trả lời. -. Chính. Lệ. cũng. biết. cần. phải. như. thế. nào. rồi. đấy!. - Anh ngồi xuống đây - Cô ta cất giọng nhẹ nhàng. Trong ánh đèn sáng rực, tôi thấy cô ta gầy đi rất nhiều. Khuôn mặt dịu dàng, đằm thắm giờ đọng đầy vẻ thảng thốt, dằn vặt. Tôi cảm thấy ghê tởm nhưng vẫn ngồi xuống với tay tắt đèn. Cô ta trao cho tôi chiếc ghế con. Tôi chạm phải một bàn tay giá lạnh và tiếng nói trong hơi thở hổn hển. Em muốn xin anh đừng bỏ em. Tôi nhăn mặt phản đối nhưng nhận ra bóng đêm đang trùm kín, bèn giương mắt nhìn thẳng ra phía trước với thâm ý tò mò độc ác. Khuôn mặt nhờ nhờ trắng đang dịch lại gần tôi, một bàn tay mềm nhũn chạm vào đầu gối. Tôi hất ngay xuống, hình như có một tiếng kêu cố nén lại: - Anh cứ khinh bỉ em, nhưng xin anh nghĩ coi, suốt bốn năm lấy nhau anh ỏ với em được mấy ngày - Cô ta đã lùi ra xa, không còn nhìn thấy cái vệt trắng nhờ nhờ trước mặt, chỉ nghe tiếng nói thảng thốt như hơi thở hấp hối của bóng đêm sâu thẳm. Tiếng rên rỉ ngắt quãng nhưng vẫn khá mượt mà - Em biết anh rất kiên quyết, khó lòng lay chuyển nhưng vẫn cầu xin theo sự thôi thúc của trái tim. Nếu anh không chấp thuận lời cầu xin của em thì cũng mong anh hiểu cho dù hư hỏng, dù đáng tội nhưng trái tim em luôn luôn hướng về anh. Cả khi, cả khi... thể xác em phản bội anh - Cô ta nói nhanh và bỗng bật khóc. Tiếng khóc cố nén nghe tức tưởi - Em khổ sở nhục nhã lắm anh ơi. Lúc em không giữ gìn được là lúc em không thể nào giữ được, cho nên em nhận thức đầy đủ sự nhục nhã ê chề của nó. Mà anh, sao anh chẳng đoái hoài giúp đỡ em một chút gọi là... - Tiếng khóc làm cho lời nói trở thành rên rỉ nghẹn lại. Tôi. bắc. chân. lên. ghế:. - Ở chiến trường tôi cũng chỉ biết ôm lấy khẩu súng mà nhớ tới cô, xây đắp hạnh phúc bằng tưởng tượng. - Em biết - Sợi dây đàn ngỡ đã đứt rồi lại rung lên não nề - Anh là đàn ông, anh có biết bao nhiêu chuyện vui để khuây khỏa. Anh còn có đông đúc bạn bè, được ngẩng đầu lên kiêu hãnh. Còn em, thui thủi như một cái bóng. Hàng ngày đâu có dám nhìn ai. Ði trên đường gặp ánh mắt bất ngờ đều phải cúi xuống, lẩn tránh cả ánh mắt của người thân. Xây đắp hạnh phúc bằng niềm hy vọng chờ đợi mỏng manh đôi lúc tưởng như hão huyền. Và đứa con... Tôi -. thở Ðứa. hắt con. ra, là. của. lạnh tôi,. lùng không. cắt còn. ngang: của. cô.. Hai bàn tay gầy giá lạnh chộp lấy đầy gối của tôi, run lên bần bật. Tôi hất mạnh đầu gối, đứng dậy. Tôi ngửa cổ uống một hơi cạn sạch bát nước còn nguyên trên tay và thô bạo hắt chút cặn cuối cùng vào bóng đêm ngoài cửa. - Cô cứ vào giường mà ngủ. Ðứa con của tôi để nó ngủ với bà - Tôi nói vọng lại khoảng.

<span class='text_page_counter'>(53)</span> tối. đen,. trống. rỗng. sau. lưng,. kiên. quyết. bước. tới. bên. bàn.. Một lúc mẹ tôi bế đứa cháu ra rồi ngồi đối diện với tôi, chếch bên tay trái. Im lặng hồi lâu, mẹ rụt rè nhìn tôi, hỏi: -. Con. định. thế. nào?. Tôi cúi xuống bối rối không tìm được câu trả lời. Mẹ nhấc bàn tay rơi thõng của đứa cháu xếp vào lòng. - Chuyện của con tùy con - Giọng mẹ buồn rầu nhưng rất bình tĩnh, riết róng của một cuộc đời nhiều vất vả, khổ đau: Chồng mất sớm, một mình nuôi dạy ba đứa con. Họ hàng anh em thì cũng người nói thế này, người nói thế khác. Riêng mẹ không chấp nhận thứ gái lăng loàn. Tôi ngước lên, lén nhìn khuôn mặt khô héo nhưng cương nghị của mẹ. Ðôi mắt mẹ đang nhìn vào cõi tâm tưởng thăm thẳm trong cuộc đời đầy khúc khuỷu của mình. Khi mẹ dùng hai tiếng lăng loàn đúng như ý nghĩ của tôi lúc nãy, lòng tôi dâng lên một niềm vui chua xót. -. Vợ. của. con. lăng. chứ. không. loàn.. Như thể đọc được ý nghĩ của tôi, mẹ cắt ngang - Nó ăn ở biết điều. bà con xóm giềng có công việc gì đều chạy đi chạy về, chân tay nhanh nhẹn, nói năng dễ nghe, ai cũng quý Mẹ quay lại nhổ nước trầu vào chân phên - Dạo đầu năm, mẹ ốm phải nằm bệnh viện hơn tháng, nhờ tay nó cơm nước, thuốc men mới khỏi đấy chứ. Nhiều đêm thức trắng ngồi quạt cho mẹ. Không có nó mẹ khó lòng qua khỏi... Lờ. mờ. đoán. ra. mục. đích. của. mẹ,. tôi. vội. chen. ngang.. - Cô ta si mê máy cày thì phải để cô ta đi theo máy cày mẹ ạ. -. Nói. dại!. Nó. si. mê. nhưng. đâu. có. ham. muốn. gì. thằng. đó?. - Mẹ mà lại nói như thế - Tôi vùng vằng xoay người chống tay lên bàn. Cảm thấy nặng nề trước ánh mắt đau đớn, bất lực của mẹ, lòng căm giận trong tôi bùng lên - Con còn phải đi xa, hạnh phúc không thể bảo đảm với một người vợ như thế. Mẹ trở tay ủ đứa cháu đang ngủ say. Giọng vẫn bình tĩnh thủ thỉ: - Con phải nghĩ đến em con nữa chứ. Anh mà bỏ vợ thì con gái trong làng đứa nào dám lấy em của con. - Không phải. Con phải ly dị với cô ta thì hàng xóm mới hiểu và tôn trọng anh em chúng con. -. Tùy. con. Tôi. -. cố. Mẹ. thở. mỉm. dài.. cười;. - Con sẽ kiếm cho mẹ một đứa con dâu hiền thảo, nết na hơn hẳn cô ta. Ðất mình có thiếu gì người tốt hở mẹ? Mẹ. tôi. lại. thở. dài.. Ðêm ấy, tôi không ngủ. Sáng sớm, tôi đến thăm mẹ cô ta, lòng trĩu nặng u buồn, ngượng ngùng như kẻ có lỗi. Mới hai năm mà bà cụ già yếu rất nhiều. Ði đã phải chống gậy. Lập cập cố bước nhanh, bà nắm chặt lấy cánh tay tôi và cứ đứng im giữa sân, mãi không nói được một lời nào. Rồi như chợt tỉnh, bà cuống quít hỏi thăm sức khỏe của tôi, của con trai, chuyện đi đường. Tôi cũng vội vã trả lời, còn kể lể hơn những gì bà cụ hỏi. Thỉnh.

<span class='text_page_counter'>(54)</span> thoảng còn cố cười lên, cố tình quên đi một người con gái ở giữa chúng tôi. Nhưng càng nói cười, lòng tôi càng tan nát và thấy rõ bà cụ còn đau đớn hơn. Cuối cùng không chịu nổi tôi đứng dậy xin phép ra về. Bấy giờ bà cụ chợt òa lên khóc nức nở! -. Mẹ. có. lỗi. với. anh. -. Bà. cụ. mếu. máo. -. Anh. tha. lỗi. cho. mẹ.. Tim tôi run lên. Trong một thoáng, tôi đã định nắm lấy bàn tay nhăn nheo đang tựa trên đầu gậy mà nói: 'Ðừng gọi con bằng anh, con vẫn là con của mẹ' nhưng cổ họng tôi ứ nghẹn. - Trưa nay anh ở đây ăn cơm với mẹ nhé - Bà cụ run run hỏi. - Xin mẹ để hôm khác - Nói rồi tôi quả quyết bước nhanh ra cửa. Từ hôm tôi về, những bữa ăn ở gia đình tôi rất nặng nề. Hoặc ăn trước, hoặc đi chơi cho quá bữa, tôi không chịu ngồi ăn chung mâm cơm với cô ta. Nếu ăn trước, tôi thấy mẹ để dành cơm cho cô ta trong một chiếc liễn sứ khá đẹp, thức ăn có phần tươi. Tôi không nói gì càng thêm kiên quyết ý định đẩy nhanh cô ta ra khỏi nhà. Tôi tìm mua một cuốn luật hôn nhân và gia đình rồi cắm cúi viết đơn ly dị. Tôi đưa lá đơn cho cô ta. Cô ta đọc lại nhiều lần, không nhìn tôi, khàn giọng hỏi: - Con để cho anh à? - Rồi nói tiếp - Anh ở nhà ít bữa lại ra đi. Hay là... để con cho em nuôi? - Không được... - Tôi lạnh lùng gạt đi, cắm đầu bút chì vào tờ giấy - về tài sản tôi còn để trống. Cô muốn lấy gì ở ngôi nhà này thì cứ ghi vào. Cô ta mắm môi ký phăng một nhát, đẩy sang cho tôi, không viết thêm chữ nào. Từ hôm ấy cô ta xin về ở bên nhà mẹ đẻ. Cô ta rất muốn đứa con, tôi biết thế, nên kiên quyết giữ lấy. Bà thẩm phán rõ cũng muốn bênh vực cô ta nhưng làm thế nào được, pháp luật đứng về phía tôi. Bởi vậy, khi cô ta đặt bút xuống tờ giấy, bà ta còn hỏi về đứa con, làm chiếc bút nảy lên, tôi mới bực mình. -. Ký. đi,. còn. đợi. gì. nữa. -. Tôi. tàn. nhẫn. nói.. Cô ta từ từ hạ bút nắn nót một dòng đầy đủ họ tên và đệm. Cái vẻ tỉ mỉ của kẻ vô công rồi nghề ngồi giết thời gian! Nhưng rồi cũng xong. Bà thẩm phán đống sập ngăn kéo. Chà! Từ nay hai ta là người dưng nước lã nhé! Có một chút tiêng tiếc nhưng tôi gạt ngay, cúi chào bà thẩm phán và bước đến quán phở gần đó. Từ quán phở quay ra thì trời đã gần trưa. Nắng như thiêu như đốt. Mùa hè, ở quê tôi, cây cối đều khô héo. Ðứng trên đường, nhìn bốn xung quanh, hút tầm mắt nhức nhối một màu bạc phếch, nghèo đói. Nghĩ đến hơn chục cây số trong quang cảnh trơ trụi giữa nắng trưa tôi thây ngao ngán, ước có một chỗ quen biết để trú chân đợi chiều xuống. Nhưng không có. Tôi sinh ra ở quê mình lớn lên ở quê người, ngoài cái làng chôn rau cắt rốn tôi là người xa lạ, lạc lõng. Cô ta có mấy nhà bà con quanh đây thì từ nay đâu còn bà con của tôi! Ra khỏi thị trấn chừng hai cây số. Tôi chợt thấy bên vệ đường, cô ta đang cúi đầu bước lủi thủi. Chiếc nón lá che sụp nửa mặt. Lưng áo gầy sọp, nhưng vẫn còn rõ những đường nét thanh tú, duyên dáng. Hồi sáng, cô ta đi lên thị trấn bằng cách nào nhỉ? Tôi chợt cảm thấy ngỡ ngàng trước sự vô tâm, xa cách của mình. Có lẽ nên cho cô ta đi nhờ một đoạn. ý nghĩ tinh nghịch của lòng trắc ẩn vụt đến. Tôi phanh kít chiếc xe đạp sát bên cô ta, mỉm cười:.

<span class='text_page_counter'>(55)</span> -Cô. đi. nhờ. không?. Cô ta giật bắn người, hai nét lông mày đậm cau lại rất nhanh. Nhận ra tôi, cô ta không nói gì, lẳng lặng lách người, định bước tiếp. -Cô lên xe. Tôi đèo giúp nào! -Thấy cô ta chần chừ, tôi hạ giọng - Nắng nôi thế này gặp người cả đời không quen biết cũng cho đi huống hồ chúng ta là người lạ đã quen mặt. Một. cái. cười. -Vâng.. khô. héo. Cảm. trên. khuôn. mặt. ơn. nhợt. nhạt:. anh!. Tôi bất ngờ nhận thấy cô ta nhẹ xọp đi nhiều quá, khác hẳn ngày trước. Sau. một. hồi. -Bao. im. lặng,. giờ. -Một. Lệ. hỏi. anh tháng. nhỏ:. đi? nữa.. -Chắc... Tiếng nói vừa bật ra lập tức bị bóp nghẹt lại. Tôi hiểu Lệ định nói gì. -Không! - Tôi cố giữ vẻ thản nhiên cất tiếng cười giòn giã, biết rằng mỗi tiếng cười sẽ là một mũi kim ngập sâu vào trái tim đang rớm máu của cô ta - Vừa bỏ người này làm sao đã có thể lấy ngay người khác! Tôi vừa dứt lời nói độc địa, cảm thấy có bàn tay định bấu vào lưng áo nhưng rụt lại. Chiếc xe chợt chao nghiêng và cô ta ngã chúi xuống nền đường. Tôi kịp chống hai chân, ngoảnh nhìn... Cô ta lồm cồm bò dậy, người không việc gì, chỉ ngón chân cái bị toé máu. Cô luống cuống nhìn quanh, nét mặt thoáng đanh lại, hai bàn tay thoăn thoắt mở chiếc quai nón buộc vết thương. Tôi nhớ đúng đoạn đường này, có một lần cô ta cũng vấp phải một hòn đá. Tôi đã xé áo lót buộc cho cô. Sự phản bội tàn phá đi tất cả rồi. Nó đã tiêu diêt hết mọi lòng tốt, làm chai sạn cảm giác thương xót đối với cô ta mà hình như có tồn tại trong lương tâm tôi. Tôi thờ ơ đứng dạng hai chân giữ chiếc xe đạp. Cô ta lúc ấy đã đầm đìa mồ hôi, thậm chí tôi đã định nhấn bàn đạp bỏ mặc cô ta ở lại một mình với vết thương. Ðến lối rẽ vào nhà cô ta, từ đấy về nhà tôi còn hơn hai cây số nữa. Tôi đạp chậm, cô ta nhảy xuống thảng thốt, nói với theo: -Cảm. ơn. anh!. Tội không trả lời, không ngoảnh lại, rướn người trên xe. Chợt có tiếng đổ uỵch phía sau, tôi liếc thấy cô ta ngồi bệt xuống bên đường, úp mặt vào nón khóc hu hu. Tiếng khóc ấm ức, tủi thẹn, bị kìm nén bao lâu, nay phá lồng ngực ùa ra như lũ vỡ đê quét phăng sự yên tĩnh. Ðó là tiếng kêu gào của tình thế tuyệt vọng. Buổi trưa hè ngột ngạt, lờ đờ bị xáo trộn lên, réo sôi trong tiếng khóc xé lóng ấy. Ði một quãng xa, vì chiều gió hay vì tâm tưởng, tôi vẫn nghe tiếng khóc văng vẳng bên tai như tiếng kêu gọi, níu kéo. Sau này nhiều người hỏi, lúc ấy trong lòng tôi xảy ra điều gì? Sự mềm yếu hay dằn vặt, luyến tiếc hay run sợ, anh hùng, hèn nhát, nghĩ đến mẹ hay nghĩ đến con, thương cô ta hay thương mình? Không có điều gì xảy ra nhưng cũng có thể đã xảy ra tất cả những điều đó. Tâm linh hay một cái gì na ná như thế đã thôi thúc tôi quay xe trở lại. Tôi dừng trước mặt Lệ, hắng giọng mấy lần, tiếng nói nghe vẫn lạc đi. -. Sao. lại. ngồi. giữa. đường.. Về. nhà. đi.. Khuôn mặt chan hòa nước mắt trắng bệch ra ngửng lên, cặp lông mày xanh đậm rung rung. Ðôi mắt mở to ngơ ngác. Ðôi mắt chớp mạnh. Cô nhón chân xoay lưng lại phía tôi..

<span class='text_page_counter'>(56)</span> Ðôi vai nhỏ rung lên từng hồi. Tôi chợt nhận ra cô đang mặc chiếc áo xanh Sĩ Lâm. Tấm vải tôi gửi cho Lệ nhân dịp sinh con. áo may đã lâu nhưng chỉ những dịp đặc biệt đi với tôi, Lệ mới mặc nên trông còn như mới. Tôi đứng thừ người hồi lâu. Nhìn ngược, nhìn xuôi, hai phía con đường đều vắng ngắt. Trên cánh đồng cằn cỗi không một sinh linh, đất trời bao la và quạnh quẽ quá. Bất giác tôi thở dài: -. Thôi. lên. xe,. ta. về!. Chợt hiểu mình vừa thốt ra một lời ghê gớm như thế nào, tôi định bỏ chạy thì Lệ đã vùng dậy đứng chắn trước bánh xe. Mái tóc xù ra, đôi môi mím chặt, chiếc nón che kín ngực. Cô ngửng cao đầu phóng thẳng vào tôi luồng mắt căm thù, cay cú điên dại. ánh mắt gườm gườm với một vành trắng dưới hàng mi vẻ khiêu khích, tàn nhẫn, nghiệt ngã. Cô thở hổn hển, chiếc nón trên ngực phập phồng nặng nề. Cơn giận dữ chất chứa của một trái tim mạnh mẽ lâm vào cảnh cùng quẫn, một tâm hồn đầy kiêu hãnh đòi hỏi sự đối xử công bằng, cơn giận dữ bột phát bùng lên ở thời điểm tận cùng tuyệt vọng. Cô biến đổi hẳn đi. Như một người khi quyết định bước vào cửa tử, cái chết cũng coi thường nên không còn có gì để sợ. Khuôn mặt nhỏ nhắn ngời sáng một tình yêu mãnh liệt trần trụi, không che giấu đang đốt cháy đỏ rực đôi má vẻ trinh nguyên. Vầng trán phẳng sau mái tóc xõa xuống trông như cẩm thạch và đôi môi đang mím chặt cay nghiệt vẫn tươi rói nỗi khát khao cuộc sống bình yên. Ðôi môi đau đớn cong lên và quả quyết: - Anh cần gì ở tôi nữa. Ðến thế này anh vẫn chưa thỏa lòng hay sao? Anh độc ác lắm. Anh về phép mà chỉ lao theo trả thù cho hả dạ! Vậy thì nếu muốn anh cứ giết tôi đi. Ðừng cho tôi nhìn thấy anh, nghe thấy anh, đừng cho tôi thầm thì nhắc tên anh trong những đêm hoang vắng. Anh cứ dày xéo lên tôi, nhưng cầu xin anh đừng nhạo báng, giễu cợt thân phận đau khổ này. Cứ nguyền rủa nhưng xin đừng bóp nghẹt trái tim tội lỗi vì cô đơn. Dù sao, tôi cũng không xa lạ với anh cơ mà! Tôi hạ chân xe về phía trước. Lẳng lặng cầm lấy chiếc nón không còn quai trong tay Lệ và nhoáng cái bóp nát, vò thành một cục vung cánh ném ra xa. Lệ đứng im không nhúc nhích, đôi vai buông xuôi. Trong tư thế đó có cái gì thách thức, liều lĩnh. Ðột ngột, cô dang hai tay lao đến vòng lấy cổ tôi, toàn thân đổ xuống mềm nhũn, nóng bỏng. Tôi hoang mang chưa kịp phản ứng thì Lệ đã lại vùng ra, trân trân nhìn tôi. ánh mắt ráo hoảnh có chiều sợ hãi. Nụ cười ngập ngừng và hai cánh mũi phập phồng. Dường như Lệ định nói một câu gì đó hoặc bỏ chạy nhưng không đủ sức. Tôi đưa tay nắm bàn tay Lệ. Cô run bắn lên. Ðôi mắt mệt mỏi khép lại và hai bên khóe mắt từ từ ứa ra hai giọt nước long lanh, chói lóe ánh nắng. Tôi kéo cô lại gần. Lệ. dụi. đầu. vào. ngực. tôi. thổn. thức.. Tôi vuốt nhẹ mái tóc Lệ, muốn an ủi, dỗ dành. Thôi! Lệ đừng khóc nữa! Chúng ta đã tìm thấy nhau rồi mà. Trong đám sương mù dày đặc trên cõi đời này, nhấn chìm biết bao kiếp người nhỏ bé, đơn côi. Tôi và Lệ đã lạc nhau và phải chăng đã lại tìm thấy nhau, tìm được số phận của chính mình? Chao ôi, mất mát thiệt thòi đâu phải là cái chết. Quên lãng, chia lìa mới là cái chết. Trong khoảng khắc, tôi nhìn thấy những khuôn mặt thân thương: Hai bà mẹ, người anh và đứa con, những cuộc đời cực khổ, đói nghèo không còn ly tán vì tôi. Một làn mây trôi ngang, lơ lửng giữa bầu trời. Không gian chợt mát dịu. Chặng đường trước mặt trải rộng ra, hun hút xanh. Mười lăm năm mưa xói Thứ sáu, 03 Tháng 7 2009 09:15.

<span class='text_page_counter'>(57)</span> Bữa rượu thoạt tiên có vẻ hơi ồn ào. Ba người mà vẫn hơi ồn ào - ngoài Thoại là chủ nhà ra, chỉ có thêm ông hiệu trưởng và tay cán bộ tổ chức của sở phụ trách khâu tiếp nhận và điều động. Ấy là hai nhân vật có liên quan trực tiếp và hầu như quyết định kết quả công việc của Thoại - Lạy giời! Mưa dầm gió bấc thế này mà lại được uống rượu thì… - Ông hiệu trưởng mở đầu, bỏ lửng câu, rồi tặc lưỡi một thôi dài. - Nhất là có món đưa cay như thế này - Tay cán bộ tổ chức nháy mắt vào mâm cỗ. - Bạn hiền! Tôi xin được bổ sung yếu tố này! - Thoại cũng nháy mắt, nhăn mũi, đưa đẩy một cách trơn tru và ngọt xớt - "Rượu ngon phải có bạn hiền. Không mua không phải không tiền không mua". Ngày xưa cụ Nguyễn Du đã nói vậy rồi mà! - Nguyễn Khuyến! Nguyễn Khuyến chứ! Hà hà… - Ừ thì Nguyễn Khuyến! Chết ai nào? Tôi thì cứ cái gì hay là của Nguyễn Du tất! Họ lại cười hể hả với nhau một lần nữa. Nhưng miệngthì cười mà cái nhìn vẫn lạnh tanh. Không khí bữa rượu lắng đi. Sau một cú "đề-pa" hụt, ba cái chén đã cạn vài lượt, lỏng chỏng ba góc, như ba con mắt rỗng chòng chọc nhìn lên trần nhà. Bên ngoài trời vẫn mưa. Mưa rét đã mấy ngày nay không ai còn nhớ. Đều đều, dai dẳng, cái âm thanh của ức triệu - giọt nước gõ trên mái ngói, ngoài vườn cây, xa mãi phía cánh đồng. Buồn chán và đơn điệu, tiếng mưa ăn mòn thành một vệt trong tiềm thức. Trong khu tập thể, các thầy giáo, cô giáo hình như vẫn còn thức cả. Thỉnh thoảng lại nghe tiếng xô, tiếng chậu khua lanh canh ngoài mái hiên. Người ta hứng nước giọt gianh. Được trận mưa như thế này là quý lắm. Cả trường chỉ có một cái giếng nước ăn cạn gần tới đáy, vàng khè và tanh mùi sắt… Thoại đã xin được cho vợ chuyển khỏi cái trường này, đi nơi khác, thuận tiện hơn cho sự sinh hoạt của gia đình. Một công việc mà anh đã theo đuổi hàng chục năm trời, lúc ngấm ngầm, lúc quyết liệt, chịu đủ mọi cực hình, cả về thể xác lẫn tinh thần. Thoại và vợ - đúng ra lúc bấy giờ mới chỉ là một cặp tình nhân cùng học đại học, cùng ra trường một năm, nhưng anh thì được giữ lại ở một cơ quan Hà Nội, còn chị lại "bị" phân công về làm giáo viên ở cái trường cấp ba này, cái trường lọt thỏm giữa một vùng quê heo hút và nghèo xơ xác. Họ cưới nhau, một viên chức hành chính và một cô giáo, mỗi người sống ở một nơi cách xa nhau hàng trăm cây số, trong cái thời buổi mà nhỡ một chuyến xe nhà nước, phải mua vé ngoài thì đi đứt cả nửa tháng lương. Thoại vẫn nói nửa đùa nửa thật, vừa như than vãn, vừa như dạy dỗ các đồng nghiệp còn ít tuổi hơn mình và chưa kịp có gia đình là anh đã sai lầm, trong hôn nhân, anh đã mắc một sai lầm ghê gớm: Tại sao không đợi đến lúc ổn định công tác, ổn định nơi ăn chốn ở rồi hãy cưới? Tại sao không thể cưới một cô ở ngay bên cạnh mình, ngay trong lòng Hà Nội này, bất kể trình độ văn hoá, bất kể nghề ngỗng của cô ta như thế nào, thậm chí là một con phe cũng được?... Bây giờ, để trả giá cho sai lầm đó, anh phải mất hàng chục năm. Hàng chục năm hao người tốn của!... Những lúc ấy, một nụ cười không chủ định làm mặt Thoại méo xệch đi, rất tội. … Một đêm mùa đông, đêm cuối cùng trong đợt nghỉ tranh thủ về thăm vợ. Thoạt tung chăn vùng dậy vào lúc hai giờ sáng để sửa soạn ra bến ô-tô lấy vé đi Hà Nội. Anh giật mình thấy vợ vẫn ngồi sừng sững trên giường, mắt mở chong chong, hai tay ôm khư khư đứa con nhỏ chưa đầy một năm bị sốt từ chiều hôm trước, cố giữ yên cho nó ngủ. Thoại nghẹn ngào ôm lấy vai vợ, và giật mình lần thứ hai - người đàn bà, với cái áo khoác mùa đông mỏng manh, sờn cũ, vai và ống tay bết những vết ố vàng vì thuốc têtra-si-lin do con bé ốm oẹ ra, ngồi như hoá đá. Một đêm khác cũng ở chỗ vợ. Nửa đêm, vợ Thoại mò dậy, châm đèn, cắm cúi ngồi khâu nón. Khâu nón có thể coi là một nghề phụ của các cô giáo ở trường này. Cũng giống như một số cô làm nghề máy khâu, một số cô đi buôn đỗ xanh, buôn bột sắn, buôn vải, có cô từng bị phòng thuế bắt mất vải… Vợ Thoại mới tập khâu nón. Để có thêm tiền - nói như cô ấy - mua quà cho con. Một cái nón, tiền lá, tiền vành, tiền cước hết khoảng ba mươi đồng, bán được năm lăm đồng. Mới tập khâu như vợ Thoại, mất hai, ba ngày mới xong một chiếc. Chị có vẻ ham. Thoại cũng vui. Một việc làm hiền lành, lại có thêm đồng ra đồng vào, bằng mấy ngồi chơi không. Một lần, vợ Thoại chìa bàn tay trái ra cho chồng.

<span class='text_page_counter'>(58)</span> xem: những đầu ngón tay bị kim đâm be bét… Đêm ấy cũng yên tĩnh như mọi đêm. Thoại tỉnh giấc và cứ nằm yên nghe. Cái tiếng nón vang lên là lạ. Ken két. Lạo xạo. Răng rắc… lắng tai nghe mãi, cho đến lúc Thoại cảm thấy cái âm thanh ấy hệt như tiếng một con chuột đang ăn vụng, định lôi đi miếng mồi, nhưng lôi tuột đi thì sợ động. Con chuột khổng lồ ấy thận trọng lôi đi từng tí một, lôi mãi, lôi mãi, cho đến sáng. Và Thoại chợt nhớ ra. Chao thì ra chính cái lúc con chuột ấy tha mồi là lúc mà mũi kim nhọn, đang mò mẫm đâm xuống, và những ngón tay trái nằm bên trong nón phải đưa ra đỡ. Một cái thùng xe tải che bạt kín như bưng, bụi sặc sụa nhảy chồm chồm trên con đường từ Hà Nội về chỗ vợ hay ngược lại. Một lần như vậy, ngồi thu lu trong góc thùng xe, nghẹt thở vì bụi và nóng, một ý nghĩ chợt nảy ra và bám riết lấy Thoại suốt chặng đường: chẳng lẽ đời mình cứ lặng lẽ hao mòn trên những cái thùng xe như thế này? Bây giờ, tất cả mọi chuyện đại loại như vậy sắp sửa chấm dứt rồi. Tờ quyết định chuyển công tác cho vợ đã nằm trong túi Thoại. Một bữa rượu thịnh soạn để ăn mừng "chiến thắng". Chiến thắng? Có vẻ lắm! Nào, thử xem mình phải trả giá bao nhiêu cho cái "chiến thắng" này? Cũng khá đấy, công khai và bán công khai, tất cả các khoản chi cho hai tên đàn ông kia cộng lại. Ông hiệu trưởng, có ít hơn một chút vì ông ta không quan trọng bằng… ấy là mới kể đến các khoản chi vật chất. Còn chi phí tinh thần, cái này thì vô giá. Thoạt đầu, Thoại đã dường như không chịu đựng nổi… - Nào, xin mời hai bác. Uống rượu mà cứ như đưa đám thế này thì còn gì là rượu? Hôm nay là ngày vui của em! Xin ghi nhớ công ơn của hai bác. Thoại nâng chén lên ngang mặt, đợi. Mắt đã hơi có vẻ gườm gườm. Đã hơi vằn đỏ. Thoại nói rất to, thân mật đến suồng sã. Lần đầu tiên trong suốt thời gian chạy việc, Thoại thấy mình có quyền bằng vai phải lứa với hai kẻ ngồi trước mặt. Họ lẳng lặng chạm cốc, ực một hơi. Vẫn không sao "máu" lên được. Cứ như không phải là đang uống rượu. Còn tỉnh quá, cả ba người. Mấy giờ rồi nhỉ? Ở phòng bên thỉnh thoảng vẫn thấy gào lên khe khẽ giọng hát của một gã đàn ông. Một câu vu vơ nhớ ra hú hoạ ở một bài hát bất kỳ nào đó. Cái giọng ồ ồ, cái cổ họng còn rất khoẻ, nhưng lời ca thì ảo não. Cả ba người bên này dỏng tai nghe. "Từng người tình, bỏ ta đi, như những dòng sông nhỏ"… - Thằng nào thế? Ông hiệu trưởng, theo thói quen quản lý nhân sự, lừ mắt hỏi. - À, chỉ là khách thôi, anh ạ. Cậu ấy là người yêu của cô giáo mới được phân công về trường ta đấy! - Thoại đỡ lời và tủm tỉm cười. Tay cán bộ tổ chưc cũng đang tủm tỉm. Gã hất hàm, hỏi Thoại bằng cái giọng đầy vẻ hiểu biết lẫn nhau: - Người thay thế bà xã, phải không? Thoại không trả lời, chỉ khẽ nhăn mặt lại, rồi lập tức lảng đi: - Các anh cho dọn mâm để chúng mình uống chè. Được không? Thứ nước chè đặc sánh và thơm ngát được dọn ra, cả ba đã uống cạn vài tuần. Bên ngoài trời vẫn mưa. Mưa hắt qua cánh cửa sổ không khép chặt, chảy thành một vệt loang loáng sáng trên tường nhà. Một chú nhái bén lọt qua cửa, bị quáng đèn, bất ngờ nhảy vọt vào giữa nhà, bám ngay bên miệng chén nước chè của Thoại. Từ mình con vật xấu xí và nhơ nhớp ấy, một tia nước trong vắt vọt ra. Thoại rùng mình, vội vàng bưng cả khay ấm chén ra ngoài. Anh cẩn thận dùng xà phòng cọ rửa hồi lâu. Nhưng khi đem vào để uống tiếp, cái cảm giác ghê ghê vẫn còn khi đặt môi lên, và Thoại không dám uống thêm một ngụm. * * * Không cần liếc qua đồng hồ, vẫn biết là đã khuya lắm. Khách ra về hết, Thoại nằm vật ngay ra chiếc giường buông màn sẵn. Ngoài trời mưa vẫn nặng hạt. Mắt nhắm nghiền. Thoại cảm thấy thân thể mình đang vữa ra bởi trăm nghìn giọt mưa. Chỉ duy có đầu óc là vẫn tỉnh thức. Trạng thái tinh thần có vẻ như vô lý. Nhưng mà Thoại tỉnh thật. Mong ngủ được ngay, dù là một giấc ngủ nặng nề hơi men, nhưng các dây thần kinh trung ương không sao chùng xuống được..

<span class='text_page_counter'>(59)</span> Vợ Thoại cũng còn thức. Ở người đàn bà, mọi sự đơn giản hơn nhiều. Chị đã sửa soạn bữa cơm đãi khách rất công phu, với tất cả tấm lòng biết ơn người và biết ơn chồng, cho xứng đáng với nỗi vất vả mười năm. Với chị, coi như đã bắt đầu cuộc sống gia đình xum họp. Trong xum họp, người đàn bà không nghĩ tới sự cách biệt. Cũng như trong khi vui, họ không nghĩ tới nỗi buồn. Chị đang vui, đang muốn tận hưởng niềm vui trọn vẹn sau nhiều năm xa cách. Chị đang thèm khát anh. Trong đêm tối, nhẹ nhàng như một con mèo, chị ngồi dậy… và một lát sau, Thoại giật mình thấy cánh tay trần mềm mại và nóng rẫy của vợ choàng qua cổ, rồi ngay lập tức, toàn bộ thân thể người đàn bà ngoài ba mươi, nặng nề và hơi đẫy đè trĩu lên người Thoại. Anh ngạt thở dưới bộ ngực đồ sộ của vợ. Mùi mồ hôi nồng nồng quen thuộc. Mấy sợi lông nách quạt khẽ lên mặt Thoại, buồn buồn lờm lợm, Thoại hơi nghiến răng lại. … Hoàn toàn trái ngược với mười lăm năm trước. Mười lăm năm trước, chàng và nàng mới bước vào tuổi hai mươi: Cả hai đang học năm cuối cùng ở trường đại học. Mỗi tối thứ bảy, chàng đạp xe tới chỗ hẹn, bao giờ cũng thấy nàng đang chờ sẵn. Và cả hai không bao giờ kịp ngồi xuống bờ cỏ, dưới gốc hàng phi lao bên con đường chạy tắt qua cánh đồng ngoại thành. Nàng gần như ngả vào một thân phi lao. Còn chàng thì vòng tay ôm ghì luôn cả cây lẫn người. Tất cả hoà làm một, đu đưa sang phải, đu đưa sang trái, nhịp nhàng như đưa võng bởi những cơn gió phóng khoáng không ngớt thổi qua trên vòm lá. Có rất nhiều cây phi lao như thế trên con đường này - thân mòn nhẵn, ngẩng cao đầu đồng loạt hát lên khúc hát ca ngợi tình yêu. Trong những cái hôn say cuồng tưởng chết đi được, bao giờ cũng vậy, vẫn còn một chút lý trí tỉnh táo nhắc chàng đứng né chân sang một bên… cho đến một buổi tối, trời cũng đổ mưa tầm tã như đêm nay, hai người rời gốc cây phi lao quen thuộc, vào trú dưới mái hiên của một lớp học cạnh đó. Họ trải tấm ni lông trên nền đất. Suốt cái đêm mưa nhớ đời ấy, thế giới dường như chỉ còn lại hai người - Không có nền đất lạnh dưới lưng, không có những giọt mưa li li hắt vào mặt, vào hai tấm lưng trần nóng hừng hực. Và cái ông lão gác trường nằm ở căn phòng đầu dãy lớp học đằng kia thỉnh thoảng lại trở dậy, mở cửa ra hiên và húng hắng ho, cũng không là gì đối với họ… Nàng chống cự rất hăng, nhưng chàng còn hăng hơn, với một sức mạnh bản năng hầu như mù quáng. Chàng cuống quýt hồi lâu với chiếc thắt lưng da lằng nhằng của mình. Rồi một động tác bất cẩn khiến nó bỗng nhiên bị đứt phựt! Cả hai lặng điếng người trong một giây vì cái âm thanh phàm tục ấy. Sau đó hồi lâu nàng khóc. - Có đau không? - Chàng hỏi khẽ, giọng biết lỗi, mắt nhìn lơ ra phía cánh đồng đang sáng lên nhờ nhờ. Nàng im lặng, khẽ ngọ nguậy trong vòng tay chàng như một con sâu. - Đi ăn phở nhé? Sáng rồi - Chàng dịu dàng đề nghị, và cả hai dìu nhau đứng dậy, đi ra khỏi lớp học. Trên con đường lép nhép bùn đất, đã lác đác có những người đàn bà gánh rau đi chợ. Cặp tình nhân đi lẫn vào với họ, như những người có việc phải ra khỏi làng từ sớm. Chàng kín đáo lùi lại sau, tò mò không nén nổi, nhìn cặp đùi khép nép của nàng… Thoại thở dài. Anh nhớ lại rõ rệt đến từng chi tiết cái đêm mưa cách đây mười lăm năm, cái đêm cả hai người hổn hển leo đến tột đỉnh ái tình. Như vàng vùi trong cát, cái đêm thiên thần ấy còn nguyên vẹn dưới lớp son phấn cùng rác rưởi đã phủ lên của mười lăm năm qua. Giờ đây, khi nhớ lại, cứ như tất cả mọi chuyện đó đã xảy ra với một người đàn bà khác. Ngày ấy đôi cánh tay, bộ ngực, cặp đùi, cả thân thể nàng còn căng như một cánh cung, rừng rực như một đám cháy, và từ thân thể ấy, toát ra mùi hương đầy sức quyến rũ - hương thơm của trái cấm đã chín tới. Tuyệt nhiên, tuyệt nhiên không giống như người đàn bà đang nằm cạnh bây giờ - một người đàn bà đã hơi rão ra, có những sợi lông nách ẩm ướt và hoi hoi… Ở phòng bên cạnh, cặp tình nhân trẻ hình như cũng còn thức. Lẫn vào trong tiếng mưa là những tiếng động không rõ rệt. Hình như có một con trăn lớn đang trườn mình ở đâu đây. Tiếng giát giường cót két như tiếng lá khô vỡ. Thoạt lặng lẽ nhếch mép. Vợ Thoại mơn trớn chồng một cách quyết liệt hơn. Thoại nín thở, nằm cứng đờ như người đã ngủ say. * * *.

<span class='text_page_counter'>(60)</span> Có lẽ suốt đêm Thoại không chợp mắt nổi. Trong đời mỗi người đều có những đêm rất lạ như thế, mất ngủ nhưng vẫn hoàn toàn sáng suốt. Một đoạn đời nào đó đã sống qua tưởng không có gì đáng phải ghi nhớ, bỗng nhiên bừng thức dậy, tái sinh trong một thứ ánh sáng mới của tâm thức. … Đó là một ngày oi bức kinh khủng. Ngày thứ ba trong tuần theo lịch làm việc thông báo ở cửa phòng tổ chức cán bộ sở Giáo dục, người ta sẽ giải quyết những trường hợp về điều động và tiếp nhận cán bộ. Thoại ngồi xếp hàng chờ đến lượt mình trên chiếc ghế kê ở trước cửa phòng. Chiếc ghế gỗ khấp khểnh, mặt ghế nhẵn bóng, lưng ghế cũng nhẵn bóng đi vì không biết bao nhiêu người đã ngồi trên đó chờ đợi. Áo Thoại ướt đầm mồ hôi, dính nham nháp. Xung quanh anh, những gương mặt lo âu, những gương mặt nhẵn nhụi, những gương mặt cố làm ra vẻ thản nhiên nhưng thỉnh thoảng lại co thắt lại vì một niềm hy vọng còn rất nhỏ nhoi, còn rất mơ hồ chợt nhói lên trong ý nghĩ… Thoại lặng lẽ quan sát tất cả đám người đang tụ tập chờ đến lượt bước vào cái cửa phòng tôi tối, vọng ra tiếng quạt trần ầm ù bí ẩn. Và anh đột nhiên nhận ra họ, mặc dù rất khác nhau về tuổi tác, địa vị xã hội, nghề nghiệp (có nhiều bậc phụ huynh đến xin cho con em mình, hay chồng đến xin cho vợ như Thoại)… nhưng ở đây họ đều bé nhỏ lại một cách tội nghiệp. Nói năng thì thầm, đi lại rón rén, toàn bộ cung cách của họ cùng toát ra một vẻ cầu cạnh có phần thái quá. Thoại thở dài. Anh đã đến chầu chực ở đây hàng chục lần, và tự biết mình không hơn gì họ. Khi đã bước vào phòng, tự kéo ghế ngồi đối diện với người cán bộ tổ chức dưới một cái quạt trần xoay tít, tất cả sự hăm hở, tất cả mọi lý lẽ khôn ngoan của Thoại bỗng dưng bay biến đi đâu hết. Mà người cán bộ tổ chức ngồi trước mặt Thoại đâu có gì đáng làm cho người ta khiếp hãi - một gã đàn ông nhỏ thó, bộ ngực giô và cái lưng quá ngắn gọn trong chiếc sơ-mi cộc tay trắng toát. Trên gương mặt sạch sẽ và lạnh lùng của anh ta chỉ duy có cái mũi là một bộ phận nhạy cảm và hoạt động - nó đỏ ối và không hiểu sao cứ rớm mồ hôi liên tục, nên anh ta luôn luôn phải dùng mùi xoa lau mũi, bằng một động tác rất nhanh và chính xác. - Việc của ông còn gay go lắm ông ạ! - Anh ta không ngẩng đầu lên, tương ngay một câu phủ đầu, khiến Thoại là người đã đến đây hàng chục lần cũng không tránh khỏi cảm giác chới với. Hồi lâu, dằn mạnh chiếc mùi xoa nhờn ướt lên mép bàn, như quyết tâm chấm dứt cái động tác lau mũi phiền phức ấy, anh ta nói thêm - không có người thay thế! Thoại nhìn chiếc mũi sạch sẽ, đỏ bóng, trong đáy sâu tâm hồn, lòng thù ghét thôi thúc anh giáng một quả đấm thẳng cánh vào đó. Anh hơi chồm người dậy, nhưng lại vội vã chộp lấy bàn tay của gã đặt trên bàn. Trong giây phút tuyệt vọng chợt loé ra một ý tưởng liều lĩnh. Thoại kêu lên, nhưng vẫn ghìm giọng đủ cho một mình đối tượng nghe rõ: - Anh cố gắng giúp đỡ em! Vợ chồng em không bao giờ dám quên ơn anh… Bàn tay bị giữ chặt của người cán bộ tổ chức chỉ hơi giật nhẹ một cái, rồi lại ngoan ngoãn nằm im trong tay Thoại. Thoại choáng người - sau nhiều lần uổng công xin xỏ bằng nước bọt, lần đầu tiên, anh đã giải mã được thứ ngôn ngữ ngập ngừng đó. Thoại cố vùng lên một lần nữa để giành được thế chủ động. Giọng anh thì thầm, đứt đoạn: - Em không quên… Sẽ… - Nhưng mà khổ lắm! Chưa tìm được người… Ô, cái lý do này quá quen thuộc và không thể nói là chính đáng. Thoại thừa biết kiếm được một chỗ bây giờ không phải là chuyện dễ dàng, nhất là với đám sinh viên vừa tốt nghiệp. Một người chuyển đi sẽ có hàng chục người muốn xin vào, cho dù chỗ đó là một chỗ "xương xẩu"! Thoại nói toẹt ra những suy nghĩ đó, không cần phải lựa lời. Vậy mà người cán bộ tổ chức im lặng. Sau một lát, anh ta tiết lộ: hiện nay, có một cô giáo trẻ mới ra trường, chỉ hiềm vì một nỗi… Tai Thoại ù đi. Anh nghe và hiểu ra rất nhanh tất cả khó khăn của cái cô giáo trẻ đó. Nhưng đồng thời, cũng nhìn thấy lờ mờ thắng lợi của mình chỉ cần gắng lên một chút nữa… Và, Thoai đã chồm người lên một lần nữa, nắm lấy bàn tay ươn ướt của gã lần nữa, cố dẹp đi thứ tình cảm yếu đuối dễ làm hỏng việc lớn: - Thì mười lăm năm trước, hoàn cảnh chúng em cũng y như vậy! Câu nói vọt ra một cách tức thời, chứng tỏ ở con người, cái bản năng đấu tranh sinh tồn còn mạnh biết chừng nào. Dưới gầm bàn, một bàn chân của gã cán bộ tổ chức dẫm nhẹ lên chân Thoại. Bản giao kèo với quỷ đã được ký kết..

<span class='text_page_counter'>(61)</span> Mọi chuyện sau đó được ngã giá rất nhanh, chạy rất nhanh đến đích. Người thay thế vợ Thoại đã về. Cô giáo còn trẻ lắm. Nét mặt cô cũng rười rượi buồn. Và đằng sau cô cũng có một chàng trai lẽo đẽo. Nghe nói anh chàng công tác ở rất xa… Y như vậy, y như vậy, mười lăm năm trước. Và bây giờ, trong cái thế giới cỏn con riêng tư của họ ở bên kia bức tường, cũng bắt đầu vẳng lên tiếng khóc khe khẽ, dấm dứt, lẫn vào tiếng mưa rì rào buồn tẻ. * * * Thoại trở dậy thay quần áo từ rất sớm. Cứ làm như việc thay quần áo sẽ trút bỏ được tất cả những ý nghĩ nặng nề và u ám không bằng! Rồi anh thong thả pha một ấm chè, thong thả ngồi đợi cho nước ngấm. Có tiếng gõ cửa rụt rè. Thoại vội rời khỏi bàn, bước ra. - Anh đã dậy? Chàng người yêu của cô giáo trẻ mới về chực sẵn ở cửa. Thoại tò mò ngắm nhìn cái bóng của mình mười lăm năm trước. Anh ta mỉm cười gượng gạo: - Anh có thuốc cảm, làm ơn cho em xin mấy viên. Cô bạn em hình như bị gió… Thoại lẳng lặng quay vào, thản nhiên đem thuốc ra. Chàng trai nhận thuốc, rối rít cảm ơn, nói theo một câu cho có chuyện: - Thời tiết thay đổi đến là khó chịu. Cô bạn em hình như bị cảm! Thời tiết thay đổi, thời tiết thay đổi… Mười lăm năm trước, sau cái đêm mưa ái ân cuồng nhiệt của hai người, vào lúc tảng sáng, nàng cũng tự nhiên nôn thốc nôn tháo ra. Thoại cũng nghĩ là nàng bị cảm vì ngấm mưa lạnh. Khi về nhà, anh vội vã cho nàng uống thuốc. Những viên aspirin, những viên kháng sinh liều cao… Sang tháng thứ hai, họ cảm thấy hình như có sự lầm lẫn trong việc điều trị. Sự lo ngại tăng lên. Tháng thứ ba thì không còn hình như gì nữa. Lại cuống lên, vì những thứ thuốc có công dụng tẩy xoá mọi dấu vết của cái việc vụng trộm mà họ cho là tội lỗi. Nhưng vì thiếu kinh nghiệm nên mọi phương cách đều vô hiệu. Mất thêm một tháng nữa, chàng mới quyết định đưa nàng vào bệnh viện. Cái thai đã quá lớn để có thể gây cản trở cho công việc nhân đạo. Ở cái bệnh viện mà bất kỳ vị mày râu nào cũng ngượng ngập vì sự hiện diện của mình này, Thoại đã phải chịu đựng căng thẳng hơn hai giờ đồng hồ… Sau rốt, gặp Thoại ngoài hành lang, biết anh là người nhà của chị, viên bác sĩ vừa thực hiện ca phẫu thuật - một người đàn ông có cái đầu hói và chột một mắt - nhìn lướt Thoại từ đầu đến chân, cái nhìn lạnh lẽo, vô cảm: - Còn may đấy, ông trẻ ạ! Phải quyết định mổ, vì cái tác phẩm của ông có triệu chứng không bình thường!... Thoại rùng mình, không dám nghĩ tiếp nữa. Anh rót một chén nước chè, kề môi vào miệng chén, cái cảm giác rãi rớt, tơm tởm gây ra bởi con nhái bén đêm qua lại gợn lên. Thoại nhăn mặt, nhưng lần này thì anh nuốt ực ngụm nước vào bụng. Chạy trốn Thứ sáu, 26 Tháng 6 2009 09:39. Con vật mình dài quãng mét tư, mét rưỡi, chiều cao có dễ đến gần một mét, cân nặng xấp xỉ tạ mốt, tạ hai. Ước đoán thế thôi, chứ nó chưa được vinh hạnh bước lên bàn cân bao giờ. Thế là may, đối với giống lợn, cái cân là bản án tử hình tuyệt đối. Đồ sộ thật. Nó đi trên đường, bốn chân sải đều đặn, không nhanh, không chậm, đầu cúi gằm. Trước đây nó cũng ngang ngửa, nhìn hết xa, gần, trên dưới...Bây giờ bọn trẻ con hàng lũ hàng đàn chạy theo chỉ trỏ, trêu chọc, thậm chí ném đá, túm đuôi, tạo cho nó phản xạ chấp nhận.

<span class='text_page_counter'>(62)</span> tư thế yếu hèn như vậy. Nó đi, mọi chuyển động của cơ bắp đều ẩn lặng kín đáo dưới làn da hồng bợt phủ một lớp lông thưa cứng. Không có một thớ thịt nào được phô phang trên cái thân thể tròn lẳn, rắn chắc. Bụng dưới của nó thắt vào, cặp mông ụn ra đầy đặn nhưng không núc ních, sồ sề như mấy ả mấy anh lợn thịt. Cái đuôi dài như một túm cỏ cờ lau phơ phất luôn phe phẩy và thỉnh thoảng hứng chí hay tức giận nó quật đen đét vào hai bên thành mông. Nó là con lợn đực nhận sứ mạng vinh quang đi lai tạo giống nòi. Nó đi vào thành phố thường xuyên, trừ những hôm nó mệt, chủ nó mệt hoặc mưa bão, hoặc không có khách, còn thì chuyến đi bao giờ cũng khởi hành vào lúc sáng sớm. Sợi dây thừng từ tay chủ quấn một vòng quanh cổ nó, chỉ mang tính quy ước tín hiệu, điều khiển các động tác như đi, dừng, rẽ trái hoặc phải. Do hoàn cảnh nó thích nghi nhanh chóng. Công nhận nó là con vật ranh khôn khác hẳn với bản chất ngu đần của giống nòi. Có thế nó và chủ mới kiếm nổi miếng ăn giữa cái thành phố ồn ào, náo nhiệt, giữa thời "gạo châu, củi quế" này. Chủ nó tên là Hoán, cả cái làng ngoại ô nơi đôi bạn trú ngụ ít người biết rõ gốc tích Hoán. Họ chỉ biết mang máng rằng Hoán từ một miền quê tới đây mấy năm về trước mua một khoảnh đất nho nhỏ, trên đấy dựng căn nhà lá con con. Ngày ấy hộ khẩu chuyển dịch nơi nọ, vùng kia còn dễ dàng.Vài năm đầu Hoán làm thuê ở một hợp tác xã cơ khí cao cấp với cái nghề thợ rèn. Bản tính lầm lì, tránh giao tiếp, hầu như Hoán không bộc lộ gì, kể cả tâm sự với mọi người xung quanh. Ngày đầu "hiện tượng" Hoán - người đàn ông vạm vỡ, da đen sạm gây nhiều nghi vấn đối với chính quyền và dân địa phương. Sau nhiều lần dò dẫm, xác minh, lý lịch Hoán tạm sáng tỏ và có thể tóm tắt như sau: "Sinh năm 1947 - bộ đội phục viên - Thất chí vì vợ phản bội, bỏ quê ra thành phố sinh sống - Thái độ chính trị: không sai phạm - bạn bè thân thích: không rõ - các quan hệ khác: không có". Hoán không va chạm với ai và mặc dù không giao tiếp nhưng mọi người nhận thấy Hoán sòng phẳng và hào phóng trong lĩnh vực tiền bạc. Hoán sẵn sàng giúp đỡ người khác đến đồng bạc cuối cùng. Có một lần gã ăn mày chuyên nghiệp giả dạng khách quê mất cắp lần đến nhà Hoán. Vốn chẳng lạ gì gã, Hoán vẫn vứt ra cả một nắm tiền. Số tiền lớn đến nỗi gã ăn mày đã cầm gọn nhưng bàn tay vẫn còn run rẩy. Gã ngước mắt, miệng lắp bắp: "Con xin ông" rồi bỏ chạy thục mạng. Đại loại như thế, phong cách của Hoán kỳ lạ khó hiểu. Sống kín đáo cách biệt nên ít người ưa Hoán. Nhưng cũng chẳng có ai ghét vì Hoán có làm gì phương hại đến ai đâu mà ghét. Sau một lần vì chuyện gì đấy bị chủ xưởng cơ khí mắng nhiếc thậm tệ, sau khi tặng chủ cú bạt tai kinh hồn, Hoán bỏ hẳn nghề, vài năm gần đây Hoán trở thành người nuôi và đi lai lợn giống. Con vật Hoán gây từ giống lợn thuần chủng ấn-Âu có vóc lớn, lai tạo với lợn Móng Cái quắt người nhưng dẻo dai và tinh thông. Khách hàng của Hoán thường tìm đến đặt tiền trước, cho địa chỉ và hẹn ngày đợi Hoán dắt lợn giống đến. Hoán chưa hề sai hẹn, giá cả phải chăng và con lợn tốt giống nên uy tín tăng rất nhanh. Hoán có sẵn một bản danh sách địa chỉ, căn cứ vào đấy Hoán hoạch định cho từng chuyến đi. ấy là nói đến bây giờ chứ còn như có một dạo thành phố không thể quen được cảnh tượng những loài vật đi lại nghênh ngang ngoại trừ những con bò được thắng trong những cỗ xe ậm ạch, chậm chạp chở hàng hoá. Ngày ấy xe bò còn là thứ phương tiện ích lợi, rẻ tiền và cuộc sống còn chưa đến nỗi nào để tất cả mọi nhà phải đổ xô vào tăng gia cải thiện như bây giờ. Mọi người ào ạt nuôi lợn, gà và các thứ gia cầm khác. Họ tận dụng đủ mọi xó xỉnh làm diện tích chăn nuôi. Hoán bây giờ có dễ chịu hơn, kiếm được miếng ăn không đến nỗi phải cầu cạnh. Lợn được nuôi nhiều ắt phải đẻ lắm. Nghề lai lợn đếm trên đầu ngón tay may đủ chục người. Nhưng mà điều ấy chả tác động nhiều đến Hoán. Anh không cần tiền. Đấy là lẽ hiển nhiên. Tiền mà làm gì. Đồng tiền dù sạch sẽ đến đâu ít nhất cũng đã một lần làm đời Hoán tan nát. Thì đấy, vợ Hoán chả vì tiền mà phản bội Hoán, bỏ đi theo trai là gì. Hoán căm thù. Căm thù đến mức không bao giờ Hoán dành dụm tiền trong người. Có đồng nào Hoán xào đồng ấy. Tiền bây giờ chỉ còn duy nhất là thứ phương tiện giúp Hoán sinh nhai thường nhật. Tuy kiếm được nhưng Hoán luôn luôn không có tiền. Chả thế, một lần nhân lúc nghỉ trưa, Hoán buộc tạm con vật vào gốc bàng, trước hiệu cơm bình dân trên một đường phố. Anh cảnh sát trật tự yêu cầu Hoán giải phóng ngay chướng ngại vật ấy. Đang dở bữa cơm, Hoán làm ngơ. Nhắc nhở vài lần, anh cảnh sát tức mình rút biên lai tìm chủ để phạt. Lúc ấy Hoán mới rời hàng cơm, thủng thẳng lộn túi áo: - Làm gì có tiền mà phạt. Nó đấy. Phạt nó! - Hoán chỉ vào con lợn. - Nhưng anh nuôi nó. Anh là chủ! - Anh cảnh sát tức điên lên. - Không có ai là chủ. Còn nuôi ư? Chính nó nuôi tôi - Hoán trả lời bình thản, khuôn mặt.

<span class='text_page_counter'>(63)</span> không một mảy may rung động. Tội của Hoán lẽ ra đáng đưa về trụ sở xử lý. Nhưng đúng, Hoán không có tiền thật. Túi sạch trơn. Mà lý do chính khiến người cảnh sát lùi lại, cất biên lai vào xà-cột vì chợt nhìn thấy mắt Hoán. Một người điên khùng - anh ta nghĩ. - Hơn thế nữa, cặp mắt ấy trong suốt, lạnh lẽo không có hồn, hệt như cái ao sâu mùa đông nhìn thấy những chiếc lá mục rữa nằm phăng phắc dưới đáy. Không phải một người điên, mắt người điên dại không đáng sợ bằng mắt Hoán. Mắt của một người đang sống nhưng hồn đã chết tận đâu đâu. Một hôm như thường lệ, Hoán cùng con vật đi vào thành phố theo chương trình đã định sẵn. Bữa ấy Hoán mệt, người mỏi dừ. Con vật hiểu chủ, dù đương sức nó cũng uể oải, lười nhác nhấc từng bước chân một. Đã hẹn trước, Hoán không muốn bỏ dở chuyến đi. Từ ngoại ô vào đến đây, ít cũng phải kiếm đủ bữa mới về. Thực hiện xong hợp đồng, ngồi nghỉ ở quán nước, nhẩn nha uống bát nước chè xanh, Hoán lim dim muốn ngủ, bỗng giật mình vì một bàn tay êm ái, nhẹ vỗ lên vai. Gã đàn ông đứng sừng sững phía sau, toét miệng cười. Nụ cười hiền lành và thân thiện. Lòng Hoán dịu đi đôi chút sau cú giật mình bực bội. - Chào chú em. Chú em sang bên, anh có chuyện muốn nói. Hoán hơi ngạc nhiên. Giá như mọi ngày hẳn Hoán sẽ cáu bẳn theo cách riêng của mình là lì mặt, im lặng. Nhưng hôm nay, trước cử chỉ khác thường của gã đàn ông, Hoán đâm ra dễ tính, lẳng lặng đứng dậy đi theo gã. Họ bước vào một quán giải khát sang trọng, dù cả Hoán và gã đàn ông quần áo đều lôi thôi, cẩu thả. Một khay lớn bày những vại bia tăm tắp, bọt sủi từ đáy cốc lên như vôi sống gặp nước, được bung ra theo lời gọi dứt khoát của gã đàn ông. Hoán lồi mắt. Cảm giác ngơ ngác biến mất nhanh chóng đẩy Hoán chơi vơi trong tâm trạng sờ sợ. Giọng gã đàn ông nhỏ nhưng đanh, phá tan bầu không khí đang dần lạnh toát. - Nào, ta nâng cốc. Anh là Lanh. Chú đừng ngạc nhiên. Gia cảnh chú thế nào anh biết tường tận. Vì sao? Chú chẳng cần quan tâm. Anh chỉ có một đề nghị thế này: Ta sẽ hợp tác làm ăn. Từ hôm nay anh sẽ gây dựng cho chú. Chú ngạc nhiên hả? Không sao. Uống đi rồi theo anh, mọi chuyện sẽ rõ ràng. Phải mất một lúc, Hoán mới định thần được. Ngôi nhà nom bên ngoài tường mùng mục, rêu phủ ẩm ướt, nhưng bên trong tráng lệ một cách ít ngờ. Những năm còn bộ đội, Hoán đã từng ở Sài Gòn, từng đến Pnômpênh, từng được sống trong những căn nhà hiện đại, tiện nghi chẳng thiếu thứ gì. Nhà cửa những nơi ấy gấp có đến trăm lần, ngôi nhà này cũng chưa đủ làm Hoán ngạc nhiên. Điều gây cho Hoán lạ đến độ thảng thốt là toàn bộ những phòng ở tầng một của gã đàn ông đều vuông vức, tường quét ve sáng, nền gạch lát men, tất cả rộng có đến trăm mét vuông, chứa cơ man nào là lợn. Các loại lợn, từng cỡ một ụn ịn đều nhău tăm tắp. Hoán mê mẩn nhìn những con lợn hồng hào, no đủ, được tắm rửa sạch sẽ. Chất nông phu trong Hoán nổi lên kích thích lòng say mê nghề nghiệp. Tại sao không gọi là nghề? Hoán chả đang làm cái việc tăng sản xuất đầu lợn là gì. Thoạt tiên Hoán tưởng đây là một xí nghiệp chăn nuôi quốc doanh. Nhưng Hoán vỡ nhẽ ngay. Làm gì có xí nghiệp quốc doanh nào lại đầu tư tốn kém, nhất là chăm nom đàn lợn tử tế đến thế. Điều thắc mắc của Hoán được giải đáp nhanh chóng. Gã đàn ông đã trút bỏ vẻ khù khờ bình dân ban đầu. Trong cơ ngơi của mình, gã đi lại sấn sổ, hoạt bát đường bệ như một vị tướng có đầy đủ trong tay những đạo quân mạnh mẽ: - Của anh hết đấy. Anh tự sản, tự tiêu. Chăn nuôi cũng là một nghề sạch sẽ. Không luỵ phòng thuế, chẳng sợ thương nghiệp. Lợn xuất chuồng bắc lên cân, nhà nước tư thương cũng là con hàng hết. Ai trả tiền cao anh bán, không chạy vạy, luồn cúi, nguyên tắc ấy không bao giờ bị lệ thuộc. Những lời của gã đàn ông cứ bùng nhùng trong cái đầu vốn đang bùng nhùng của Hoán. Nhưng rồi Hoán cũng hiểu. Trước đây, chủ nhà lợn này vốn là một giám đốc xí nghiệp, vướng mắc gì đấy bị hạ bệ. Từ hai con lợn bột, sau một năm gã gột thành hơn hai tạ lợn thịt. Bỗng dưng gã vớ được món bở và trong tâm can gã nung nấu một quyết định. Gã đâm đơn xin về hưu. Xin hưu trong lúc có chức có quyền và chưa đến tuổi là một hành động cao cả được xã hội hoan nghênh nhiệt liệt. Gã lấy luôn nhà ở thành chuồng nuôi. Sau vài vụ gã phất lớn. Gã bỏ tiền mua đất xung quanh, xây lên tầng, củng cố nhà nuôi. Kinh tế càng khó khăn, chính sách nuôi càng được mở rộng. Gã thuê người làm công, mở mang cơ sở, đầu tư tiền vốn, học hỏi kỹ thuật. Thấy Hoán.

<span class='text_page_counter'>(64)</span> ngơ ngẩn, lệt bệt, bước xung quanh chuồng mắt dán vào đàn lợn, gã cười hềnh hệch, mắt tít như hai sợi chỉ dăm: - Trông sạch mắt chứ chú? Nhưng cũng không ngon ăn đâu - Gương mặt gã thoắt biến đổi méo xệch, răng nghiến kèn kẹt - cũng đổ mồ hôi, sôi nước mắt đấy. Rồi chú sẽ thấy. Không ít kẻ nhòm ngó. Mẹ! Lúc mình rách, vợ con cũng khinh. Lúc mình có máu mặt, hết phường đến quận, hai vụ công trái vừa rồi, anh cúng đủ triệu bạc. Rồi hắn lại toét miệng cười. Hoán nghe nhưng chẳng cần hiểu. Mọi thứ với Hoán từ ngày rời quê đều trở thành vô nghĩa. Những ngày đầu qua đi suôn sẻ. Gã chủ hài lòng lắm. Hoán xốc vác, có sức khoẻ, việc gì cũng làm. Quần quật cả ngày tịnh không có lời kêu ca. Lạ thế. Nếu cần phải nghĩ, chính Hoán cũng thấy lạ. Được mươi ngày nom Hoán khác hẳn. Hồng hào, sạch sẽ. Gã chủ chả cần tính toán bỏ ngay khoản tiền sắm sửa mẽ ngoài cho Hoán. Bộ cánh mới thời trang, bảnh choẹ thay thế hẳn cho bộ đồ lính bạc phếch. Đến giờ nghỉ, Hoán súng sính trong bộ pi-gia-ma kẻ sọc. Bỗng dưng Lanh, gã chủ - vớ được một người làm công tận tuỵ. Gã bảo: - Anh biết chú hận cái gì. Xử như chú thiệt thân lắm. Anh đây, đường vợ con cũng vô cùng lận đận. Nhưng anh khác chú. Anh phớt tất. Mẹ, cứ có tiền là xoay chuyển được hết, kể cả thời cuộc. Cơ ngơi này anh ở với con vợ mới. Vợ cũ anh cho re. Lúc đầu nó cũng làm dữ lắm. Nhưng tiền vào, im hết. Mỗi tháng anh quẳng cho nó một "sợi". Ngồi mát nuôi con hoá sướng. Bọn nhóc thỉnh thoảng về đây "quậy" luôn. Nhưng anh đã có cách. Bọn trẻ bây giờ tinh ranh nhưng rẻ vô cùng. Sau lưng gọi bố bằng thằng, nhưng chỉ bộ bò mốc là vâng vâng, dạ dạ. Chú yên tâm - Gã thân mật đặt tay lên vai Hoán Mới vài ngày nhưng anh rất tin chú. Anh sẽ dựng vợ cho chú. A ha… Chú có tiền, đàn bà sẽ bu đến như ruồi tìm mật, bất kể chú là loại người gì. Phải đến phút sau Hoán mới hiểu gã chủ nói gì. Sao hắn biết rõ về mình thế nhỉ? Nhưng hắn không hiểu. Hoán đâu có cần tiền, càng không cần vợ, Hoán ở đây chỉ là vì mê đầu lợn. Đẹp quá. Có chục con lợn nái, nước non gì. Nhưng đàn lợn thật đụn địn trăm con, đẹp còn hơn cả tranh lợn làng Hồ. Nhìn chúng ăn, nhìn chúng ngủ Hoán cảm thấy vui. Khối nhọt u cô đơn trong lòng Hoán dần dần thai thoát. Lâu lắm rồi Hoán dửng dưng với người khác. Nhưng bây giờ - qua đàn lợn - Hoán bỗng manh nha tin cậy gã đàn ông mới gặp. Gã là ai thế nhỉ? Sao gã biết rõ nỗi niềm sâu kín của Hoán? Ngay cả Hoán cũng đã quên mất rồi. Đoạn đời cũ đã bị chôn vùi. Thậm chí cả đến nhớ lại Hoán cũng chả thiết. Vậy mà bây giờ ở đây, trong cơ ngơi của Lanh, đến bữa cơm nhâm nhi hươu rượu, đoạn đời ấy lại hiện lên mồn một, rõ ràng, mạch lạc. Ngày ấy lâu rồi. Làng quê Hoán vùng châu thổ sông Hồng trù phú. Hoán mồ côi cha. Mẹ ở vậy nuôi con. Hai mẹ con đều có sức, ở đồng bãi lo gì miếng ăn. Năm Hoán mười tám tuổi - năm 1965, bom Mỹ đánh vào làng đúng lúc nghỉ đêm. Một phần ba số dân làng ngủ yên vĩnh viễn. Hoán làm đơn xin nhập ngũ mặc dù Hoán là con độc trong diện chính sách. Mẹ tiễn Hoán đến hết làng. Cả Hoán, cả mẹ, nước mắt ròng ròng. Còn một người nữa cũng chùi nước mắt. Cô Mít hàng xóm. Hoán biết thỉnh thoảng Mít hay đỏ mặt liếc trộm Hoán. Hoán cũng thế. Một ngày không gặp Mít, Hoán bồn chồn. Chỉ thế thôi chứ cả Hoán lẫn Mít chưa bao giờ nói với nhau điều gì ngoại trừ công việc đồng áng và đoàn thể. Hoán đi, Mít giúi vội vào tay Hoán chiếc mùi-soa mềm mềm phảng phất hương bưởi vườn vừa cất. Rất nhanh, bàn tay nóng ấm lướt qua đời Hoán như một lời hẹn khó quên. Nhiều năm sau Hoán vẫn còn cảm thấy màu hồng lan nhanh trên khuôn mặt Mít lúc ấy. Màu hồng rực rỡ tụ lại ở đôi lúm đồng tiền ngồ ngộ. Hoán ở chiến trường miền Đông một lèo. Hết chiến tranh Hoán sẽ về nuôi mẹ, cưới Mít. Đời sẽ là như thế, nếu như Hoán không bị trận lạc rừng khủng khiếp chỉ xảy ra trước hoà bình 75 có một năm tròn. Hoán không duy tâm nhưng sau này Hoán chiêm nghiệm rằng: âu con người ta cũng có số thật? Hoán bị lạc ở vùng rừng Đa Quýt chỉ cách tỉnh lỵ Phước Long có một thôi tắt rừng, ở đấy, đơn vị Hoán đang cùng chiến dịch vây ép tiến công chiến lược. ác thế. Tổ chốt trinh sát của Hoán bất ngờ bị một đại đội dù nguỵ tấn công. Chốt chỉ có ba người và một máy vô tuyến mười lăm oát. Sau khi phát tín hiệu cấp cứu, tổ trưởng huỷ máy rồi hạ lệnh cho toàn bộ rút lui để bảo toàn lực lượng. Về sau Hoán mới biết ở hai hướng kia, đồng đội của Hoán đã hy sinh ngay từ loạt bắn đầu tiên. Hoán may mắn rút an toàn theo lòng một con suối cạn địch chưa kịp phát hiện. May mắn ấy chính là cái số Hoán khiến Hoán phải điên đảo cả quãng đời về sau. Hoán cứ theo lòng suối, lần lần, mò mẫm suốt đêm. Đến sáng Hoán mới biết mình đã lạc xa đơn vị. Phải lộn lại. Hoán đi vòng tránh xa cái chốt dù địch mới cắm. Địa hình.

<span class='text_page_counter'>(65)</span> lạ, mất đến ba ngày lặn lội nhịn đói nhịn khát Hoán vẫn chưa tìm được đơn vị. Chính lúc ấy cơn sốt rừng quật xuống. Lính B2 ai chả mang thứ tài sản bắt buộc là những mầm sốt dai dẳng trong người. Trận sốt hành hạ Hoán gần một tuần lễ. Và Hoán đã chắc chắn phơi xác nếu không may mắn gặp được Lài - nữ giao liên binh trạm - đang về nơi tập kết để ra Bắc hưởng chính sách. Mãi mãi Hoán nguyền rủa cái lán hoang, nơi Hoán nằm phục bệnh ở giữa rừng miền Đông ấy. ở đấy Hoán đã vĩnh viễn xoá đi hai núm đồng tiền rực rỡ của Mít, để lần đầu tiên trong đời Hoán run rẩy trao cho Lài ân nhân của mình - nụ hôn đắng ngắt dư vị sốt rét. Nước mắt giàn giụa, Hoán vuốt đi vuốt lại mái tóc thưa thớt, sạm phếch của Lài. Sau mỗi lần vuốt, ngón tay Hoán lại run run nhặt ra những sợi tóc bợt bạc. Hoán phủ mãi niềm thương cảm lên khuôn mặt gầy guộc của Lài. - Anh chỉ còn mỗi mẹ già. ảnh anh đây, đằng sau đã ghi địa chỉ. Thỉnh thoảng em đến thăm mẹ nhé. - Ứ! Ghét ghê, sao lại thăm? Em sẽ ở luôn với mẹ, chăm sóc mẹ, chờ anh. Hoán hực khẽ trong cổ. Đầu váng vất. Lồng ngực reo bần bật. Tim thúc thình thịch. - Điêu! - Em thề! Đứa nào nói điêu, đứa ấy chết! Hoán ôm chặt lấy Lài. Giữa cánh rừng già năm ấy Lài đã nhận của Hoán lời hẹn ước tin cậy nhất. Giải phóng miền Nam gần một năm Hoán mới khoác ba-lô trở về làng. Lài chờ Hoán thật. Hai mẹ con cạn kiệt nước mắt vì không có tin tức Hoán. Tổ chức cưới xong, hết phép Hoán lại tiếp tục vào đơn vị. Nhiệm vụ của đơn vị Hoán còn khá nặng nề ở biên giới Tây Nam. Mãi đến năm 79 Hoán mới phục viên. Mẹ Hoán đã chết. Đau thật đấy nhưng dù sao cũng hợp lẽ, già rồi ai chả phải một lần chết. Đau hơn cả là Hoán mất Lài. Trước đấy nhiều lần, trong những kỳ nghỉ phép và qua đường thư từ, Lài luôn giục Hoán về hẳn. Về làm sao được, Hoán không phải là người dễ dàng bỏ đồng đội, những người gắn bó sống chết với Hoán. Hoán về. Nhà cửa lạnh tanh, cỏ mọc đầy vườn. Hoán đọc đi đọc lại suốt cả ngày trời, hàng trăm lần, lá thư Lài để lại. Đọc mà chả nhớ gì hết, chả biết gì hết, Hoán chỉ mang máng rằng Lài sống vò võ một mình khổ quá, cực tay, tay làm miệng ăn không đủ. Cực ấy còn chịu đựng được nhưng Lài không chịu xiết nỗi cô đơn, niềm quạnh quẽ của người đàn bà có chồng nhưng biền biệt cách xa. Tệ quá, mình tệ quá! - Hoán lẩm bẩm. Hoán thở dài. Hoán ở lì trong nhà đến tuần lễ. Rồi Hoán sẽ nguôi ngoai, sẽ gây dựng lại cuộc sống bị gián đoạn. Hiển nhiên là như thế, sự mất mát nào cũng có giới hạn, nếu như đến tuần lễ sau Hoán không biết đích xác rằng Lài bỏ đi không phải vì thiếu Hoán cạnh bên mà vì lý do hoàn toàn khác. Lài đi theo một gã đàn ông giàu có ở thành phố. Anh họ Hoán kể rằng: "Có gặp thím dạo tết, béo đẹp lắm. Thím cứ giúi vào tay anh tập tiền. Chối mãi không được. Tiền anh vẫn để dành, để anh về lấy chú xem. Thím ấy phúc đức thật" Hoán trừng mắt khiến ông anh họ vốn là người nhu mì, thật thà, yếu đuối, sợ dúm dó người. Hoán tin. Ai chứ anh họ Hoán từ bé đến lớn tinh không biết nói dối bao giờ. Hoán lồng lên như voi rừng trúng đạn. Hoán xé tan bức thư cuối cùng của Lài. Chưa hả, Hoán giật phắt tấm ảnh cưới lồng kính treo trên vách, lia thẳng xuống ao. Tấm ảnh ấy dạo cưới Hoán phải mất một buổi đạp xe xuống tận thị xã tô màu cho đẹp. Chao ôi lòng người thật độc địa. Hoán từng đi đó đây và cũng chả ngu đần gì để không nhận thấy những chuyện như thế ở đời vô khối. Nhưng với Lài - Hoán gầm lên - Hoán lấy Lài vì nghĩa. Thiêng liêng hơn cả tình yêu, đấy là nghĩa cả. Một người như Lài từng ở chiến trường, từng vào sống ra chết, duyên chồng vợ gắn liền bên hòn tên mũi đạn, phần sống ít, phần chết nhiều, tưởng phải gắn bó keo sơn, mãi mãi ăn đời ở kiếp. Nào ngờ. Máu trong Hoán sôi sùng sục. Sao ngày ấy bọn lính dù không phục ở khe suối cạn cho Hoán một phát chết quách cho rồi? Như thế hẳn còn nhẹ nhàng hơn tình cảnh bây giờ. Dần dà Hoán tĩnh trí lại. Hoán cười chao chát. Thôi lẽ đời cũng phải, ân trả ân, oán trả oán. Cô Mít dù Hoán không hứa hẹn gì nhưng chả đợi Hoán ngần ấy năm trời hay sao? Con gái có thì, tuổi xuân ném vào thời gian đợi chờ mòn mỏi, đến khi vỡ mộng cô Mít phải gạt nước mắt lấy một người đàn ông goá làng bên cho yên bề, yên phận. Đấy cô Mít có trách oán Hoán một lời nào không? Vậy thì tại sao Hoán lại phải điên giận vì Lài? Thiếu gì đàn bà, Hoán đâu đã phải loại đàn ông bị xếp xó. Đầu ong ong, Hoán đi xuống cánh đồng Mả thắp hương trên mộ mẹ. Tiện gặp trâu cày, Hoán lội xuống thử vài đường, mùi bùn sục nao nao. Thấp thoáng bóng các bà, các cô làm cỏ, tát nước. Đầu Hoán lại quay cuồng. Mùi bùn ấy Hoán đã từng nhớ nhung khao khát. Và kia nữa tấm lưng ong dưới lần vải gụ rịn rịn mồ hôi. Mít… Lài… Không phải. Hoán vùng bỏ chạy..

<span class='text_page_counter'>(66)</span> Quá khứ tích tụ trăm nghìn kỷ niệm đau xót dồn dập như pháo nã trong đầu Hoán. Hoán ốm liệt. Phục bệnh xong Hoán lần mò xuống uỷ ban xã gặp tay bạn cùng nhập ngũ, giờ nó là phó chủ tịch thường trực. Vị cán bộ xã tròn mắt khi Hoán bày tỏ ý định bỏ làng ra đi. Anh ta thuyết phục mãi, Hoán vẫn nhất mực khăng khăng. Hoán về nhà gọi người anh chi trên nói gọn lỏn: - Hương hoả nhà tôi mà chẳng được dài nên phục đức thất tán. Tôi đã quyết định. Anh cho cháu sang đây ở. Trông cậy vào anh đèn khói cho nhà đỡ lạnh lẽo phải tội. Người anh rơm rớm nước mắt: - Thím ấy trót phụ bạc cũng vì hoàn cảnh. Chú đừng đi. Khổ đâu bằng nỗi khổ tha phương. ở nhà còn anh, còn em, còn hàng xóm láng giềng. - Biết thế nhưng tôi không chịu nổi. - Hoán thở dài. - Còn nó hoàn cảnh gì, con đàn bà tệ bạc, xin đừng ai nhắc đến. Mắt Hoán lại hoa lên. Hoán gạt mớ đom đóm đỏ nhìn xuống tay mình. Trong ấy là những sợi tóc rụng của Lài bợt bạt vì sốt rét. Chao ôi đời người đen bạc. Đôi lúc Hoán cũng chạnh nhớ đến làng xóm. Những yếu đuối ấy tan rất nhanh trong chuỗi ngày lầm lụi kế sinh nhai của Hoán, Hoán sống được bằng chính sự quên lãng mọi vướng víu của kỷ niệm buồn thảm. Quên, quên hết. Đời giả dối, người lọc lừa. Hoán tự chốt chặt cánh cửa trái tim của mình. Không tiếp xúc, không quan hệ, có chăng chỉ là mưu cầu miếng ăn tồn tại. Hoán không tìm Lài và cũng không đến với một người đàn bà nào khác. Thấm thoát đã gần chục năm trời… Bữa cơm tối nay, Hoán cạn hết hươu rượu. Miệng vẫn nhàn nhạt, thòm thèm. Hoán vốn không uống được nhiều, mặc dù ngày nào Hoán cũng uống. Rượu với Hoán không phải là liều thuốc giải sầu mà chỉ như một thói quen cố hữu của cảnh sống nhếch nhác. Hoán rót thêm một hươu nữa tu thẳng. Đắng! Buồn thế. Gã chủ đi rồi. Gã đi một chuyến dài ngày vào phía nam hình như để áp phe một cú gì đấy. Gã dặn dò Hoán kỹ lưỡng về mọi công việc cần thiết. Vợ gã về hồi chiều, Hoán chưa biết mặt… Nghe mấy người làm công nói ả cũng biền biệt suốt, hết vào Nam lại ra Bắc. Phải thôi, dân buôn nhiều tiền đâu có tiếc thời gian, sức lực để đẻ thêm thật nhiều tiền nữa. Càng uống Hoán càng thấy buồn. Nỗi buồn lớn dần khiến rượu nhạt thếch. Hoán lại trở về với tâm trạng chán chường. Niềm hứng khởi của mấy ngày gần đây với đàn lợn và niềm tin dè dặt vào gã chủ kỳ lạ đã biến mất trong Hoán. "Toàn bọn chó đểu, sạch sẽ gì! - Hoán lẩm bẩm - Hoá ra cũng một phường ăn cắp". Chiều nay tình cờ giúp người lái xe "công nông" chuyển gạo nhập kho để nghiền thành cám cho lợn, Hoán phát hiện ra những bao gạo trắng muốt. Gạo ở đâu mà nhiều thế? Tinh loại gạo ngon. Cơm niêu, nước lọ gần chục năm trời ở cái thành phố này, Hoán biết gạo đâu phải là thứ thừa thãi dành cho gia súc. Vốn chẳng tò mò nhưng thấy gã lái xe, tóc bợp gáy bết bệt đất cát, mồ hôi, luôn mồm giục vác nhanh, khiến Hoán ngứa ngáy miệng: - Cứ tà tà, trộm cắp gì đâu mà vội. - Hả? - Gã lái xe tức thì quăng bịch bao tải khiến gạo vãi tung toé. Giọng gã xoe xoe đầy tức giận - Gạo của đám xế lương thực đường dài "chọc tiết". Không trộm cắp lấy đâu giá rẻ như bèo. Gạo người ta ăn chẳng đủ. Hừ… cao đạo! Này nói cho biết… ông mà tố thì rũ tù cả nút. Hoán cụp mắt nín thít. Thân phận tôi tớ làm công biết gì mà nói. Công đoạn nhập gạo này trước đây gã chủ đảm nhiệm. Hoán lặng lẽ gom chỗ gạo rơi rồi bỏ vào nhà. Buổi chiều Hoán bỏ việc nằm bệt. Bây giờ Hoán không còn khái niệm tự hào bản thân như lâu nay Hoán vẫn sống bằng chính sức lao động của mình. Nằm chán, Hoán vòng xuống chuồng nuôi. Con lợn lai của Hoán thấy chủ, cào cào hai chân trước, rít ư ử. Hình như cặp mắt nó nhoè nhoè. Hoán thấy thương nó. Dẫu là con vật nhưng nó với Hoán nặng tình nặng nghĩa. Mình có lỗi - Hoán nghĩ - tưởng giao thân vào chỗ tử tế, nào ngờ… Chao ôi, đắng quá. Hoán cứ ngồi nhâm nhi mãi. Người buồn đến với rượu như kẻ mù tìm cây gậy dắt. Đúng lúc người Hoán bồng bềnh, đầu ngất ngưởng như cái túi bóng chứa khí thì có tiếng bước chân nhè nhẹ. Tiếng cánh cửa bị chốt lại còn nhẹ hơn thế. Mùi thơm ngầy ngậy lan toả nhanh chóng át hẳn hơi rượu nồng nặc. Hoán xoay người nhìn lại. Một người đàn bà. Hoán bỗng giật bắn người, chồm hẳn dậy, vọt qua mâm cơm. Cảm giác say tan biến như bọt xà phòng. Hoán giật mạnh tóc mai để định thần. Không phải ảo giác. Người đàn bà mũm mĩm, thơm tho, hồng hào đứng trước mặt Hoán chính là Lài. Cổ họng Hoán tắc nghẹn. Bất ngờ quá. Hoán đứng chôn chân. Lài nhỏn.

<span class='text_page_counter'>(67)</span> nhẻn: - Anh không ngờ em ở đây phải không? Giọng nói thân quen sau bao cách xa, cay đắng làm Hoán thức tỉnh. Thì ra là mày! Con phản bội! Đồ đĩ điếm! Mày đẩy ụp một đời tao, tao sẽ băm vằm mày. Khát vọng trả thù mãnh liệt. Nhưng lạ chưa kìa, vừa tiến được một bước chân, Hoán đã dừng phắt, tay buông thõng. Lài khóc. Những giọt nước mắt lã chã. Sạch sẽ thay nước mắt đàn bà! Nó tẩy rửa mọi thứ. Nó làm tắt ngấm ngọn lửa phẫn nộ cháy bùng bùng trong Hoán. Giọng Lài thẽ thọt. Lài kể, kể hết. Rằng mẹ chết, Lài một thân một mình. Tiếng rằng quê chồng nhưng có khác gì đâu đất khách quê người. Lài bơ vơ quá. Rồi Lài đi không phải vì làng xóm đối xử tệ bạc. Quê Hoán nổi tiếng ưu ái các gia đình chính sách. Lài đi lúc đầu cũng chỉ định tìm một công việc nhì nhằng gì đấy làm cho qua ngày, đợi Hoán. Lài gặp Lanh. Thấy Lài ốm o, nhếch nhác, Lanh thương tình nhận vào làm hợp đồng. Lúc ấy Lanh là giám đốc xí nghiệp xây dựng. Sung sướng gì kiếp làm phụ nề. Lương ít ỏi lại dầu dãi nắng mưa. Khổ thế nhưng Lài vẫn cặm cụi lam làm, chịu khó. Giám đốc Lanh động lòng trắc ẩn. Lài được làm tạp dịch cơ quan. Rồi biên chế chính thức. Rồi được cất nhắc làm văn thư. Nhàn nhã, người cũng đổi khác. Mầm sốt tiệt nọc, Lài phổng phao, da dẻ dịu lại, tóc lại trổ đầy đặn, mượt mà. Đùng một cái, xí nghiệp rầm rĩ, giám đốc "có vấn đề" với văn thư. Vợ Lanh dẫn con đến làm um xí nghiệp. Rồi thanh tra, rồi kiểm điểm, kết cục Lanh tạm thời bị đình chỉ chức vụ giám đốc. Thế là phải, đạo đức bao giờ chả là tiêu chuẩn hàng đầu của phẩm chất lãnh đạo. Oan thế. Lài kêu cứu để Lanh khỏi vì mình mang luỵ. Ai tin. Biết đâu được ma ăn cỗ. Vợ Lanh trỏ mặt Lài "Gái đĩ già mồm. Bà thì cho tan tành xác pháo". Một đêm mưa gió, Lài tìm đến với Lanh. Chịu ơn sâu Lài biết lấy gì mà trả. Thôi thì lấy tình đáp nghĩa. Đằng nào cũng đã chịu tiếng tăm. Lài cắn răng theo Lanh, và dần dà cơ nghiệp này được gây dựng. Hoán kiên nhẫn nghe Lài kể lể. Lài vẫn nhớ đến Hoán ư? Thì đấy Lài chả lập mưu để Lanh đón cái gã lai lợn kiết xác này về đây là gì? Chao ôi, Lài định nối duyên chồng vợ với Hoán bằng cách đấy ư? Sấm sét nổ trong đầu Hoán. - Thế còn Lanh, ông chủ lợn, chồng cô? - Hắn đi suốt. Từ ngày có tiền hắn chỉ biết đến tiền thôi. Xưa kia tốt là thế. Bây giờ vợ con hắn còn bị bỏ mặc. Thân em thấm tháp gì. - Cô nói vẫn nhớ tôi - Hoán gặng - Sao biết tôi ở đây, cô không đến. - Để làm gì? Để chúng mình tiếp tục sống nghèo? Không! Cơ nghiệp này không thể bỏ mặc cho mình hắn hưởng. Chúng mình đã mất tất cả, chẳng nhẽ không được cái gì. Em van anh. Hãy nghe em. ở đây anh sẽ sống sung sướng. Em sẽ bù đắp cho anh tất cả. Người lảo đảo, Hoán hoang mang đến cùng cực. Lài xáp đến. Hình ảnh Lanh thoáng nhanh. Một giây ám ảnh. Rồi thì thằng đàn ông trong Hoán đã chiến thắng. Hoán tỉnh dậy lúc gà gáy sáng. Đầu nặng như đá đeo. Lài nằm bên cạnh ngáy đều đặn. Trong ánh điện Hoán thấy rõ khuôn mặt của Lài. Như không có chuyện gì xảy ra. Lài ngủ bình thản, đầy thoả mãn. Hoán lập cập tìm bình nước lọc tu òng ọc. Lại ngắm. Lài đấy, thân hình ngồn ngộn phơi dưới ánh điện trắng đục, Hoán thấy lờm lợm. Cuộc đời thế này ư? Sao con người chuộc lỗi lầm đơn giản đến thế? Trời ơi, lấy lầm lỗi chuộc lại lầm lỗi. Cuộc đời công bằng thật. Lanh cướp mất Lài của Hoán, và bây giờ Hoán giật lại Lài. Đằng nào hơn? Đằng nào cũng thế. Bảo rằng Hoán khổ thì Lanh chắc sướng hơn chưa? Lanh cũng mất đấy chứ. Có ai được mà không mất? Lòng dạ Hoán rối bời. Có một cái gì bất ổn tràn ngập trong lòng Hoán. Người đàn bà kia không phải là Lài. Lài của Hoán đã chết. Cô Lài của rừng miền Đông đã cất lời chào vĩnh biệt từ lâu rồi. Bỗng có tiếng đập cửa dồn dập. Lài đang ngủ say chồm dậy, vơ vội quần áo mặc. Hoán mở cửa. Lanh chạy ào vào, thở hổn hển: - Mất mẹ nó hết rồi! - Bỗng Lanh gầm lên -Khốn nạn chưa kìa, mất cả chuyến hàng, thoát được về đây lại gặp cảnh này. Lanh nhìn Hoán. Cái nhìn lạ lùng. Làm sao có thể tin được con vợ giàu sang quý phái của mình lại ăn nằm nhanh đến thế với gã lai lợn bẩn thỉu. Lài đã tỉnh hẳn, mặt hốt hoảng. Hoán đứng sừng sững như cột điện chôn giữa ruộng nước. Ngày xưa Từ Hải chết đứng cũng chỉ như thế này là cùng. Có lẽ đau điếng hơn cả là Lanh. Mắt gã từ xoe xoe trở thành bất động. Phải mất đến một lúc, âm thanh dồn tắc nghẽn trong cuống họng.

<span class='text_page_counter'>(68)</span> Lanh mới phào ra được. Cụt lủn mỗi câu: "Súc vật!" Hoán vẫn đứng như thế không ân hận, chẳng sợ hãi. Lanh nhắc lại cặp từ trần trụi vừa rồi lần nữa. Bất ngờ Lài nhẩy bổ vào giữa hai người. Giọng rin rít hướng về phía Lanh: "Ai là súc vật?" Anh có biết ai đây không? Đây là chồng tôi. Chính anh, cả tôi nữa, đã cướp mất của anh ta cuộc sống. Không vợ con, gia đình, không một nơi ẩn náu. Súc vật! Những thằng người như tôi và anh có hơn gì "Súc vật". Lài sụp xuống oà khóc. Hai người đàn ông mắt hướng vào nhau. Nét bối rối xuất hiện, nước mắt Lài chảy xuống làm sụt lở từng mảng đất dưới chân Hoán. Súc vật! Chao ôi! Chao ôi!, Lanh và Lài đều đúng cả. Bấy lâu nay, tuy không ý niệm nhưng Hoán vẫn mang máng rằng Hoán và con vật khốn khổ chung một kiếp sống. Một kiếp sống mong manh, mơ hồ, mọi thứ xảy ra trong tiềm thức sâu thẳm, không định hướng, là gì nữa Hoán không biết. Chỉ đến bây giờ Hoán mới thức tỉnh. Súc vật, Hoán đã từng nhiều năm ở chiến trường oanh liệt. Hoán đã từng được sống đẹp đẽ. Vậy mà mất hết. Vì cái gì? Hoán trân mắt hết nhìn Lanh lại nhìn Lài. Không một mảy may căm giận, không mộtmảy may xót xa. Hoán có cảm giác như người vừa trả xong món nợ. Quãng đời cũ vinh và nhục, sướng và khổ, thù hận, căm ghét, mọi thứ đều tan biến vô nghĩa. Hoán nhìn thật kỹ Lài. Cái nhìn lạnh lẽo khủng khiếp khiến cả Lanh và Lài đều rùng mình, nhắm mắt. Mớ đom đóm đỏ lại xoà bay trước mắt. Hoán xoè tay. Chỉ có những nốt sần chai trên bàn tay thô ráp. Không còn nữa những sợi tóc rụng bợt bạt. Hoán quay người chậm rãi đi ra phía cửa. Tiếng lịch kịch mở cổng sắt của Hoán làm con vật tỉnh giấc chồm ngay lên thành chuồng. Hoán nhìn con vật. Mãi đến bây giờ lòng Hoán mới trào lên nỗi xót xa. Thôi mày ở lại nhé. Đây là chỗ của mày. Dường như hiểu tất cả, nó tru lên một tiếng dài thê thảm. Tiếng tru khao khát tiếc nuối. Không thể dừng được, Hoán vùng bỏ chạy. Tiếng con vật thảm thiết, đuổi dài đằng sau: "Dừng lại đi. Tàn nhẫn thay con người. Vì cái gì mà các người độc ác đánh đổi mọi thứ? Dừng lại đi…". Hoán chạy thục mạng ngược lại hành trình đôi bạn vẫn đi vào thành phố kiếm ăn. Từ hôm ấy, mọi người không ai còn thấy Hoán nữa. Số phận Hoán lập tức bị lãng quên. Có ai đó nhớ lại chỉ tiếc rằng: có một con lợn lai tốt giống đến thế đã không còn tồn tại. Đôi bạn Thứ năm, 04 Tháng 6 2009 11:03 Đèn trên phố huyện tắt đã lâu. Con đường cái dẫn tới nhà ga tối nhờ nhờ như chiêm bao. Dẫy đồi im lìm, giống khuôn ngực của các bà mẹ đang nằm yên ngủ. Mây trắng như dòng sữa thừa thãi đang chảy trên ngọn những quả đồi ấy. Nền trời mầu tím xanh. Một mầu xanh ban đêm của trời miền biển, khó mà nhận ra nơi đây lại là miền trung du. Nhà ga làm giữa đồng. Đã vắng lại càng vắng. Đó là một ga xép mới làm. Nó ra đời bởi con đường sắt vừa được nối liền giữa thủ đô và khu gang thép. ở đấy, chỉ có hơi gió thỉnh thoảng phả vào cửa kính, còn thì mọi vật đều yên giấc. Chẳng nghe ra một cái gì; không một ánh đèn; nổi bật lên một cách duy nhất trong cảm giác con người là mùi nồng nồng của tường vôi mới quét. Vòng ra sau ga, chỗ có hàng hiên khuất gió, nghe có tiếng ngáp và tiếng chuyện rì rầm của vài người khách chờ tầu. Họ là những người nhà ở xa, đến ga trước từ chập tối. Cứ thế, những phút chờ đợi rạo rực kéo dài cho tới bốn giờ sáng, khi nghe tiếng còi tầu nổi lên từ sau dẫy đồi kia, họ mới choàng dậy chuẩn bị lên tầu. Lúc ấy những lồng đèn xanh đỏ của nhà ga sẽ rộn rịp vui mắt. Con tầu sẽ buông ra một tiếng còi như một lời chào thân ái, rồi đưa họ về xuôi. Phút vui vẻ ấy chưa đến. Bây giờ chưa nửa đêm, còn là giây phút của câu chuyện xa gần. Bên cạnh cái bồn hoa dưới bực cửa có một đôi bạn đang trò chuyện. Chỗ ấy vừa có vẻ công khai, vì là bực cửa, lại vừa kín đáo, vì những rỏ hoa to tướng che khuất đến đầu người. Đôi bạn ấy gồm một trai một gái. Nhời nói với nhau rất mực bạn bè. Cách họ vài đòn gánh có một nhóm người nằm ngả nghiêng, thỉnh thoảng lửa thuốc lào lóe lên, nhấp nháy thấy mấy chồng quang gánh đặt bề bộn. Từ chiều, lúc những đám mây đỏ ối còn đọng trên những ngọn đồi nhấp nhô, người ta đã thấy đôi bạn nam nữ ấy. Hai cái chấm nhỏ như hai cánh chim, từ sau một ngọn đồi xa tít tắp của một công trường nào đấy, đi đến. Cái miền trung du khoảng khoát này, đồi núi trọc lốc, tầm mắt con người nhìn xa lắc xa lơ. Trông thấy họ có dễ ăn xong một bữa cơm.

<span class='text_page_counter'>(69)</span> mà họ vẫn chưa đến nơi. Họ xuống dốc này lại lên dốc khác, chỗ rẽ này quanh ngã ba khác, theo dõi bóng họ tưởng như đôi chim đang lượn vòng. Chẳng hiểu họ ăn mặc ra sao, bao nhiêu tuổi, họ đến ga lúc mọi vật đều tối đen. Nơi ấy được chọn làm chỗ ngồi: một bực cửa công khai, một bồn hoa kín đáo. Biết bao câu chuyện họ đã nói với nhau. Rất nhiều lần người con gái nói với người con trai câu sau đây: - Ừ, chúc bạn đi cho khỏe mạnh và tích cực công tác. Bây giờ khỏe mạnh và tích cực là phải đi đôi… Lần nào cũng thế, người con gái chưa nói câu nào hết, người con trai đã chúc lại: - Ừ, Tỵ cũng ở lại công tác. Khi nào rỗi rãi Tỵ về dưới ấy chơi. Tỵ cố học chị em, rồi lại gương mẫu để chị em học lại mình. Sau đó, người con gái lại nói: - Này, chúng ta ra đây muộn quá… Người con trai lại cướp lời: - Không sao, cũng như Tỵ đi tiễn tôi là một người bạn thôi. Có một lần, người con gái nói hết được ý mình, đó là câu: - Chúng ta ra đây muộn quá. Cửa hàng hợp tác đóng cửa mất rồi, mình chẳng mua được áo bông. Chỉ sợ có ai họ lại ngỡ chúng mình là… Lần ấy người con trai ân cần: - Có sao. Cũng như bây giờ Tỵ đi tiễn mình, tháng sau mình trở lên mình sẽ mua áo mang lên cho Tỵ. Bách hóa dưới ấy thiếu gì áo bông. Như ngần ngại, người con gái chuyển câu chuyện của mình sang công việc của một công trường làm đường sắt. Nhóm bên kia, chỗ đông người nằm ngổn ngang, có một giọng nghẹn khói thuốc lào hỏi vọng sang: - Tôi hỏi khí không phải, anh chị là người làm đường tàu, vậy anh chị có biết tối thứ bảy này đã có tàu chạy buổi đêm chưa nhỉ? Người con gái cười mũi một tiếng đến nghịch: - Chuyến tàu hạnh phúc ấy à? Có đấy bác ạ! Chúng cháu làm đường cho tàu chạy chứ để dành làm gì? Đôi bạn nam nữ cười ròn hơn tất cả. Tiếng người con trai: - Chừng nào đặt xong đường tàu vào Nam, mỗi tuần mình mời bạn về nhà mình chơi một lần. Người con gái: - Có đường tàu chạy về Thái Bình thì mỗi năm nghỉ phép mình cũng sẽ mời bạn về quê mình chơi. Người con trai: - Tết này bạn mời mình về nhà ăn Tết chứ? Người con gái cười, tiếng cười thân ái nhưng bộc lộ sự không đồng ý. Cô bảo rằng chỉ muốn mời người bạn trai kia về ngày thường thôi. Người con trai hỏi mãi tại sao. Người con gái không nói. Giọng khói thuốc lào nghẹn khói ở bên kia lại nói chen sang, bảo người bạn gái nên mời người bạn trai kia về ăn bánh chưng miền Bắc, vì lẽ người bạn trai kia Tết này còn xa nhà. Người con gái nói khẽ, chỉ để đủ người bạn trai nghe: - Mà bạn có nhất định về thật không? ừ, Tết này tôi xin mời bạn. Mẹ tôi già mà vui lắm. Mình định mua áo bông nhờ bạn xuôi dưới ấy gửi hộ về cho mẹ mình đấy. Nhưng mà thôi, chúc bạn đi cho khoẻ mạnh và tích cực công tác, giữ gìn sức khoẻ và… Người con trai không chúc lại người con gái nữa. Anh ta im lặng như nghĩ ngợi rồi đánh diêm châm thuốc. Mắt anh lóe lên một tí rồi tắt. Tiếng người con gái thoảng trong khói thuốc của anh: - Ừ, Tết này mình sẽ làm bánh đa khoai cho bạn ăn với mật. Quà quê mình chẳng ra gì. Ôi, bà cụ lẩn thẩn lắm kia! Tết nào cũng cứ bắt mình phải về. Một về, hai về! Bây giờ bạn.

<span class='text_page_counter'>(70)</span> cũng bắt tôi về nữa thì tôi biết chối làm sao. Khói thuốc người con trai phả lên từng vệt trắng. Anh bộc lộ vài câu ngỡ ngàng về lời kể lể của người bạn gái, rồi ngồi im như lắng nghe. Trong phút lặng lẽ, cánh cửa kính gặp hơi gió thoáng rung lên nghe như một lũ mèo con gầm gừ trong tro ấm, như một lời đùa có cấu có bẹo đâu đó chen vào. Một lúc lâu lắm, không biết người con gái đã kể câu chuyện của mình đến đâu. Về cái quê hương của chị ta. Về một cái cầu ngói già nghiêng nghiêng trên đầu chợ. Dưới cái bến sông ấy, có cả lứa con gái sắp đến tuổi tập ăn giầu và những trẻ con trai già hơn cái tuổi đánh vòng còn thích tắm chung nhau. Cái đám trẻ con ấy, đến lạ, hình như chúng ăn chung một dòng nước sông, uống chung với nhau cây vối ở đầu làng, lớn lên khối đứa nặng tình với nhau. ở đấy cũng có một đứa con gái chính cái cô đang kể chuyện đây - tắm chung với một người con trai. Họ ném bùn vào đầu nhau, lôi chân nhau dìm xuống nước. Và, lớn lên, biết làm sao được, khi họ cũng ăn chung dòng nước của một con sông và uống chung cây vối ở đầu làng. Mẹ già thương cả hai đứa, mẹ già cho lấy nhau. Cho đến bây giờ, ở cái làng quê nhỏ nhắn ấy, bà mẹ già đến là lẩn thẩn. Đêm đêm, mùa đông cũng như mùa hè, cái chăn che kín lấy người mẹ. Ban ngày, mẹ cũng chẳng thấy gì rộng rãi hơn ngoài mấy gian cầu ngói thu lấy bóng mẹ hôm sớm ra đồng. Cho nên, anh ấy mất từ năm nào rồi mà mẹ còn hay nhắc. Đến là khoẻ nhắc! Mẹ bảo rằng mẹ hay nằm mơ. Làm như mẹ sống bằng mơ nhiều hơn bằng thực trên cõi đời này. Nói ra thì mẹ lại chửi. Một người con giai, đã dám cầm súng đi đánh giặc, ai còn sợ gì cái nghĩa hy sinh? Anh ấy hy sinh như trăm nghìn các anh khác đã hy sinh. Có thế thôi! Mẹ lại bảo nó mất vào ngày Tết nên tao mới nhắc. Dễ thường nhắc mà ngồi dậy được chắc? Eo ôi, nếu thế thì ai chả mong ngày nào cũng Tết để lôi anh ấy trở về. Câu chuyện nhẹ nhàng như nước con sông đào chảy thầm thì về đến quê hương cô. ở đấy hiện ra bóng một con đò vừa cập bến và bàn chân cô gái đặt nhẹ nhàng lên bậc bến tắm. Những tảng đá xanh vẫn nhẵn nhụi như ngày xưa đón lấy gót chân quen thuộc. Cái bóng trẻ thơ quần xễ quá rốn vẫn nằm như in trong bóng nước. Cô gái chào dòng sông, chào bóng mình, chào mọi người thân thuộc, nghe thấy một hạt bụi mỏng gió vương vào mắt. Đấy là một ngày cô về phép. Mẹ già bỏ vội bát cơm đang ăn cho mèo rồi ôm vội lấy con gái. Mẹ bỏ làm một buổi để ôm lấy con gái. Mẹ bảo: Sao mày đi lâu vậy hử con? Cô gái nói: Lâu gì mà lâu, một năm giời là mấy! Đến tối, mẹ nằm mân tóc cô gái, nắn nắn lên đôi vai chắc chắn và nong nóng của cô, mẹ hỏi: Sao mà mày ăn nhiều thế hử con? Một tháng hết những hăm mốt đồng bạc! Cô gái nói: U ạ, sang năm con sẽ gửi tiền về cho u. Mẹ lại nói: Tao xem da thịt mày có đẫy hơn hồi ở nhà. Cô gái nói: U thì chỉ thích béo, béo nó nặng người ra, đi làm leo dốc làm sao được? Rồi cô gái mơ màng. Giấc ngủ ru cô về những công trường nhấp nhô, tiếng máy xúc máy đào bây giờ nghe vo ve như tiếng muỗi, tiếng cười của những người con trai nghe lơ lửng như tiếng lá chuối vỗ vào nhau ngoài hiên. Cô ngủ say sưa sau một ngày đò xe mệt nhọc. Mẹ già không ngủ. Nửa đêm nghe chuột rúc, mẹ nói: Tỵ à, Tết này về sớm sớm con nhá! Cô gái không trả lời. Gà gáy lần thứ ba, mẹ lại nói: Con ạ, đến hăm ba thì nhớ mà về! Cô gái chỉ cựa mình, u ơ, cô đang hát trong giấc mộng. Canh tư, mẹ kéo chăn cho cô rồi nói một mình: Tết này mày chẳng về thì còn ra cái nông nỗi gì hử con? Cho đến tinh mơ, lúc cô gái vừa ngồi đun bếp vừa chải đầu, mẹ già chăm chắm nhìn mặt cô, ánh lửa soi trên má cô một lần nắng mỏng, mấy cọng rạ đánh đu trên mái tóc dài loà xoà, mẹ hỏi: Nghe nói mày tìm được cái thằng nào đâu hở con? Cô gái mỉm cười: Tìm hiểu chứ lại tìm! Mẹ nói: ừ thì tìm hiểu, nó là người ở đâu, ra làm sao? Cô gái vẫn cười: Con chỉ tìm được cái đầu tầu hỏa thôi, to lắm, nó lại cứ hay phụt khói. Mẹ chẳng cười, mẹ nói: Thôi thì bây giờ đời mới, mẹ mặc chúng mày, xem ra phải ý với nhau thì hẵng gật. Giữ ý giữ tứ con ạ, kẻo cái kẻ đàn ông nó khinh cho. Mày mà lấy chồng xa thì lại mẹ khuất con, con khuất mẹ. Lần ấy cô gái cười lăn cười lộn. Cô nhủ rằng cô vẫn nhớ người chồng cũ, vẫn thương mẹ, cô đi tu, cô chẳng bao giờ lấy chồng. Mẹ già móm mém vui với cô. Mẹ lại nhìn má cô, nhìn tóc cô. Còn một đêm nữa là sáng mai cô ngược sớm. Mẹ già lui cui nấu cơm nếp. Cô gái cũng không ngủ. Cô ngồi ôm lấy đầu gối mẹ. Mẹ bảo: Mày có còn thích uống nước vối thì mang đi một nắm con ạ. Cô gái nói: Đâu đâu, ở công trường uống mãi chè tươi xót cả ruột. Mẹ lại nói: Đấy, thích uống nước vối mà lại chẳng ở nhà, làm giai đi đông đi tây đã đành. Cô gái ậm ừ: Người ta muốn bay nhảy chả được mẹ lại cứ níu chân chim… Và cô không nói nữa..

<span class='text_page_counter'>(71)</span> Buộc làn xong, cô gái chưa muốn đi. Cô nhìn mẹ từ đầu đến chân, rồi cứ cười. Lát sau, cô kéo mẹ ngồi thụp xuống hè, ngẫm nghĩ sao cô lại cười tít với mẹ. Xong, cô nói: U này, bây giờ con mới nói thật với u nhá. U cứ ở hợp tác yên chí mà làm nhá. Lúc nào buồn thì u sang ở với các anh các chị ấy mà vui với cháu. Chừng nào đường tầu bắc xong đến mỏ sắt thì con về. Con đi công trường chứ chẳng phải đi lấy chồng đâu - Mẹ nói: Tao có biết mỏ chim mỏ gà nào, nhưng mà Tết thì phải về con ạ. Về với nó một tí, chẳng linh sao gọi là chết trận. Tao nằm chiêm bao thấy nó về nó bắt đền tao rằng… U phải bảo nhà con, nó cứ ương không chịu về thì con về con ăn Tết một mình à! Cô gái nói: Anh ấy nói điêu đấy, con ở đâu thì anh ấy mò đến đấy chứ, cứ gì Tết. Eo ôi, cứ thấy anh ấy về anh ấy bẹo con - Rồi cô cười, sưởi ấm vào tai mẹ. Cô gái đưa tiền cho mẹ tiêu Tết rồi đi. Mẹ già đưa cô ra tận cầu ngói. Hình ảnh người chồng cũ đưa cô về tận công trường. Ngày ngày cô gái làm trên đồi cao, mang bao tay, đi giầy ủng, lưỡi xẻng của cô cắm dần xuống đồi đất sỏi; dưới chân cô, tít tắp ở dưới kia, con đường sắt chạy dài, có những chuyến xe qua lại: trong những toa xe xinh xắn ấy, hình như cũng có một bàn tay đang vẫy vẫy của chồng cô. à thì ra thế! Tết đến người ta đi đông đi tây, cô gái lại trở về quê hương mình. Mẹ già vui quá, tưởng như mình nằm trong cảnh chết, tiêu điều mà gặp con. Một cái Tết thật linh đình. Đầy nhà những người thân thuộc. Trong lúc mọi người đang vui vẻ, mẹ già kéo cô xuống một góc bếp thầm thì: Mày có thấy nó về nó bảo gì không hở Tỵ? Đã bảo mày tối hôm qua giỗ nó thì mày phải nằm riêng ra, mày lại cứ leo sang nằm chung với u. Nó về nó giận mày đấy! - Cô gái cười ngặt nghẽo. Mẹ lại nói: Chẳng linh sao gọi là chết trận? Vợ chồng thì phải thế chứ, sao mà ương vậy hử con? Cô gái chí vào đầu gối mẹ, bịt mồm cười, tóc tai rũ rượi. Cô gái hay cãi lại mẹ, nhưng tối hôm ấy cô nằm một mình thật. Một tối của đêm mùng một Tết không khí hoàn toàn trong trẻo. Giấc mơ trắng muốt đầy những cánh hoa nhài bay la đà đến cửa một vuông màn mới cưới… Có cái áo cánh phin nhuộm được nắng còn thơm thơm mùi nâu non… Có anh bộ đội nào bơi mãi trên dòng sông trong veo trong vẻo… Sáng hôm sau, hiên nhà hé nắng, cô gái mới choàng tỉnh dậy. Mẹ già đã ngồi chờ dưới chân. Đôi mắt nhăn nheo của mẹ có một niềm vui vô hạn. Mẹ cười với cô rất lâu. Lát sau, cô nói: U này - cô lại cười - anh ấy bảo với con thế này nhá, nhà mày phải tích cực công tác, xã đã cử nhà mày đi làm đường tầu thì nhà mày phải làm cho nhiều, nếu bỏ về thì anh sẽ đét vào đít cho ba roi! - Mẹ già chẳng tin. Cô gái lại cười. Mãi đến lúc từ giã mẹ, cô gái mới nói lại rằng: U ạ, anh ấy bảo trước đây u thương anh ấy mồ côi, đã cho con gái lại cho ở rể, u quý như con trai trong nhà, nghĩa của u anh ấy xin nhớ mãi. Anh ấy bảo rằng anh ấy chết theo đời sống mới, con mà lấy chồng thì anh ấy càng thương con hơn, chẳng giận đâu. Này, anh ấy còn bảo Tết sau u đừng làm cỗ nữa, anh ấy chẳng về nữa đâu. Anh ấy lại biết cả u đang ao ước cái áo bông, dặn con phải cố dành dụm mua cho u một cái để u mặc dối già. U thích nhá! Có đúng không nào? Mẹ già nửa tin nửa ngờ. Cô gái lại ra đi. * * * - Chừng nào bạn ngược qua đây bạn nhớ mua hộ mình cái áo ấy nhá! Người con gái nói thế rồi chúc thêm người con trai đi cho có sức khỏe và tích cực công tác. Lần này người con trai không chúc lại. Một vệt sao rơi xuống đầu đường sắt. Có lẽ anh bạn miền Nam ấy còn đang bị bơi trên dòng sông trong veo trong vẻo kia; chung quanh anh đang hiện ra những cánh đồng mầu xứ Thái xanh mướt những luống khoai, củ khoai đo đỏ màu da cháy nắng và những liễn mật ong mầu hoa cải - ừ, cô bạn gái của anh sẽ lấy chồng. Một người chồng độ lượng và hay khuyến khích những gì tốt đẹp trong con người vợ. Anh nghĩ như thế. Chẳng hiểu sao anh lại buột miệng nói ra với cô bạn gái. Nghe nói, người con gái cười khúc khích. Tiếng cười mang một niềm vui rất thực thà. Đúng ra, cô gái còn giấu người bạn trai câu chuyện sau đây: Tháng vừa rồi mẹ già nhờ ông anh rể đánh giấy lên. Mẹ nói rằng: "ớ cái con Tỵ! Mẹ nghe nói mày đã lấy chồng thật rồi ư con? Sao mà mày chẳng đánh giấy về để cho mẹ làm mâm cúng nó…". Cô gái liền viết thư về: "U ơi, Tết này hai vợ chồng con sẽ về chơi với u. U ra cầu ngói đón chúng con nhá! U này, anh chàng này trước cũng là bộ đội đấy. Bao nhiêu là râu! Quê anh ấy ở xa xa là. Anh ấy cũng về ở rể u ạ! Cái nón u cho con đấy, mưa rào hai vợ chồng đội chung. Nhà con biết thương u lắm. Thích uống nước vối.

<span class='text_page_counter'>(72)</span> nữa. Thương con rõ nhiều là thương…". Mẹ già nhận được thư cô liền đi báo tin cho các anh các chị cô biết. Rồi cả làng đều hay. Mẹ kỳ cọm lên thăm cô vào một ngày mưa tầm tã, lôi theo một cái nón mới và một hai nải chuối tây. Cô gái đang xông xáo ở công trường. Các bạn của cô cho mẹ già biết cô vẫn là một người con gái rất tốt, thế thôi, ngoài ra chẳng thấy chồng con đâu cả. Chiều, cô gái của mẹ dẫn xác về. Mẹ giận nó, mẹ nhìn tóc tai nó ướt đẫm, vai áo nó bốc hơi, bùn ngập trên đầu gối nó như cái cách đi cấy chiêm, đôi môi nó mím mím bắt chước cái thằng chồng cũ của nó, mẹ lại thương quá! Đứa con gái út của mẹ, nó ăn mặc những cái gì thế kia, lỉnh kỉnh những cái gì thế kia. Đêm ấy mẹ kể với cô gái rằng có một đôi chào mào đến lót ổ trên cây khế ở nhà, mẹ lại ngờ rằng cô đã chửa con so. Những ngày mẹ ở công trường, cô dặn mẹ chớ nói chuyện cũ của cô cho ai biết. Cũng đừng nhắc đến bức thư của cô gửi về. Lâu nay cô đã giữ kín. Thế mà bây giờ, đêm nay… Cô gái có một niềm vui tự ngày xửa ngày xưa trở dậy. Cô kể chuyện, nghe thấy cả lòng cô trong suốt và đầy tự hào. Mấy ngôi sao xanh ở chân trời nhấp nháy nhìn trộm cô như một lũ trẻ con tinh nghịch. Đêm nay, bỗng dưng cô thấy mến một đám trẻ nào đó quá. Đám trẻ có mang bóng dáng của cô trong thời thơ ấu, đầy hãnh diện, nồng nỗng tắm chung một dòng sông. Cô gái kể xong câu chuyện về mình rồi nói với người bạn trai: - Quê mình nghèo lắm. Mẹ mình già mà vui lắm. Bạn có ưng ăn bánh đa khoai chấm mật thì Tết này mời bạn về. Điếu thuốc người con trai lập loè. Chưa thấy anh trả lời lại người bạn gái. * * * Khi chuyến tầu xuôi rời khỏi cái ga bé nhỏ này thì trời bắt đầu hửng sáng. Trong đám người lộn xộn chen lên toa tầu không thấy người con trai ấy. Qua khung cửa toa xe ấy, tít tắp ở đằng xa, người ta bỗng nhận ra đôi bạn ấy đang đi bên nhau. Hai cái chấm nhỏ như hai cánh chim đang bay chon von trên một đỉnh đồi, ở đây nắng sớm vừa hé lên, khuôn ngực của các bà mẹ lại được thay yếm mới. Một người bảo: Anh chàng tạm trở lại vì chẳng lẽ để cho một cô gái như thế đi tiễn chân mình! - Một người nữa bảo: Họ yêu nhau! - Người thứ ba, ông có giọng nghẹn khói thuốc lào, nói rằng: Anh ấy chưa đi vội là phải. Tết này anh ấy còn phải về. Về để cho cô gái từ nay sẽ không bao giờ còn phải nói dối mẹ, cho mẹ già đêm nằm yên giấc không còn gặp chiêm bao. Và cái cô gái yêu đời ấy, không khéo Tết này còn dám đánh đu chung cả với chồng, tay đu đưa cao tít đánh lộn vòng cả trời xanh xuống dưới, rồi đêm nằm nhìn đình màn mới lại ngỡ đấy là nền trời đầy trăng sao. Tâm sự người chiến sĩ quản tượng Thứ năm, 11 Tháng 6 2009 16:22 Anh Kiên thân mến! Thế là Pắc Chăn của chúng ta chết mất rồi! Nó chết vào trưa ngày 27 tháng 12, ngày mà tổ chúng tôi vừa kết thúc đợt vận chuyển đột xuất. Ôi, con voi đáng thương! Ngày nào anh thường bảo bọn lính trẻ chúng tôi "Phàm con vật gì có chút ít trí khôn, ta thương yêu nó, nó khắc biết thương yêu ta". Có phải vì thế mà Pắc Chăn - cho đến cái chết - nó cũng biết chết đúng lúc. - Giá nó không thương chúng ta, lăn đùng ra chết trước đó dăm bảy hôm, thì chúng ta không biết sẽ xoay xỏa ra làm sao để "lo liệu" cho nó. Cậu Xuyển thường nghĩ đến lòng tốt của Pắc Chăn như vậy. Anh lạ gì tính cậu Xuyển. Nó vẫn thế, vẫn hay tư lự và mau mủi lòng. Tuy nhiên nó nói đúng. Những ngày trước đó, lúc anh em ở các binh trạm khác phải vớt nòng nọc đi, chắt từng ca nước trong các hốc đá của cánh rừng mùa khô, thì ở đây nước suối Nậm Bu bò lên gần đến chân sàn, chỗ chúng tôi gác bành tre. Gió mưa sùi sụt. Rừng lúc nào cũng gào thét như điên như dại. Đám đất trước lán đầy lá vàng, lá xanh và cành khô gãy, nom chẳng còn dáng dấp.

<span class='text_page_counter'>(73)</span> cái sân tí nào nữa. Mà đâu còn thì giờ để dọn dẹp, chúng tôi đi suốt ngày. Áo quần ướt giăng đầy vách. Cả tuyến đường vận chuyển bị nghẽn suối lũ chỉ trông cậy vào mấy tổ quản tượng chúng tôi. Xe thồ đành bó tay. Cầu qua suối trôi gần hết, chỉ còn cái cầu mây vắt qua hai ngọn dẻ chỗ Đá Đen là còn đứng vững - cái cầu mây mà mỗi lần chúng ta đi qua, cậu Kên thường dạng chân ra nhún nhảy đánh võng làm cho cậu Xuyển cứ ngồi xuống mà kêu như bò chọc tiết. Nhưng riêng chiếc cầu mây Đá Đen còn đứng vững cũng bằng thừa. Thanh niên xung phong phải gác xe, xoay ra vận tải bộ, nhưng vượt suối lũ cũng không phải chuyện dễ dàng và chóng vánh. Họ cử đến mấy người phụ việc với chúng tôi, phục vụ cái ăn cái uống cho voi. Trong thời gian vận chuyển đột xuất ấy, voi được ăn theo tiêu chuẩn bồi dưỡng, có thêm cơm, đường, mía và nõn chuối loại hảo hạng. Cung đường đi hàng xa gấp đôi ngày thường, và yêu cầu trọng tải cho từng con có tăng thêm. Mờ đất ra đi, tối mịt mới về. Mấy con voi, chừng như cũng biết nhiệm vụ chở hàng ra tiền tuyến lúc này thật khẩn trương, chúng tôi đều bận rộn vất vả, nên chúng trở nên ngoan nết hơn. Con Pắc Chét khảnh ăn và lười biếng nhất đàn, đã mang được bốn tạ hàng - điều mà từ trước nó không sao kham nổi. Chú voi không ngà nổi tiếng tham ăn, mồm miệng lúc nào cũng chóp chép - chú Pắc Mạy ấy, dạo này không tùy tiện dừng lại quờ cái ăn lúc trên đường đi hàng nữa. Còn chú Pắc Đo một ngà - ra vẻ voi đầu đàn ngay sau khi Pắc Chăn ốm. Nó không hay bông phèng như mọi dạo, nét mặt nghiêm trang, chỉ phải cái tội đâm ra làm dáng. Nó bắt chước Pắc Chăn - mỗi khi nghe tiếng động lạ, hai tai đang phe phẩy bỗng dừng phắt lại, căng ra như hai chiếc buồm đón gió. Nó nghe ngóng, bước rất khẽ và có lúc dừng lại đột ngột. Chú chàng biết tỏng mấy hôm nay trời mưa gió, rất ít tiếng máy bay địch nhưng vẫn tỏ ra quan tâm tới đàn em, nghe ngóng xem sao. Cậu Kên chăm chú nhìn Pắc Đo rồi nháy mắt với tôi. Tôi chưa kịp ngăn Kên, hẵng để mặc kệ chú chàng, thì Kên đã nện cho chú một búa, quát: - Ê, đừng có làm phách nữa ông nội! Pa…ay(1)! Cái tiếng "pay" Kên rít lên như còi. Tôi bực Kên lắm. Tuy Pắc Đo có điệu một tí thật, nhưng nó chở hàng nặng nhất đàn, lại không hay phun nước vào anh em thanh niên xung phong hoặc khoèo chân Pắc Chét như mọi dạo. Dù sao cái cách làm dáng của Pắc Đo cũng có chỗ đáng yêu. Nó biết trách nhiệm đầu đàn của nó, hoặc nó tưởng rằng đã là voi đầu đàn thì phải có cái lối nghe ngóng động tĩnh nhạy bén như Pắc Chăn mới được. Khi bị Kên mắng, Pắc Đo vẫn im lặng đi. Tôi tưởng chú sẽ dở chứng tự ái, bước đi khệnh khạng, vòi lủng lẳng đung đưa bên này sang bên nọ. Nhưng không phải. Pắc Đo biết mình sai hoặc là biết nín nhịn. Chính vì thế mà Kên hối hận. Không đợi chúng tôi phê bình, anh đã thú nhận rằng mình nóng nảy, ngứa mắt vặt vãnh, không hiểu tâm lý chú Pắc Đo. Khi đến chỗ trả hàng, Kên chạy ù vô rừng chặt cho Pắc Đo một cây chuối non tước vỏ trắng lốp, và vuốt ve nó ra ý xin lỗi. Suốt mười lăm ngày mưa gió, cả voi lẫn người tuy vất vả bận rộn, nhưng không khí làm việc vui như nhà có đám. Chỉ khổ thân cho Pắc Chăn. Nó ốm. Nó buồn. Nó không ngủ được nên cũng cùng đàn dậy sớm. Cả đàn thích thú ngoạm từng nắm cơm nóng to bằng cái mũ cứng, rồi xúm lại quanh đống lá tươi cao như cồn rơm. Tiếng vòi đập lá giũ kiến, rồi tiếng nhai rau ráu, Pắc Chăn nhìn chúng bạn ăn uống ngon lành mà thèm, nhưng nó không ăn được. Khi chúng tôi xếp hàng hóa lên bành và các chú voi thích thú rung rinh làm các kiện hàng khẽ va vào nhau lắc cắc, thì Pắc Chăn nghiêng người đi, đôi mắt khép hờ, mệt mỏi. Hình như nó không dám nhìn cái cảnh lên đường đi hàng của chúng bạn, chỉ sợ mình ứa nước mắt ra. Mà nó ứa nước mắt ra thật, nó khóc thầm. Ấy là lúc chúng bạn đã ra đi. Ấy là lúc tiếng hú dài của cậu Phờng vang lên đầu suối, rồi vọng mãi trong các cánh rừng. Phờng là một thanh niên người Thượng miền Tây Quảng Bình mới bổ sung về tổ chúng tôi - một thanh niên tóc dày và quăn, đôi mắt to, có cái nhìn thật dữ dội. Không ai có bộ ngực đồng hun như Phờng, và trong tổ, mặc dầu đa số là anh em dân tộc ít người, cũng không ai thổi khèn bè hay như cậu ta. Phờng có thói quen, là lúc ra búa cho voi đi, cậu ta thường hú lên. Rồi hát: "Voi ơi voi! Ta cùng voi ra đi Chở hàng ra chiến trường Nơi nhiều ngọn núi của ông bà Nơi lắm khúc sông của mẹ cha…". (.

<span class='text_page_counter'>(74)</span> Bài hát do Phờng tự đặt ra, không có làn điệu nhất định, hát rất tùy tiện. Tuy vậy tiếng hát dường như từ trái tim sôi nổi của cậu ta bay ra làm tâm hồn chúng tôi cũng trở nên phấn chấn, chúng tôi cảm thấy càng thêm yêu nghề nghiệp. Còn tiếng hú của cậu thì thật tuyệt diệu. Nó là tiếng vang của bộ ngực đồng hun, là tiếng của rừng núi. Bao giờ cũng thế, nghe tiếng hú của Phờng cất lên, đàn voi được kích thích. Chúng rảo bước, vòi giương cao, mắt nhìn ra xa y như chúng đang nhớ lại thời kỳ sống hoang trong rừng sâu, phóng khoáng và hung dữ. Và cũng khi tiếng hú của Phờng cất lên, thì chú Pắc Chăn đau khổ rên một tiếng khô khan và ngắn ngủi, rồi tựa cái hông gầy nhom vào thân cây lim tróc vỏ, vòi thõng xuống rũ rượi. Cứ thế, hai hàng nước mắt trào ra. Chao ôi, lòng tôi đau như xé. Trong đời tôi, tôi chỉ mới thấy Pắc Chăn khóc vài lần, nhưng lần này chính tôi cũng không cầm được nước mắt. Có lẽ hôm nào nghe tiếng hú của Phờng nó cũng khóc như thế. Hôm đó, nếu như tôi không có ý định ở nhà để săn sóc Pắc Chăn và luôn thể có tí việc với trạm giao liên, thì không làm sao biết được. Nó khóc vì tủi thân và bất lực. Tôi chạy lại vuốt ve an ủi nó. Nó vờ làm ra vẻ vui cho tôi yên lòng. Tấm mía tôi róc vỏ sạch sẽ đưa cho, nó quờ lấy nhanh chóng, nhưng chỉ gặm một tí rồi nhè ra. Nó không muốn ăn nữa. Anh Kiên thân mến! Đã đành là Pắc Chăn biết nó không sống nổi nữa, nhưng như cậu Xuyển nói, nếu nó không thương chúng tôi, lăn đùng ra chết giữa những ngày rối bận, thì thật chúng tôi không biết sẽ xoay xỏa ra làm sao, vừa bảo đảm công tác vừa phải lo chôn cất nó. Pắc Chăn đã biết chết đúng lúc - khi mưa rừng tạnh được vài hôm và chúng tôi đã "liên hoan" một nồi chè nếp mừng công hoàn thành vượt mức kế hoạch vận chuyển đột xuất do binh trạm đề ra. Bấy giờ, cầu đã sửa xong, các cô các cậu thanh niên xung phong lại kìn kịt thồ hàng đi. Nắng lên ấm áp. Nước suối Nậm Bu đã rút xuống, để lại hai ngấn nước bạc phếch hai bên bờ - trên những dãy dứa dại và tầm xuân rừng. Qua dòng nước trong vắt như trước, người ta thấy rõ những rọ đá xếp kè chắn ngang suối làm lối đi bị xộc xệch; có nhiều rọ bị cuốn trôi đâu mất để lại những hố nước xoáy sâu hoắm. Cái sân rác rưởi trước lán được quét dọn quang quẻ bốc lên một làn hơi mỏng mảnh khi nắng lên. Nền trời không còn vương vấn những đám mây xám, trở lại xanh mịn màng - một màu xanh nhìn lâu chói mắt. Những ngày đó, không phải chúng tôi rỗi rãi, nhưng đỡ bận rộn hơn trước. Và Pắc Chăn đã chết một cách thảnh thơi, y như là nó tự nguyện chết vậy. Giờ đây, chúng tôi đã chôn Pắc Chăn sau khu rừng nứa. Bộ ngà đẹp đẽ đã gửi về binh trạm. Quả thật Pắc Chăn chết đi, để lại trong lòng chúng tôi một nỗi nhớ nhung dường như trong đời sống của chúng tôi, thiếu mất một cái gì thân thiết quá. Cậu Phờng thường nhìn về cuối cánh rừng nứa một cái nhìn dữ dội, và thổ những bài khèn bè nghe như có tiếng suối róc rách, tiếng lá thì thào, tiếng chim từ quy khắc khoải. Phờng lại đặt ra một bài hát: "Pắc Chăn ơi, mày đã chết rồi Không còn cùng bạn bè chở hàng đánh thằng Mỹ Mày để lại cái bành tre Và đôi ngà quý…" Kê lấy dao khắc lên cây lim tróc vỏ ngày chết của Pắc Chăn. Kên nói: - Chúng ta dốt. Nếu có đủ trình độ như bác sĩ thú y, thì chúng ta khắc biết cách chữa bệnh cho nó. Anh chàng người Tày này tuy tính hay đùa và nóng nảy nhưng lại thẳng thắn, xông xáo và biết nhìn xa. Anh đề nghị, nếu binh trạm không bổ sung thú y sĩ về, thì anh em trong tổ nên cử người đi học lấy dăm bảy tháng, ít ra cũng còn biết cách xem bệnh và bốc thuốc cho voi. Voi đối với mình như là chiếc ô tô của anh lái xe, mà mình không biết gì về thú y, nhiều khi bí lắm. Kên có lý. Bởi vì điều làm chúng tôi băn khoăn là: suốt một tháng Pắc Chăn ốm cho đến lúc chết, chúng tôi không hiểu được nó mắc bệnh gì. Hôm ấy, nó vẫn đi hàng như thường lệ. Nó vẫn xứng đáng là voi đầu đàn, mang năm tạ hàng, đi đứng nghiêm trang, oai vệ. Khi trở về chỗ cây lim tróc vỏ, Pắc Chăn vẫn tỏ ra vui, miệng thổi ù ù. Sau đó, Kên cho nó đi tắm. Nó hút nước phun như vòi rồng, rồi nằm dưới nước, kêu cóc cóc. Rõ ràng chú rất khoái chí. Buổi tối nó có vẻ buồn, kém ăn. Sáng hôm sau, tôi dậy sớm khi chưa mờ đất. Tôi ra bãi voi, đứng đằng xa định gọi cả đàn dậy,.

<span class='text_page_counter'>(75)</span> thì thấy Pắc Chăn đã dậy từ lúc nào. Thần sắc nó bắt đầu khác đi, mắt hơi lờ đờ, miệng há ra và ở đó có một thứ nước dãi nhơn nhớt, màu trắng đục chảy lòng thòng. Tôi quyết định cho nó nghỉ. Cậu Kên bảo: - Chà, chú chàng lại dở chứng làm nũng đấy! Đừng chiều nó vớ vẩn. Xem ra Pắc Chăn cũng không muốn nghỉ. Ừ, cứ để cho nó đi! Mọi bận, Pắc Chăn rất giỏi, cứ xếp lên bành đủ năm tạ hàng, nó mới chịu đi. Chưa đủ trọng tải là nó cứ ì ra đấy. Hôm nay, mới xếp ba tạ rưỡi, nó đã vùng vằng muốn bước. Thôi, thế đã là cố gắng lắm rồi. Nhưng đi được nửa đường, nó bước uể oải. Đến một cái ngã ba, hình như nó hoa mắt lên nên bước nhầm đường. Tôi hô: - Liềng phay!(1) Pắc Chăn mới giật mình, biết mình nhầm đường, nhưng không đi sang trái như tôi hô, nó dừng lại luôn. Miệng nó càng há to, và lúc này chảy ra một thứ nước xanh đục. Chúng tôi dỡ hàng xuống và cho nó quay về không. Tôi róc một ôm mía thật ngon để trước mặt nó. Tuy nó có vẻ nể chủ, nhưng chỉ bóp mãi một khâu mía mà thôi. Thế là nó ốm thật rồi. Khi binh trạm cho người về đồng bằng mời được ông thú y sĩ lên, thì người nó đã gày đi, giơ xương sườn ra. Nó bỏ ăn, chỉ uống vài chậu nước đường và ít bột sắn. Ông thú y đã có tuổi, đeo kính cận, chỉ quen bệnh trâu bò, lợn gà, chưa bao giờ chữa bệnh cho voi. Ngay cả đến gần nó, ông còn có vẻ sợ, mà ông không dám đứng ở bãi voi lâu, chân lúc nào cũng xê dịch, chỉ lo vắt bám. Cái vẻ thiếu tự tin lộ ra trong giọng nói lúc ông chẩn đoán con bệnh: - Chà, cũng gay đây. Có lẽ nó bị một cái nhọt trong cổ họng, hoặc là nó bị nhiễm lạnh sưng phổi trầm trọng gì đó… Ông bảo chúng tôi cho Pắc Chăn uống "xuyn-pha-mít". Và ông tiêm cho nó một thứ thuốc gì rất khó gọi tên. Ông vội vã về xuôi để lại cho chúng tôi một nỗi lo lắng: bệnh tình của Pắc Chăn không thuyên giảm, mà trái lại. Chúng tôi đều ngẩn mặt ra nhìn nhau. Làm thế nào bây giờ? Giống như đứng trước một đứa bé chưa biết nói bị ốm, chúng tôi đều ước ao một cách mơ mộng rằng, giá có phép gì làm cho Pắc Chăn nói được nó đau ốm ra làm sao thì nhất định chúng tôi chẳng đời nào chịu bó tay. Phờng nói, giọng chắc nịch: - Tui nghe ông bà miềng bảo con vật trên rừng trên rú sống dài lắm. Nó ốm, nó tự biết kiếm cái lá mà ăn cho khỏi bệnh. Cái lá đó miềng không biết được. Tui đề nghị thả cho Pắc Chăn đi vô rừng… Ý kiến của Phờng làm cả tổ vui mừng và hy vọng. Nhưng liền sau đó, chúng tôi cảm thấy mình đối với Pắc Chăn nhẫn tâm quá. "Con lành con ở cùng bà, vang mình sốt mẩy con ra ngoài đường", lúc Pắc Chăn khỏe mạnh sung sức thì nó phục vụ cho mình, nay nó ốm lại đuổi nó ra rừng. Pắc Chăn đã sống với bộ đội lâu rồi, dễ có đến ngót hai chục năm. Đã tham gia kháng chiến chống Pháp, nay lại đến kháng chiến chống Mỹ. Trong chiến dịch Thượng Lào, là kiện tướng vận tải được tặng Huân chương Chiến công. Thực tình, anh em chúng tôi đều kính nể và quý trọng Pắc Chăn bởi những cống hiến của nó. Tuy Pắc Chăn có những lần phạm sai lầm và những nhược điểm nhất định, nhưng nó là con vật đã nặng tình nặng nghĩa với chiến sĩ vận tải. Chúng tôi bàn với nhau và quyết định phải giả vờ làm mặt giận mới đuổi được nó đi. Chỉ có cậu Xuyền là không chịu được thái độ đó. Lúc chúng tôi phải nén lòng lại, vác gậy gộc xua Pắc Chăn vô rừng, thì Xuyền lánh mặt. Quả thật, lúc đầu Pắc Chăn hơi ngờ ngợ, dường như nó không hiểu vì sao nó bị hắt hủi. Cứ đi một thôi, nó lại ủ rũ quay đầu, nhìn chúng tôi như van lơn, cầu khẩn. Giá như chúng tôi đều mau mủi lòng như cậu Xuyền cả, thì công việc sẽ hỏng ngay lập tức. Tối hôm ấy, không thấy Pắc Chăn về nữa, tâm trạng chúng tôi thật phức tạp, vừa thương nhớ nó, vừa vui mừng vì đã đạt được ý định. Phờng là người cả quyết tin rằng chỉ vài mươi hôm nữa Pắc Chăn sẽ trở về khỏe mạnh và béo tốt như xưa. Vắng Pắc Chăn, đàn voi có vẻ nhớ. Chúng thường lấy vòi sờ mó lên cây lim tróc vỏ - nơi chúng tôi vẫn thường xích Pắc Chăn vào đấy - như thể muốn tìm bóng dáng của chú voi đầu đàn. Chúng tôi bắt tay vào kế hoạch vận chuyển đột xuất khi mưa lũ đổ về. Thiếu Pắc Chăn con voi nòng cốt nhất của cả đàn lúc này thật tai hại. Đêm về, thay xong quần áo, chúng tôi xúm nhau ngồi hơ tay trên đống lửa, nhắc Pắc Chăn như nhắc một người thân đi xa. Thường thì cậu Xuyền mở đầu bằng một lời xuýt xoa: - Hôm nay nữa là ngày thứ ba…. (.

<span class='text_page_counter'>(76)</span> - Vị chi Pắc Chăn đi đã được năm ngày… Tiếp theo, Kên bèn tưởng tượng ra cái cảnh Pắc Chăn đi hết rừng này sang rừng khác kiếm lá trị bệnh y như Đường Tăng đi thỉnh kinh. Niềm hy vọng của chúng tôi đã biểu lộ trong lúc bàn luận với nhau chuẩn bị kiếm cái gì liên hoan đón Pắc Chăn "ra viện". Đêm thứ tám, kể từ ngày Pắc Chăn đi, chúng tôi đang ngủ say, chợt giật mình tỉnh dậy vì có tiếng vòi voi quờ quạng ngoài liếp cửa. Điều này thật lạ lùng. Xưa nay voi đi làm hoặc đi ăn về đều ở ngoài bãi, có con nào dám mon men vào tận lán ở của tổ quản tượng đâu. Chúng tôi xách đèn bão ra. Pắc Chăn đã về đứng sừng sững giữa sân, đầu gồ ghề, xương sườn hằn lên trên lớp da xám mốc, miệng vẫn há ra và chảy rớt. Chao ôi, trông nó tội nghiệp quá! Nó nhìn chúng tôi một cái nhìn bất lực và đau đớn. Và từ hai hốc mắt sâu hoắm, hai dòng nước mắt trào ra. Pắc Chăn khóc làm chúng tôi lạnh cả người vì xúc động. Cậu Xuyền sụt sịt rồi cáu với chúng tôi bằng cái giọng vỡ tiếng: - Các anh xử tệ với nó quá! Ai lại nỡ đuổi nó đi, để bây giờ nó mang cái thân tàn ma dại trở về cầu xin chúng ta cứu nó. - Và anh lại vỗ vỗ lên cái vòi vuốt ve nó: - Thôi, mày chẳng phải đi đâu nữa cả. Sống chết cứ ở đây. Rồi chúng tao sẽ liệu... Nhưng chúng tôi còn biết liệu thế nào. Rõ ràng là Pắc Chăn không tự chữa nổi bệnh, mới trở về như thế. Thú y sĩ cũng đã chịu. Chỉ còn một cách là đi hỏi dân bản. Tôi và Phờng tìm đến bọ Hồ Lay - một ông già Vân Kiều quen thân với tổ chúng tôi lúc chúng tôi còn công tác dưới kho AI. Bọ Hồ Lay nói: - Nó đã không kiếm được cái lá mà ăn cho khỏi bệnh, là nó chết. Chúng tôi nài nỉ mãi rằng "còn nước còn tát", nên bọ cũng kiếm cho chúng tôi một ôm lá. Chúng tôi đem giã lá ra, gạn lấy nước hoa với đường. Pắc Chăn chỉ tợp một ngụm rồi thôi. Nó không muốn uống thuốc, cũng không muốn ăn. Đường trắng, đường đỏ, bột sắn, cháo đậu xanh, Pắc Chăn đều chỉ nếm một tí gọi là. Trong lúc đó, chú Pắc Mạy háu ăn không giấu được nỗi thèm thuồng, mắt lấm la lấm lét, chỉ chực chờ chiến sĩ quản tượng sơ ý một tí là xông đến ăn hôi. Hôm nắng ấm, thấy Pắc Chăn cứ quay đầu ra ngoài suối, Kên đề nghị với tôi cho Pắc Chăn đi tắm. Cái giống voi rất thích nước, biết đâu được tắm táp mát mẻ, bệnh nó lại thuyên giảm cũng nên. Pắc Chăn hăm hở ào xuống suối. Và trở nên hoạt bát vui vẻ, nó lại vục vòi phun nước nghịch ngợm như ngày nó còn khoẻ mạnh. Chơi chán, nó lần đến chỗ vũng sâu, đằm mình, miệng kêu cóc cóc ra vẻ khoái chí. Chỗ ấy có một cái xoáy nước ngầm sâu lắm, càng sát bờ bên kia càng hẳm. Vắt vẻo ngồi trên một cành vả bên bờ suối, Kên hoàn toàn không chú ý đến Pắc Chăn mỗi lúc một đi xuống vũng sâu. Cho đến khi trên mặt nước chỉ nổi lên chiếc vòi phun nước phè phè, Kên vẫn tưởng nó đùa. Anh không ngờ chỉ vài giây sau đó Pắc Chăn chìm hẳn. Nhìn dòng nước xanh leo xanh lẻo soi rõ từng đàn cá niên bơi lượn, người ta khó biết được dưới đáy suối có xoáy nước ngầm chảy xiết... Thôi thế là Pắc Chăn đã chết, y như nó muốn tự tự vậy. Bốn chiếc ô-tô và một trung đội công binh đã kéo xác nó lên bờ. Quả thật chúng tôi đều không có trình độ chuyên môn về thú y, nên khi anh em công binh phanh phui mổ xẻ thân thể nó ra, chúng tôi vẫn không thể hiểu được nó chết về bệnh gì. Có điều này đáng chú ý: chúng tôi nhặt được bốn cái đầu đạn súng trung liên trong người nó, có một viên chui vào chính giữa phổi. Đấy là những vết thương cũ của nó trong kháng chiến chống Pháp. Không biết nó chết vì những vết thương cũ tấy lên hoặc do một bệnh hiểm nghèo nào khác? * * * Anh Kiên thân mến! Đã đành là Pắc Chăn chết cũng như Pắc Vê chết năm xưa, nó ốm thì nó chết. Dẫu chúng ta hết lòng thương yêu nó, thì nó vẫn là thân phận con vật. Nhưng dường như chỉ sau cái chết của Pắc Chăn, tôi mới có dịp ôn lại quãng đời làm chiến sĩ quản tượng để tâm sự với anh. Tôi vẫn còn nhớ cái ngày tôi được điều động về tổ quản tượng do anh phụ trách. Tôi giãy lên như đỉa phải vôi, rằng xin chịu thôi, nào tôi có hề biết voi ngựa bao giờ đâu. Anh bảo: - Cậu là người dân tộc Thái Kỳ Sơn, chẳng lẽ cậu chưa hề biết con voi như thế nào ư? Tôi thú thật là trong bản tôi cũng có một vài con voi của những nhà giàu có. Người ta.

<span class='text_page_counter'>(77)</span> dùng để kéo gỗ và chở hàng sang tận bên Lào. Ấy là chỉ mới biết thế thôi, chứ chưa hề giữ nó. Mà giữ làm sao được. Những người giàu trong bản tôi nuôi voi có những tay quản tượng nhà nghề. Đấy là những người đã lớn tuổi, có ria mép, răng vàng, mắt lúc nào cũng đăm đăm, tẩu thuốc lá bốc khói dường như không mấy khi rời khỏi miệng. Bố tôi bảo, họ từ đâu đến không ai biết, không có vợ con; người quản tượng không được lấy vợ, phải sống trong sạch như người nhà trời mới điều khiển nổi voi. Lũ trẻ con chúng tôi gặp các bố quản tượng đều phải vòng tay lại cúi đầu chào "Lạy ông ạ". Đấy, sự hiểu biết của tôi về người quản tượng là những những xa lạ đầy bí mật như thế, nên tôi tìm mọi cách từ chối. Đến bây giờ tôi vẫn còn xấu hổ khi nghĩ lại thái độ vụng về lúng túng của tôi lúc đó. Tôi đã đỏ mặt lên và một hồi lâu mới đánh bạo nói rằng, tôi đã trót cưới vợ rồi. Anh vỗ vai tôi cười vang. Anh không chế giễu tôi, mà nói về anh: - Mình cũng có vợ và hai con đang ở trong Nam. Cậu đã thấy biển bao giờ chưa? Chưa à? Mình là dân biển. Quanh năm suốt tháng chỉ lăn lưng ra trên những đồng muối trống trải. Quen nắng, quen hơi nước mặn và gió biển chứ có quen rừng như cậu đâu. Thế mà hồi lên Tây Nguyên cấp trên giao cho giữ voi cũng làm xong tất. Bây giờ hóa ra đã quen nghề… Hôm ra bãi voi, anh đưa tôi đến làm quen với Pắc Chăn. Tôi đâm ngạc nhiên vì anh có một thứ ngôn ngữ riêng với nó hay do tôi cảm thấy thế, mà nó biết anh muốn giao cho tôi phụ trách nó. Pắc Chăn phe phẩy hai tai, giương cặp mắt ti hí nhìn tôi. Tròng mắt nó đảo đi đảo lại mấy lần như dọa dẫm, muốn bắt nạt tôi. Chắc anh biết, nhưng giấu không muốn nói, sợ tôi chùn bước. Anh chỉ nói rằng, nó là con voi rất tinh khôn, làm việc rất giỏi, nhưng phải cái hơi bướng, quản tượng lơ mơ là cu cậu đâm ra tự do vô kỷ luật ngay. - Đối với nó, cậu phải đàng hoàng. Đừng rụt rè mà nó coi khinh. Tôi cũng tự nhủ mình như thế. Hôm sau, anh bảo tôi trèo lên lưng Pắc Chăn. Thú thật, tôi cũng hơi lo lo. Anh hô: "Xông!"(1). Nó co chân lại và tôi đang ì ạch trèo lên, thì Pắc Chăn đã đưa cái vòi ram ráp khoèo chân tôi lôi tuột xuống. Tôi hoảng quá. Nhưng anh vẫn động viên: - Cậu phải lên thật nhanh thật gọn! Nó là chúa ghét cái tính lề mề chậm chạp. Lần thứ hai, tôi cũng bị nó khoèo chân, nhưng lần này có vẻ tàn nhẫn hơn, gần như là nó vất tôi xuống. Tôi tưởng anh sẽ đánh mắng nó, nhưng anh vẫn thản nhiên. Như để giải thích rằng, chính là do lỗi ở tôi rụt rè, chậm chạp, anh biểu diễn động tác lên voi cho tôi xem. Quả nhiên lên mới đẹp, mới dứt khoát làm sao! - Thôi để hôm khác. Hẵng từ từ! Anh bảo thế, nhưng tôi vẫn coi như buổi tập đầu tiên thất bại. Tôi theo dõi công việc điều khiển voi của anh mà thèm. Đối với anh, Pắc Chăn ngoan ngoãn và thùy mị như con mèo con chứ không còn là chú voi hung dữ bướng bỉnh nữa. Với tính hiếu thắng nông nổi của mình, tôi không chịu được thất bại, tôi chỉ muốn chinh phục Pắc Chăn một cách mau chóng. Và tôi say sưa thực hiện một kế hoạch dại dột và quá ư trẻ con. Tôi trèo lên cây đa đầu ngã ba đường, nơi Pắc Chăn thường đi làm về qua. Chọn một cành thuận lợi nhất, tôi ngồi giấu mình đợi ở đấy, định bụng lúc Pắc Chăn vừa vặn đi tới, tôi chỉ cần bước khẽ một bước, là coi như mình đã chễm chệ ngồi trên lưng chú chàng rồi. Hình như Pắc Chăn phát hiện ra tôi từ đàng xa, và con vật khôn ngoan ấy cũng đoán được ý định của tôi. Nó giả tảng lờ đi, vừa bước khoan thai vừa cho vòi vào miệng hút đầy nước. Mắt không hề ngó ngàng gì đến tôi, nó ung dung đi, tấm lưng màu mốc cọ vào các cành đa thấp, làm những tùm lá rung rinh lào xào. Tôi đang nín thở, chuẩn bị tư thế thì Pắc Chăn bất chợt quặt vòi lên nhằm đúng tôi, phun một vòi nước. Tôi chỉ kịp ôm chặt lấy cành đa, mặc cho mặt mũi áo quần ướt mèm, và cái mùi vừa hoi vừa nồng của nước miếng voi làm tôi phát buồn nôn. Câu chuyện dại dột đó sẽ làm trò đùa cho anh em trong đơn vị; nếu như anh không thương tôi, lại đem chuyện ra mà chế giễu. Anh đã phạt Pắc Chăn, nện cho chú chàng một búa nên thân về cái tội xấu chơi ấy. Tất nhiên không phải vì bị phạt mà Pắc Chăn khuất phục tôi, chính là tôi đã làm theo lời anh dặn: "Đối với nó mình phải đàng hoàng. Đừng để nó coi khinh". Tôi ra bãi thể thao, tập leo xà. Tôi không. (.

<span class='text_page_counter'>(78)</span> tập theo bài quy định, mà cứ tập đu người lên xà kép làm sao cho thật nhanh, thật gọn. Hôm sau, với một niềm tự tin mạnh mẽ, tôi đến trước Pắc Chăn vỗ về làm thân với nó như một tay quản tượng thực thụ. Tôi hô: - Xông! Pắc Chăn co chân lên, và thoắt một cái tôi đã ngồi ngất nghểu trên lưng chú chàng rồi. Đứng đằng xa, anh đã reo lên: - Hoan hô! Nhọt khá lắm! Từ đó, đưa voi lên công trường kéo gỗ hoặc chở thực phẩm cho bộ đội biên phòng, anh đều dẫn tôi đi cùng. Pắc Chăn bây giờ đã thuộc tôi điều khiển. Anh còn phải lo chung cho cả tổ và phụ trách riêng Pắc Vê, con voi đầu đàn già tuổi và ngoan nết. Tôi cũng nhanh chóng phát hiện ra Pắc Chăn làm việc khỏe và có ý tứ. Đường lên đèo Pa Nguột có đoạn trơn như thế mà nó chẳng khi nào trượt chân. Những lúc kéo gỗ xuống dốc, Pắc Chăn biết lái cho cây gỗ chạy trên những chỗ đất gồ ghề để tăng thêm lực ma sát. Chứ không đểnh đoảng và khờ khạo như chú Pắc Chét, cứ để gỗ lao theo vệt mòn, chạy cuống cà kê lên mà có hôm vẫn bị gỗ thúc vào chân. Tuy nhiên Pắc Chăn cũng có nhiều tật xấu. Tôi ghét nhất là cái lối chơi trội và hay ghen tị của nó. Bao giờ nó cũng chọn những cây gỗ mà Pắc Vê - con voi đầu đàn đã lấy vòi nhấc thử không nổi. Tuy phải ráng sức mới kéo được những cây gỗ ấy, nhưng Pắc Chăn tỏ vẻ hãnh diện lắm. Ai chả biết nó trẻ và khỏe hơn Pắc Vê, nhưng không vì thế mà uy tín của nó đối với cả đàn lại trội hơn Pắc Vê được. Có hôm gặp một cây kiền kiền khoát cỡ sáu người ôm, loại gỗ cần dứt khúc xẻ thành phiến, tuy biết là chẳng con voi nào kéo nổi tôi vẫn bảo tay Xuyền cho Pắc Vê vào nhấc thử. Pắc Vê bỏ ra. Được tính hiếu thắng kích thích, Pắc Chăn hăm hở xô vào. Chú chàng gò lưng lại lấy vòi quặp gỗ, nhưng quặp không khẳm, chưa nói đến nhấc. Tôi giữ một nét mặt thật nghiêm, cứ thúc. Chú chàng bèn lấy chân hất. Cây gỗ lớn cứ nằm ì ra không nhúc nhích. Tôi càng thúc, chú chàng càng cố sức thử. Cho đến lúc Pắc Chăn lùi ra, lúc lắc đầu, tôi chỉ muốn mắng cho mấy câu, nhưng thấy tội nghiệp, chú chàng có vẻ cũng biết tôi muốn trị cái bệnh thích chơi trội của chú. Pắc Chăn dần dần bớt được cái tính coi khinh tôi. Tuy nhiên nó cũng không tỏ ra kính trọng quý mến như đối với anh. Đi với anh thì chẳng làm sao cả, nom bộ ngoan ra phết. Nhưng đi với tôi, thỉnh thoảng nó lại dở chứng. Hôm lên đồn biên phòng, chú chàng tự tiện bẻ luôn mấy cây mía hiếm hoi của đồn, làm tôi giận quá, nện cho mấy búa. Thế là chú chàng nổi tự ái, bỏ trốn đi dạo chơi trong rừng làm tôi suýt phát khóc lên. Tôi giận Pắc Chăn, đồng thời cũng tự giận mình. Bản lĩnh mình còn non nớt quá, nên nó mới nhờn mặt. Tôi bấm chí học anh cho bằng được. Anh bảo, những tay dạy thú làm xiếc thường lập luận rằng, phàm con vật gì cũng lấy miếng ăn làm đầu, phải biết dùng miếng ăn mà dạy dỗ nó. Nó tập tốt, cho ăn ngon, nó tập tồi, phạt nhịn hoặc cho ăn xoàng. Tay này cầm miếng thịt nướng, tay kia cầm roi, thì dù con hổ dữ là vậy cũng vào khuôn phép như con mèo. Anh chê lập luận đó phiến diện hoặc chỉ thích ứng với những con vật làm xiếc, hành động máy móc - mà ngay nó cũng không hiểu hành động đó để làm gì. Còn con voi của chúng ta là công cụ làm việc, y như con trâu của người nông dân. Số phận của nó gắn liền với số phận chiến sĩ vận tải - phải hiểu như thế thì mình mới hết lòng chăm sóc dạy dỗ nó. Phải xuất phát từ tình yêu nghề nghiệp của mình mà thành thực yêu thương nó. Không phải chúng ta ở trong nghề với nhau mà nói ngoa: quả thật giống voi là giống vật rất khôn ngoan và giàu tình cảm. Khi tôi chăm sóc nó từng cái ăn cái uống đến việc gìn giữ trau chuốt cái bành cho nó êm lưng lúc đi chở hàng, Pắc Chăn tỏ ra quyến luyến tôi. Nghe tiếng tôi từ đàng xa, chú chàng đã vểnh tay lên nghe ngóng, rồi mon men lại gần. Dù sao, tôi vẫn cảm thấy mình còn một điều gì đó chưa làm cho Pắc Chăn hoàn toàn kính phục. Có thể do tôi còn ít tuổi hoặc chưa có cái phong thái vừa nghiêm khắc vừa bao dung như anh chăng? Nhưng không phải. Điều đó đã xảy ra lúc trên đường hành quân vào trong tuyến đường này nhận nhiệm vụ mới. Qua phà L. anh dẫn Pắc Vê qua chuyến trước. Đến lượt tôi dẫn Pắc Chăn qua thì chú chàng lừng khừng trước cầu phà không chịu lên. Tôi giục. Chú chàng uể oải dùng vòi ấn thử cầu phà xem có đủ sức chịu đựng cho nó bước lên không. Tôi thầm nghĩ: "Ái chà, cậu cả này lại "điệu" rồi. Pắc Vê qua được là cậu qua được thôi. Cậu cũng chả to xác hơn Pắc Vê bao nhiêu đâu". Nghĩ vậy, nhưng tôi cứ mặc cho Pắc Chăn ấn thử. Âu cũng là thói quen của giống voi. "Ắc" nó ấn một cái, tấm ván gãy đôi. Anh em công nhân lái phà lật đậy chạy đi kiếm tấm ván khác thay thế. Trong lúc đó, Pắc Chăn lơ đễnh ngắm nhìn dòng sông rộng rãi và những.

<span class='text_page_counter'>(79)</span> chiếc thuyền buồm đang lộng gió chạy xuôi. Thay xong tấm ván, Pắc Chăn lại rán sức ấn một tấm khác gãy nốt. Anh em công nhân phà kêu toáng lên rằng, thế này thì chịu thôi, chú voi này không qua nổi phà, phải cho nó bơi sông. Tôi đâm ra lúng túng. Một mặt, tôi cố nằn nì anh em công nhân thay thêm tấm nữa, bởi vì đấy là tấm ván mục, trước sau rồi cũng phải thay. Mặt khác, tôi nghĩ đến trường hợp phải dìu Pắc Chăn lội sông. Quả thật, tôi chưa hiểu Pắc Chăn có bơi được qua con sông rộng lớn này không. Một bác công nhân già, trong lúc gỡ tấm ván gãy, phân vân: - Chà, nó cứ nhè chính giữa tấm ván mà bẻ, thì chả có tấm nào chịu nổi sức voi đâu. Câu nói của bác công nhân như một tia chớp loé lên trong đầu óc tôi soi rõ những nét khờ khạo của mình. Té ra chú Pắc Chăn này khoảnh thật, định chơi khăm mình đây. Tại sao nó không ấn thử vào chỗ có những dầm dọc hoặc chỗ tiếp giáp giữa hai tấm ván? Bàn chân nó to như cái rổ có bao giờ đặt gọn được trên một tấm ván ngang của cầu phà đâu. Lần này, tôi đứng trước mặt Pắc Chăn nghiêm khắc ra lệnh cho nó phải làm theo ý định của tôi. Quả nhiên, Pắc Chăn chỉ ấn thử qua loa, rồi bước gọn gàng lên phà trong tiếng nước dềnh lên, táp vào mạn phà lép bép. Bây giờ thì tôi hiểu, điều mà từ trước tới nay nó chưa phục tôi là vì mình còn thiếu kinh nghiệm điều khiển nó. Tôi không giận Pắc Chăn mà lại có ý thầm phục. "Được, cho mày cứ thử sức ông, càng thế ông càng chóng tích luỹ được kinh nghiệm". Giữa tôi và nó dường như có một cuộc chạy đua thân thiện. Thỉnh thoảng nó lại giở những trò vớ vẩn: dọa trẻ con, xua đàn trâu hợp tác, nhấc đít ô tô lên, khi gặp những cậu lái xe hay bóp còi thúc sau lưng. Dường như nó giở những trò ấy để bắt tôi phải xử trí. Và suốt cuộc hành quân đường dài ấy là một trường học đối với tôi. Sự tự tin vào khả năng của mình mỗi ngày một tăng, khi Pắc Chăn cũng càng ngày càng mến phục tôi hơn. Có lẽ vì thế - mà sau khi vào đây - cấp trên đã giao cho tôi thay anh phụ trách tổ quản tượng. Bây giờ Pắc Vê đã chết, nó chết về bệnh thối phổi, chết nhanh chóng và không đau đớn mấy. Tất nhiên Pắc Chăn được chọn là voi đầu đàn. Cũng dịp đó, tôi được đề bạt lên thượng sĩ. Chẳng vì được cất nhắc, mà tôi muốn xa anh. Có điều là chẳng thể để một thiếu uý lâu năm như anh phụ trách mấy con voi vận tải. Anh được giao làm chính trị viên một đại đội vận tải thuyền. - Loanh quanh một chầu, bây giờ mình lại được trở về với sông nước… Anh nói với tôi như thế, lúc hai đứa mình trầm ngâm ngồi bên suối từ giã nhau. Anh là người kín đáo, thật khó mà đoán được tâm trạng lúc ấy. Nhưng nếu tôi không nhầm, ra đi anh vẫn quyến luyến anh em trong tổ và mấy con voi hết sức. Anh khêu gợi với tôi cách giúp đỡ anh em trong tổ, đặc biệt chú ý đến Kên và Xuyền - những người mà anh đã nhằm có thể thay tôi khi cần thiết, tuy anh không nói ra. Còn mấy con voi, từ lai lịch, tính nết, cách điều khiển nó ra làm sao, anh đều nói cho tôi biết chi tiết. Như muốn trao cho tôi cả cái vốn liếng nghề nghiệp trong gần chục năm làm quản tượng của mình. Bây giờ anh đã trở về với sông nước quen thuộc từ tấm bé. Đại đội thuyền của anh chở hàng ra tiền tuyến trên một con sông lắm thác nhiều ghềnh hung dữ, con sông lúc nào cũng như mang trong lòng một nỗi tấm tức, muốn phá băng rừng núi để oà ra biển. Nơi cửa sông ấy có những cánh đồng muối trống trải, nắng và gió đều mặn mùi nước biển. Nơi ấy là quê anh. Còn tôi, tôi vẫn chưa được thấy biển. Tôi chỉ gặp biển trong màn ảnh, với những con sóng lừng lững ào tới tưởng chừng sắp ập lên đầu mình. Biển chỉ khêu gợi tính tò mò của tôi, chứ chưa có gì hấp dẫn bằng rừng. Đối với tôi, rừng là tuổi trẻ, là kỷ niệm và cả ước mơ nữa. Tôi ở lại với rừng, với anh em trong tổ và đàn voi thân thuộc. Nhưng làm sao tôi không lo lắng được, khi tôi phải đảm đương mọi công việc trong tổ. Bây giờ không còn kéo gỗ về xây dựng doanh trại hoặc chở từ rượu mùi, thuốc lá đến những cuộn chỉ đỏ chỉ xanh lên đồn biên phòng như hồi trước nữa. Bây giờ thằng Mỹ đã đem chiến tranh đến tận đây. Voi ta chở vũ khí đạn dược ra chiến trường đánh Mỹ. Say sưa trong công việc khó khăn, bao giờ ta cũng tìm ra hứng thú. Hình như chúng ta đều nhận thấy nhiệm vụ chiến sĩ vận tải giờ đây có ý nghĩa hơn. Chính vì thế, mặc dù anh đi rồi, chúng tôi vẫn đoàn kết với nhau và công việc binh trạm giao cho đều làm trôi chảy. Và Pắc Chăn từ khi lên làm voi đầu đàn cũng tỏ ra mẫn cán gương mẫu hơn. Pắc Chăn dậy sớm, chở nặng hơn cả đàn, còn cách ăn uống thì không chê vào đâu được: không tham ăn nhưng tạp ăn, thức gì đối với nó cũng có thể ngon miệng được cả. Chúng tôi đang.

<span class='text_page_counter'>(80)</span> mừng thầm, Pắc Chăn ngày một ngoan nết, thì chú chàng lại đổ đốn, chơi chúng tôi một vố. Thoạt tiên, nhân lúc đi ăn, chú chàng đã kéo cả đàn xuống vầy nát gần một nửa rẫy sắn của đồng bào bản Tà Nọi. Bọ Hồ Lay lật đật chạy đi gọi chúng tôi. Tất nhiên chúng tôi phải bồi thường cho đồng bào. Anh em ai cũng phiền lòng và giận đàn voi hết sức. Trước tiên là giận Pắc Chăn, chú voi đầu đàn. Cậu Kên nện cho chú mấy búa, chỉ cho nửa suất cơm và xích chân thật chặt vào cây lim tróc vỏ. Dạo ấy đang mùa xuân. Hoa móng ngựa nở trắng trên sườn núi cao và hoa mai dệt vàng hai bên bờ suối. Những buổi sớm se lạnh, sương giăng mờ mờ trong rừng gợi lên một sự tĩnh mịch đến dễ chịu. Qua màn sương, ánh lửa cũng nhoè đi, những trái núi trở nên đồ sộ hơn tưởng chừng không thể hiểu được chiều cao của chúng. Những buổi sáng như thế, trước khi đi hàng, chúng tôi ngồi hơ tay bên bếp, uống nước chè nóng và thường nhắc đến hoa đào, đến ngày hội tung còn và những chiếc áo màu. Bao giờ cậu Phờng cũng đứng dậy một cách đột ngột, vớ chiếc khèn bè và nghiêng đầu, cong lưng lại thổi một làn điệu dịu dàng. Chúng tôi lim dim mắt lắng nghe, và ngoài rừng, thỉnh thoảng những giọt sương rơi tí tách. Những buổi sáng như thế, đàn voi đến mùa động tình cũng trở nên mơ mộng hơn. Chúng giương những cặp mắt tư lự nhìn qua màn sương và đôi tai ngừng phe phẩy lắng nghe tiếng gầm xa xa của voi rừng. Dạo ấy, chúng tôi vừa nghe bà con bản Tà Nọi báo là có một đàn voi rừng đông lắm đang kéo nhau về phía rừng Hốc Trăn. Chúng tôi không thả cho voi nhà đi ăn nữa, sợ chúng đánh nhau với voi rừng. Xích chân chúng lại, chịu khó kiếm thức ăn cho chúng mà mình lại yên tâm hơn. Bỗng dưng, một buổi sáng sớm, Pắc Chăn bứt xích bỏ đi mất. Kên bực mình trách Xuyền, tại sao lại xích chân nó bằng xích bé, nếu dùng loại xích sắt Trung Quốc mười hai mi-li-mét thì bố nó cũng không bứt nổi. Đây không phải là chuyện xích lớn xích bé, mà là chuyện Pắc Chăn đã dở chứng. Tôi giao công việc ở nhà cho Xuyền, rồi cùng Kên và Phờng mang gạo và thức ăn đủ một tuần, xách súng đi tìm. Chúng tôi đề ra mấy dự kiến: nếu Pắc Chăn bỏ đi lang thang đâu đó thì gọi nó về không khó khăn lắm, còn như chú chàng theo đàn voi rừng thì thật gay go. Một là có thể bị voi rừng đánh chết, hai là khuất phục đi theo chúng thì Pắc Chăn sẽ trở lại hung dữ như bất kỳ con voi rừng nào. Chúng tôi về bản Tà Nọi hỏi thăm đường lên rừng Hốc Trăn. Bọ Hồ Lay bảo: - Hắn ở với miềng lâu rồi, hắn không theo voi rừng mô. Hắn không chịu được cái mùi voi rừng nữa. Có lẽ hắn đi tìm voi cái. Mùa xuân đến, vẫn có những con voi cái đi lẻ chịu đực. Nhưng phải cẩn thận đó, hắn đang say cái là hay nổi khùng. Bọ Hồ Lay nói đúng. Đi đến ngày thứ ba, chúng tôi tìm ra dấu chân Pắc Chăn, nhờ cái mẩu xích sắt còn dính ở chân sau kéo thành vệt trên đất ẩm. Xem dấu chân thì biết Pắc Chăn đang đi theo một ả voi cái. Buổi chiều hôm ấy, chúng tôi đã đuổi kịp và bắt gặp cả đôi đang vờn nhau trên một đám cỏ giữa thung lũng. Pắc Chăn da màu mốc, có vẻ gầy đi đang đưa vòi bện lấy vòi con voi cái, nô giỡn. Ả voi cái bé hơn nhưng nom đẹp làm sao, da đen nhánh, béo lẳn. Chúng tôi nấp sau những gốc cây, chuẩn bị tư thế thuận lợi khi cần thiết phải nổ súng. - Hú… u… ú… Tiếng hú của Phờng vang lên dội vào thung lũng, tưởng như có nhiều tiếng hú lần lượt đáp lại. Pắc Chăn buông bạn tình, ngẩng đầu lên. Nhận ra tiếng hú, nó có vẻ bâng khuâng. Tôi biết lúc này mình cần phải lên tiếng. Nó thuộc tiếng tôi như thuộc đường đi lối về của nó. Tôi bắc tay làm loa gọi: - Pắc… Chă… ăn! Pắc Chă… ăn!… Pắc Chăn sửng sốt. Y như người phạm tội bị bắt quả tang, vòi thõng xuống, hai tai cụp, nó đứng im như con voi xây trước đình làng. Rõ ràng tiếng gọi của chúng tôi đã thức tỉnh nó, lòng nó đang mềm lại, phân vân, lưỡng lự. Giữa lúc ấy thì ả voi cái hoảng hốt, kêu lên những tiếng khó hiểu và vụt bỏ chạy. Không cưỡng nổi trước tiếng gọi thiết tha của bạn tình, Pắc Chăn chỉ ngần ngừ một lát, rồi cũng bỏ chạy theo. Thế là hỏng. Cả ba chúng tôi đuổi riết. Phờng đòi nổ súng, nhưng tôi ngăn lại. Đôi voi chạy ào ào. Phía trước, cành cây gãy răng rắc. Còn chúng tôi cũng chạy đứt hơi, tay chân mặt mũi xước ra vì gai cào. Sương chiều như từ mặt đất bốc lên toả khắp rừng và hoàng hôn đổ xuống nhanh chóng. Chúng tôi đã mất hút dấu chân chúng, đành dừng lại thổi cơm ăn, mắc võng ngủ. Phờng nói:.

<span class='text_page_counter'>(81)</span> - Tui đề nghị bắn chết con voi cái. Còn con voi cái thì Pắc Chăn không chịu về. Chúng tôi bàn bạc hồi lâu và nhất trí nhận định rằng, Pắc Chăn vẫn còn khả năng trở về, nếu dứt được con voi cái ra. Nhưng chuyện đó không phải dễ. Bắn chết con voi cái là thúc bách Pắc Chăn đến bước đường cùng. Dẫu Pắc Chăn không hung hãn phản chủ, thì cũng trở nên ngơ ngẩn thương nhớ bạn tình và chẳng mấy chốc mà thể chất và cả tinh thần nó sa sút. Cần phải tỏ ra độ lượng với Pắc Chăn, dùng tình cảm mà kêu gọi nó trở về. Đồng thời phải nghiêm khắc với con voi cái, rõ ràng con voi rừng này đang muốn quyến rũ Pắc Chăn trở lại lối sống hoang dã. Cần thiết phải nổ súng, nhưng cốt để xua nó đi và tỏ cho Pắc Chăn biết thái độ dứt khoát của chúng tôi, không cho phép Pắc Chăn được đeo đuổi con voi cái nữa. Sáng hôm sau, chúng tôi chén mỗi người một bụng thật no, rồi theo dấu chân của chúng, lần đi. Mãi đến đứng bóng, chúng tôi lại gặp chúng đang vờn nhau cạnh một con suối. Chúng tôi chưa hành động vội, im lặng ngồi chờ. Chúng đùa chán, rồi hai con bỏ ra hai chỗ quờ cá kiếm ăn. Thời cơ thuận lợi đã tới. Chúng tôi đi rón rén mười đầu ngón chân, lợi dụng từng gốc cây, nhằm vào khoảng cách giữa đôi voi, đi tới. Đã đến gần chúng vài ba chục mét, mà chúng vẫn chưa hay biết. Theo kế hoạch đã định, tôi cất tiếng gọi để báo Pắc Chăn biết là người nhà: - Pắc - Chă… ă…n! Chú voi nhà si tình ngẩng đầu lên. Cùng một lúc, súng của Kê và Phờng đều nổ, hai viên đạn bay vèo qua đầu ả voi cái. Con voi rừng hoảng hốt bỏ chạy, Kê và Phờng lao theo bắn xua thêm hai phát đạn nữa. Trong lúc đó, tôi khoác súng đi thẳng tới chỗ Pắc Chăn lúc này nó cũng đang nhìn thẳng vào tôi. Ánh nắng lấp lánh trong đôi mắt nó khiến cái nhìn trở nên dữ dội căng thẳng. - Pắc Chăn! Tôi gọi nó một cách dịu dàng. Kên và Phờng đã quay lại, súng cầm tay, đạn lên nòng, hồi hộp theo dõi sự thể sẽ xảy ra thế nào, trong lòng không khỏi nghĩ tới trường hợp xấu nhất, Pắc Chăn sẽ liều lĩnh lao vào quật tôi. Thực tình, tôi không hề nghĩ tới điều đó. Ngay từ lúc nom thấy nó, lòng tôi đã bồi hồi như thể được gặp lại người thân. Không, nó giống như tình cảm của bậc làm cha làm mẹ khi tìm gặp được đứa con lêu lổng bỏ nhà ra đi, tình yêu thương sẽ bao trùm lên cả sự giận dỗi. Về phía nó, tôi vẫn tin rằng, nó không thể quên tình nghĩa đối với chúng tôi một cách mau chóng, khi chúng tôi đã sống với nhau hàng bảy tám năm. Quả thật, Kên và Phờng quá lo xa. Tôi tới gần, Pắc Chăn hổ thẹn tránh cặp mắt của tôi. Và khi tôi vuốt ve lên cái vòi ram ráp thì hai hàng nước mắt nó ứa ra - những giọt nước mắt hối hận đậu trên lớp lông má rồi rơi xuống vai tôi. Bây giờ nom nó ủ rũ, thiểu não quá. - Pay! Pắc Chăn ngoan ngoãn đi về, sau khi cả ba chúng tôi đã trèo lên lưng nó. Phờng lại cất một tiếng hú dài. Dường như tiếng hú gợi lại những ngày cùng cả đàn đi tải hàng, Pắc Chăn chợt vươn cao vòi, mắt nhìn xa, bước những bước dài. Anh Kiên thân mến! Đấy là câu chuyện mà sau khi Pắc Chăn chết, Xuyền cứ cho là nó tự tử vì buồn nhớ con voi rừng. Có lẽ nào như thế được. Chẳng có dấu hiệu gì tỏ ra Pắc Chăn trở nên rầu rĩ uể oải sau những ngày mùa xuân ấy. Trái lại, để chuộc những lỡ lầm nông nổi của mình, Pắc Chăn đã làm việc rất tốt và mỗi ngày một thuần thục hơn. Thường nó chở năm tạ hàng. Những ngày sau khi trở về, chúng tôi chất lên bành đủ trọng tải rồi mà Pắc Chăn vẫn chưa chịu đi. Phải thêm năm mươi cân nữa. Hối hận làm cho Pắc Chăn cố gắng. Ngay cả Kên cũng không giận Pắc Chăn được lâu. Máy bay địch ngày càng hoạt động ráo riết trên đường vận chuyển. Mặc dù đường rừng rất kín đáo, nhưng L.19 thỉnh thoảng vẫn rà xuống thấp soi mói. Phản lực đã đến giội bom, bắn rốc-két nhiều lần ở những đoạn đường thồ của thanh niên xung phong mà chúng phát hiện được. Đi hàng bây giờ không còn ung dung như trước. Voi và hàng cũng phải ngụy trang. Chúng tôi đã xoi thêm nhiều đoạn đường rừng tránh những chỗ nguy hiểm. Trong không khí căng thẳng như thế, Pắc Chăn đã xứng đáng là voi đầu đàn. Nó có đôi tai tuyệt vời, đôi tai có thể phát hiện được mọi tiếng động từ bé đến lớn trước chúng tôi rất.

<span class='text_page_counter'>(82)</span> nhiều. Nó không bao giờ nhầm lẫn giữa tiếng máy bay địch và tiếng ô tô hoặc máy nổ của ta. Cách xử trí của nó lúc gặp máy bay địch cũng khôn ngoan linh hoạt, không đợi chúng tôi ra lệnh. Có tiếng vè vè của loại bà già, lập tức Pắc Chăn đứng lại nép vào cây. Còn nếu là tiếng gầm rít của phản lực liệng vòng thì nó nhanh chóng tạt xuống khe, xuống hốc trũng. Cứ thế, cả đàn voi răm rắp theo Pắc Chăn. Nhờ vậy, nên hồi tháng sáu, máy bay địch đánh trúng đội hình hành quân của chúng tôi - mà người, voi và hàng hóa đều an toàn. Điều này anh sẽ phải ngạc nhiên về sự táo bạo và sáng suốt của cậu Kên. Hồi năm nào, chúng ta đi hàng về gặp một đoàn các cháu nhỏ con gia đình liệt sĩ miền Nam đi ra, anh còn nhớ chứ? Chúng ta cho các cháu trèo lên voi để đỡ mỏi chân một đoạn đường. Nhưng chẳng con voi nào chịu chở các cháu gái. Hễ thấy cháu gái nào đến gần là nó huơ vòi lên dọa. Anh cũng đành lắc đầu, bảo cái giống voi không chịu được mùi tóc đàn bà con gái. Bây giờ nghĩ lại, cậu Kên cho là vô lý: - Thế tại sao ngày xưa bà Trưng, bà Triệu cưỡi được voi đi đánh giặc? Hóa ra voi bây giờ xoàng hơn voi thời trước ư? Tôi cho là tại ta không luyện nó thôi. Chúng tôi đều ngẫm nghĩ ý kiến của Kên và cảm thấy Kên nói có phần đúng. Nhân lúc Pắc Chăn đang muốn lập công chuộc tội, Kên đã thử cho chở hai cô thanh niên xung phong. Quả thật, lúc đầu Pắc Chăn cũng vùng vằng dọa dẫm, nhưng khi cậu Kên quát lên, thì chú chàng im lặng, và cuối cùng phải khuất phục. Từ đấy, Pắc Chăn không ngại chở đàn bà nữa. Tuy nhiên, cả đàn voi vẫn không chịu học Pắc Chăn điểm ấy. - Không sao - Kên quyết đoán - Pắc Chăn đã chịu, thì cả đoàn cũng sẽ vào khuôn phép hết. Bước sang mùa mưa, sức khỏe Pắc Chăn có sút đi. Nó ăn nhỏ nhẻ hơn trước. Chúng tôi chỉ để Pắc Chăn chở năm tạ và thỉnh thoảng cho ăn bồi dưỡng. Tuy nhiên nó vẫn cố gắng, không bỏ một buổi đi hàng nào. Đấy là quãng đời cuối cùng tốt đẹp của Pắc Chăn. Có lẽ vì thế mà suốt những ngày nó ốm cho đến lúc chết, chúng tôi đã quên hết những nết xấu của nó trước kia, chỉ còn lại trong lòng chúng tôi hình ảnh một chú voi ngoan nết, chăm chỉ và giàu tình cảm. Bây giờ, Pắc Chăn đã chết rồi. Đàn voi lại vắng thêm một con nữa. Cây lim tróc vỏ - chỗ chúng tôi thường xích Pắc Chăn - vẫn xanh tốt như xưa. Chúng tôi chưa cho phép con voi nào được đến thay thế ở đấy. Pắc Đo đã thành voi đầu đàn, nhưng tất cả chúng tôi đều nghĩ rằng, cần phải dốc sức dạy dỗ Pắc Đo, chờ khi nào Pắc Đo thật ngoan nết, thật xứng đáng, chúng tôi mới đưa Pắc Đo đến cây lim tróc vỏ. * * * Anh Kiên thân mến! Anh em trong tổ thường nghĩ những điều tốt lành cho con voi vừa chết. Chắc anh cũng thế. Riêng tôi, còn hơn thế nữa - tôi nghĩ những điều tốt lành cho Pắc Chăn như nghĩ những điều tốt lành cho mình, cho anh em trong tổ và cho cả đàn voi - mặc dù mỗi con một tính một nết khác nhau. Bởi vì, bây giờ giá cấp trên hỏi ý kiến tôi, có thích về đoàn xe ô tô, đoàn ca nô hoặc đoàn thuyền như anh, thì tôi thành thật trả lời rằng không. Đã đành phương tiện vận tải gì dù hiện đại hoặc thô sơ - cũng để chở hàng ra tiền tuyến, nhưng phương tiện của chúng tôi là phương tiện có sự sống, có tình cảm. Anh Kiên thân mến, đấy là tâm sự riêng của tôi. Chắc anh sẽ vui vẻ phân tích rằng dù ô tô, ca nô hoặc thuyền… - phương tiện vận tải nào mà chả có sự sống, chả có tình cảm. Anh là người biết nhìn xa, có nhiều suy nghĩ sâu sắc. Với tâm hồn nồng nhiệt trong công tác, với đầu óc giàu tưởng tượng như anh - chiếc thuyền bằng gỗ ngày ngày lên thác xuống ghềnh cũng trở nên biết vui biết buồn, biết yêu thương và căm thù, dường như chính nó cũng có trái tim. Dẫu biết thế, lúc. Gió đồng se sắt Thứ năm, 28 Tháng 5 2009 09:27.

<span class='text_page_counter'>(83)</span> Mười năm ăn Tết ở vùng không có mùa đông, giờ tôi về Tết quê nhà. Mẹ mừng tíu tít như thể tìm lại được vật quý vừa đánh mất. Các chị lấy chồng quanh xóm nghe tin, loáng một cái đã dẫn lô nhô, lít nhít gần chục đứa trẻ đến đứng chật cả sân Nào, đứa nào là Diễm Quỳnh, Hồng Liên, Tú Anh, Phương Trinh, đứa nào là Hồng Sơn, Việt Hoàng, Hữu Thắng... lại đây cậu cho quà nào. Gớm, các chị đặt tên con toàn là diễn viên điện ảnh với cầu thủ bóng đá thế này. Nào, lại đây! Ơ kìa, sao chúng mày cứ đứng giương dáo mắt như chão chuộc trông trăng thế? Cậu chúng mày đây cơ mà! Rốt cuộc phân phát hết một bọc kẹo to tướng mà không dụ được đứa nào chịu ngồi yên trong lòng cho cậu ôm một tý. Con cháu mất nết thật! - Thì cậu chăm về quá mà. Quà nhiều thế chứ nhiều nữa chúng nó cũng nhìn cậu giống như ông bán quán đầu cầu thôi. - Mẹ đúng là... Tại con bận công tác chứ đâu phải... - Nhàm tai lắm rồi. Anh sợ cái làng này như sợ hủi. Giá tôi có chết anh cũng chẳng biết đấy là đâu. - Mẹ thì... Mẹ cứ yên tâm, bao giờ ổn định con sẽ “cẩu” mẹ ra khỏi cái “làng Vũ Đại” này. - Anh ở đâu mặc xác anh. Tôi đẻ ở đây, tôi chết ở đây. Khổ quá đi mất. Gặp nhau mà mẹ con cứ nhấm nhẳng thế này, mất cả vui. May nhờ các chị mỗi người một câu xuê xoa đấu dịu mới tạm qua. Ấy thế nhưng khi chỉ còn hai mẹ con thì lại có chuyện. - Tôi điện cho anh về là để... Mẹ chưa nói hết câu tôi đã nảy lên: - Con nói với mẹ bao nhiêu lần rồi. Con không lấy vợ quê đâu. Mẹ vẫn thủng thẳng: - Tôi đẻ ra anh tôi lại chẳng biết à. “Bao giờ rau diếp làm đình...” Tôi chẳng thèm ép. Tôi điện anh về vì chuyện khác... Con Én nó về! À... Én. Hằn sâu ký ức tôi là hình ảnh một con bé láng giềng gầy đét, tóc xơ tướp lông gà, cái áo gụ bị thằng em hai tuổi mũi dãi tèm lem trên lưng gặm rách lòi cả hai cục xương vai thô lố. Bốn con mắt chăm chắm vào bát cơm khoai vàng ệch như đất thó trên tay cậu học trò háu đói. “Ơ cái con này, nhìn gì?” Cậu học trò xoay lưng lại. Miếng cơm đầu tiên chưa kịp nhai đã lại thấy bốn con mắt xoáy vào mồm mình. Chờ đợi. Thèm thuồng. Khó ăn quá. Len lén như loài mèo ăn giấu, cậu tha bát cơm vào xó cửa úp mặt nhai phồng phạo. Hết nửa bát cơm, cái bụng không còn ùng ục réo, cậu mới từ từ quay đầu lại. Sững sờ và nổi cáu: “Sao mày cứ ngõm ngọ ông ăn?”. Hai con mắt đen tròn rấn nước. Cái miệng nhỏ méo xẹo run run. Toàn thân con bé rung tít mà vẫn không tắt được tiếng “măm măm” đang giục giã trên lưng. Tự dưng cậu học trò thấy cái bụng ngang phè. “Cho mày”. Một ân huệ quá lớn làm cho con bé tròn mắt không dám tin, giật lùi một bước: “Cậu ăn đi... em...”. “Không. Tao no rồi”. Bàn tay khô khẳng gân xanh chìa ra đón nhận ngập ngừng: “Em xin”. Nhưng nó không ăn. Thằng em nuốt chửng hết nửa bát cơm rồi toét miệng cười nhệch nhạc. “Xoè!”. Tiếng đánh diêm làm cậu học trò giật mình ngước lên - ông nội ngồi trên sập gụ, sau lưng là những chồng sách chữ nho cao ngất, bên cạnh tủ thuốc bắc nhiều ngăn đen bóng màu sừng. Ông giữ khư khư se điếu nhìn cậu gật gật đầu nhè nhẹ, chòm râu bạc rung rung. Que diêm cháy sát tay ông mới giật mình xoè que khác... - Con bé về một mình hở mẹ? - Rõ thật... Anh đi bao năm rồi mà hỏi thế? Bé với bỏng gì nữa. Nó lớn tướng rồi, xinh xinh là. Nghe nói làm cô giáo. Nó về với chú Tình. - Thế thím Tình không về hở mẹ? Không ngờ câu hỏi của tôi khiến mẹ chùng giọng xuống: - Thím không về nữa... Sao đời thím lại khổ thế thím ơi! Mẹ kéo khăn chấm mắt, ngồi lặng nhìn qua bờ rào râm bụt. Bên đó có cả một thời quá khứ buồn đau....

<span class='text_page_counter'>(84)</span> Đêm ngày nhập nhoạng. Bờ ruộng thân cau. Người đàn bà nước mắt nước mũi ròng ròng trong gió mùa đông bấc tái tê, xiêu vẹo cùng chồng gánh cá đi bón ruộng. “Mình về trước nấu cơm cho con ăn!”. Người đàn ông khẽ khàng bảo vợ rồi cắn răng làm tiếp. Ì ọp đến nửa đêm vẫn chưa vùi hết cá xuống dõng cày. Sáu mươi gánh oằn vai chứ có ít đâu. Cái rốn hồ đặc ngẫn cá kia mà. Chỉ có ông bộ đội đặc công vẫy vùng sông nước một thời mới dám mạnh tay nhận thầu cái hồ hoang nằm giữa đồng với giá hai tấn cá một năm. Một năm, dân trong vùng tấm tắc khen cựu chiến binh giỏi, chỉ có ông mới nghĩ ra cách tháo cạn hồ cấy lúa, chỉ chừa cái rốn hồ để thả cá con. Lúa lên. Cá lớn, ông hãm nước từ từ. Một năm, ánh đèn măng-xông sáng choá loá giữa đồng, bao nhiêu cào cào, châu chấu, bướm rầy bướm nâu bắt đèn lao đến rã cánh rơi lả tả xuống hồ như vãi trấu. Tiếng cá đớp mồi tăm tắp, rồi bằm bặp, ủm oẳm... Mặt hồ cồn lên như một chảo mật mía khổng lồ sôi. Những câu chuyện một thời đánh tàu chiến Mỹ của chú bộ đội đặc công kể trong cái chòi chon von giữa hồ nước mênh mang và rập rờn sóng lúa dưới ngần ngận trăng quê đã mê hoặc cậu học trò ham hiểu biết. Một năm, lũ trộm cá trong vùng lắc đầu lè lưỡi. Vậy mà, ông cựu chiến binh đứng ngập bụng giữa lềnh bềnh cá chết, hai tay lẩy bẩy hai vỏ chai nồng nặc thuốc sâu. Mắt ông đỏ vằn, nghiến bành quai hàm, vết thương ở ngực tấy đỏ, căng cứng tưởng chừng bật miệng. Thuốc trong những lá đơn tố cáo xã bán cho xã viên phun lúa là thuốc giả, còn thuốc sâu ném xuống cái hồ vừa tháo cạn mới là thuốc thật. Vùi hết chỗ cá, ông bã bượi trở về. Chưa kịp rã rời ông đã phải dựng chồm lên. Nồi cháo cá tanh lạnh giữa nhà. Cụ Đồ và cậu học trò hàng xóm đang cuống cuồng bên cạnh người đàn bà gập mình oằn oại, mắt trợn trừng, miệng sùi bọt trắng. Con cá chòi to như bắp tay vẫn còn ngớp miệng, bà giấu chồng mang về rửa sạch. Con Én ghì dịt em trong lòng nhìn cha mếu máo: “Mẹ không cho chúng con ăn... Để mẹ ăn trước...”. Người đàn bà nằm im. Cụ Đồ bải hoải ôm tráp thuốc đứng lên nghiêm mặt dặn mọi người: “Chớ để lộ ra ngoài, nhục lắm!”. Làng Bùi ồn ĩ tin đồn nhà Tình mất của đâm ra ngơ ngẩn, ngày nào cũng ra đồng ngửa mặt lên trời kêu “cá cá”. Xóm giềng nườm nượp tới thăm mang theo những bìa đậu phụ, những quả trứng gà kèm lời an ủi “hại nhân nhân hại”. Một đêm, cậu học trò đi giải thấy có một người khách đến thăm nhà chú Tình. Vòng vo mãi ông ta mới nhỏ to: “Anh nên một vừa hai phải. Chúng tôi đang có ý định đưa anh vào Hội đồng nhân dân và xét miễn giảm giá thầu hồ cá...”. Chú Tình đứng phắt dậy nói to: “Tôi không cần. Đến mùa tôi sẽ trả bằng lúa!”. Vị khách lủi thủi ra về, ngang qua chỗ cậu học trò đứng đái còn quay lại rít khẽ: “Được rồi, xem mày làm gì được ông”. Mưa tháng tư. Ao hồ uôm oam tiếng chão chuộc, ộp oà tiếng ếch giao tình. Bờ thửa bờ vùng cua bò lổm ngổm, sùi bọt trắng nhả hàng triệu triệu con cua nhỏ li ti xuống ruộng. Lúa chiêm uống nước no nê bung đòng trắng xoá, hương nhả ngát đồng. Một đêm, làng Bùi đang ngủ ngon trong thanh bình bỗng bật thức bởi tiếng tù và thổi rúc. Sân đình náo loạn bởi tua tủa gậy gộc, dáo mác, đuốc cháy phừng phừng thịnh nộ. Hai kẻ lạ mặt bị tuần nông trói giật cánh khuỷu khiếp đảm giữa trùng trùng tiếng hét. Vòng vây giãn ra. Tiếng la ó lặng im khi cụ Đồ ra tới cất giọng vang vang như sấm: “Thứ nhất là tội phá đồng. Thứ nhì là tội cắm chông giữa đường! Cứ theo lệ xưa thì phải cắt gân gót!”. Tiếng hú hét lại rộ lên. Bắp tay trai làng huơ dao cuồn cuộn. Nhà Tình đâu? Nó phá ruộng nhà ông đấy. Ai đời lúa đang ngậm màu, hai thằng hai sào gạt bấy hết rồi. Giết chết mẹ quân ác nhân thất đức kia đi! Chú Tình đón con dao nhọn từ từ tiến tới. Phen này hai kẻ kia phải cù lìa bất toại. Con dao nhọn dí vào cái bụng còm nhom đang hi hóp thở cùng tiếng gầm: “Ai thuê chúng mày?”. Tiếng khóc rống lên như bò chọc tiết. “Khai hay là chê...ê...ết!”. “Ối giời ôi! Con có biết ai đâu mà khai... Đang thua bạc, có người dẫn lên ruộng bảo làm xong sẽ trả tiền... hu... hu”. “Quân chó má!”. Ánh dao hoa lên cùng tiếng rú rùng rợn của thím Tình: “Đừng làm điều thất đức anh ơi!”. Phựt! Phựt! Hai kẻ lạ mặt đổ ụp xuống như thân chuối bị dao lia ngang gốc. Thím Tình nhào tới ôm lấy hai cái xác không hồn mà lắc lay. Nhưng thím nhầm. Hai nhát dao chỉ cắt đứt hai sợi dây trói. Hai kẻ lạ mặt he hé mắt lấm lét nhìn lên. “Cu...u...út!”. Mũi dao chỉ ra đường. Hai kẻ lạ mặt vùng dậy lạy như tế sao rồi ù té chạy. Con dao quật mạnh xuống sân đình toé lửa. Chú Tình lảo đảo ra về bỏ lại sau lưng những lời bàn tán lao xao: “Sao không giao cho công an xã?”... - Gì mà ngồi thừ thế con? Mẹ từ dưới bếp đi lên, mặt hồng màu lửa - Nước mẹ đun rồi đấy. Xuống tắm đi. Tí nữa thế nào con Én cũng sang. Từ hôm về nó nhắc mày.

<span class='text_page_counter'>(85)</span> suốt. Con bé nhớ đến tài. Miệng lúc nào cũng “ngày xưa cậu Thưởng thế này, ngày xưa cậu Thưởng thế kia...”. Ngày xưa... Vâng, ngày gọi là xưa ấy mới hai chục năm chứ mấy. Vậy mà mỗi khi nhớ lại tôi lại thấy hãi hùng. Mùa mất liên miên. Suất cơm trưa của cậu học trò lớp sáu cũng bị cắt. Con Én không còn cõng em sang vào giờ đó nữa. Bi kịch xảy ra lại chính từ việc ấy. Một buổi chiều, chú Tình vừa quẳng phịch gánh củi xuống sân đã thấy cô Chung láng giềng bên kia tru tréo: “Ông Tình ơi là ông Tình, ông đẻ con ra ông phải biết dạy nhá. Ngày nào tôi cũng nẹn chặt một bát cơm, giấu vào trong chăn để phần thằng Tũn. Thế mà ngày nào cũng mất một nửa. Hôm nay tôi rình bắt được tận tay con Én ăn vụng nhá. Nghèo cho sạch, rách cho thơm nhá. Kiện cáo cho lắm vào để con ăn vụng nhá. Rõ dơ!”. Mệt mỏi. Nhục nhã. Trong cơn cuồng quẫn, người bố rút soạt cây củi vung lên, quạt ngang, xả dọc trong tiếng thét xé trời của người mẹ: “Cô Chung ơi, cô giết con tôi rồi!”. Khi hàng xóm xé rào sang kịp thì con Én đã tơ tướp như một mớ giẻ máu. Nằm thiêm thiếp trong tay Cụ Đồ nó khẽ rên: “Con không ăn... Tại em Đồng... đói... quá”. Đêm ấy, gà gáy canh ba Cụ Đồ vẫn ngồi lặng phắc như pho tượng. Nước mắt thầm thĩ chảy qua râu rồi giọt giọt xuống chõng tre thon thót. Gần sáng thì Cụ Đồ lấy mực ra mài. Tiếng thỏi mực xoáy xìn xịt vào đêm đen kịt. Rồi cụ chấm bút. Ngọn bút lông ngần ngừ, nâng lên lại hạ xuống trầm ngâm trong nghiên, mãi sau Cụ Đồ mới bất ngờ phóng bút. Một chữ nho to tướng gục đầu bi phẫn trên nền tường trắng lạnh. Rồi chẳng hiểu sao cụ vung tay hắt cả nghiên mực đè lên chữ vừa mới viết. Những dòng mực chảy ngoằn ngoèo như những giọt nước mắt đen. Sáng sau Cụ Đồ gọi người bán bức hoành phi gia bảo. Gã lái buôn hấp háy mắt cười: “Sao cụ không để dùng?”. Cụ Đồ thẫn thờ: “ Cả làng cả nước đói, ta cầu phúc cầu lộc là tham. Trẻ con sinh ra chưa biết sống chết ra sao, ta còn lòng nào mà cầu thọ”. Số tiền bán được, Cụ Đồ cho hết thím Tình. Cụ lại sai các cháu mỗi bữa nấu cơm đong gạo vào nồi thì bóc ra một nắm, bỏ vào hũ như hồi “hũ gạo nuôi quân”. Cả làng Bùi làm theo, và chính cô Chung lại là người hăng hái nhất. Từ hôm con Én bị đánh, cô Chung ra đường gặp ai cũng len lén cúi đầu... - Thôi, nghĩ ngợi làm gì, con. Đi tắm cho sạch sẽ rồi lau rửa bàn thờ cho mẹ! Nghe lời, tôi miễn cưỡng đi tắm, cố gạt đi hồi ức đau buồn. Thế nhưng khi đối diện với hai bức ảnh trên bàn thờ thì tôi lại thừ người. Ảnh cha tôi quân hàm quân hiệu sáng ngời, nụ cười rạng rỡ, chắc hẳn lúc cắp súng lao vào bời bời lửa đạn cha tôi không thể nghĩ quê hương mình lại có thể xảy ra những điều khốn nạn. Ảnh ông nội tôi, Cụ Đồ áo the khăn xếp sống qua mấy thời kỳ, gặp thời Nho học suy vi, chuyển sang bốc thuốc cứu người, vậy mà cuối cùng lại ra đi tức tưởi... Oăng oẳng trong đầu tôi là tiếng loa thúc thuế. Danh sách đứng đầu là nhà chú Tình. Hai tấn cá qui bằng mười tấn lúa, cộng thuế sản lượng là mười hai. Một ngày hè oi ả, đường làng nồng ải mùi rơm rạ, phân trâu, đội 203 ầm ầm kéo đến nhà chú Tình. Chú đi củi vắng, chỉ có thím Tình người xanh bủng đang ngồi đập rơm giữa sân, thỉnh thoảng lại ngửa cổ lên trời cười ngơ ngẩn “cá cá, lúa lúa”. Đội 203 xục xạo khắp nhà, dùng thuốn chọc vào cả các đống rơm đống rạ mà chẳng tìm thấy gì. Tài sản duy nhất chỉ có con lợn còm đang nhai trấu nhóp nhép trong chuồng. “Bắt lợn!”, sau cái khoát tay của đích thân ông Chủ tịch xã, một người nhảy vào xách tai con lợn quẳng ra định giá. “Hai mươi cân. Ký vào!”. Thím Tình cầm bút nắn nót viết một chữ “Nga” tròn như hạt gạo rồi lại ngửa mặt lên trời cười: “cá cá, lúa lúa, lợn lợn”. Chẳng hiểu có phải vì câu nói lảm nhảm từ miệng thím Tình hay không mà cậu học trò hàng xóm bỗng đánh liều lần tay giở nút sợi dây chun chằng ngang bụng con lợn đang thở è è trên gác-ba-ga xe đạp. Mọi người không ai nhìn thấy, duy có đôi mắt của Én, cái nhìn rất lạ, óng ánh như hai viên bi thuỷ tinh bắt nắng. Hành động của cậu đã gây nên một cuộc rượt đuổi náo loạn. Tiếng lợn kêu, tiếng hò hét, tiếng khóc dậy trời. Cụ Đồ không thể ngồi yên đọc sách, vén rào bước qua: "Các anh làm cái trò gì mà như cường hào ác bá ngày xưa thế?". Ông Chủ tịch sững người: "Loa mãi rồi, không chấp hành thì phải cưỡng chế. Ai cũng như nhà này thì làm sao xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.". Cụ Đồ nghiêm mặt: "Chủ nghĩa xã hội là gì?". "Là là là... tốt lắm...". Cụ Đồ cười nhạt: "Anh như con vẹt nhại tiếng người rồi cậy thế làm càn. Thế anh có biết câu "Quốc dĩ dân vi bản, dân dĩ thực vi tiên" không? Không à? Cục súc như anh làm sao biết được. Chả trách...". Cụ Đồ chắp tay sau đít thong thả ra về, bỏ ông Chủ tịch với cái mặt tía như cà trâu đực, bọt mép sùi trắng ởn, rít lên: "Thằng già, rồi biết tay ông"..

<span class='text_page_counter'>(86)</span> Cô Chung ốm, người gầy dộc như que củi. Đi khám hết viện này viện kia không khỏi. Bác sỹ kết luận cô bị suy nhược thần kinh nặng do không ngủ được. Hễ cứ chợp mắt là thấy máu khiến cô la hét vùng dậy khóc nức lên: "Tại tôi trót làm điều ác nên Trời Phật phạt". Cô sang năn nỉ Cụ Đồ làm lễ cúng giải hạn. Cụ Đồ suy nghĩ rất lung rồi bảo: "Nhà Chung tự kỷ ám thị. Ta phải chiều, may ra...". Lễ giải hạn được bày, Cụ Đồ chưa đọc hết bài văn tế thì dân quân xã ập vào, giải đi. Đêm mưa phùn gió bấc căm căm, ông Chủ tịch bắt Cụ Đồ ngồi giữa sân, nắm râu cụ, cười sằng sặc: "Cúng xem có đổ được trụ sở hay không!". Gần sáng thì Cụ Đồ đổ. Dân quân khiêng cụ về trả cho gia đình. Gần một tháng trời Cụ Đồ chỉ nằm trân trân nhìn trần nhà, trước lúc chết chỉ nấc lên một tiếng, mắt vẫn mở trừng trừng. Đám ma Cụ Đồ to nhất làng Bùi. Chú Tình khóc không thành tiếng; truớc mộ, chú cắn môi hứa trong nước mắt sẽ đưa những kẻ giết người ra trước vành móng ngựa... - Sao con khóc thế? Trời ơi, con tôi mệt mỏi quá đây mà... Thôi, để đấy mẹ làm. Ốm thì chết! Tôi bơ thờ để mẹ dìu đến giường, đắp chăn kín mít. Thời quá vãng đau buồn vẫn không buông tha tôi... Nhan nhãn trên các bức tường kho, đền chùa, miếu mạo và oang oang trên loa phóng thanh là câu vè của ông Chủ tịch: "Quê ta đất chật người đông Ai đi Sông Bé, Lâm Đồng thì đi." Ai muốn đi? Không, không ai muốn bỏ quê hương bản quán, mồ mả ông bà mà đi cả. Xã phải điểm đầu. Chú Tình là số một. Lý do không chối cãi vào đâu được: Nợ đọng quá nhiều. Xã sẽ xoá nợ cho những người ra đi. Nhưng cái chính chú Tình là đảng viên phải gương mẫu chấp hành chủ trương. Con cá kình một thời vùng vẫy sóng nước Tiên Sa, đánh chìm bao tàu giặc, giờ lại không thoát khỏi những mắt lưới bủa vây ở chính quê mình. "Không, đất quê ta không chật, người quê ta chưa đông, chỉ có bụng dạ của một số kẻ vô lương chật hẹp!" - Chú Tình gào lên trong buổi tiễn đưa. Con Én ôm em khóc như ri, chới với gọi qua thành xe: "Cậu Thưởng ơi... Mai em lại về với cậu!...". Chỉ có thím Tình dường như vô cảm, vẫn ngửa cổ lên trời: "Cá cá...". Tôi sốt. Sốt thật rồi. Người hâm hấp nóng. Đầu ong ong váng vất. Trong cơn mê sảng chập chờn tôi nghe loáng thoáng có tiếng mẹ tôi, tiếng chị tôi và những đứa trẻ. Tôi thấy tôi đang lang thang dọc bờ biển xanh cát cháy tìm mộ cha tôi. Cha tôi đâu không thấy? Tôi thấy mình lặn lội trên những nẻo đường cao nguyên đầy bụi đỏ, nắng lửa, gió Lào tìm những người thân quen nhưng vô vọng. Đúng lúc tôi cảm thấy rã rời trong cuộc kiếm tìm kỷ niệm, kiếm tìm tình yêu cho chính mình thì vẳng bên tai tôi có tiếng nói quen quen và mắt mờ nhoè hình ảnh. Chú Tình đây. Vẫn khuôn mặt chữ điền và đôi mắt sáng, nheo nheo nhìn tôi cười: - Thế nào, yếu lính thế? Én đây ư? Tôi không nhận ra em nếu không nhờ đôi mắt trong veo đã đóng ấn vào ký ức tôi. Khuôn mặt em không còn nét võ vàng thời đói kém, mà đẹp, đẹp thuần hậu gái quê nhưng rạng ngời tri thức. Mười mấy năm bươn chải trong dòng đời tấp nập, tôi đã qua mấy cuộc tình. Môi hồng Líp-ai, môi đen Hàn Quốc... đủ cả. Vậy mà nhạt. Mục tiêu kiếm tìm tưởng chỉ là ảo ảnh, giờ hiển hiện trước mắt tôi. - Cậu... Em... Bàn tay ấm mềm đặt lên trán tôi. Tôi muốn vùng dậy hét lên một tiếng nhưng đầu nặng chìm chìm, không ngóc lên được, đành nằm im mấp máy môi: Một vốc thuốc đắng ngét vỗ vào cái miệng khô khốc. Tôi rơi vào cảm giác li bì, mộng mị. Lõm bõm bên tai là những lời đối thoại giữa mẹ, Én và chú Tình... - Thím Tình làm sao mà?... Tiếng nấc bật ra tức thì từ miệng Én: - Thảm lắm bà ơi!... Vào Tây Nguyên, bệnh mẹ con đỡ dần, rồi khỏi hẳn. Ai ngờ... Hôm ấy có một đoàn khách đến tham quan trang trại nhà con. Bố con vừa giới thiệu xong, mẹ con lên cơn ngay tức khắc. Chập chờn. Nức nở. Giọng Én, giọng chú Tình... một chuỗi miên man... Người đàn bà tóc tai rũ rượi, lúc bò, lúc lết như con thằn lằn len lỏi qua gai góc.

<span class='text_page_counter'>(87)</span> bám sát theo đoàn người lạ mặt. Những cái chức sợ lắm! Những cái chức ghê lắm! Họ làm gì thế kia? Họ xăm xoi từng gốc cà phê. Họ lội cả vào ruộng lúa. Không! Không! Không được phá! Công lao mười mấy năm trời, mồ hôi nước mắt của nhà tôi! Mười mấy hộ vào đây sốt rét, đói ăn đã bỏ về hết, chỉ còn nhà tôi khiêng đá, phát cây, đào ao bám trụ. Mình ơi, đừng cho họ xem. Họ đến để phá đấy. Đừng, đừng cho họ ra chuồng lợn!... Đừng, đừng cho họ ra hồ cá! Trời ơi! Biết ngay mà. Chết rồi mình ơi!... Cái hồ lềnh bềnh cá chết. Nồi cháo cá tanh rợn thuốc sâu. Khu ruộng lúa trắng lốp phất phơ không uốn câu. Con lợn nhép bị dồn đuổi đến cùng... Trốn đi! Trốn đi! Họ đến đấy! Biết ngay mà! Trời ơi! Nhà tôi có làm hại ai đâu mà các người đang tâm ném thuốc sâu xuống hồ nhà tôi? Cứu! Cứu! Cứu! Ô, ai bịt mồm tôi thế này? Cái chai bập bềnh. Bập bềnh giữa ao. Bơi. Nhà tôi còn nợ bà con làng Bùi tám trăm năm mươi bát gạo. Bơi. Nhà tôi còn nợ làng Bùi mấy chục rổ khoai. Én ơi! Đồng ơi! Mình ơi! Còn sống trên đời phải nhớ cái ơn. Cố lên! Mấy sải nữa thôi. Hụp. Lặn. Chới với. Rướn tới. Được rồi! Chìm. Chìm. Chìm... Đàn cá táo tác, lượn vòng. Những mắt cá tròn xoe... Mình ơi. Mình đâu rồi? Sao bỏ nhà cửa vắng tanh thế này? Đã dặn làm cơm đãi khách rồi mà? Nháo nhào. Cuống cuồng. Vườn cây vắng ngắt, u i tiếng ong. Mặt hồ sủi tăm. Ùm! Một hơi. Hai hơi. Giời ơi! Các ông giết vợ tôi rồi! Ai, ai ném cái vỏ chai nước khoáng xuống hồ? A.a.a.a.i? Choét, choét, choét! Đàn chim giật mình kinh hãi trên ngọn cây muồng. Người đàn ông đặt vợ xuống vạt cỏ cạnh hồ, rũ người như tàu lá héo. Lẩy bẩy vuốt mắt. Đôi mắt trợn trừng, u ám. Đừng nhìn đời như thế mình ơi!... Trời ơi, mẹ! Mẹ làm sao thế này? bóng áo dài trắng nhào vào. Gào thét. Ngất lịm... Tĩnh tâm, nhìn. Thi thể đẫm đụa nước, tay còn bóp chặt vỏ chai nước khoáng, mắt mở tròn kinh hãi nhìn đoàn người lạ mặt vây quanh ngơ ngáo... Cô gái chợt hiểu, reo to: Mẹ, mẹ ơi, mẹ tỉnh lại đi! Vườn nhà mình vẫn nguyên. Hồ nhà mình vẫn nguyên. Không ai phá cả. Họ chỉ vô tình mà, mẹ ơi! Lời diệu kỳ. Đôi mắt người đàn bà ánh lên tia nhìn ấm áp rồi từ từ khép ngủ, miệng phảng phất nét cười... Thôi, thím đã chả may, chú cũng nên tĩnh lại. Đau buồn thím cũng chẳng sống lại được... Vâng, nhà em mất, em đau một. Nhưng chỉ vì vài thằng chó má mà nhà em nhìn đời như thế, em đau mười... Thôi mà, chú. Cái thời ấy đã qua rồi... Tôi thấy cơ thể mình nhẹ dần, nhẹ dần rồi bay bổng trên cánh đồng tuổi thơ. Cậu học trò ngật ngưỡng trên lưng trâu đọc sách, nhưng hễ con trâu mộng no tròn như sim chín dạng chân, cong đuôi là vội tụt xuống, vơ một cọng rạ cắm ngay vào đóng phân nóng hổi xí phần cho Én. Con bé láng giềng dụt đầu dụt cổ gánh đôi quang dài lê thê trên bờ mạ xanh. Cái áo gụ rách vai bị gió thổi phất phơ, phất phơ... Chị ạ, lần này bố con em về, trước là thăm xóm làng, sau là để trả cái ơn ngày xưa... Thôi mà, lúc hoạn nạn có nhau, chẳng ai nhớ đâu. Không, bà con không nhớ nhưng nhà em phải nhớ. Tám trăm năm mươi bát gạo. Mấy chục rổ khoai... Đã bảo không ai nhớ đâu mà. Bây giờ chú có trả cũng chẳng ai nhận. Vâng, em biết thế nên mua biếu mỗi người một túi tám thơm ăn Tết, chứ tình nghĩa thì trả bao giờ cho hết... Thế còn nợ xã, chú tính thế nào? Em đã mang trả nhưng uỷ ban không nhận. Em đã xin đưa hết vào quĩ đền ơn đáp nghĩa. Chú làm thế là phải. Vâng, Cụ Đồ ngày xưa vẫn nói “Làm ơn không nên nhớ, nợ ơn chớ nên quên.”.... Mùi cơm thơm lựng xộc vào mũi tôi. - Cậu Xưởng mở mắt, bà ơi! - Giọng thằng cháu đích tôn ngọng nghịu. Nhà lại ríu rít tiếng cười. - Gớm, cậu sốt xình xịch cả ngày cả đêm, làm chị lo lo là. Để chị hái lá đun nước cậu xông. - Cậu Xưởng còm, bà nhể. - Ờ, cậu mày mười mấy năm cơm thiên hạ... Mâm cơm tất niên ú hụ mỡ màng. Tôi ngảnh ngót. Mẹ xót xa: - Cậu mày mới sốt dậy, đắng miệng... Chị Cả đon đả: - Cậu thích ăn gì chị mua? À, nhớ rồi, ngày xưa cậu thích nhất món chân giò.

<span class='text_page_counter'>(88)</span> chấm muối. Chị Hai đay lại: - Không, cậu Thưởng thích nhất món cá chòi luộc. Nhà chị mới tát ao, có con cá hơn cân, để tối chị mang sang. Hay là... cậu thích ăn còng gà? Ngày xưa mỗi độ giỗ cha, thịt một con gà, có hai cái còng ba chị em tranh nhau khóc mấy ngày là gì... Chuyện. Thời đói kém cái gì chả thèm. ơ hay, thế anh thích cái gì? Tôi nói cái thích của mình ra, mẹ cười chảy nước mắt nước mũi. Cơ khổ, thèm gì không thèm lại đi thèm cái thứ lăn lóc đầy gầm bàn xó bếp, cho ăn mày còn chê nặng. Mẹ nói làm sao ấy chứ, bây giờ ở các bữa tiệc món khoai tây nấu cà-ry là nhất đấy. ơ thế à. Vậy mà ngày xưa tôi nịnh mãi "ăn cơm béo dài, ăn khoai béo tròn" anh còn hấm hứ. Anh tuyên bố học thật giỏi để khỏi ăn khoai kia mà? Thì, mẹ tính, khoai, khoai, khoai, lúc nào cũng khoai. Cơm khoai. Canh khoai. Bánh khoai. Ròng rã mấy tháng trời, ai chẳng sợ. Ờ ờ, nhờ vậy mà qua được kỳ giáp hạt đấy... Mùng 4 Tết mẹ con đã quang gánh ra đồng. Thích ăn nên kỳ nèo chứ đang kỳ khoai xuống củ, theo lịch phải qua tết Thượng Nguyên mới dỡ. Gió đồng đặc ngọt như có thể sắn ra thành từng vẩng. Cánh đồng mới cấy, hôm tôi về còn tía hơ tía hất, phải đưa nước vào dầm cho khỏi quắt rễ, vậy mà xuân hừng có mấy ngày đã lúp búp xanh. Mẹ đi trước bỏm bẻm nhai trầu. Tôi đi sau vung vẩy tay chân, ngửa mặt hít căng mùi lúa thơm non mâng mấng, ước ao: "Lạnh thêm chút nữa thì thích". Mẹ mắng yêu: "Dày da áo dạ thế kia, lạnh nó chui vào đâu được". Cứ tưởng gò khoai chỉ có hai mẹ con, ngờ đâu Én đã đợi sẵn rồi. Ngày xưa, những mùa dỡ khoai, Én nhỏ thó như cái kẹo, mang cái giỏ to tổ bố, cái cuốc cao hơn đầu người đi mót khoai. Còn tôi, những ngày đó thực sự là ngày hội. Tôi được thoả thuê chạy nhảy để bắt chuột đồng. Sau vụ mùa, những con chuột thoát khỏi sự truy đuổi của lũ trẻ chăn trâu thường chạy lên ruộng khoai tị nạn. Khoai đầy ra đấy, chuột chỉ cần cào nhẹ sườn luống là có thể ung dung, trễ nải gặm vài nhát kiểu con nhà giàu chán thịt, rồi bỏ mặc củ khoai hở nắng xanh lét màu chàm. Thế nên mới ví "béo nuỗn nuột như chuột ruộng khoai.". Sướng quá hoá nhờn. Những con chuột cứ nhởn nhơ, thí tha thí thó trước cửa hang nông choẹt đã kích thích tính trừng phạt của tôi. Khi tôi mải mê trò săn đuổi thì Én lẽo đẽo bám sau mẹ tôi xấp xoải bổ cuốc tìm khoai sót. Không hiểu sao mẹ hay để sót, mà lại toàn khoai “gộc” mới lạ. Những củ khoai to như vốc tay bị lưỡi cuốc của Én xả làm đôi ứ nhựa, lem nhem đất cát. Mẹ xuýt xoa nhìn những củ khoai bị sát như bị lưỡi cuốc bập vào ngón chân mình. Thế rồi mẹ bảo Én: "Thôi, cháu đừng xới nữa, mất công. Đưa giỏ đây". Mẹ trút đầy giỏ khoai cho én rồi bảo: "Mang về luộc cho em ăn mau, kẻo nó khóc hết hơi!". Én lí nhí "Cháu xin" rồi lệch người tha cái giỏ ra về. Tôi đứng nhìn theo cái dáng con cón, lun cun trên đồng, bỗng chán trò bắt chuột. Tôi vớ cuốc mót sau lưng mẹ. Cuốc cuốc, xới xới mỏi nhừ cả cánh tay mà tuyệt nhiên không tìm được củ khoai nào, dù là những củ khoai "bi"... - Ngày đó cháu đâu biết bà cố tình bỏ khoai sót cho cháu - Én nói trong lúc thoăn thoắt cắt dây khoai. Mẹ cười cười, ngượng nghịu. - Khi lớn lên cháu cứ nghĩ mãi. Quê mình khốn khó thật nhưng cũng tình nghĩa thật. Giá đừng có những kẻ khốn nạn kia thì... - Ôi dào, những đứa sống bẩn đến chó cũng chê thời nào chả có, ở đâu chẳng có. Nhưng nhân nào quả nấy. Như lão Truy đấy. Từ ngày đi tù về giống nửa người nửa ngợm, gặp ai cũng cum cúp như chó cụp đuôi. Trời Phật có mắt cả. - Mẹ thì lúc nào cũng trông vào Trời với Phật. Trời Phật mà có mắt thì đâu đến nỗi ông con chết oan chết ức, thím Tình phải sống khổ sống nhục rồi chết tức chết tưởi Tôi bỗng nổi cáu. Chẳng ngờ mẹ tôi không mắng lại tôi mà lại thẫn thờ cam chịu: - Chứ tôi còn biết trông vào ai bây giờ? Trông vào con học hành tử tế, có chút chữ nghĩa thì lại bỏ làng đi. Tôi tưởng anh bằng nọ bằng kia thì thấu hiểu lẽ đời, ai dè câu “con sâu bỏ rầu nồi canh” anh cũng chưa tường. Tôi nín bặt trước lời trách cứ. Trước mẹ, tôi vẫn chỉ là cậu học trò lớn xác. Cúi mặt xuống luống khoai, tôi miên man bới tìm kỉ niệm. Mười đầu ngón tay bật máu, xon.

<span class='text_page_counter'>(89)</span> xót đất đồng. Giật mình nghe tiếng cuốc xới lại sau lưng. Tiếng mẹ bùi ngùi trong gió đồng se sắt: Sao bỏ sót nhiều thế, con ơi? Sau những mùa trăng Thứ năm, 21 Tháng 5 2009 11:22 ...Cuối mùa trăng, tôi lại đi. Mẹ vẫn không một lời ngăn cản, mẹ mặc tôi. Tiễn tôi đi chỉ có chị dâu với em Mí. Đến chỗ con suối chảy qua chị dừng lại, cúi nhặt một viên sỏi đưa cho tôi: "Chú mang đi để khỏi quên đường về Vần Chải". Không hẹn trước mà lần nào trở về tôi cũng gặp trúng mùa trăng. Mùa trăng có ý nghĩa với người miền núi nhiều lắm. Thường thì người ở trên nương cứ thấy khói bếp dưới bản bay lên là bảo nhau về, nhưng vào mùa trăng thì ai cũng cố nán lại. Thêm một gùi, hai gùi cũng cố, vì người già bảo hạt lúa, bắp ngô cuối ngày bao giờ cũng mẩy hơn, chắc hơn buổi sáng. Thế nên nhiều hôm về đến nhà thì trẻ con đã ngồi chờ cơm gà gật bên bếp. Đã mấy lần trăng lên rồi trăng tàn tôi không về. Mấy mùa trăng là mấy lần mẹ mang mẹt thuốc ra phơi, rồi lại mang vào cất đi. Ngày tiễn tôi đi, cha tôi bùi ngùi: "Mày đi thì tốt cho cái thân mày chứ ở đây mãi cũng như tao, như anh mày thôi, tóc bạc, mỏi chân, cũng chỉ có chín bậc cầu thang với cái ngưỡng cửa. Cố mà học lấy cái khôn vào đầu nhưng phải nhớ giữ cái lưng cho thẳng, giữ cái đầu không cúi xuống... Lìn à". Lúc ấy, nhìn vào mắt cha, tôi đã định không đi, nhưng cha đẩy tôi lên xe. Không ngờ đó là lần cuối cùng tôi nhìn thấy cha. Vào đời, chưa kịp học lấy cái khôn vào đầu cho "mắt sáng ra, cho miệng rộng ra" để mang về khoe với cha thì cha đã ra đi, sau cái chết đột ngột của anh Lân tôi. Từ đó, mỗi khi nhớ về căn nhà rộng thênh thang của mình, tôi không hình dung nổi nó ra sao khi thiếu vắng bàn tay sắp đặt kỹ lưỡng của cha. Về đến con suối đầu bản tôi gần như vấp phải một người đang ngồi trên phiến đá rộng như mặt bàn. Một chàng trai còn rất trẻ, hai bắp vai vồng lên dưới lớp áo tà phủ còn thơm mùi lá nhuộm. "Làm gì mà ngồi ở đây một mình thế?". "Ngồi chơi trăng lên thôi". "A, lại thổi khèn gọi con gái nhà ai phải không?". Chàng trai cuối đầu ngượng nghịu. Tôi ngồi xuống cạnh anh ta, để nguyên cả giày sục xuống suối. Nước suối ấm, chầm chậm uốn quanh bãi lanh mọc cao hơn đầu người. Vì thế về bản phải lội hai lần trên cùng một con suối. Ngày nhỏ, anh em tôi với lũ bạn cứ nằm xoài ra, để nước cuốn trôi từ trên xuống dưới bãi lanh, đập nước mỏi chân vài lần là biết bơi. Một tốp con gái đi nương về lội ào qua mặt tôi, phảng phất mùi của lá dẻ khô, mùi nương đồi, mùi cỏ cháy, buông lời chòng ghẹo. "Hôm nay lại có thêm một người nữa à. Anh gì ơi, đến Vần Chải tìm ai đấy?". "Chắc là tìm đứa con gái đẹp nhất rồi". "Thế thì không có đâu. Con gái Vần Chải ai cũng đẹp như nhau mà". Tiếng cười rộ lên, khuất sau bãi lanh rồi vẫn nghe tiếng cười, cả tiếng hát cất lên: "... Dêu hẩn lầu tẩu lốc, bản nuông bàu mi lóc. Lóc hẩn lầu tẩu lải, bản nuông bàu mi vai..." (Bản em không có nắng, lấy trời râm làm cảnh đẹp. Bản em không mưa phùn, thì chàng ơi hãy về)... Tiếng hát bay lên, dội vào vách núi cao ngất, xao động cả đêm đang xuống. Tôi đi qua bãi lanh, cảm giác hơi ấm của đám con gái vừa đi qua vẫn còn phảng phất. Đến đoạn suối thứ hai, định lội ào qua rồi về nhà mình luôn thì tôi bắt gặp một người đang dầm mình dưới chỗ nước sâu. Trên bờ, một gùi củi cao ngất dựng cạnh bụi cây. Tôi ngồi thụp xuống sợ bất chợt người con gái quay lại nhìn thấy mình thì khó xử quá. Trăng đã bắt đầu lên phía sau ngọn Tạ Đú làm cả đoạn suối sáng bừng lên. Người con gái có đôi bờ vai rất tròn, cái cổ cao mà trắng như đá núi vỡ. Tôi nghe rõ cả tiếng khoả nước... Đang định đứng dậy, quay lại chỗ ban nãy, chờ cho cô gái đi trước rồi mới về. Thì cô gái đã đứng lên. Tôi cứng đờ như thằng ăn trộm bị bắt quả tang. Cô gái ú ớ không thành tiếng một lúc rồi kêu lên: "Ôi, chú Lìn. Chú Lìn phải không? Làm chị hết cả.

<span class='text_page_counter'>(90)</span> hồn. Chú về sao không báo trước cho mẹ mừng?". Tôi líu ríu: "Chị dâu! Sao đi nương về muộn thế, lại còn đi một mình!". "Ừ. Cố một tí cho xong để mai còn sang nương khác". "Đưa gùi em mang cho." "Thôi, chú không gùi được đâu. Lâu lâu không gùi cái gì thì đau vai lắm.". Chị cúi xuống xốc gùi củi lên vai. Gùi củi cồng kềnh lại nặng nên cả người chị phải lao về đằng trước. Đi sau, tôi nhận ra hơi nóng từ cơ thể chị làm cho váy áo ướt như có sương mù bay lên. Ở miền núi, con gái phải tập gùi từ lúc 8, 9 tuổi. Gùi mãi, đủ thứ trên lưng, già rồi vẫn gùi nên bao giờ lưng cũng còng sớm hơn lưng đàn ông. Chị dâu tôi còn phải gùi nhiều hơn người khác, gùi thay cả mẹ, thay cả tôi. Chẳng biết đến bao giờ mới thôi không phải gùi nữa. Từ sáng sớm đến tối mịt, cái lưng chỉ thẳng ra mỗi lúc ngủ.Hai chị em mải miết đi, phía sau tiếng khèn lá đã cất lên. Nhà tôi có ba anh em, anh cả, tôi và em gái út. Tôi với anh giống nhau y hệt. Ngày nhỏ, nghe hàng xóm hay đùa bảo mẹ tôi phải lấy nhọ nồi bôi lên mặt một đứa để còn biết đâu là anh, đâu là em. Hai đứa đã cãi nhau mà cãi không xong là đánh nhau. Vì chẳng đứa nào chịu nhận mình là người phải đánh dấu. Lớn lên tí nữa thì tôi lại cao vượt lên. Mười tám tuổi anh Lân mới chỉ đứng đến tai tôi. Ngày anh cưới vợ, tôi đã biết cầm dao chọc tiết con lợn gần một tạ, anh em thôi không còn cãi cọ nữa. Nhưng tôi đi chưa đầy năm thì anh bị lợn rừng húc chết trong một đêm lên nương canh ngô. Cha tôi đau buồn suốt mấy tháng trời vì chưa kịp có cháu nội. Không riêng gì cha mà cả họ đều trông chờ vào anh Lân. Nhưng chị dâu lúc ấy còn đứng thấp hơn cái khung cửa vài gang tay, một tay tôi cũng đủ sức nhấc bổng chị lên. Không biết có phải vì thế mà anh chị chưa kịp có con hay không? Tôi bước lên cây cầu thang quen thuộc, kịp nhận ra sự thiếu vắng bóng đàn ông ngay trong ngôi nhà của mình. Một bậc cầu thang bị vỡ ra một miếng từ bao giờ chưa có ai thay, cái cặp tre cời bếp cháy nham nhở gần đến tay cầm vẫn cố dùng, cần giã gạo long ra, để chỏng chơ... ở nhà thì thế, còn khi trong họ, ngoài bản có việc gì lớn nhà mình không có đàn ông, đàn bà có đến cũng chỉ được ở dưới bếp, trưởng họ có nói gì không thuận tai cũng phải nghe theo. Lâu nay mẹ tôi đau yếu thế, chắc chị dâu cũng chẳng bao giờ mặc váy áo đẹp đi đâu.Mẹ sờ nắn khắp người tôi, bắt tôi ngửa hai bàn tay xem vết chai còn hay mất, nhìn tôi chăm chăm suốt bữa ăn. Dường như mẹ vẫn chưa hết ngỡ ngàng vì sự trở về đột ngột của tôi. Tôi đã xa ngôi nhà của mình quá lâu, lâu đến nỗi quên cả chỗ ngồi của mình trên tấm phản lớn nhất bên bếp. Chị dâu mở tủ, lấy gói chè gói kỹ trong mấy lần giấy ra pha. Chị biết tôi nghiện chè, mà phải thứ chè nhà tự sao lấy. Thỉnh thoảng có người xuôi, tôi lại nhận được chè chị gửi. Chè ở đây mọc hoang. Dưới thấp người ta còn chặt đi để lấy chỗ trồng thứ khác chứ trên cao, tít trên đỉnh núi mặc kệ, muốn lớn đến đâu thì lớn. Mùa xuân nhà nào có người hay uống chè lại mang gùi lên lấy về mà sao. Đi hai lần là đủ chè uống cả năm, uống đến mùa xuân năm sau. Mí quấn lấy tôi một lúc lại bỏ sang ôm cổ chị dâu đòi đi ngủ. Ngày chị về nhà tôi Mí mới được hơn 2 tuổi vẫn chưa rời vú mẹ, nó quấn quýt với chị cho đến giờ. Cả nhà chỉ mỗi mình Mí dứt khoát không gọi chị dâu mà gọi chị gái, mẹ nói thế nào cũng không nghe. Tôi bảo với mẹ rằng lần này tôi về để đón mẹ xuống ở với tôi, lần sau thì đón cả chị dâu, cả em Mí, tôi muốn mọi người ở bên mình, muốn mọi người hết khổ. Mẹ nắm chặt đôi tay trên đầu gối: "Đấy là những gì mày học được từ khi ra khỏi nhà phải không Lìn? Mắt mày sáng ra bằng nào tao chưa thấy, chỉ thấy mày quên hết lời cha mày dặn thôi, quên cả lời hứa khi nào tinh như con cắt lúc rời tổ mày sẽ về, sẽ lấy vợ, có nhiều con trai. Mày nói ở quê khổ quá à? Khổ mà tao vẫn sống đến giờ, khổ mà trẻ con vẫn lớn được! Không có ai chết vì khổ được đâu, chỉ có chết vì trong bụng đựng toàn điều xấu thôi...". Tôi muốn bảo mẹ rằng ý tôi không phải như mẹ nghĩ, nhưng không mở miệng được. Mẹ không cần tôi cho mẹ cuộc sống khác, mẹ cần một đứa con trai để ngày mưa gió có người dọi nhà, có người chèn cửa. Chị dâu khẽ khàng lên tiếng: "Chuyện ấy để mai hẵng nói, chú Lìn đi nghỉ kẻo mệt". Chị đã trải chiếu, mang chăn ra chỗ ngủ cho tôi từ lúc nào. Mệt, đau nhừ, mỏi rã rời mà không sao ngủ được..

<span class='text_page_counter'>(91)</span> Đã gần giữa thu, trời bắt đầu lạnh, những cơn gió hun hút luồn qua vách nứa. ánh trăng sáng trắng lọt qua ô cửa nhỏ, hắt cả một quầng sáng vào trong nhà. Cả bản tôi nằm gọn trong một thung lũng, bốn phía là rừng, qua rừng đến nương ngô, nương lúa, qua nương lại đến rừng rồi đến bản khác? Bản ở dưới thung lũng nên ngập trong ánh trăng. Ban đêm, những nếp nhà sàn lô nhô lẫn vào rừng cây trông không rõ đâu là nhà, đâu là những tán cây rậm rì, cao vút. Giữa mùa, trăng cứ rọi vào nhà cả đêm, trăng đi một vòng cửa trước ra cửa sau. Đêm trời càng gió, trăng càng sáng thì hôm sau càng nắng to.Hồi còn ở nhà, mùa trăng nào tôi cũng bám áo anh Lân tìm đến nhà nào có con gái đẹp thổi sáo suốt đêm. Anh Lân thổi khèn lá tài lắm, phiên chợ nào cũng có con gái quấn theo mãi, tối không về được. Thế mà về bản, đứng ở đầu hồi nhà người ta có khi ba đêm liền cũng không thấy ai ra. Ba đêm không được thì bảy đêm, bảy đêm cũng không được là hỏng rồi, sang nhà khác thôi. Lần anh đến nhà chị dâu tôi bây giờ cũng hết đêm thứ bảy mà không được gì đã định bỏ. Cả ngày hôm sau anh bỏ cơm, gắt om xòm. Đến đêm thứ tám lại mang mũ nồi giấu dưới gối, đi. Đêm thứ chín, trăng lên muộn lắm, tôi đã thiu thiu ngủ lại thấy anh dậy mặc áo. Anh bảo: "Thôi đêm nay mày đừng theo tao nữa, muộn rồi. Tao đi, có khi ngủ luôn ngoài rừng không về". Gần sáng thì anh về, lật chăn ra, bắt tôi dậy để anh cho xem chiếc khăn tay màu xanh thêu mấy bông hoa trắng lấm tấm. ít lâu sau, anh cưới vợ...Đêm khuya, bản đã yên ắng lắm, nghe rõ cả tiếng nước đập vào ghềnh đá rào rào ngoài sông, tiếng trâu thở phì phì đuổi muỗi, tiếng chim lợn rít lên cuối rừng... và càng rõ hơn tiếng khèn lá từ ngoài suối vọng vào. Tiếng khèn lúc gần lúc xa, lúc như tiếng gió dài lê thê, lúc ào ào như nước lũ, lúc cao vun vút, rộn rã như cánh chim buổi sớm... Tiếng khèn như thế nói được nhiều điều lắm, đủ để cô gái nào đó hiểu rằng chàng trai sẵn sàng làm tất cả vì cô, đổi tất cả những gì mình có để lấy ánh mắt của cô, bán tất cả để mua nụ cười của cô. Chàng trai ấy sợ đôi chân cô dẫm phải đá sắc lên nương, sợ gai cào tay cô, làm rách vành khăn của cô lúc vào rừng. Chàng trai ấy nhìn cô cười để vui, nhìn cô khóc để buồn... Không biết chàng trai có đôi tay nổi bắp cuồn cuộn ấy gọi ai. Đột nhiên có tiếng cọt kẹt của sàn nhà. Chị dâu từ trong buồng rón rén bước ra, vừa đi vừa vấn lại mái tóc dài đến eo lưng. Tự dưng tôi run bần bật, một cảm giác đau buốt nhói lên phía ngực. Tôi nhắm nghiền mắt. Hẫng hụt, như người rơi xuống đáy sông sâu hun hút... Kéo chăn lên ngang mặt, chỉ hở hai con mắt tôi cố nén để không vùng dậy. Nhưng chị dâu chỉ đi ra bếp thổi lửa, mang lanh ra quấn. ánh lửa bập bùng hắt lên gương mặt tròn của chị. Hình như đến giờ tôi mới thực sự hiểu ra vì sao ngày xưa anh Lân có thể thổi khèn lá tới đêm thứ chín. Đôi gò má căng, đỏ rừng rực, khuy áo bên trên bật ra trễ nải, để lộ ba ngấn cổ cao trắng ngần, khuôn ngực phập phồng nhè nhẹ... Tiếng khèn mỗi lúc một réo rắt, đôi tay chị quấn lanh nhanh hơn, cuống quýt mà ánh mắt thẫn thờ. Được một lúc, chị đứng dậy với thúng ngô trên gác xuống tẽ... Tiếng gà rừng tít thăm thẳm xa đã eo óc gáy. Răng cắn chặt môi tê dại. Lát sau tôi thiếp đi mãi đến lúc nghe tiếng cối xay ngô rền rĩ dưới gầm sàn mới tỉnh dậy. Chị dâu đã trở lại vẻ hoạt bát, thậm chí tôi không dám tin chắc có tiếng khèn đêm qua, nếu như cuộn lanh không rối tung nằm đó... Chị mang ấm nước nóng ra pha cho tôi rửa mặt: "Đêm qua ngủ có phải co chân không chú Lìn?". Tôi hấp tấp: "Đặt mình xuống là ngủ luôn chị dâu à. Lâu quá mới ngủ được một giấc ngon như thế". Chị dâu cười. Tôi thấy đầu óc váng vất.Trời còn chưa sáng rõ chị dâu đã xay ngô xong. Mẹ tôi bảo: "Năm nay nhà mình làm cốm được đấy con dâu?". "Vâng, có chú Lìn về mà!". Ở quê tôi, mùa cốm là mùa hội. Sáng mười bốn âm lịch, mặt trời còn chưa lên đã mang đòn gánh lên nương lúa cao nhất "tan" lúa về. Buổi chiều, đàn ông xuống gầm sàn tìm chỗ đắp bếp đất, đàn bà nhóm lửa nướng thóc non. Đêm xuống trăng lên thì con trai con gái trong bản kéo nhau tới giã cho từng nhà. Giã cốm thâu đêm, hết cốm thì cho rơm vào giã, giã để còn được ngắm nhau, được nói lời hay với nhau mà không sợ ai nghe mất. Thế nên sáng hôm sau về nhà có ai hỏi đêm qua giã được mấy mẻ cốm, cốm năm nay có ngon hơn năm trước không cũng chẳng biết. Mấy năm rồi, đến mùa cốm chị dâu chỉ mang một cum sang gửi hàng xóm lấy cốm cho cái Mí ăn chứ nhà không làm.Chị dâu đi đến trưa mới về, bốn cum thóc nếp còn xanh mọng nặng trĩu hai đầu đòn gánh. Mẹ kêu lên: "ấy da, lấy về nhiều thế con dâu? Định cho thằng Lìn ăn cốm thay cơm thay thịt hay sao?". "Để chú Lìn khỏi quên mùi núi rừng thôi mẹ à".Chập tối, hai chị em đắp bếp, nướng thóc, xếp sẵn một lượt vào cối dài thì đám thanh niên tới, chia ra mỗi bên hai, ba đứa con trai con gái xen nhau. Đứa con gái có cái.

<span class='text_page_counter'>(92)</span> lúm đồng tiền cất tiếng hát, hát xong, bọn con trai nhấc chày lên, lúc con trai giã xuống, bên kia con gái nhấc lên. Vừa giã vừa chòng ghẹo nhau, thỉnh thoảng lại rúc rích cười. Một đứa con gái nói to, át cả tiếng chày thụm thụp: "Chị Lân à, làm sao con gái có chồng rồi mà cứ đẹp mãi, ngày càng đẹp thế". "Em nói ai?". "Còn ai nữa. Bao nhiêu đứa muốn hỏi chị đun nước lá gì gội đầu mà tóc đen thế, nhiều thế, đun củi gì mà má hồng thế đấy!". "Chỉ nói lung tung thôi. Chị già rồi mà". "Không già tí nào đâu chị ơi. Cứ đẹp mãi thế lại khối người Vần Chải khổ thôi". "Bậy quá. Không được đùa thế đâu". Mặc kệ, tiếng cười vẫn cứ lanh lảnh. Chị dâu bối rối, sảy mẹt cốm vãi cả ra ngoài. Bốn cum thóc, chỉ một loáng, trăng lên đến ngọn cây dẻ cao nhất cuối rừng thì đám thanh niên giã xong, lại lũ lượt kéo nhau sang nhà khác. Còn một mình chị dâu lúi húi dọn dẹp. Chị khe khẽ hát. Bất chợt tiếng khèn lá đêm trước lại dội lên, chị luống cuống bê thúng cốm đi như chạy lên cầu thang, suýt vấp ngã. Chị cài chặt then cửa, lao vào buồng, tôi còn nghe tiếng thở dồn dập rất lâu. Mẹ tôi ra khỏi buồng, đến trước bàn thờ cha tôi. Tôi chỉ nghe được tiếng thở dài nén rất nặng trong lồng ngực mỏng manh của mẹ. Sau khi làm hai đám ma, trong nhà tôi hầu như không còn gì. Bò, dê, gà, lợn mổ để thầy mo cúng làm lễ hết, ngô lúa cũng hết. Cha tôi mất tháng trước thì tháng sau trời nắng to, nắng ghê gớm, nắng từ lúc mặt trời chưa lên hẳn đến lúc mặt trời sắp lặn. Nắng từ ngày này sang ngày khác, già bản tụ tập tất cả bô lão trong làng lập dần cầu khấn mà trời vẫn không cho một giọt mưa. Trên nương, ngô vừa ra bắp bằng chuôi dao đã khô quắt lại, lúa ngả sang màu trắng, bông phất phơ như lau. Rừng già lách tách tiếng vỏ cây vỡ nứt. Rồi cháy, cháy khủng khiếp, cháy ba ngày ba đêm, thiêu trụi mấy cánh rừng, đến sáng thứ tư thì thôi. Đứng dưới bản nhìn lên chỉ còn thấy một màu đen của cây cháy. Đột ngột, kinh hoàng quá, không ai còn khóc được. Nương sắn chưa đầy năm cũng nằm trong vùng cháy. Chị dâu mang dao, mang gùi đi từ sáng sớm đến trưa mới về, gùi một gùi sắn đã chín, củ nào cũng chỉ như ngón chân cái. Mí hớn hở ăn, rồi say, nôn ra máu. Nó ốm, tóc rụng trơ cả da đầu, nằm ẹp như một con mèo con, chỉ còn thấy hai hốc mắt. Mẹ cũng kiệt sức, ngồi bó gối bên giường Mí mấy đêm liền, đến lúc chị dâu đỡ mẹ nằm xuống, đôi chân vẫn co như đang ngồi. Ban đêm, lúc mọi người ngủ, chị dâu đốt đuốc ra suối lật từng viên đá lên tìm cua. Sáng sớm, lúc mọi người chưa dậy, chị đã mang ống bương qua hai quả núi đi lấy nước... Những ngày tháng ấy nếu không có chị dâu không biết điều gì sẽ xảy ra. Còn tôi, khi về được bản, nương lúa mới trỉa đã bắt đầu lên xanh, phủ dần màu đen của tro than. Như một sự trả nợ, vụ ấy trời cho được mùa, lúa ngô mang về không còn chỗ để. Chú tôi đến chơi, bảo là "để xem bao giờ thằng Lìn mới chịu lấy vợ". Chú thím cố mãi cũng chỉ toàn con gái. Tưởng có mỗi chuyện ấy thôi nhưng đến lúc ăn cơm xong, đợi chị dâu mang bát đi rửa chú mới nói: "Chị à, con dâu ngày càng đẹp ra đấy, khéo mà giữ kẻo mang tiếng họ Bàn". "Chú nói gì? Nó đi đâu mà phải giữ. Đi từ nhà lên nương, từ nương về nhà, mặt chỉ biết cúi xuống nhìn lối đi...". "Chị không biết rồi...". "Biết cái gì?". "Người già mà ngủ say được thế sao chị dâu? Ngủ say quá nên không nghe đêm trăng nào cũng có đứa đến gần nhà thổi khèn lá! Đứa ấy gọi ai? Gọi cái Mí chín, mười tuổi à? Con gái có chồng, cái bụng mà không nghĩ lung tung thì má không như hoa dào thế đâu". Tiếng nước xối ào ào rồi lặng yên. Mẹ liếc nhìn chú, lại nhìn ra cửa. Chị dâu khệ nệ bưng chồng bát vào, nước bắn lên váy ướt lem nhem, dính vào đôi bắp chân tròn. Con gái miền núi có đôi bắp chân đẹp là nhớ quấn xà cạp lúc đi làm, lúc ra khỏi cửa, chỉ đệm mới tháo ra. Chú tôi vê điếu thuốc lào phả khói mù mịt, ngồi thêm lúc nữa rồi lẳng lặng ra về. Chị dâu rút nắm đuốc trên gác bếp châm lửa, đưa chú xuống cầu thang. Ngày trước, chú là người phản đối việc anh trai tôi đòi cưới chị. Chú chê chị bé, chê con gái mà ngực lép, lông mày rậm là không biết làm dâu, là có lúc cãi bố mẹ chồng. Sau này, khi anh tôi rồi cha tôi mất, chính chú lại là người thương chị dâu nhất, chuyện gì cũng nói như với con gái. Thế mà bây giờ... Chú Phin về rồi, mẹ bảo tôi: "Mày mới về, nghe chú nói, biết thế, đừng nghĩ xấu cho nó". "Mẹ nghĩ thế nào?". "Tao làm dâu họ Bàn, nó cũng là dâu họ Bàn, chết đi làm ma họ Bàn. Muốn gì cũng không được đâu". Chị dâu ngồi vào khung cửi. Chị bảo cố dệt để còn kịp đi phiên chợ tới. Tôi bảo để tôi.

<span class='text_page_counter'>(93)</span> thức cùng cho chị đỡ buồn, chị bảo đàn ông chỉ thức đêm ngoài sông, trên rừng, không ai thức cạnh khung cửi. Nghe tiếng lạch xạch, lúc gấp gáp, lúc trễ nải tôi không sao ngủ được. Tiếng khèn lá vẫn réo rắt từng đêm, từng đêm. Đêm nào chị dâu cũng ngồi bên khung cửi, đống lanh trắng chất đầy hai quẩy tấu không hết. Từng đêm, từng đêm ấy, tôi nằm cứng đơ như khúc gỗ, nghiến mỏi hàm răng nhìn chị hai lần, ba lần đứng lên mang dây lanh ra buộc cửa, buộc thêm, thêm mãi, thành một đống rối tung to xù. Không biết có phải tại ánh trăng hắt từ bên ngoài vào hay không mà tôi thấy mặt chị đã không còn hồng, mà tái xanh, cặp mắt như mắt người say rượu. Đêm thứ tư, đêm thứ năm... đến đêm thứ bảy thì tôi vùng dậy, lao như một con thú ra cửa, giằng tay chị ra khỏi mớ dây lanh bùng nhùng. Chị giằng co với tôi, sợi lanh thô cứng cửa vào tay chị bật máu... Tôi không nhớ mình đã nói gì để thằng con trai còn rất trẻ, tóc ướt sũng sương đêm ấy lủi thủi bỏ đi. Lúc trở về nhà, chị dâu đang đứng ở chân cầu thang, mắt nhìn chằm chằm vào bàn tay đang nắm chặt của tôi. Tôi đi qua chị không nói một lời nào, run lên vì hơi nóng rừng rực đang toát ra từ đôi cánh tay trần phơi dưới ánh trăng, từ đôi mắt thăm thẳm của chị. Chú Phin ốm, bảo tôi lên canh nương thay chú vài hôm. Tôi mang dao quắm, đèn pin đi. Nương ở xa nên chắc sẽ ở lại luôn đến hôm nào chú khỏi mới về. Buổi chiều, chị dâu lên, mang theo cá nướng với thịt dê. Chị cắm cúi dọn nồi niêu, chăn màn, không nói câu nào. Mãi đến lúc chị định về, tôi cũng mới mở miệng được: "Chị dâu à, em bảo thằng Sìn đem khèn lá đi nơi khác mà thổi. Nhìn vào mắt nó em không chịu được...". Chị dâu run run: "Chị không nghĩ đến thằng Sìn bao giờ đâu, chú đừng lo". "Thế thì chị dâu nghĩ đến ai? Ai hở chị dâu? Người ấy có ở Vần Chải không?". "Chú đừng hỏi nữa, chị xin...". Chị dâu khóc. Tiếng khóc bật ra như thác lũ thượng nguồn không gì ngăn được. Khóc như để trôi đi những bức bối trong lòng. Nước mắt chảy ròng ròng trên gương mặt bợt bạt, rớt xuống ướt ngực áo... Cuối mùa trăng, tôi lại đi. Mẹ vẫn không một lời ngăn cản, mẹ mặc tôi. Tiễn tôi đi chỉ có chị dâu với em Mí. Đến chỗ con suối chảy qua chị dừng lại, cúi nhặt một viên sỏi đưa cho tôi: "Chú mang đi để khỏi quên đường về Vần Chải". Tôi cố nhìn chị, mắt chị rưng rưng, lấp lánh ánh trăng mờ xa cuối rừng chưa kịp lặn. Chị quay đi. Gió sớm từ trong khe núi lùa ra thông thốc làm váy chị, váy em Mí xoè ra. Tôi mím môi bước đi. Bãi lanh còn đẫm sương đêm quệt vào mặt lạnh buốt. Ra đến đoạn suối bên ngoài lại nhìn thấy ngay trước mặt, trên phiến đá rộng, một người đang gục đầu lên hai cánh tay vòng trên đầu gối. Xung quanh, lá rừng bị xé tung tơi tả. Sìn! Đúng là Sìn. Ngẩng đầu lên nhận ra tôi hình như nó định đứng dậy, định chạy đi, nghĩ sao lại ngồi yên. Đầu tóc, quần áo Sìn ướt sũng, râu mọc tua tủa trên gương mặt tím tái... Tôi đi qua Sìn. Hòn sỏi trong tay bỏng rát. Trăng cuối mùa vẫn chưa kịp lặn nhưng đã lẫn vào chân trời đang sáng dần lên... Chuyện ở bản Piat Thứ tư, 06 Tháng 5 2009 11:26 Tôi được tăng cường lên Piát để chỉ đạo sản xuất. Một anh cán bộ chân trắng ở Phòng Nông nghiệp huyện, xuống cơ sở chỉ đạo sản xuất, nghĩ cũng kỳ lạ. Tôi toan từ chối, nhưng lại tặc lưỡi, cứ thử xem sao, thế là mới có chuyện. Nói là chân trắng thì cũng chưa hẳn, bởi mình xuất thân nông dân đồng xuôi, nên việc cấy, việc cày, việc bừa… tay vốn quen làm. Cứ xuống bản, chả chỉ đạo thì cứ xắn tay lên mà làm. Dân chúng ở đâu cũng ghét đám chỉ tay năm ngón. Từ phố huyện, đạp xe nửa ngày, gửi nhà dân ven đường, rồi đi bộ, trèo ba ngọn đèo, lội bảy con suối thì đến. Tôi hỏi mấy anh cán bộ xã, Piát có nghĩa là gì? Họ bảo, tức là ruộng dốc thoải. Tôi được giới thiệu đến ở nhà Khấu. Khấu, tiếng Tày nghĩa là lúa. Anh.

<span class='text_page_counter'>(94)</span> ta làm khỏe như trâu, ăn khỏe như hùm. Bố mẹ Khấu chỉ sinh được một mình Khấu thì khuất núi. Tôi ở cùng Khấu từ khi trăng khuyết, đến ngày trăng tròn thì kết tồng. Theo phong tục người Tày, một khi đã kết tồng thì sống tết, chết giỗ, hai người coi nhau như anh em. Tôi thấy mặt trời trước được làm anh. Tuy làm anh, nhưng lại rất ngớ nghết, làm cái gì thằng em cũng phải chỉ bảo cho. Sáng sáng, mỗi khi kim đồng hồ Pônjốt đeo tay chỉ bảy giờ là tôi ra gốc cây bưởi ở đầu sàn, đánh kẻng hợp tác. Khấu là đội trưởng sản xuất nhưng lại hay ngủ quên. Người ăn khỏe cũng thường ngủ khỏe. Mỗi khi nghe kẻng đánh vào tai, Khấu mới vục dậy, ra cầu thích bắc loa tay gọi ồi ồi: “Đi làm thôi lố”. Gọi lấy lệ vậy, chứ các nhà ở cách mấy quả đồi, lại bị sương mù bao phủ, thì làm sao nghe hết được. Cán bộ xã khen Khấu tích cực. Hợp tác xã Piát ở ngay gần trụ sở Uỷ ban Hành chính xã, nên coi là trung tâm. Tôi để ý thấy có cô Phái, nhà ở bên kia đồi, nhưng hôm nào cũng đến tập trung đi làm sớm nhất. Phái là gái chưa chồng, không xinh lắm, nhưng nước da trắng, nên nom cũng ưa mắt. Theo tiếng Tày, Phái có nghĩa là bông. Nhưng mỗi khi chấm công là Khấu khắt khe với Phái nhất: - Cào cỏ cải tiến là phải hai tiến, một lùi. Sao cô chỉ có một lùi, một tiến? Phạt ba điểm, còn bảy điểm. - Cán bộ bảo làm thế. Khấu nhìn tôi như dò hỏi. Tôi lúng túng phân bua: - Hồi ở làng, bọn tôi cũng làm thế, cào đi cào lại nhiều, gốc lúa lốc cả lên. Mà cái kiểu này cũng nên bỏ. Khấu thở dài ngao ngán, gấp sổ, gài bút máy Trường Sơn vào túi áo sơ mi trứng sáo, quên đóng nắp bút nên mực thấm ra ngực áo. Phái thấy vậy, kêu lên: “À lúi”. Khấu lặng lẽ rút bút ra cài lại và vằn mắt lên nhìn. Phái sợ hãi thụt cổ, lè lưỡi quay đi. Hồi ấy, ra khỏi nhà đã là rừng. Những chú lợn rừng sọc dưa còn lon ton chạy vào ăn cám với lợn nhà. Gà rừng còn vào gầm sàn, kiếm ăn với gà nhà. Nhưng tự dưng, không biết đàn khỉ ở đâu kéo về phá ngô dữ lắm, nên cái việc chỉ bảo hệ trọng đầu tiên của thằng em là cách làm súng. Khấu lấy về một đoạn thép tròn, dài hàng mét, to như ngón tay cái, bảo làm súng. Tôi ngớ ra, trần đời, chỉ thấy súng nòng rỗng, chứ chưa bao giờ thấy nòng đặc như cái thuốn thế này. Khấu chừng như hiểu ý, nhưng chỉ cười cười. Khấu làm cái gì, tôi cũng làm theo. Hai chúng tôi vần một khúc gỗ to như cái cối xay chôn xuống gầm sàn làm giá đỡ, rồi néo chặt đoạn thép vào cho chắc và khoan nòng. Việc khoan nòng, quan trọng nhất là phải khoan cho thẳng, nếu lệch, khi bắn nhiều, đạn sẽ làm cho nòng mòn vẹt như vạc ống dầu. Bởi thế, Khấu giữ mũi khoan, còn tôi thì cò cưa cái cần khoan buộc dây da trâu. Phôi thép bắn ra, nóng như cám rang. Chiều chiều, cứ đi làm hợp tác về, hai chúng tôi lại xúm vào khoan. Bọn thanh niên trong bản cũng xúm đến xem và kéo khoan đỡ tôi, nhưng Khấu thì khư khư giữ mũi khoan, không giao cho ai bao giờ. Có hôm cô Phái đến đọ sổ công điểm, mũi khoan chợt nảy nên, lao bổ xuống bàn chân, máu chảy chan hòa. Cô Phái sợ hãi kêu thét lên lấy tay bưng mặt, Khấu xoay người, thò tay vào cạp quần, rứt ra một túm lông rịt vào vết thương, cầm máu. Cô Phái vô tình nhìn thấy, lại kêu rú lên: “À lúi” và chạy vụt đi. Đám thanh niên cười hà... hà. - Hỏng rồi! - Sao? - Chưa thấy máu thú đã thấy máu người, khỉ chưa chạy mà chân đã thủng rồi à. Khẩu súng rồi cũng làm xong, nom oách như súng trận. Chọn ngày lành, hai anh em lên đồi bắn thử. Chúng tôi nằm phục ở rìa nương, tìm tảng đá con khỉ đầu đàn thường ngồi chỉ huy làm đích. Một lúc, mấy con khỉ mò ra nháo nhác nhìn quanh, rồi lũ khỉ buộc dây rừng quanh bụng, ào ạt xông vào bẻ ngô. Khấu giương súng, bóp cò đánh “đoàng” một cái. Nòng súng không có đường khương tuyến, lại bắn đạn K44 của dân quân, viên đạn ra khỏi nòng thì xoay ngang, xé gió kêu ngoao ngoao như tiếng ma, nghe rợn tóc gáy. Lũ khỉ rụng rời chân tay, nằm chết giấc. Tôi toan trói mấy con về thịt, Khấu bảo, đừng làm thế, khỉ giống người mình. Một lúc sau, lũ khỉ tỉnh dậy, lểu thểu lê bước vào rừng. Từ đó, chúng không dám bén mảng về phá ngô nữa. Một hôm tôi lên họp giao ban trên xã về thì không thấy Khấu đâu, chỉ có cô Phái cầm.

<span class='text_page_counter'>(95)</span> cuốn sổ công điểm gia đình đang ngồi ở ngoài. Thấy đầu cầu thang có treo con cá chép rất to, tôi lấy làm lạ. Cô Phái lí nhí nói: - Em sang đối chiếu công điểm tháng trước… Liếc nhìn con cá đang ngáp ngáp, cô khẽ nói: - Bố bầm em bảo, mang cho các anh con cá. Bố em mới quăng chài ở vực Cọn, chỗ anh Khấu hay ra tắm. - To thế! Tôi chỉ định khen con cá, nhưng cô Phái lại cúi nhìn xuống ngực mình, mặt ửng đỏ như mào gà. Tôi đưa cô Phái về, con đường mòn vắt qua đồi yên ngựa. Chiều xuống, từng đàn chim hối hả bay về tổ. Thỉnh thoảng, cô Phái lại ngoái lại hỏi: - Cán bộ đã học được nhiều tiếng Tày của món em chưa? - Bọn thanh niên đang dạy, nhưng cũng đủ để đi đường: “Kin hy” là đi đường rậm, “Kin vày” là quay trở lại. Cô Phái ôm bụng cười ngặt nghẽo, ngã lăn cả ra vệ cỏ ven đường. Cái váy đen lật lên để lộ ra bắp đùi trắng như đọt măng. Cuốn sổ công điểm văng ra bên cạnh, cũng cuộn tròn như bẹ măng. Cái khăn đội đầu tuột ra, làm cho mái tóc đổ tràn trên cỏ như một đống móc. Tôi lúng túng không biết sự tình thế nào, cũng nhệch mồm ra cười theo. Bên đồi, vẳng tiếng mõ trâu lốc cốc, lòng bồi hồi như lúc nghe tiếng mõ chùa làng. Khói lam chiều đang tỏa trên những mái nhà sàn dưới bản Piát, thấy nao nao nỗi nhớ quê nhà. Hồi lâu, cô Phái lồm cồm ngồi dậy và nghiêng đầu, đưa tay vấn tóc. Bầu vú vổng lên ngồn ngộn như quả bưởi, núm vú lồi sau lớp vải áo, nom như quả mận thóc. Tôi ngượng, quay mặt đi, chợt nghe cô Phái bảo như ra lệnh: - Cán bộ lấy giúp cái khăn đi! Tôi ngập ngừng cúi xuống, lấy cái khăn vuông đưa cho cô. Bàn tay cô ấm mềm, nắm lấy tay tôi. Đôi mắt cô long lanh, đôi lông mày ươn ướt, dựng ngược: - Sổ công điểm nữa đi! Tôi quỳ xuống, nhặt cuốn sổ công điểm đưa cho cô. Thế là hai tay cô nắm lấy hai tay tôi, rồi từ từ ngả người lên bãi cỏ kéo tôi nằm sấp lên tấm thân mềm mại hầm hập như lò lửa... Bất chợt cô đẩy tôi ra. Tôi ngỡ ngàng chưa hiểu ra sao, cô lại vụt lật nghiêng, vùng dậy. Bỗng có vật gì đó rất nặng rơi bụp xuống lưng tôi, những viên đạn đổ ra tung tóe trên bãi cỏ. Tôi giật mình, nhận ra cái túi đạn của Khấu. Ngước nhìn lên, thấy Khấu đang ôm súng, ngồi thu lu trên chạc cây, bảo là để rình khỉ. Nhưng khỉ đã cao chạy xa bay từ lâu rồi kia mà? Tôi bẽ bàng ngồi dậy. Cô Phái vùng chạy như ma đuổi, vứt lại khăn đầu và sổ công điểm. Khấu đi bộ đội, để lại ngôi nhà sàn và khẩu súng ma kêu cho tôi. Nhà thì tôi ở, nhưng súng không bắn bao giờ. Trên cột cái gần bếp chủ có dán cái đuôi cá chép của cô Phái. Cái đuôi xoè to như quạt giấy, ôm nửa thân cột. Trên Phòng Nông nghiệp, thấy tình cảnh như thế thì cho tôi xuống hẳn xã. Trước đây tôi cứ ngỡ đi tăng cường dăm ba tháng thì trở về, ai dè lại kết tồng, bám rễ ở Piát đến thế này? Piát đúng là ruộng dốc thoải. Bản nằm ngay dưới chân đồi cũng dốc thoải, bên cạnh là ruộng lúa. Người Tày sống theo kiểu “thượng cư hạ điền” là vậy đây. Trên đồi trồng cọ, lấy lá lợp nhà. Hôm đầu đến bản, tôi thấy ngoài cánh đồng có con gì to lắm, lông mốc thếch như bìm bịp, chốc chốc lại bay lên, đậu xuống, lại kêu: “ụp, oà... ”. Tôi tò mò đến gần xem, hoá ra là cái cối giã gạo nước, làm kiểu dã chiến. Người ta lợp mấy tàu lá cọ khô lên đầu cần cối để che nắng, che mưa cho cối gạo. Những mái nhà sàn lợp lá cọ ẩn khuất dưới bóng cọ. Mỗi khi có mưa, rừng cọ lại xao động tấu lên bản nhạc ồn ã, khiến lòng người cũng bồn chồn xao động. Tôi chưa thấy nơi đâu, mỗi khi trời đất giao hòa lại kinh động như ở chốn này. Thảo nào, bản Piát, nhà nào cũng đông con và các cô gái thì đa tình. Từ khi xảy ra cái việc khăn rơi, đạn đổ thì cô Phái lánh mặt tôi, cả khi Khấu lên đường.

<span class='text_page_counter'>(96)</span> cũng không thấy bóng. Một hôm, tôi đánh bạo đến nhà tìm, từ trên lưng đồi đã nghe tiếng đàn tính tẩu thánh thót và giọng Phái du dương hát loàn: Loàn tôi lìa đám, dạ bồi hồi Én lìa nhạn để lòng thương nhớ Ong lìa ong da diết cùng hoa Sang năm, loàn có còn gặp hoa nữa… Tôi ngơ ngẩn trở về, lấy gỗ kháo quang vót cần đàn, lấy quả bầu khô làm tẩu, cứ dài chín nắm cần thì ba nắm đàn. Đàn nữ kéo ba dây. Rồi tôi băng đồi yên ngựa mang đàn sang cho cô Phái. Cái đàn ấy là cái tình, đã đưa cô Phái về ăn cùng mâm gỗ, ngủ cùng chiếu cọ với tôi. Một chiều, cùng đi sửa cọn nước ngoài suối, Phái hỏi: - Anh có biết tại sao anh Khấu??? Tôi nhướng mày, lặng im. - Anh ấy thương em, anh ấy đã ngỏ lời khi hợp tác làm cọn nước này. Nhưng bố bầm em sợ, nhà anh ấy hay chết non... - Nhưng sao cứ thấy chú ấy hay cáu gắt với Phái? - Tính anh ấy thế mà. Tôi đăm đăm nhìn lên vực Cọn. Thảo nào, lâu lắm rồi, tôi rủ mấy, Khấu cũng không ra tắm vực Cọn nữa. Năm sau, có anh bộ đội về bản trao quân tư trang của liệt sĩ Khấu. Biên bản ghi: “Áo may ô cũ: 2 cái, quần đùi: 3 cái (2 cũ, 1 mới), khăn mặt cũ: 1 cái, giầy vải cũ loại II: 1 đôi, balô cũ loại II: 1 cái. (Tổng cộng 5 thứ) ” Tôi ký nhận và buột mồm hỏi: - Không có quần áo dài à? Anh bộ đội lặng im một lát mới bồi hồi nói: - Đơn vị chúng tôi ở chiến trường C, núi rừng còn hiểm trở hơn Piát nhiều. Tuy chiến đấu gian khổ, ác liệt, nhưng đồng chí nào cũng dũng cảm và nặng nghĩa tình đồng đội. Trước khi ra trận, quân phục mới để lại hậu cứ cho đồng đội. Còn mình chỉ mặc quân phục cũ và cầm súng ra đi. Tôi ứa nước mắt. Phái gào lên thảm thiết. - Đồng chí Khấu rất gan dạ và khéo tay. Khẩu súng nào hỏng hóc, đều chữa được hết. Có một đêm, đơn vị chúng tôi tấn công vào cứ điểm của địch. Chúng bị thiệt hại nặng nề, nhưng phía ta cũng có hy sinh. Mấy hôm sau, chúng tôi mới bò vào được để lấy tử sĩ ra. Đồng chí Khấu bảo chúng tôi phải buộc dây dù vào, kéo thử đã, đề phòng địch gài mìn dưới thi hài liệt sĩ. - Món rắn độc! - Quả nhiên, chúng tôi vừa kéo mạnh một cái, tức thì quả mìn nổ tung, ngay bên cạnh... Lúc khiêng tử sĩ, thì đồng chí Khấu cứ xin khiêng sau. - Chú ấy luôn đi đầu cơ mà? - Tử sĩ để lâu ngày, đã rữa ra, lúc khiêng lên dốc... dốc ngược, còn hơn cái núi bên kia ruộng Piát, thì nước vàng chảy theo đòn khiêng xuống vai, cứ phải lấy lá mà quệt đi, cho khỏi thấm vào áo. - Chết thôi, khổ thế à? Phái lại gục đầu, nức nở khóc. Tôi bồi hồi, khẽ hỏi: - Thế, chú ấy hy sinh trong trường hợp nào? - Lần ấy, chúng tôi được lệnh tiêu diệt toán thám báo Ngụy đang tụ tập trong rừng sâu. Đường hành quân qua đường mòn độc đạo. Khi chuẩn bị lội suối, đồng chí phân đội trưởng đã cảnh giác, ném một khúc gỗ xuống hòn đá ven bờ. - Để làm gì? - Bọn thám báo cũng quỷ quyệt lắm. Chúng hay gài mìn ở những chỗ người ta thường bước chân vào. Tuy không động tĩnh gì, nhưng khi đồng chí Khấu vừa nhảy xuống, thì.

<span class='text_page_counter'>(97)</span> hòn đá lật nhào, quả mìn nổ bùng lên. Đồng chí Khấu ngã vật xuống dòng suối. Máu loang đỏ nước. - Bầm ơi! Phái lại kêu lên đau đớn. Đơn vị đã mai táng, lập mộ chí, vẽ sơ đồ để sau này quy tập. Phải đưa anh Khấu về thôi. Người Piát phải về Piát. Anh bộ đội mời bà con mỗi người một điếu thuốc lá Thạp Luông, hút cũng thấy thơm thơm, nhưng người Piát chỉ quen hút thuốc lào. Cái điếu ục cứ chuyền tay nhau, vòng đi vòng lại mãi theo câu chuyện về những kỷ niệm của bà con dân bản với Khấu.. Bây giờ, cái bản dốc thoải của tôi đã khác xưa. Ngoài đồng không còn cối giã gạo nước kiểu con bìm bịp nữa. Nhà tôi đã mua máy xay xát về nghiền ngô, xát gạo cho cả bản. Rừng cọ cũng không còn tấu nhạc mưa, nên mỗi nhà chỉ đẻ từ một đến hai con. Cọ đã bị phá đi để trồng keo, theo dự án xây dựng nhà máy bột giấy. Trong nhà tôi, cây đàn tính tẩu cùng treo cạnh khẩu súng tự tạo, trên vách cạnh bàn thờ. Giữa thân cây cột cái, trên đuôi cá có dán thêm tấm bằng “Tổ quốc ghi công” của liệt sĩ Khấu. Tôi hỏi Phái, tại sao không lồng trong khung cho trang trọng? Phái bảo, làm thế cho chắc. Ông chủ thì tựa vào cột chủ. Ban đêm, Phái ngồi cán bông bên bếp lửa, chợt thấy đom đóm bay đầy ngoài vườn, khẽ nói: - Sắp đến mùa trồng bông rồi. - Phải “thìn khấu, dậu phái” mà. Phái thảng thốt nhìn tôi, hỏi: - Anh cũng biết câu ấy của người Piát à? - Anh cũng là dân Piát, làm sao không biết, ngày con rồng trồng lúa thì tốt, ngày con gà trồng bông thì nên. Từ ngoài suối, vọng về tiếng cọn nước kêu ken két giữa đêm thanh, nghe như tiếng khoan nòng súng thuở nào. Tiên bay về trời Thứ hai, 27 Tháng 4 2009 09:14 Nguyễn chạy xe vào trụ sở hội khi đã gần trưa. Lúc anh dựng xe trước can-tin định bước vào tìm độ bida thì Vũ ngồi uống cà phê gần đó vội lên tiếng: - Có bà khách vào tìm ông nãy giờ, đang ngồi trong văn phòng kia. Nguyễn nhìn qua khoảng sân. Khách ngồi quay mặt ra ngoài, là người hoàn toàn xa lạ. Một phụ nữ khoảng trên 40 tuổi, ăn mặc rất thanh lịch. Có thể bà là gương mặt mới trong giới làm băng nhạc, đang muốn thực hiện một chương trình nào đó, hoặc một "nhà thơ đột xuất" đã ngoại tứ tuần mới sáng tác và có tham vọng được phổ nhạc các bài thơ của mình? Hay bà là người mà đến nửa đời mới nhận ra mình có năng khiếu âm nhạc giờ muốn làm quen với các nhạc sĩ để nhờ hướng dẫn thêm? Thời buổi này chuyện gì cũng có thể xảy ra. Nguyễn bốn mươi tư cộng thêm cuộc đời nhiều thăng trầm đã khiến anh hầu như không còn ngạc nhiên trước bất cứ điều gì. Bạn bè thường khen về thái độ luôn ung dung tự tại của Nguyễn. Còn Mai thì ngược lại, lúc chia tay đã một lần cuối khuyên Nguyễn nên thay đổi cái tính khí dửng dưng, nguội lạnh mà Mai gọi là "một thứ siêu ích kỷ" ấy. Sống mà không còn biết xúc động thì có gì thú nữa? Yêu ghét rõ ràng, luôn quan tâm đến mọi người chung quanh và mọi sự kiện đang xảy ra, cuối cùng Mai đã đầu hàng trước tính phớt đời của Nguyễn. Về phía Nguyễn, không rõ nguyên nhân nhưng từ lâu anh đã thấy có hay không có mình thì cuộc sống vẫn vậy. Mình "chẳng là cây đinh gỉ", thì.

<span class='text_page_counter'>(98)</span> sống bon chen và quan tâm đến quá nhiều thứ để làm gì, nhất là khi đã theo nghiệp sáng tác này? Nguyễn đi qua văn phòng. Người khách ngồi chờ đầy vẻ bồn chồn, hai bàn tay đan vào nhau còn gương mặt thì đầy vẻ mệt mỏi và buồn bã, với đôi mắt quầng thâm. Thấy Nguyễn bước vào, bà đứng dậy chào. Nguyễn vội nói: - Xin chị cứ ngồi. Người phụ nữ ngập ngừng: - Xin lỗi... Anh là nhạc sĩ Nguyễn? - Vâng. - Gia đình tôi xin anh giúp cho một việc... Khách chợt nghẹn lời, mắt rớm lệ. Nguyễn nhắc bà: - Xin chị cứ nói. - Vâng, thưa anh... Cháu Tiên... Câu chuyện sau đó đã làm Nguyễn phải lặng người. Tiên, một cô gái 16 tuổi, con út của bà Tâm - tên người khách, bất ngờ bị suy thận cấp. Bệnh đã phát từ trước Tết với dấu hiệu phù mà ban đầu cả nhà cứ ngỡ Tiên bệnh trở nặng qua giai đoạn vô niệu, thì một bác sĩ ở đấy lại chẩn đoán và điều trị sai, làm cho nó càng trầm trọng hơn. Tiên được đưa về thành phố nhập viện khi ống thận đã bị hoại tử, phải chạy thận nhân tạo, nhưng theo các bác sĩ thì không thể qua khỏi vì đã bị biến chứng nhiễm trùng máu, chỉ có thể cầm cự vài ngày nữa. Ba lẫn mẹ đều sẵn sàng cho Tiên mỗi người một quả thận của mình, nhưng ở Việt Nam chưa làm được việc ghép thận này. Ba Tiên đang đăng báo bán nhà, bán xe và vận động đưa Tiên ra nước ngoài chữa trị, dù các bác sĩ đều nói sẽ không kịp... Gia đình cố giấu, nhưng dường như Tiên vẫn biết. Cô bé buồn rũ người, nằm chết cứng suốt một ngày trời. Rồi thấy bà mẹ cứ khóc mãi. Tiên cố gượng dậy, trò chuyện tươi tỉnh với cả nhà, xin được đọc báo Mực tím, nghe nhạc Michael Learns To Rock, xem lại những tập phim Tom và Jerry từng làm cô bé mê mẩn hồi nhỏ. Tiên vốn rất yêu văn nghệ, hát hay, đàn giỏi, lại thích văn chương. Ông bà Tâm khẩn khoản Tiên muốn gì cứ nói, ông bà cũng chịu. Thế rồi Tiên chợt nói muốn được gặp các thần tượng của mình, và trong danh sách ấy, có tên Nguyễn. Đã có nhà văn Đoàn, cặp ca sĩ Ngọc Phương, nhà thơ Bùi, diễn viên kịch nói Thành và diễn viên điện ảnh Ngọc, trong hai ngày qua đến với Tiên. Bà Tâm áy náy nói là bà biết các văn nghệ sĩ nổi tiếng thường rất bận, nhưng bà không thể từ chối các yêu cầu cuối cùng của con. Bà rất mang ơn nếu Nguyễn đến được với Tiên dù chỉ năm, mười phút. Nhưng nếu không được thì cũng chẳng sao. Làm sao Nguyễn có thể nói không? Anh hỏi số phòng của Tiên và hẹn chiều hôm ấy sẽ đến. Thật tình thì Nguyễn rất ngại mỗi khi phải đi thăm bệnh hoặc phân ưu. Không khí bệnh viện và tang lễ bao giờ cũng gây trong Nguyễn một cảm giác rõ rệt về sự quá phù du của kiếp người. Vẫn biết sinh - lão - bệnh - tử là vòng quay không ai có thể cản, nhưng Nguyễn cứ thấy có một cái gì đó thật vô lý khi con người được sinh ra, vất vả học hành rồi quần quật làm việc, để lại chết đi... Mới tuần trước, ở đám tang nhạc sĩ Minh ra, Nguyễn chợt ngạc nhiên khi thấy đường phốvẫn rộn rịp hối hả, trời vẫn xanh và nắng.

<span class='text_page_counter'>(99)</span> vẫn vàng, mọi thứ vẫn như thế, dường như đời không hề biết gì về một mất mát đau lòng vừa xảy ra. Dừng xe ở ngã tư, Nguyễn nhìn chung quanh, bỗng có ý nghĩ rằng tất cả những gương mặt vô cảm mình đang thấy đấy, cũng như tất cả những gương mặt mình đã biết, thân quen hoặc xa lạ, đều sẽ lần lượt biến mất trên mặt đất này, không chừa một ai. Biến mất, với bao nhiêu sự nghiệp dở dang, mộng ước không thành. Biến mất, sau cả một đời mà cộng lại hết những lúc sung sướng chưa chắc đã được vài ngày. Sao mọi người không nghĩ đến điều đó để bớt đối xử nghiệt ngã với nhau hơn? Để giúp nhau làm nhẹ hơn được phần nào cái gánh đời nặng chịch đang phải gánh trần thân? Hôm Minh ở bệnh viện, Nguyễn vào thăm, thấy tình thế đã tuyệt vọng. Trong đôi mắt Minh, Nguyễn đọc được đầy nỗi uất ức vì phải chết. Minh còn biết bao dự định để làm, vậy mà... Nhưng dầu sao Minh vẫn đã vào tuổi "tri thiên mệnh", công thành danh toại, nhà cửa, vợ con đầy đủ, gian khổ và vinh quang đều nếm trải. Còn với cô bé 16 tuổi đang đầy sức sống lại bị đứt ngang này, cảm giác về cái chết sắp đến hẳn phải rất khủng khiếp. Thế nhưng khi vào thăm Tiênchiều hôm ấy, Nguyễn đã không hề nhìn thấy một nét tuyệt vọng nào trên gương mặt cô bé. Tiên nhận ra Nguyễn ngay, "Cháu chào chú Nguyễn", và đôi mắt sáng lên khi nhìn thấy bó lan tím trong tay anh. Nguyễn đưa bó hoa cho Tiên: - Chú chào Tiên. Sao cháu lại biết chú? - Siêu sao như chú, ai mà không biết? - Tiên còn biết gì về chú nữa nào? Vừa hỏi Nguyễn vừa ngồi xuống chiếc ghế cạnh giường Tiên. Anh đau lòng nhận ra căn bệnh đang tàn phá cô bé như thế nào: khuôn mặt Tiên trương phù, chỉ còn đôi mắt là còn sức sống. Một đôi mắt chỉ cần nhìn vào là biết ngay chủ nhân rất thông minh. Bà Tâm đã cho Nguyễn biết từ bé đến giờ Tiên luôn là học sinh giỏi nhất nhì lớp. Nguyễn xót xa nghĩ chỉ còn vài ngày nữa là đôi mắt này sẽ mãi mãi nhắm lại. Mãi mãi. Tiên nói: - Cháu biết chú chuyên viết nhạc cho giới trẻ, nhưng nghề chính lại là làm báo, đúng không? Nguyễn cười, gật đầu: - Còn gì nữa? - Chú còn độc thân, nếu đúng như những gì chú đã phát biểu. - Phát biểu ở đâu nào? - Trong một cuộc giao lưu với khán giả ở Câu lạc bộ Nhạc sĩ, chú nhớ chưa? Thấy Nguyễn ngạc nhiên, Tiên hạ giọng, vẻ bí mật:.

<span class='text_page_counter'>(100)</span> - Chú biết tại sao cháu nhớ không? - Làm sao chú biết được? - Tại vì người viết câu hỏi đó là dì út của cháu. Dì mới tốt nghiệp đại học, ái mộ chú lắm đó. Chú ráng ngồi lại với cháu chút nữa, dì út vô đây, cháu giới thiệu cho. Bà Tâm đã cho Nguyễn biết mấy hôm nay, Tiên bỗng nói rất nhiều. Cô bé luôn cần có người ngồi bên cạnh để trò chuyện, và chỉ khi rất mệt mỏi mới thiếp ngủ. Nguyễn hiểu ngay nguyên nhân: Tiên đang ý thức mình không còn bao nhiêu thời gian. Cuộc gặp gỡ này, ngay từ những phút đầu, càng làm Nguyễn thấy thương Tiên hơn. Tiên lại hỏi: - Nhưng dì út thì cứ nói theo sách vở, rằng đừng bao giờ nên chơi với nghệ sĩ, vì sẽ thất vọng trước những mặt trái của họ. Có đúng không chú? Câu hỏi như một viên đạn ném xuống mặt hồ ký ức đang yên tĩnh trong Nguyễn. Những dòng chữ trong lá thư cuối cùng của Mai lại xuất hiện ra mồn một trước mắt anh: "Tất cả nghệ sĩ các anh đều như người cõi trên, ai cũng nghĩ mình chính là trung tâm của vũ trụ, nói gì làm gì cũng đúng, còn mọi người phải có nhiệm vụ chiều chuộng và cung phụng, có gì không vừa ý là lập tức tự ái, sĩ diện, đau khổ. Nếu các anh có quan tâm đến ai thì cũng chỉ là một kiểu cảm xúc tùy hứng, hoặc do chính mình đã được quan tâm trước. Em đã tự xét kỹ, em chỉ là người phàm, sống với anh thì sẽ vướng phải tình cảm như trong một câu danh ngôn: Hoặc là em tự phá hoại đời mình, hoặc là đi làm hỏng đời anh. Anh nên sống một mình với những hào quang và vòng nguyệt quế, cho đến khi gặp một bà điên nào đó chịu hy sinh. Còn em, xin được rút lui..." Đã sáu năm, vẫn chưa có một bà điên nào thay được chỗ của Mai. Mai từng nói Nguyễn ích kỷ đến mức không thể yêu ai hơn chính mình, còn Nguyễn chỉ thấy anh không thể yêu ai được ngoài Mai. Ai mà không yêu chính mình nhất? Mai bỏ Nguyễn lẽ nào không phải vì tự lo cho thân cô, rút lui khỏi cuộc phiêu lưu đầy bất trắc để chọn một bến bờ yên ổn hơn? Nguyễn gượng nói với Tiên: - Đúng đó. Nghệ sĩ, nghĩ cũng xệ mà... Cười gì? Chú nói đùa thôi, chứ nghệ sĩ thì cũng chỉ là con người, với đầy đủ tính tốt xấu. Tốt nhất là từ nay Tiên đừng nên thần tượng hóa ai hết... Nguyễn khựng lại vì chợt nghĩ mình nói với Tiên những điều này thật vô ích. Tiên nhìn sững Nguyễn và chỉ trong tích tắc Nguyễn hiểu ngay Tiên đã biết anh vừa nghĩ gì. Thật nhẹ nhàng, Nguyễn đưa tay cầm lấy tay Tiên. Bàn tay của cô bé se sẽ run trong tay anh. Mãi một lúc sau Tiên mới nói: - Có cái gì bất tử không chú? Nguyễn ngẫm nghĩ rồi trả lời: - Chú không biết. Hình như không có gì tồn tại mãi được với thời gian. Nhưng, như nhiều người vẫn nói, có thể đó là tình yêu..

<span class='text_page_counter'>(101)</span> - Nhưng tình yêu vẫn có thể thay đổi mà chú. - Nếu có thể thay đổi thì đó không phải là tình yêu. Nguyễn trả lời Tiên mà lại cứ nghĩ đến Mai. Có lúc Mai đã rất yêu anh và luôn than phiền anh không hề yêu Mai gì hết, nhưng nói... Giờ đây Mai đã có chồng con, trong khi Nguyễn vẫn không quên được cô. Vậy thì ai yêu hơn ai? Tại sao Mai cứ ương bướng muốn Nguyễn phải thay đổi theo Mai, trong khi Nguyễn không hề có yêu cầu ngược lại? Tình yêu là phải hòa tan vào nhau hay mỗi người vẫn có thể là chính mình? Tiên vẫn bướng bỉnh: - Thí dụ tình yêu không thay đổi đi, thì khi những người yêu nhau chết đi, tình yêu ấy cũng đâu còn? Nguyễn định nói với Tiên là còn chứ, khi tình yêu ấy đã đơm hoa kết trái, những người yêu nhau chết đi thì con cái của họ sẽ chính là cuộc đời của họ được nối dài ra, và chúng sẽ lại tiếp tục yêu thương. Nhưng sợ điều đó lại làm Tiên buồn. Nguyễn quyết định chuyển đề tài: - Nói như Tiên thì còn nói làm gì... ờ, cho chú hỏi lại nghe. Bí mật. Tiên có bồ chưa? - Cháu mới mười sáu mà. - Nhưng bây giờ hình như ở tuổi cháu cũng có đứa có bồ rồi đó. - ... À, hồi đầu năm lớp 10 này, có đứa trong lớp viết thư đòi làm boy friend của cháu đó. - Đứa nào vậy? - Thằng Hoàng. - Rồi Tiên trả lời sao? - Cháu không thèm trả lời, đem thư trả lại cho nó, nói nó học dở ẹt còn bày đặt lộn xộn. Nó không chịu cầm. Cháu dọa sẽ dán thư của nó lên bảng, nó mới chịu. Hai chú cháu nhìn nhau cười. Mặt Tiên hơi hồng lên một chút. - Rồi hổm rầy Hoàng có tới thăm Tiên không? - Dạ có. - Nó nói gì? - Tụi nó đi một đám. Thằng Hoàng không nói gì, chỉ đứng núp phía sau khóc. Đúng là đồ con trai thúi....

<span class='text_page_counter'>(102)</span> Hôm ấy, Nguyễn đã ngồi với Tiên đến tận tám giờ tối. Dường như anh và Tiên đã quen nhau từ lâu lắm, và trước mắt anh không hề là một cô bé đang biết mình sắp chết. Nguyễn hứa ngày mai sẽ lại vào, và quyết định trong lòng là sẽ dành hết thời gian cho Tiên, nếu cô bé muốn. Những bó hoa được Nguyễn thay đổi mỗi ngày. Hồng bạch, huệ tây, cúc trắng. Nguyễn còn mang cả guitar vào để đàn hát cho Tiên nghe những bài mà cô bé thích. Anh đau đớn khi thấy mỗi ngày Tiên mỗi suy kiệt hơn. Ngày thứ tư, cô bé chợt cầm tay anh, thì thầm: - Cháu sợ chết quá... Giọng Nguyễn khản đặc: - Chú cũng vậy! Rồi anh tìm cách giúp Tiên. - Đó là điều mà không ai có thể tránh khỏi hết Tiên à. Nó như một cái bến cuối mà ai cũng phải tới. Mình tới sớm thì đỡ vất vả hơn thôi. Tiên cười héo hắt: - Chú nói không đúng. Sống vui hơn chứ... Rồi lại hỏi: - Có một thế giới khác sau khi mình chết không? Lần đầu tiên Nguyễn trả lời Tiên không đúng với điều anh vẫn nghĩ: - Có, Tiên ạ. - Nó như thế nào chú? - Nó rất đẹp. Và vĩnh viễn. ở đó, cháu sẽ được gặp lại tất cả những người thân đã mất. Mắt Tiên sáng lên: - Vậy cháu sẽ được gặp lại bà ngoại. Bà ngoại thương cháu lắm. - Rồi Tiên sẽ gặp lại chú nữa. Có quên chú không? - Không... cháu sẽ không bao giờ quên chú đâu. Chú tốt với cháu quá... Nguyễn quay mặt đi để gạt vội mấy giọt nước mắt vừa trào ra. Anh nghẹn ngào: - Tiên ơi, cháu có ước muốn gì cứ nói, chú sẽ làm cho. - Chú không làm được đâu..

<span class='text_page_counter'>(103)</span> - Tiên cứ nói đi. Tiên suy nghĩ một chút rồi nói: - Chú làm sao để từ nay đừng có bệnh nhân nào phải chết vì bị bác sĩ chẩn đoán sai nữa. Nguyễn nín lặng trước yêu cầu ấy. Anh lại nhớ đến cái chết của Trí vào cuối năm 1978. Trí dẫm phải một quả mìn cỏ, nát hết một chân. Nếu trạm phẫu dã chiến có đủ thuốc thì Trí đã không bị chết vì hoại thư, chân cứ bị cưa dần lên. Cũng là dân thành phố, cùng nhập ngũ một ngày, lại về cùng đơn vị, Nguyễn đã ngồi bên cạnh cho đến lúc Trí trút hơi thở cuối cùng. Vẫn là ánh mắt tuyệt vọng như của Minh. Sau này Nguyễn mới biết người phụ trách trạm phẫu đã đem bán hết những loại thuốc quý được cấp. Anh ta bị lãnh án nặng, nhưng Trí, hai mươi tuổi, cao lớn, đẹp trai, gia đình cách mạng, sắp vào đại học thì tình nguyện đi bộ đội khi có chiến tranh biên giới Tây Nam, đã vĩnh viễn không trở về... Tiên còn nhỏ quá và giờ đây có ích gì nếu Nguyễn nói với cô bé rằng sự dốt nát và thói tham lam vô trách nhiệm sẽ còn hành hạ con người dài dài? - Cháu biết chú không làm được mà. Thôi, cho chú chuyện này dễ hơn. Chú sẽ làm một bài hát tặng cháu. Được không? - Rồi, chú hứa. - Thật hay à nha. - ừ, thật hay. - Hay nhứt của chú từ trước tới giờ. Tiên siết chặt tay Nguyễn: - Cảm ơn chú. Rồi cô bé lòn tay xuống dưới gối lấy ra một cái bao thư: - Cháu còn nhờ chú việc này nữa. - Việc gì? - Tết vừa rồi cháu được lì xì nhiều lắm, chưa kịp xài. Chú tìm đứa bé nào nhà nghèo sắp bỏ học, cho cháu gởi tặng nó. Một đứa thôi, mà gia đình đàng hoàng, chịu khó, biết thương con, vậy mới có ích. Chú tìm được không? - Chú sẽ tìm được. Nguyễn đã nghe bà Tâm nói về những ý muốn cuối cùng khác của Tiên. Cô bé muốn ba mẹ đem hết quần áo, đồ dùng học tập của mình cho người nghèo, đồng bào bão lụt... nhưng lại yêu cầu hãy chôn cùng với cô tất cả những con búp bê và bọn thú nhồi bông mà mười sáu tuổi cô vẫn còn mê. Sau nhiều năm, chúng đã chiếm cả một tủ kính lớn.

<span class='text_page_counter'>(104)</span> trong phòng riêng của Tiên. Nguyễn còn thấy ngày nào bà Tâm cũng mang vào một con búp bê để thay ca ở bên Tiên. Những con búp bê đẹp lộng lẫy... Trong những cố gắng của Mai nhằm thay đổi con người của Nguyễn, cô từng đưa anh đến các cô nhi viện, với những món quà mà cô luôn chu đáo chuẩn bị sẵn. Nguyễn đã thấy ánh mắt của những đứa bé bất hạnh sáng rực lên như thế nào trước những con búp bê nhựa rẻ tiền được Mai trao cho. Anh chợt buột miệng nói với Tiên: - Những đứa trẻ ở cô nhi viện mà được có búp bê của Tiên thì chắc chắn chúng sẽ vui lắm... Nói xong, Nguyễn hối hận ngay. Tại sao anh lại muốn tước đi niềm vui nhỏ nhoi cuối cùng mà Tiên hy vọng có được dưới nấm mồ lạnh lẽo? Anh còn muốn thử xem lòng tốt của cô bé bạc phận này đến mức nào hay sao? Tiên nhìn sững Nguyễn. Cuối cùng, cô bé nói: - Được rồi, cháu sẽ cho hết, chỉ đem theo một con búp bê mù thôi. Hồi còn nhỏ cháu đã móc mắt nó, bây giờ có cho cũng không ai thương nó đâu. Tội nghiệp nó. Chú giúp cháu đem cho hết đi, nói của chị Tiên cho đó. Chị Tiên chết rồi... Đó là cuộc nói chuyện cuối cùng giữa Nguyễn và Tiên. Sáng hôm sau, Nguyễn vào thì Tiên đã gần như hôn mê. Nguyễn cùng gia đình đưa Tiên lên xe về nhà, mọi người đều nước mắt giàn giụa. Vì Tiên có dặn trước là hãy cho xe chạy ngang trường để Tiên nhìn nó lần cuối, nên ba của Tiên đã đỡ đầu cô bé dậy lúc xe sắp chạy đến. Lúc đó vừa tan trường. Tiên gắng gượng mở đôi mắt lờ đờ nhìn các cô học trò cùng lứa tuổi với mình đang ùa ra như một đàn bướm trắng, rồi lại thiếp ngay. Mẹ và dì của Tiên òa khóc, trong khi những người đàn ông cố cắn chặt răng. Ba giờ chiều hôm đó, Tiên mất, hai tay ôm chặt con búp bê mù cũ mèm. Không, Tiên không chết. Cô bé chỉ bay về trời sau cuộc dạo chơi ngắn ngủi xuống cõi trần, Nguyễn tin vậy. Nhưng không hiểu sao anh vẫn cứ để cho nước mắt mình mặc sức tuôn rơi... Anh Sức Thứ sáu, 17 Tháng 4 2009 10:02 Trưởng phòng tổ chức của nông trường lật đi lật lại tập hồ sơ của tôi, rồi ông giương kính lên và bắt đầu đọc. Ông đọc rất say mê mặc dù tôi biết chắc chắn ông đã đọc tập hồ sơ của tôi ít nhất cũng dăm bảy lần... Cũng như mọi lần, sau khi đọc qua mỗi trang, ông cẩn thận thấm nước bọt vào đầu ngón tay rồi mới lật qua trang khác và điểm thêm bằng những tiếng khen "Được" hoặc "Cái này được". Cái kiểu đọc như vậy, dĩ nhiên khiến tôi rất sốt ruột. Như mọi lần, tôi chuẩn bị để nghe ông kết thúc bằng câu "Thôi được! Anh cứ để hồ sơ lại đây để chúng tôi xem lại đã". Cái cảnh đi xin việc, năm lần ra ba lần vào là chuyện thường. Nhưng lần này ông ta đọc có vẻ lâu hơn, bình tĩnh hơn, thỉnh thoảng ông còn dừng đọc, ngước lên nhìn tôi một lượt như để xem có cái gì không được khớp giữa tôi và những dòng chữ trong tập hồ sơ vậy? Cuối cùng, tôi thở phào, ông đã gỡ kính ra, tin cậy đặt nó lên tập hồ sơ của tôi. - Được! Được đấy. Lý lịch của anh thật là tuyệt. Chưa có một dấu vết gì cả. Nhưng này Ông đột ngột nhô nửa người qua bàn - nghề nghiệp chính của anh là gì? Tôi sốt ruột nên đáp hơi sẵng giọng:.

<span class='text_page_counter'>(105)</span> - Nghề chính của tôi là… đánh giặc ạ. - Ái chà! Đánh giặc - ông bỗng cất tiếng cười vang - Khá đấy! Nhưng ở đây làm gì có giặc nhỉ? - Bỏ ngay cái giọng công thần ấy đi, anh bạn trẻ nhé. Tuy vậy, tôi thích anh, anh đại đội trưởng xe tăng ạ. Ban giám đốc đã đồng ý tiếp nhận anh rồi đấy. Nhưng… ở đây chúng tôi không có xe tăng cho anh chỉ huy, gay thế? - Tôi có thể lái xe xích, xe cần cẩu hay bất kỳ loại xe hơi nào. - Thế thì tốt. Ông trưởng phòng xoa hai bàn tay vào nhau - nhưng rất tiếc ở đây chúng tôi có vài cái xe rách thì xe nào cũng có ít nhất là ba anh tài xế rồi. Tuy vậy… chúng tôi đã quyết định giao cho anh phụ trách cả một đội xe, được chứ? - Dạ… tôi cũng có thể… - Nghĩa là được, phải không? Một đội hơn hai chục đầu xe chứ ít ỏi đâu. Nhưng là xe bò kéo, chứ không phải xe hơi đâu nhé! Nói xong ông lại cười vang và có vẻ thích thú ngắm nhìn bộ mặt ảo não của tôi. Vậy ra người ta giao cho tôi… lái xe bò? Thật chẳng còn ra làm sao. Nhưng chẳng lẽ cứ ăn không ngồi rồi mãi? Tôi là thương binh, được phục viên đã gần một năm nay rồi. Giá như tôi ở nông thôn thì mọi việc đơn giản hơn nhiều. Chỉ việc đến ban quản trị xin nhận vài sào ruộng khoán là ổn. Khốn nỗi tôi lại là dân thành thị, vườn tược chẳng có mà các nghề khác thì… tôi chưa kịp học một nghề gì trước khi đi bộ đội cả. Các đồng chí bên uỷ ban nhân dân thị xã có gợi ý mời tôi lên làm ở văn phòng uỷ ban. Nhưng tôi biết tôi không thể ngồi yên ở bất kỳ cái văn phòng nào lấy một tuần. Tôi thích làm việc ngoài trời, được đi lại, xê dịch hoặc đôi khi còn hò hét nữa. Tôi chỉ sợ nhận làm việc ở cái nơi cực kỳ nghiêm chỉnh ấy mà tính khí của tôi lại hơi bồng bột, không khéo dăm bữa nửa tháng tôi ngứa chân ngứa tay, rồi làm ăn cẩu thả hay nói năng không được chững chạc cho lắm, lại phiền cho những người cưu mang mình. Vậy nên tôi từ chối để vác hồ sơ đi xin việc ở khắp nơi, cho đến khi gặp cái ông trưởng phòng. - Thế nào? - Ông trưởng phòng lại hướng về phía tôi - Chắc là đồng chí sẽ không nhận việc này chứ gì? - Tôi biết mà… Cánh thanh niên các anh thì chỉ thích nơi nào tao nhã một chút. Cái nghề đánh xe bò… Nhưng thôi được!... Ưu tiên đồng chí là thương binh, tôi có thể xếp đồng chí làm việc ở bộ phận hành chính… - Không, tôi vội xua tay - Tôi xin nhận xuống đội xe bò. - Hả? - Bác cứ cho tôi xuống đội xe. - Nếu vậy thì hay lắm. Ông trưởng phòng xoa tay hể hả. Có thế chứ! Đúng là là… phẩm chất của giai cấp công nhân. Nếu đồng chí về đó thì chúng tôi yên tâm lắm. Xem ra phải hơi cứng đầu một chút thì mới cầm cương được cánh xe bò kéo. Chà… chà! Một ổ tiêu cực đấy! Đời thuở nhà ai họ dám bán cha cả bò của nông trường rồi vu cho kẻ trộm lấy mất. Dĩ nhiên là những kẻ như vậy là vào tù rồi. Nhưng… cũng chưa phải rồi mọi việc xấu xa ấy sẽ chấm dứt. Hừm… lạ thật! Táo gan thật! Về đó anh phải đặc biệt chú ý đến tay Nguyễn Văn Sức. Hừm… một tay đã từng lái xe bộ đội Trường Sơn. Cũng vào sinh ra tử cả đấy. Đến khi hoà bình, chuyển ra làm đội trưởng đội xe vận chuyển dân chính thì bắt đầu trở chứng. Quả là… Anh tính, đời thuở nhà ai anh ta dám bán gần hết cả một xe vải quý cho con buôn để lấy tiền chia nhau? To gan thế đấy! Dĩ nhiên rồi đến cái đoạn phải chịu kỷ luật, bị đuổi về. Không bị đi tù còn là may đấy. Ấy thế mà rồi thì… Về đây, anh ta làm cách nào đó, có giời biết, mà ông phó giám đốc nhà này cứ say như điếu đổ, rồi nhận anh ta vào làm ở đội xe. Tôi biết mà, hắn lại định nhắm vào cái khâu tiếp xúc với nhiều cơ sở vật chất nhất. Để làm gì, hả? Với những người như anh ta, thì không phải để làm cách mạng đâu, anh nhớ lấy điều đó! Mặc dù năm vừa qua anh ta được bầu là chiến sĩ thi đua hẳn hoi. Nhưng tôi vẫn ngờ lắm. Cái tay đội trưởng cũ ngu ngơ quá, bị chúng nó xỏ mũi cả. Anh thì phải khác, nhớ đấy! Vì anh là cán bộ, đảng viên lại xuất thân từ giai cấp công nhân. Nếu anh mà cũng lơ mơ thì… cứ cứ… coi chừng đấy! Ông trưởng phòng đe nẹt tôi một cách thân ái rồi trịnh trọng mở cặp ra lấy tờ quyết định tiếp nhận trao cho tôi. - Đấy… Việc của anh thế là xong. Anh làm nốt các thủ tục còn lại rồi nhanh chóng về mà nhận bàn giao công tác. Kể từ ngày hôm nay anh chính thức là… cán bộ của nông.

<span class='text_page_counter'>(106)</span> trường này rồi. Những lời huấn thị của ông trưởng phòng tổ chức không làm tôi bực mình lắm mặc dù nó thấm đậm chất gia trưởng. Có lẽ vì tôi đang vui. Dù sao thì mọi việc chạy xuôi chạy ngược cũng đã kết thúc. Từ nay tôi đã là anh đội trưởng một đội xe bò kéo của nông trường. Chứ đâu phải chuyện chơi? * * * Cũng như tất cả các vị thủ trưởng mới nhậm chức, sau khi nhận bàn giao tài liệu, sổ sách, bản thống kê tài sản v.v… tôi quyết định bỏ ra vài ngày để làm quen với công việc và anh em công nhân dưới quyền chỉ huy của mình. Tôi định tổ chức hẳn một cuộc họp để ra mắt và "ra tuyên bố" về "chính sách" của mình… Nhưng đã gần hết một tuần mà tôi không làm sao gom đủ quân về trụ sở để tổ chức cuộc họp ấy. Cuối cùng, tôi phải bãi bỏ ý định ấy và đành "nhập gia tuỳ tục". Nghĩa là tiếp tục dùng cái bảng thông báo ở đầu nhà để phân công công việc và ra những chỉ thị cần thiết. Sau đó tôi quyết định đi theo anh em chở hàng một vài chuyến để tìm hiểu công việc. Tuy chưa nói với ai, nhưng tôi định chuyến đầu sẽ đi với anh Nguyễn Văn Sức. Tôi chọn đi với anh là vì hai lẽ. Thứ nhất, vì những lời lưu ý đặc biệt của ông trưởng phòng tổ chức. Thứ hai, sau một tuần làm việc ở cơ quan, tôi đã có vài lần được tiếp xúc với anh Sức. Tự nhiên tôi lại có cảm tình với anh. Ở anh có một cái gì đó chững chạc, bền vững chứ không có những nét xộc xệch cẩu thả, tạm bợ như số đông anh em đánh xe ở đây. Tôi không nghĩ rằng người ta đã phạm kỷ luật, thậm chí phạm tội một lần thì không thể thay đổi được. Ông trưởng phòng có vẻ mê cái lý lịch của tôi. Nhưng, tất cả những sự tốt đẹp, trong sạch của quá khứ có bảo đảm để tôi mãi mãi là người tốt hay không lại là chuyện khác. Tôi đã từng biết không ít những người vẫn được coi là tốt, là trong sạch đã nhanh chóng hư hỏng như thế nào. Ngược lại, tôi từng biết những người phạm tội, xa xẩy đã vươn lên để trở lại với bản chất tốt đẹp của một con người chân chính như thế nào. Quá trình thứ hai, chắc chắn phải gian khổ, vất vả hơn quá trình thứ nhất. Vì thế, tôi muốn đi với anh một chặng đường. Khi tôi đến, anh em trong đội đang nhận hàng để chuẩn bị cho chuyến đi ngày hôm ấy. Một số anh em đã đóng hàng xong đang quây quần xung quanh bác Mạc, một người nhiều tuổi nhất trong đội. Cánh thanh niên vừa chuyền tay nhau cái điếu cày chạm khắc rất cầu kỳ của bác Mạc vừa cười nói ồn ào. Sức không ở trong đám đông ấy, anh vẫn đang loay hoay bên xe của mình. Thấy tôi tới, một thanh niên ở trần, mặc quần bò, đội mũ cối rộng vành liền la lên: - Thủ trưởng tới đấy… Chú ý! Bò bê… Tất cả nghiêm! Mọi người cười rộ cả lên. Tôi cố làm ra vẻ tự nhiên bước tới. - Chào anh em!... Mọi việc ổn cả rồi chứ? - Xong cả rồi đấy anh ạ. - Bác Mạc lên tiếng trả lời thay mọi người - Ba xe chở cỏ khô. Năm xe chở gạch và xi măng vào cho đội Sáu xây lò đường. Riêng xe của anh Sức và xe của tôi thì chở phân đạm và vào xóm Trại cho đội Mười hai bón thúc ngô. Sau đó hình như chở gỗ từ đó ngược ra Sơn Tây giao cho nhà máy đường để đổi lấy mắm mari. Anh muốn đi với xe nào thì tuỳ. Ông thủ trưởng trước, dạo mới về cũng đã đi thử với tôi một chuyến! Nhưng chỉ được vài cây số thì ông ta bắt đầu ngáp, rồi gật, bập cả đầu vào thành xe. Tôi đành phải trải chiếu lên trên hàng cho ông ta ngả lưng. Nhờ giời, ông ta ngủ liền một mạch đến tận nơi trả hàng. Khi lay ông dậy, tôi nói đùa "Nếu tôi mà tiêu cực thì tôi bán quách cả thủ trưởng cho mấy con mẹ phe ngoài chợ Ba Trại rồi". Mọi người lại cười ồ lên. Tôi cũng cười theo rồi vỗ vai bác. - Thôi, thế thì tôi sẽ đi với bác và anh Sức. Nếu tôi ngủ dọc đường, hai bác cứ việc quẳng tôi xuống đường. - Lại nói cái chuyện ngủ - Bác Mạc hào hứng tiếp tục câu chuyện - Có lần đi chở than ngoài cảng Sơn Tây về đêm. Trăng thanh gió mát, xe cứ nhẩn nha lọc cọc lăn trên đường. Tựa lưng vào tải cỏ khô, tôi ngủ cha nó lúc nào chẳng biết. Đến khi mở choàng mắt ra thì… Quái! Đây là đâu thế nhỉ? Bỏ mẹ, đây đã tới gần đập Phùng rồi cơ à? Thì ra cái con mẹ này nó định kéo mình về Hà Nội chơi một chuyến chăng? Nghĩ đi nghĩ lại vẫn còn thấy may. Giá mà gặp thằng bợm nào nó trèo lên, xúc cha nó hết than có lẽ cũng chẳng biết. Vô phúc còn bị nó xịt ê-te cho mình lịm đi rồi tháo mất bò như ông Sáu Đỗ ngoài Sơn Tây thì cũng đành chịu chứ biết làm sao?.

<span class='text_page_counter'>(107)</span> - Năm ngoái anh Sức đã chẳng chơi cho cái bọn mất dạy ấy một vố ra trò ấy à? - Cậu thanh niên đội mũ cói rộng vành lên tiếng - Xe anh ấy chở phân đạm từ Sơn Tây về, đến quá dốc Đồi Thông, đang mơ mơ màng màng thì bốn thằng ập tới. Chúng dí dao găm vào cổ anh và đòi anh phải để cho chúng lấy vài tải đạm. Cưỡng lại thì chúng đâm chết ngay. Anh Sức rất khôn ngoan liền bảo chúng "Các ông đã định lấy thì cứ khuân tất cả xuống rồi trói tôi lại. Sáng mai có người đi qua, tôi sẽ kêu họ cởi trói lập biên bản. Chứ các ông chỉ lấy một vài bao rồi tha tôi thì về cơ quan tôi cũng đến chết". Bọn kia tưởng chuyến này "trúng quả", máu tham liền nổi lên. Thế là chúng bảo anh dừng xe, rồi ì ạch khuân hàng xuống. Chúng tưởng gặp phải anh chàng yếu đuối nên càng chủ quan chẳng đề phòng nữa, xúm cả lại bốc hàng. Thế là anh Sức lựa lúc chúng sơ hở, rút được cây gậy cài bên thành xe rồi nhảy bổ tới phang cho hai thằng gần nhất mỗi thằng một gậy gục ngay tại chỗ. Hai thằng còn lại hốt hoảng tháo chạy. Anh trói gô hai đứa bị đòn lại, quẳng lên xe rồi đưa vào giao cho một đơn vị bộ đội đóng quân gần đó. Mấy hôm sau công an tóm được nốt hai thằng còn lại. Hồi đó nhà báo chả về tận nơi phỏng vấn, rồi chụp ảnh, viết bài đăng trên báo là gì? - Có, tớ có đọc bài báo ấy - Một anh khác vội chen vào - Phải nói bài báo viết rất hấp dẫn ly kỳ. Nhưng… tớ không khoái cái đoạn anh Sức nghĩ. Lúc ấy thì làm quái gì mà nghĩ được nhiều thế? Thậm chí lại còn nghĩ đến cả mấy chục héc-ta ngô, lạc của nông trường đang chờ phân nữa? A… anh Sức đây rồi! Này, lúc ấy anh có nghĩ lắm như thế không anh Sức? - Nghĩ gì? - Sức vừa bước tới nên chẳng hiểu mô tê gì cả - cho mình mượn cái điếu. Chuẩn bị đi thôi chứ còn gì. Bò bê nó đang dậm chân dậm cẳng ầm ầm lên kia kìa. - Bọn tôi đang kể cho xếp mới nghe cái tích anh đánh cướp cứu tài sản xã hội chủ nghĩa đấy. Cậu thanh niên đội mũ rộng vành vừa nói vừa khẽ nháy mắt - Hôm nay thủ trưởng sẽ tiếp tục đi sâu đi sát để tìm hiểu đồng chí chiến sĩ thi đua của đội xế bò ta đấy. Sức quay lại, nhìn thấy tôi anh khẽ gật đầu thay cho câu chào rồi hỏi. - Anh định vào đội xóm Trại à? - Vâng, tôi muốn đi với anh một chuyến. - Được, xin mời anh - Sức trả lời sau khi rít một hơi thuốc lào - Anh lên xe tôi, bò của bác Mạc hôm nay không được khoẻ lắm đâu. Anh em đánh xe cũng vội vã trở về xe của mình. Tiếng giục bò vang lên. Tiếng bánh xe lăn trên con đường rải đá lọc cọc. Một hồi kẻng đổ rền báo giờ làm việc buổi sáng đã đến. Các cô trong đội trồng dừa từ ngôi nhà tập thể túa ra đường. Cô nào cô nấy nai nịt như thể sắp bay vào vũ trụ: Chân đi giày ủng, tay đeo găng bảo hộ lao động, khăn trùm đầu trùm cổ kín mít, chỉ có hai con mắt là các cô vẫn phải để cho nó lóng lánh, liếc ngang liếc dọc nhoay nhoáy. Chẳng bù cho lính của tôi, mười người thì tới sáu bảy người ở trần phơi ra những mảng lưng, mảng ngực đen cháy, những bắp thịt cuồn cuộn. Vậy mà cái duyên bóc trần ra ấy của "Lính xế bò" vẫn buộc các cô phải để mắt tới. - Ê… Này các em đội dấm dớ… A quên, đội giồng dừa chứ nhẩy! - Cậu đội mũ rộng vành ngồi ngất ngưởng trên chiếc xe chở cỏ khô vung roi hét lên. - Muốn ăn cơm tám với giò, lại đây mà ủn xe bò với anh. Nào…! - Anh Phong ơi! Cho bọn em ngồi ca-bin xe bò với nào. - Lên đây! Lên đây. Ca-bin của anh đây thì êm hết xẩy!. - Nhưng mùi nước đái bò… khai lắm! Các cô cùng cười ré lên khiến anh chàng đội mũ rộng vành cứng họng, mắt đỏ phừng lên. Bị hố với các em, anh ta đâm cáu, hai cái mông bò bị vụt lia lịa một hồi. Nhưng… chỉ một lát sau đã thấy anh ta nằm ngửa trên đống cỏ khô, vừa dứ dứ cái roi lên trời vừa hát vang lên. Ra đến ngã ba, mấy chiếc xe chở cỏ khô rẽ lối khác. Xe của Sức và của bác Mạc nhằm thẳng vào hướng Ba Vì đi tới. Trước mắt chúng tôi là những đồi cỏ sữa của trung tâm bò giống Môn-ca-đa, thứ cỏ có sức sống mãnh liệt và có hương vị đặc biệt do nước bạn Cu-ba giúp ta gây giống và gieo trồng. Vào ban đêm, mùi cỏ bị nắng nung khô tái, suốt ngày toả ra mùi hương nồng say, thấm đậm trong không gian, khiến bất kỳ ai đi qua đây cũng thấy nao lòng. Buổi sớm, sương còn đọng long lanh trên những.

<span class='text_page_counter'>(108)</span> ngọn cỏ, hương thơm vẫn nồng nàn khiến ta cứ ngỡ chính những giọt sương kia đã toả ra cái hương vị lạ lùng ấy! Nhưng rồi mặt trời lên, sương tan. Sự hào nhoáng của những giọt sương mỏng manh tan biến ngay dưới ánh ắng mặt trời nhưng hương cỏ thì vẫn nồng đượm, vẫn lắng đọng, quanh quất đâu đây, êm dịu luồn lách vào tận da thịt, như nhắc ta đừng bao giờ quên cái hương vị diệu kỳ này. Nhưng làm sao có thể quên, dù chỉ một lần qua đây? - Buổi sáng thật tuyệt vời, phải không anh Sức? Tôi hỏi và đợi câu tán đồng của anh. Nhưng hình như anh không nghe tiếng, như quên cả sự có mặt của tôi trên chiếc xe này. Mắt anh nhìn đăm đắm như bị hút vào một điểm nào đó ở phía trước. Gương mặt anh lúc đó thật đẹp. Một vẻ đẹp đầy nam tính, khoẻ khoắn, góc cạnh và lộ rõ vẻ từng trải, dày dặn nhưng chưa hề chai sạn. - Anh có thuốc lá không? Anh hỏi khẽ và vẫn không nhúc nhích. - Có đây. Tôi trả lời rồi vội rút bao thuốc lá trong túi ra đưa cho anh. - Cám ơn! Anh nói khẽ khi điếu thuốc đã bắt lửa. Sau đó anh lại im lặng. Anh ngậm điếu thuốc trên môi và lặng lẽ hút, lặng lẽ nhả khói, không một lần nhấc ra khỏi môi cho đến khi điếu thuốc chỉ còn một mẩu nhỏ anh mới thổi phù một cái cho mẩu thuốc bay ra vệ đường. - Anh nghiện thuốc lắm, phải không? Tôi hỏi khi nhìn thấy cung cách hút sách lạ lùng ấy của anh. - Không. Tôi không nghiện bất cứ thứ gì. Nhưng thứ gì cũng chơi được tới cùng như bất cứ một kẻ nghiện ngập chính cống nào. - Anh đã từng là lái xe mà - Tôi nói như để thừa nhận sự sành sỏi của anh. Nhưng anh lại cười khẩy. - Chắc ông Phục trưởng phòng tổ chức đã kể cho anh nghe đủ điều xấu xa về tôi, phải không? Tôi gật đầu xác nhận điều đó vì tôi biết, trước những người như anh mà nói dối là một sự ngốc nghếch. - Nhưng anh có tin không? - Không. - Thế thì anh lầm rồi. Tất cả những điều ông ta nói về quá khứ của tôi đều đúng cả đấy. Ông ta biết rất kỹ và nhớ rất dai - Anh bỗng cười vang rồi sôi nổi nói tiếp - Có điều… chưa bao giờ ông ta hiểu đúng tôi cả. Ông ta là một người… Biết nói thế nào nhỉ? Có thể nói là một người trong sạch, tận tuỵ và rất nghiêm khắc. Ông ta có thể ngồi miệt mài bên đống hồ sơ ngày này qua ngày khác, bất chấp giờ giấc, thời tiết, ngày nghỉ hay ngày lễ… Và nếu anh đến xin việc chẳng hạn, vô phúc lại tưởng ông ta cũng giống như một số cán bộ tổ chức khác, mà định giúi cho ông ta một thứ gì đó, dù chỉ là một bao thuốc lá loại rẻ tiền thôi thì… anh sẽ hết đời! Ông ta sẽ liệt ngay anh vào danh sách những thằng vứt đi của xã hội. Chẳng thế mà, tuy đã từng là cán bộ tổ chức của một xí nghiệp vận tải, nghĩa là ngồi ở cái vị trí mà người ta có thể hái ra tiền, nhưng ông ta vẫn sống rất nghèo, rất thanh bạch, hàng ngày vẫn đi về bằng chiếc xe đạp mà ông cụ đẻ ra ông ra mua từ hồi còn thằng Tây kia. Về mặt ấy và về sự tận tuỵ với công việc, ông ta thật là một người đáng kính trọng. Nhưng ông ta có một cái lỗi, thậm chí là một cái tội nữa, là chỉ tin vào lý lịch, chỉ làm việc với những hồ sơ khô cứng chứ không tin vào con người với tất cả những cái tốt và cái chưa tốt của họ. Với ông ấy, chỉ có hai loại người, loại đã có tội, đã bị kỷ luật hoặc có lý lịch không trong sạch và loại hoàn toàn trong sạch, chưa có "phốt" gì bị ghi trong lý lịch hồ sơ. Với loại thứ nhất, ông ta coi như hoàn toàn khả nghi, không thể dùng được, phải lập tức tìm cách mà xéo đi cơ quan khác. Tôi cũng là người đã từng bị ông ta xếp vào loại này. Rất không may cho tôi là về tới tận cái xó xỉnh này tôi đã lại thấy ông ta lù lù ngồi đó rồi. Thực ra, sau khi bị kỷ luật, tôi cũng chẳng thiết tha trở lại làm một anh công nhân viên chức Nhà nước làm gì. Nhưng nhờ có ông phó giám đốc nhà này, ông Thức ấy mà, ông ta động viên, tạo điều kiện cho tôi vào làm việc ở nông trường, không phải vì ông ấy thấy tôi cần phải trở lại biên chế nhà nước để có miếng cơm manh áo. Ông ấy hiểu tôi, biết tôi hoàn toàn không phải người xấu, không có ích gì cho xã hội nữa. Được ông Thức khuyến khích, tôi làm đơn xin vào nông trường. Đến khi bước vào phòng tổ chức cán bộ, vừa nhìn thấy ông Phục, tôi đã phát ớn, định quay về. Nhưng tôi lại nghĩ. Thì đã sao? Nếu mình rút lui, chẳng hoá ra những ý nghĩ của ông ta về mình là vĩnh viễn đúng hay sao? Mình không thể trở thành người tốt, người.

<span class='text_page_counter'>(109)</span> có ích cho xã hội nữa hay sao? Nghĩ vậy, tôi cứ liều tiến tới. Dĩ nhiên ông ta ngạc nhiên, và ông ta kiên quyết không chịu chấp nhận tôi. Cuối cùng, có lẽ nể ông Thức nên ông ta tạm dẹp những nguyên tắc của mình qua một bên để hé cửa cho tôi trở lại làm anh công nhân. Nhưng… ông ta luôn luôn cảnh giác với tôi. Có lẽ ông luôn nghĩ rằng Sức này định tuồn vào để moi của Nhà nước một lần nữa đây. Ngay cả cái lần tôi đánh nhau với bọn cướp để cứu tài sản Nhà nước ấy mà ông ta vẫn nhìn hiện tượng ấy bằng cặp mắt cảnh giác. Tôi được anh em tín nhiệm bầu làm tổ trưởng, rồi chiến sĩ thi đua, ông ta cũng chưa tin, có lẽ ông ta nghĩ rằng tôi chuẩn bị một "cú" gì đây nên mới ra vẻ tích cực, liêm khiết đến thế? Anh thấy ông già ấy có kỳ cục không - Anh lại cất tiếng cười vang rồi kết luận - Tuy vậy, tôi không hề thù ghét ông ta. Vì, suy cho cùng, ông ta vẫn là một người tốt, một cán bộ tận tuỵ trong công việc và liêm khiết, trong sáng. Ông ta trong sáng ngay cả trong sự thành kiến một cách kỳ quặc với những người như tôi. Những lời kết luận của anh Sức về ông trưởng phòng tổ chức khiến tôi ngạc nhiên. Khi ngẫm nghĩ lại tôi hiểu và càng mến phục anh hơn. Tôi biết, trước mặt tôi là một con người có phẩm cách, có ý chí và nhân hậu. Cuộc đời của anh hẳn lắm thăng trầm, chỉ có sự từng trải mới tạo nên cho con người những phẩm chất ấy, mới giúp con người có khả năng để không ngộ nhận, để có thể phân biệt được những khoảng sáng và những vùng còn tối tăm trong mỗi con người. Tôi muốn biết về những thăng trầm ấy của cuộc đời anh vì tôi biết, ở đó những phẩm chất của anh đã được bộc lộ và thử thách. * * * Tuy vậy, tôi vẫn im lặng chờ đợi. Đã qua hết những đồi cỏ và bây giờ, trước mắt chúng tôi là những đồi dâu của nông trường dâu đồi. Ai là người đầu tiên đã mang cây dâu từ miền bãi lên vùng đồi cằn cỗi này nhỉ? Cũng là một cuộc cách mạng, một cuộc biến cải chứ đâu phải chuyện bình thường. Ấy vậy mà bây giờ cây dâu mọc xanh tươi ở đây, được chấp nhận ở đây một cách tự nhiên, như tạo hoá sinh ra vốn đã như thế. Người qua kẻ lại cũng coi sự có mặt của cây dâu kia ở đây là chuyện thường tình, chẳng ai biết tới sự trăn trở đau đớn của cây dâu và của những người lần đầu tiên đặt cây dâu xuống vùng đồi đá ong này. Anh Sức không phải là người sinh ra ở đây và cũng không phải vào đời bằng nghề đánh xe bò. Nhưng phải tới đêm hôm ấy, tôi mới được biết vì sao anh đã đến đây và trở nên gắn bó với vùng đất này. Lượt trở về xe chúng tôi chở gỗ ván xẻ. Chúng tôi gỡ mui xe ra, chất gỗ lên rồi trải chiếu nằm khểnh trên đó mà ngắm trăng, mặc cho đôi bò tận tuỵ và trung thành nhẩn nha kéo đi. Những lúc như thế này mới thấy nghề đánh xe bò cũng không phải tồi tệ gì. Có thể nói là thơ mộng ấy chứ. Suy cho cùng thì nghề nào mà chẳng có những lúc nhọc nhằn cay đắng và những lúc thảnh thơi nhàn hạ như những ông hoàng? Đêm nay chúng tôi là những ông hoàng. Ngửa mặt lên gặp một trời đầy trăng; xung quanh mặt đất ngạt ngào hương cỏ, hương cây, thuốc lá trong túi còn đủ hút tới sáng: nước chè đặc đầy hai bi đông và nếu đói bụng thì đã có một rổ khoai luộc chị em đội xóm Trại vừa biếu hồi chiều. Xe của bác Mạc nằm lại đợi sáng mai chở lợn về nông trường. Có lẽ vì thế mà tôi và anh Sức cảm thấy hoàn toàn được tự do. Chúng tôi có thể lang thang trên đường suốt cả đêm mà không bị ông già khó chịu và cẩn thận luôn miệng thúc giục. - Hồi còn lái xe ở Trường Sơn những đêm trăng như thế này thật quý vô cùng - Anh Sức bắt đầu câu chuyện khi xe chúng tôi ra đến đường lớn. Bọn mình có thể đàng hoàng chạy trên những con đường bị bom đạn địch cày xới tơi bời mà không phải dùng đèn. Bỏ nghề lâu rồi mà bây giờ cứ tới những đêm trăng như thế này tôi vẫn thấy nao nao cả người, cứ như sắp sửa nhảy lên xe mà phóng vù đi vậy. - Anh chuyển sang lái xe dân chính từ hồi nào? - Năm bảy mươi sáu - anh kể. Như anh biết đấy, sau chiến tranh, người lính nào cũng bắt đầu nghĩ đến cuộc đời mình, đến cái tổ ấm của mình. Đó là lẽ tự nhiên. Tôi cũng vậy. Những năm còn là bộ đội Trường Sơn, tiếng là ở phía trước nhưng năm nào tôi chẳng có dịp ghé qua nhà vài ba lần. Nhưng đi thì đi, về thì về, tôi nào có để ý nhiều đến cái gia đình riêng nbỏ bé của mình. Hình như mọi cái đều ổn cả. Cái nhà do bố mẹ làm cho, dù là nhà lợp lá, nhưng vẫn còn có vẻ chắc chắn. Vợ đẻ sòn sòn ba năm đôi, nhưng "giời.

<span class='text_page_counter'>(110)</span> sinh voi giời sinh cỏ" các cháu vẫn lớn đều, vẫn có cơm ăn áo mặc, chứ có đến nỗi nào mà phải lo. Tuy vẫn chưa hơn cuộc sống thanh đạm của ông cha xưa bao nhiêu nhưng thời chiến, đòi hỏi nhiều làm gì. Vợ ở nhà vẫn phải vo vo véo véo mới đủ ăn, đủ mặc thật đấy nhưng thỉnh thoảng chồng còn ghé thăm nhà được trong khi chồng con người ta vẫn đi biền biệt, thế là mình hơn người rồi. Đòi hỏi gì nữa? Mình cũng vậy, sau bao ngày vào sống ra chết, được ra nhận hàng một chuyến, được tranh thủ ghé về thăm vợ thăm con, thế là nhất rồi, hơn người rồi. Đòi hỏi gì nữa. Cứ nghĩ, có lẽ cuộc đời chỉ cần thế này là đủ, miễn là không còn chiến tranh, không còn nay sống mai chết. Nhưng rồi chiến tranh cũng đến lúc chấm dứt. Cả dân tộc vui mừng, hể hả vài ngày, vài tháng rồi mỗi người phải tiếp tục cuộc sống riêng của mình. Hoà bình rồi, cũng phải thu xếp đời sống sao cho kha khá hơn một chút chứ. Vợ bắt đầu nhắc tôi chuyện nhà đã dột, giá như có tiền xây lên, lợp ngói thì tuyệt. Hợp tác đưa điện về, hoà bình rồi phải dần dần điện khí hoá nông thôn chứ. Nhưng có điện thì có nhu cầu về đồ điện. Chí ít cũng phải có cái đài cho con nghe, có cái quạt đỡ ngày nóng bức cho những đứa bé… Trong xóm đã có nhà người ta khuân được ti vi, tủ lạnh về rồi kia kìa. Mà họ cũng là cán bộ, bộ đội cả đấy chứ? Bấy giờ về thăm nhà mới thấy cái nghèo của mình lòi ra. Vợ con mình sống vất vả quá. Nhà cửa của mình loang toàng quá. Không thể thế này mãi được! Là cái thằng đàn ông, để vợ con nhếch nhác, thua kém mọi người đủ đường thì còn ra làm sao? Mình là bộ đội, làm gì thì làm thế nào được? Nhưng hà cớ gì mình phải ở bộ đội mãi nhỉ? Mà làm lính suốt đời được à? Hoà bình rồi, mình đã hoàn thành nghĩa vụ với Tổ quốc. Còn nghĩa vụ với gia đình thì… Thế là tôi viết đơn xin chuyển ngành. Đúng dịp đó đơn vị cũng đang thu gọn đội hình nên tôi được chấp thuận ngay. Hồi ấy bộ đội lái xe Trường Sơn có giá lắm nên tôi dễ dàng được tiếp nhận vào một xí nghiệp vận tải của Bộ Nội thương và được giao phụ trách một đội xe chạy đường dài. Tất cả dễ dàng như được sắp đặt từ trước vậy. Những tháng đầu chưa có chuyện gì xảy ra, tôi vẫn còn giữ được cái chất của một người chiến sĩ. Nói như cách nói của cánh lái xe dưới quyền tôi lúc bấy giờ là tôi vẫn còn "sặc mùi lính tráng". Tuy vậy thu nhập của tôi cứ tăng dần lên. Nhiều khoản phụ thu lạ lùng đến mức tôi không thể hiểu nổi, nhưng thực tình, cũng cố làm ra vẻ vô tâm, không tìm hiểu xem đồng tiền từ ngõ ngách nào mà cứ chảy về ngày một nhiều hơn. Có tiền tôi tiêu pha rộng rãi hơn, thỉnh thoảng gửi về cho vợ dăm ba trăm hoặc mua sắm một vài thứ cần thiết. Tôi cam đoan với anh rằng người ta làm quen với cái sự sung sướng, đầy đủ dễ dàng hơn làm quen với gian khổ, hy sinh rất nhiều. Chẳng bao lâu tôi đã không thể hút nổi một điếu thuốc rẻ tiền như chúng ta vừa hút và sáng nào không có một tách cà phê thì mồm cứ nhạt hoét và làm ăn sẽ chểnh mảng suốt cả buổi. Tôi càng khó tính trong ăn uống, hút sách bao nhiêu thì ngược lại, càng trở nên dễ tính hơn với những thói hư tật xấu của anh em trong đội bấy nhiêu. Bên tai tôi thỉnh thoảng đã vang lên lời khen ngợi của những người dưới thẩm quyền "Thủ trưởng của chúng ta dạo này chịu chơi lắm rồi!". Tôi cảm thấy yên tâm, khi lầm tưởng rằng mình đã hoà nhập được với môi trường mới. Nhưng rồi, cái ranh giới cuối cùng cũng phải đến. Một sợi dây mỏng manh đã giăng ra trên đường. Có bước qua cái sợi dây ấy hay không? Ở bên này có nghĩa là tôi vẫn ít nhiều còn là tôi. Còn nếu bước qua bên kia tôi sẽ trở thành một kẻ khác. Bấy nay, mặc dù có lờ mờ cảm thấy những khoản tiền "phụ thu" mà anh em trong đội thỉnh thoảng chia cho là tiền bất minh. Nhưng tôi vẫn lờ đi, coi như chưa biết gì. Đã đến lúc tôi phải đối mặt với chính tôi. Số phận đã định thế rồi. Lần ấy tôi trực tiếp đi với anh em một chuyến vào miền Nam với ý định sẽ kết hợp mua một vài thứ đồ điện về cho gia đình. Vào đến Vinh thì chúng tôi dừng lại nghỉ đêm. Tôi thấy mấy anh em lái xe thỉnh thoảng lại chụm đầu bàn bạc với cậu đi áp tải hàng. Họ bàn bạc có vẻ căng thẳng và thỉnh thoảng lại liếc mắt về phía tôi. Cuối cùng, một cậu đại diện cho họ quyết định trao đổi thẳng thừng với tôi. Sau khi rào trước, đón sau cậu ta cho tôi biết là trên xe "thừa ra" khoảng hơn chục kiện vải quý. Nghe mà kinh người! Tôi quyết định phải kiểm tra lại hàng và quả nhiên số hàng thừa trên xe hoàn toàn có thực. Mọi người đang chờ tôi quyết định "xử lý" số hàng thừa đó. Giá như nó chỉ có một ít thì họ có thể đủ gan để tự giải quyết rồi. Cái cậu được phân công vận động tôi không rời nửa bước. Cậu ta quả là có tài thuyết khách. Cậu ta vạch ra đủ mọi viễn cảnh khi chúng tôi có trong tay món tiền khổng lồ nếu đem "đẩy" số hàng ấy cho con buôn. Cậu ta hứa chuyến này vào Sài Gòn sẽ trực tiếp đi tìm mua cho tôi một tủ lạnh và một chiếc ti vi thật.

<span class='text_page_counter'>(111)</span> "nghiêm chỉnh". Cậu ta cũng không quên nhắc đi nhắc lại rằng với số tiền đó vợ con tôi có thể "tiến thẳng" từ cuộc sống còn chật vật thiếu thốn hiện nay lên một cuộc sống sung túc tiện nghi. Vả lại, có ma nào biết chứ? Hàng xuất ra khỏi kho rồi, chúng tôi cứ giao đủ cho nơi nhận theo hoá đơn, chứng từ là được rồi, ai biết đấy là đâu? Tôi đề nghị được suy nghĩ một đêm, sáng mai tôi sẽ quyết định. Tôi có biết đâu đó là cái đêm khắc nghiệt nhất, cái đêm tôi phải quyết định lấy số phận mình, nhân cách của mình. Cái đêm tôi phải quyết định có bước qua sợi dây ghê gớm kia không? Tôi nằm trằn trọc suy nghĩ. Đêm đó trong tôi có hai con người co kéo nhau, tranh cãi với nhau. Đó là cái người đích thực của tôi, và hắn, kẻ bấy nay còn xa lạ, mặc dù đã lảng vảng quanh tôi. Cuối cùng, hắn đã thắng. Tôi bước vào một ngày mới với bộ mặt hốc hác vì mất ngủ. Thực ra, không phải tôi đang bước đi mà hắn đã bắt được tôi làm tù binh và đang giải tôi đi. Trước khi hạ vũ khí, lý lẽ của tôi thật đơn giản. Thôi, ta chỉ làm một cú này thôi. Với số tiền ấy, ta đủ để xây cho vợ con cái nhà, mua sắm vài đồ dùng cần thiết và sau đó… sẽ không bao giờ ta làm bậy nữa. Nhưng thật không may cho tôi. Ở tổng kho, sau khi thấy mất hàng, họ đã rà lại tất cả các đầu mối đến nhận hàng và chú ý ngay tới đoàn xe của tôi, là đơn vị nhận hàng nhiều nhất ngày hôm đó. Ngay ngày hôm sau đoàn xe của tôi đã bị ách lại dọc đường để kiểm tra. Dĩ nhiên, người ta không thấy số hàng đó trên xe nữa. Nhưng… không hiểu sao tôi lại tin rằng cuối cùng người ta vẫn cứ tìm ra thủ phạm nên ngay sau khi các đồng chí công an và thanh tra của ngành ra lệnh cho đoàn xe của tôi tiếp tục chạy thì tôi đột ngột quyết định phải thú nhận tất cả. Tôi đã làm việc đó trước những lời xỉ vả của cánh lái xe. Mặc họ! Với tôi thế là hết rồi. Tôi được miễn truy tố vì hành động thành khẩn đó và… có thành tích trong kháng chiến chống Mỹ. Thật là điều nhục nhã! Tôi chỉ bị buộc phải thôi việc. Thế là… sau hơn chục năm làm chiến sĩ tôi đã trở về quê hương như một kẻ tội phạm. Ở làng, không hiểu vì sao mọi người cũng biết được chuyện ấy? Nhiều người nhìn tôi bằng ánh mắt khinh bỉ. Tôi cắn răng chịu đựng tất cả. Nhưng một hôm, tôi đang ngồi ở nhà buồn rũ rượi thì có một người lộc cộc chống nạng bước vào sân nhà tôi. Tôi sửng sốt kêu lên khi nhận ra đó là Thân, bạn chiến đấu cũ của tôi ở cuối huyện. Anh đã bị thương trong cái lần cùng tôi chở hàng vào Tây Thừa Thiên. Đã lâu lắm tôi không gặp anh, sao hôm nay anh lại tự lần tới tận nhà tìm tôi? Tôi chồm dậy, định chạy ra đón anh thì anh đứng sững lại, cầm cây nạng chỉ thẳng vào mặt tôi mà hét lên: "Đồ hèn! Sức dài vai rộng làm gì không nuôi nổi vợ con mà phải đi ăn cắp!". Tôi chết điếng người, chưa kịp định thần thì anh đã quay mặt, lộc cộc chống nạng đi thẳng. Tôi lao vội theo anh, rên rỉ "Anh Thân! Ở đây đã… tôi muốn… tôi muốn nói…" "Thôi im mồm đi! - Anh quay lại quát - Tao lặn lội đến đây chỉ để nói với mày một câu thế thôi. Để yên cho tao đi không tao phang cho một gậy bây giờ!". Nhìn thẳng vào đôi mắt bừng bừng lửa giận của anh tôi phát hoảng. Và, tôi không đủ sức để giữ anh lại nữa. Sau cú đó tôi gục xuống ốm một trận thập tử nhất sinh. Tất cả mọi thứ bệnh tật trong chiến tranh tưởng đã nằm yên trong người tôi bỗng ầm ầm trỗi dậy. Tôi nằm bẹp suốt hai tháng giời. Vợ tôi tất bật ngược xuôi chạy thuốc chạy thang. Những thứ tôi mua sắm về được lần lượt "đội nón ra đi". Thật là của thiên lại trả địa. Năm đó lại đúng vào năm mất mùa. Nhà tôi hết ăn ngay từ trước tết nhưng vợ tôi vẫn tần tảo chạy vạy ngược xuôi để bố con tôi vẫn có bữa rau bữa cháo. Ăn miếng cơm của vợ mà nước mắt tôi cứ trào ra. Lời xỉ mắng của Thân như một vết khắc bằng lửa vào tim tôi. Nhục nhã, ê chề quá phải không anh? Nhưng rồi tôi khỏi bệnh. Cùng với sự chiến thắng bệnh tật, một ý nghĩ lúc nào cũng thiêu đốt lòng tôi: "Ta phải tự tay ta làm nên tất cả. Phải chứng minh với mọi người rằng thằng Sức này không phải đã hoàn toàn bỏ đi, không phải chỉ ăn cắp mới sống được, mới nuôi được vợ con!" Bằng cách gì tôi chưa biết nhưng tôi quyết định phải chứng minh được điều ấy. Anh Sức đột ngột dừng câu chuyện ở đó rồi cho bò dừng lại nghỉ. Sau khi ném cho đôi bò một ít cỏ khô, anh lấy chiếc chiếu trên xe xuống, trải ra vệ đường rồi bảo tôi: - Ta lót dạ vài củ khoai chứ. Các cô đội xóm Trại nổi tiếng mát tay đấy. Khoai của họ ngọt lừ. Anh ăn thử vài củ đi cho vui. Chúng tôi ngồi bên vệ đường, vừa ăn khoai luộc, uống nước chè tươi đặc sánh, vừa ngắm trăng. Câu chuyện của anh Sức vẫn còn ám ảnh tôi nên tôi ăn uống không thấy ngon miệng nữa. Hình như biết tôi sốt ruột, một lát sau anh lên tiếng kể tiếp:.

<span class='text_page_counter'>(112)</span> - Sáng mai mời anh ghé thăm "trang trại" của tôi. Cái gì chớ sắn, khoai, lạc, đỗ thì chỗ nào trong nhà tôi cũng có. Cũng đã có lần ông Phục ghé thăm nhà tôi. Dĩ nhiên, ông đã nhìn cơ ngơi của tôi bằng con mắt ngờ vực. Sao cái thằng quái này lại giàu có thế này. Trông cứ như cơ ngơi của một thằng địa chủ vậy. Với ông ta, tôi chẳng thể giải thích gì được. Nhưng với anh thì… tôi muốn kể cho anh nghe để anh hiểu. Bởi vì, anh là đồng đội của tôi. Không gì có thể đáng buồn hơn là bị đồng đội nghi ngờ, phải không anh. - … Sau khi khỏi bệnh - anh Sức kể tiếp - tôi quyết định ra đi. Nhiều hôm tôi nằm trên chiếc chõng tre ngoài thềm, nhìn lên ngọn Ba Vì này và nghĩ rằng ở đây vẫn còn nhiều đất, hẳn tôi có thể bằng sức lực và trí thông minh của mình làm ra ngô lúa, sắn khoai, tạo dựng được cơ nghiệp. Tôi tin như vậy và quyết định ra đi. Trước khi đi tôi đến gặp Thân. Thấy tôi đến anh không nói một lời mà chỉ lẳng lặng đi pha nước mời tôi uống. Nhưng tôi không uống, mà cũng không ngồi xuống nữa. Tôi nói luôn: - "Anh Thân ạ. Tôi biết anh rất giận tôi. Nói cho đúng ra anh rất thương tôi, anh chỉ căm ghét những gì xấu xa trong tôi thôi. Vì vậy, tôi đến để gặp anh không phải để thanh minh mà yêu cầu anh giúp đỡ. Lúc này các cháu đang đói, tôi đang gặp khó khăn. Nhưng tôi sẽ nghe lời anh, sẽ bằng sức lực và trí tuệ của mình để làm nên cơm áo nuôi vợ nuôi con và trở thành một người có ích cho xã hội. Để có thể bắt đầu, tôi muốn anh đỡ đầu tôi ít nhiều làm vốn liếng! Tôi không đi buôn đâu. Nhà tôi sẽ lên núi - Tôi vừa nói chỉ lên Ba Vì - ở đó, với bàn tay này tôi có thể làm nên tất cả". "Nếu vậy thì được - Anh Thân gật đầu và dịu giọng - Tôi sẽ không tiếc anh bất cứ cái gì nếu tôi có. Vậy, anh cần gì". "Anh cho tôi vay đỡ hai chục cân gạo và hai trăm đồng bạc. Có vậy thôi. Tôi cũng nói trước rằng số tiền gạo này có thể còn lâu tôi mới hoàn lại cho anh được". Thân gọi vợ vào bảo xúc cho tôi hai chục cân gạo và đưa ngay cho tôi hai trăm đồng bạc. Tôi xin phép đi ngay mặc dù anh cố giữ tôi lại. Số tiền, gạo ấy tôi chia đôi, một nửa mang về cho vợ con, một nửa mang theo. Hành lý của tôi gồm hai bộ quần áo bộ đội đã cũ, một bộ tăng võng, một chiếc ca men bộ đội, một con dao và một cái cuốc. Ngoài ra còn phải kể đến chiếc xe đạp tồng tộc và một gói thuốc sốt rét nữa chứ. Tôi cũng không nói cho vợ con biết rằng mình sẽ đi đâu, làm gì. Vợ tôi vốn rất tin tôi nên cũng chẳng giữ, chỉ dặn tôi chú ý giữ gìn sức khoẻ và giúi cho tôi một hộp dầu cao sao vàng đề phòng khi cảm mạo, ốm đau. Thế là tôi đến với Ba Vì. Vùng này, như anh biết đấy, cũng không phải hoang vu gì. Đất đai đã được khai phá nhiều chỉ còn những nơi đất đã bạc màu hoặc ở thật sâu trong các khe núi, hoặc dưới trầm trũng. Tôi đạp xe đi "kiểm tra" suốt một lượt dọc theo các con đường mà chiếc xe tồng tộc có thể đưa tôi tới được. Sau đó tôi nghĩ, nếu một mình, với vốn liếng nhỏ nhoi này mà lao vào "làm ăn lớn" ngay thì sẽ gãy. Phải vừa làm vừa tự kiếm sống và thỉnh thoảng gửi được chút ít gì về để đỡ đần vợ con. Thế là tôi chọn được một phương án cực kỳ khôn ngoan. Tôi không lao vào núi mà lại đạp ngược trở ra tận ngoài dốc Đá Bạc rồi bắt đầu triển khai công việc. Cứ dọc theo hai bên đường từ đó vào tận chân núi, hễ nơi nào còn một vạt đất có thể đặt được trăm gốc sắn là tôi dừng lại, phát cỏ dọn dẹp qua loa rồi đi xin hom sắn về đặt. Những thẻo đất như thế thường còn rất nhiều ở hai bên đường, không ai chú ý tới vì chẳng bõ công. Nhưng với tôi thì lại khác. Nó đỡ tôi được bao nhiêu công sức trong việc khai phá. Hàng ngày tôi vừa trồng sắn vừa đi mót sắn được ít nào tôi cũng thái luôn rồi quẳng lên đường nhựa. Cứ như thế, hai ba tuần tôi cũng có được một hai tải sắn khô mang về cho gia đình ăn độn và chăn nuôi. Đồng thời, mỗi tuần tôi cũng đặt vào lòng đất được vài ngàn hốc sắn. Dọc theo đường quốc lộ và ven những triền đồi từ Sơn Tây vào Ba Vì nơi nào tôi cũng có sắn. Chỉ có điều không bao giờ có nương lớn cả. Ấy vậy mà trong năm đầu tôi đã có gần ba vạn hốc sắn chứ không ít ỏi gì đâu. Đôi khi gặp phải trằm bùn sụt tới bụng, đất rất tốt nhưng không ai nghĩ đến chuyện cấy lúa. Thế thì tôi làm. Tôi đi đẵn cây chuối về, ghép thành những cái bè rồi đi xin mạ. Tôi thả bè xuống mặt trằm rồi cứ ngồi trên đó mà cắm mạ xuống. Những người địa phương nhìn thấy tôi cấy lúa trằm, ai cũng lắc đầu le lưỡi. Nhưng trời ơi, lúa ở những nơi ấy mới tốt làm sao! Mà nào có phải phân gio, cỏ giả gì đâu. Có ai ngờ tôi đã thu được một tấn lúa ở những cái trằm như vậy. Hàng ngày tôi làm việc say sưa. Tối đến, bạ đâu tôi ngủ đấy. Khi thì ngủ trọ trong nhà dân, khi thì treo võng nằm ngoài rừng. Dần dần, suốt một nẻo từ Đá Bạc vào Ba Vì ở đâu người ta cũng biết tôi. Lúc đầu người ta cứ nghĩ rằng tôi là một thằng ngớ ngẩn. Nhưng dần dần họ hiểu tôi và.

<span class='text_page_counter'>(113)</span> nhiều người đã coi tôi như bạn bè. Tôi có thể đi về, ăn ngủ, gửi thóc lúa sắn khoai ở nhà họ bất kỳ lúc nào. Những ngày lang thang, gối đất màn sương ấy với tôi thật đáng ghi nhớ suốt đời. Anh thử tưởng tượng những đêm tôi treo võng nằm ngoài nương một mình, buồn tới mức nào? Nhưng tôi không hề nản, vì tôi tin ở ý chí của mình, tin ở bàn tay và khối óc của mình. Tôi biết trước mắt, tôi chưa có ích cho xã hội, nhưng tôi đã có ích cho gia đình. Vợ con tôi đã đỡ chật vật hơn nhờ kết quả lao động của tôi. Tới vụ thu hoạch sắn anh có biết tôi làm thế nào không? Cũng là một thứ ranh vặt thôi. Tôi bán cứ một đồng một gốc, cho dân xe thồ. Sắn của tôi hầu hết ở bên vệ đường, nên rất dễ bán. Còn đâu chưa bán được tôi thái phơi khô gửi khắp nơi. Lúa cũng vậy, tôi chỉ gửi về cho các cháu vài ba tạ, còn gửi thiên hạ tất. Thế là chỉ một năm, tôi đã có một vốn bốn liếng đáng kể để có thể tiếp tục "sự nghiệp" của mình rồi. Nhưng có được như vậy thật gian khổ, đôi khi phải chịu nhẫn nhục, cay đắng nữa. Tôi đã vượt qua được tất cả. Tôi bắt đầu nghĩ đến chuyện đưa vợ con lên định cư ở vùng này. Quê tôi là một vùng đồng chiêm trũng, lụt úng liên miên, dân số lại quá đông nên làm ăn rất chật vật. Nhưng, chỉ mới hé răng nói ra một câu, vợ tôi đã gạt phắt đi. Rồi một dịp may tới, khiến tôi buộc phải quyết định một bước ngoặt lớn của cuộc đời. Tình cờ tôi làm quen được với ông chủ tịch xã cái xã mà hiện nay tôi đang ở. Trước ở đây ông ta đã từng chỉ huy một đội thanh niên xung phong của huyện ở hoả tuyến nên rất thông cảm với cánh lính Trường Sơn chúng tôi. Ông ta vận động tôi xin lên định cư ở xã nhà và hứa sẽ giúp tôi tạo dựng cơ nghiệp. Tôi đồng ý ngay và về xin phép xã để đưa gia đình đi định cư. Xã đồng ý, nhưng vợ tôi nhất định không chịu đi. Tôi quyết định bước đầu hãy đưa đứa con lớn lên trước. Khi bố con tôi dắt nhau lên trên này, chính quyền địa phương liền "cấp" hẳn cho một quả đồi. Ngày mai anh sẽ thấy các vị trong chính quyền địa phương ở đây hào phóng tới mức nào. Nhưng lúc đầu hai bố con tôi ra đứng ngắm khu đồi được chia mà ngao ngán cả người. Đồi trọc lóc, chỉ lơ thơ vài cây sim mua, đất đá ong trơ ra đỏ quạch. Nhưng tôi không ngán, vì tôi biết không có thứ đất nào lại là đất bỏ đi cả. Suốt mấy tháng trời hai bố con tôi xoay trần ra, đánh vật với quả đồi ấy. Trước tiên tôi đào một con hào chạy vòng quanh quả đồi để dẫn nước vào, bởi vì tôi biết muốn cải tạo đất, muốn phủ xanh đồi trọc thì trước hết phải có nước cái đã. Đào xong hào thì số đá ong vật lên cũng đủ để hai bố con tôi xây dựng cả một "lâu dài" rồi. Ngày mai anh tới sẽ thấy, mấy ngôi nhà của tôi đều xây bằng đá ong vật từ con hào quanh đồi lên cả đấy… Bây giờ con hào ấy vừa là nơi chứa nước, vừa là nơi thả cá thả lươn của gia đình tôi… Hai bên bờ hào tôi trồng dừa, trồng chuối và đủ các loại cây ăn quả. Ngày mai mời anh ghé qua, thưởng thức những thứ cây nhà lá vườn ấy với tôi cho vui… Nhưng thôi… ta đi chứ? Ngồi lâu quá có lẽ bò nó buồn ngủ rồi đấy. À, đôi bò này tôi cũng mua vào dịp ấy đấy. Hồi ấy không đắt như bây giờ. Khi bố con tôi dắt về năm sáu con bê một lúc nhiều người đã kêu ầm lên là bố con tôi giàu ngầm. Nhưng hồi đó có đáng bao nhiêu, chỉ dăm tạ lúa là đủ. Vậy mà khi bán lại hai chú này cho nông trường, tôi đã được lời gấp mấy lần rồi. Mà bán với giá rẻ chứ đâu có bán đắt như ngoài chợ. Nào các chú mày dứng dậy cả đi chứ! Gối mỏi chân chồn rồi hả! Đường còn xa đấy chứ đừng có tưởng giỡn nhé! * * * Sáng hôm sau, trên đường từ Sơn Tây về tôi đã trở thành một vị khách quý của gia đình anh Sức. Tôi sững sờ đứng trước cái cơ ngơi rất khang trang mà gia đình anh đã tạo lập nên do bàn tay lao động của mình. Một ngôi nhà năm gian xây bằng đá ong rất cao ráo và thoáng đãng. Ngoài ra còn chuồng lợn, chuồng gà, chuồng bò và các công trình phụ. Toàn bộ quả đồi sau nhà anh đã được phủ xanh bằng chè, dứa, mía, và các loại cây ăn quả. Trước cửa nhà là khu vườn toàn là giống mận Lạng Sơn, có lẽ chỉ năm tới là bói quả. Khi tôi bước vào cổng, hai đàn lợn nái gần hai chục con, nghễu nghện diễu qua trước mắt như để giới thiệu với tôi sự chuyên cần của chủ nhà. Chỉ tính sơ số lượng ấy sắp sửa cho anh hơn chục ngàn bạc rồi. Anh Sức chỉ đàn lợn, rồi cười: - Giống của nhà bác Thân đấy, anh ạ. Năm kia lên thăm tôi, bác ấy phê bình kịch liệt tôi về cái chuyện không nuôi lợn nái trong khi ở đây thức ăn rất sẵn. Khi trở về, bác cho cậu em trai mang ngay lên cho tôi một đôi lợn giống. Bây giờ thì anh thấy đấy, hai đàn lợn ấy sẽ giúp tôi bao nhiêu việc. Trước hết tôi phải mua một cái máy bơm nước, phải có máy.

<span class='text_page_counter'>(114)</span> bơm thì mới có thể mở rộng diện tích cây ăn quả được, anh ạ. Suốt buổi sáng, tôi đi thăm vườn tược, cây cối, đàn gia súc của anh Sức. Gần trưa hai anh em tôi ra con hào đánh cá trắm cỏ về cho chị Sức làm cơm. Tôi không được biết vào cái đận anh Sức bị kỷ luật trở về, rồi lăn ra ốm, chị vất vả ra sao? Nhưng bây giờ chỉ nhìn qua cũng biết ngay rằng chị hài lòng với cuộc sống hiện tại của mình. - Tôi đi làm ở nhà cũng lấn bấn đấy, anh ạ! - Anh Sức nói khi chúng tôi đã ngồi xuống bộ bàn ghế sa lông còn thơm mùi gỗ - Việc nhà đã bận, lại còn việc hợp tác. Thằng cháu lớn thì vừa đi bộ đội. Cũng lại được đi học lái xe. Không khéo lại giẫm phải vết chân của bố thì chẳng ra làm sao. Trước hôm cháu đi, bố con tôi thức gần hết đêm. Tôi đã nói hết lẽ đời với cháu. Cũng chẳng giấu cháu điều gì về quá khứ của mình để cháu tự rút lấy bài học mà vào đời. Nhưng có lẽ cháu nó khá, anh ạ. Điều cơ bản là nó ý thức lao động, có ý chí, có lòng tự trọng và biết tôn trọng mọi người. Hồi mới vào bộ đội, tôi đâu có hiểu biết nhiều và chín chắn được như nó. Anh trông kia kìa - Anh chỉ lên một tấm ảnh lồng trong khung kính - Tôi với bác Thân chụp chung hồi vừa học xong khoá lái xe đấy. Nom cái mặt tôi mới ghét chứ, cứ câng câng ra ấy! Tôi chăm chú nhìn bức ảnh hai người lính mà nhận ngay ra anh Sức, mặc dù anh và người lính trong ảnh chẳng còn mấy nét giống nhau. Thời gian và những nỗi gian truân vấp váp trên đường đời đã biến anh lính vô tư có đôi mắt nhìn ngước lên như thách thức với tất cả kia thành một người từng trải, dày dạn và rất hiểu mình. Đôi mắt của người đang ngồi trước mặt tôi đã thoáng xuất hiện sự mệt mỏi như đôi mắt của một người vừa đi bộ qua một chặng đường nhiều đèo dốc. Tuy vậy, đôi mắt ấy vẫn ấm áp, nhân hậu, tự tin và đôi khi vẫn ánh lên những tia sáng của một nghị lực sắt thép mà chúng ta vẫn thường nhìn thấy trong ánh mắt của những người chiến sĩ. Khuất Quang Thụy Hồi ức của một binh nhì Thứ năm, 09 Tháng 4 2009 10:00 ...Chỉ ba phút nữa Nụ sẽ ngả vào vòng tay tôi, mềm mại như một thiên thần bé nhỏ. Thú thực trong giờ phút nghiêm trọng nhất cuộc đời ấy, tôi có thoáng nhớ đến gia đình, đến kỷ luật quân đội, đến tòa án binh, nhưng tất cả đều nhanh chóng mịt mờ đi: Chỉ ba phút nữa thôi, tôi sẽ ôm đầy vòng tay một cơ thể ấm nóng và hôn nàng mà không sợ bị thép gai cào cấu... Hồi ấy, nghĩa là cách đây tròn hai mươi năm, tôi, hai mươi tuổi cùng các "chiến hữu" của tôi đang huấn luyện ở vùng trung du Vĩnh Phú, cách thị xã Vĩnh Yên 7 km về phía núi Tam Đảo. Chúng tôi thuộc số quân trung đoàn 207 xe tăng thiết giáp. Mới nghe đến đây thôi, hẳn có bạn thắc mắc sao đã gọi là "xe tăng" lại còn "thiết giáp"? Xin thưa đó là hai danh từ khác nhau để gọi hai loại xe khác nhau. Xin cung cấp với các bạn một định nghĩa rút gọn của xe tăng: "Là một loại xe chiến đấu chạy bằng xích có tháp pháo quay tròn 360 độ". Thế nghĩa là nó khác với thiết giáp là có pháo, lại không giống với pháo tự hành là pháo của nó có thể quay 360 độ trên xe. Câu chuyện của chúng tôi hai mươi năm trước trên vùng đồi trung du Vĩnh Phú có liên quan đến cái "tháp pháo quay tròn 360 độ" ấy. Thế là chúng tôi thuộc trung đoàn 207. Tiểu đoàn và đại đội mấy thì không nhớ nữa. Đơn vị huấn luyện mà lính đến rồi đi không mấy gắn bó - chỉ nhớ rằng tham mưu trưởng trung đoàn là ông Phùng Minh, một đại úy có phong độ rất "hắc xì dầu". Và ngay tại đây, trong mùa hè nóng bỏng năm 1972 khi tiếng nổ của đại pháo ở cổ thành Quảng Trị đang âm âm vọng về réo gọi, thì chúng tôi, trên những ngọn đồi trung du đầy bóng bạch đàn đã làm nên những chuyện tày đình, để lại những kỷ niệm "ác liệt" không kém gì trận mạc. Chúng tôi đóng quân trong làng, tất nhiên rồi "quân với dân như cá với nước", cá mà rời nước thì có mà ngáp. Nhưng có một điều thuộc về quân lệnh là cấm léng phéng với con gái chủ nhà. Vả lại, chúng tôi học lái suốt ngày, về đến nhà là mệt lử, đêm phải gác xe. Bãi xe lại là xe tăng, tất nhiên không thể để trong làng mà ở trên đồi. Đơn vị tôi chọn được một địa điểm rất hay. Số là, quả đồi bạch đàn ấy trước đó đã có một hàng rào kẽm gai. Hôm tìm địa điểm, ông đại đội phó bảo thằng Bá Hùng đi trinh sát. Trở về, hắn thì thầm với bọn tôi rằng bên kia hàng rào có rất nhiều "ami xinh tươi" mặc quân phục. "Mẹ.

<span class='text_page_counter'>(115)</span> kiếp! đóng bãi xe ở đấy thôi chớ đi đâu nữa". Sau đó, chúng tôi làm mặt lạnh kéo tới gặp đại đội phó, giơ tay chào theo kiểu quân sự và báo cáo rằng, đây là một địa điểm đóng quân mang tính chất chiến lược, chiến thuật, rằng có thể tiến công phòng thủ đều tiện lợi v.v... và v.v... Khi đại đội phó hỏi: Bên kia hàng rào là đơn vị nào thì thằng Hùng báo cáo mập mờ rằng: đó là đơn vị chiến thuật, kỷ luật nghiêm, có thể là hậu phương vững chắc cho đơn vị ta. Chao ôi! Chúng tôi đâu có biết rằng bên hàng rào kẽm gai kia là cả một thế giới riêng, một đơn vị cơ yếu đặc nhiệm của Bộ Quốc phòng có vai trò cực kỳ quan trọng trong cuộc chiến tranh của cả nước và những bóng "ami mặc quân phục" kia chính là những chiến sĩ báo vụ cơ yếu được bảo vệ hết sức nghiêm ngặt. Có lẽ đây là một trong ít lần ông đại đội phó được cái đám "giặc đầu bò" là chúng tôi đối xử nghiêm túc và kính cẩn, nên ông có phần cảm động mà chấp nhận đóng bãi xe ngay trên nửa quả đồi tai ương ấy. Và với quyết định đó, ban chỉ huy đại đội bắt đầu phải chịu đựng và trả giá cho những trò ba trợ của tụi tôi. Có lẽ cái lam sơn chướng khí của đất tổ Hùng Vương được tích lũy từ thời khai thiên lập địa đến năm 1972 đã xì hơi nhập vào chúng tôi mà sinh ra các chuyện nghịch ngợm ấy chăng. Ban ngày chúng tôi phải đi tập lái xe. Lái đủ các khoa mục: Hạn chế thẳng, hạn chế chữ Z, vách hụt, vách đứng, sống trâu, cầu vệt... Đã qua các thời kỳ tậm tọe: sang số, tăng ga, xuống số, vù ga... với cái bảng cầu chì dài dằng dặc: đuôi (cầu chì đèn đuôi), hồng (hồng ngoại), hông, còi, quạt-nhờn-đồng khởi-mù pha. Tóm lại, chúng tôi có vẻ là những chú chim ra ràng đang tập bay. Chiều chiều chúng tôi xin trợ giáo được tự lái xe ra bãi, cố ý đỗ sát hàng rào, vù ga thật mạnh, ngõ hầu gây được sự chú ý của "phía bên kia". Mất hơn mười ngày như thế mà chẳng nước non gì cả. Những bóng áo binh phục mầu nhạt bó sát những eo lưng tròn lẳn vẫn chỉ thấp thoáng sau bóng cây bạch đàn đằng xa. Một lần chúng tôi đến sát hàng rào đánh bạo gọi với vào: - Này! Các đồng chí ơi! ... Và mừng rơn khi thấy có người đi tới. Nhưng té ra là hai gã đàn ông có súng, mặt lạnh như tiền, hỏi: - Các đồng chí cần gì? - À, ờ... chúng tôi xin một tý xà phòng, à quên xin ngụm nước uống, khát quá. - Ở đây không có xà phòng và cũng chẳng có nước uống đâu nhé. Nói xong, hai gã đàn ông có súng quay đi. Chà thật là "phí rượu" mấy cha hách gớm! Nói thật chứ bọn tôi đâu có sợ mấy khẩu AK báng xếp nơi tay bọn hắn. Gì chứ súng thì bọn tôi cũng có, có điều là hơi to một chút. Khẩu pháo 100ly trên xe đó, tôi mà khạc một cái thì... Nhưng chúng tôi cũng thừa biết là không thể tấn công bằng cách ấy được, phải tìm mẹo khác, nhất định phải "móc nối" cho bằng được một số "ami" mới nghe. May thay, thằng Tuấn lại có một cái đàn ghi ta. Bọn tôi tất thảy đều qua vài năm ở trường đại học nên chơi đàn cũng khơ khớ, hát cũng đúng thanh nhạc, riêng tôi lại có cả cái giọng "ôpêrêt" tàm tạm. Vậy là, trăng trung tuần vằng vặc, đồi trung du lộng gió, lá bạch đàn xao xác rụng, chúng tôi ôm đàn ngồi trên tháp pháo xe tăng thả theo làn gió nam mát rượi qua bên kia hàng rào bài tình ca Nga rất "ác chiến". "Giờ này anh về đâu hỡi người lính cũ binh đoàn... Nếu giờ này bạn hiền còn thiếu một gia đình... Có nhiều cô đẹp như ca khúc ban chiều". Mất ba đêm như thế mà không thấy động tĩnh, chúng tôi nản quá. Ban đêm không nước non gì nên ban ngày chúng tôi vặc nhau luôn luôn. Mùa trăng đang qua, khóa huấn luyện sắp kết thúc, chúng tôi biết ngày lên đường vào Nam chiến đấu không còn xa nữa. Vậy mà! Ban đầu chúng tôi chỉ chơi đàn theo kiểu "gọi tình". Ai ngờ đến đêm thứ năm, tiếng đàn thằng Hùng nghe khác hẳn, cả cái giọng "ôpêrêt" của tôi cũng rà đi lúc nào không biết. Từ trên đỉnh núi Chi-ta xa vời, mưa tuyết vẫn rơi tuyết đầy trời. Chợt nghe tin đến chân tay rụng rời. Người lính em yêu ngã ngựa rồi. Không may gãy tay rồi còn đâu lấy tay lành vuốt tóc em dài... Tất cả chúng tôi gục đầu xuống, mơ màng nghĩ đến một điều gì rất xa, về một kỵ sĩ nào.

<span class='text_page_counter'>(116)</span> đó ngã ngựa, về khoa văn trường Đại học Tổng hợp Hà Nội mà tôi mới kịp gửi thân theo học hai năm, về ngày nhập ngũ, về chiến trường Quảng Trị đang đỏ lửa mùa hè, đêm trăng vàng, sương buông đồi trung du ớn lạnh. Bỗng có tiếng vọng nghe thảng thốt. - Hát nữa đi các anh! Lập tức chúng tôi ngẩng đầu lên, thằng Hùng buông rơi cây đàn xuống cỏ: Sát hàng rào bên kia tập hợp đủ một tiểu đội chiến sĩ gái thấp thoáng dưới trăng, huyền ảo như những nàng tiên vừa bay từ trên trời xuống... ... Các bạn cựu chiến binh thân mến! Tôi nói điều này chỉ các bạn mới hiểu và tin chúng tôi, rằng: Ngay trong đêm đó, cái đêm huyền thoại, khi tiếng đàn nức nở lặng đi và những cái bóng eo lưng mặc quân phục mầu cỏ úa nhạt hiện ra bên hàng rào. Chúng tôi đã đến, đã nói chuyện và dường như đã quen nhau từ lâu lắm rồi, đã tìm nhau lâu lắm rồi, dường như chúng tôi đã yêu nhau. Hai đội binh đều áp sát hàng rào kẽm gai, từng đôi một xoắn xuýt tâm sự - như chúng ta thường nói là không biết mệt mỏi. Tôi mạnh dạn cầm tay "người chiến sĩ gái" dành cho tôi. Mãi đến cuối buổi, tôi mới biết được tên thật của nàng là Nụ. Lạ lùng thay, Nụ không có ý định rụt tay lại. Cổ tay Nụ tròn và mát. Tôi nhìn rất lâu vào cái cổ tay ấy rồi ngước lên thấy Nụ cười, một nét cười hiền lành và say đắm, mà sau này suốt hai mươi năm qua tôi không hề tìm thấy bất cứ ở đâu dưới gầm trời này. Bên cạnh tôi lúc đó cũng đầy tiếng thì thào khe khẽ và cảm động của bọn thằng Bá Hùng, Hoàng Sâm, Quốc Tuấn. Trong ánh trăng vằng vặc diễn ra một cảnh tượng hết sức kỳ dị trông như một vũ điệu huyền ảo: Tám đôi trai gái cầm tay nhau qua hàng rào kẽm gai mắt cáo mà cứ trân trân nhìn nhau, không thể nhúc nhích được vì các vòng kẽm gai sắc nhọn như những chiếc vòng khóa chặt các đôi tay. Đêm ấy, khuya lắm chúng tôi mới rời nhau ra, không phải vì buồn ngủ hay mệt mỏi mà vì trời đang rạng dần. Cũng phải mười năm sau tôi mới hiểu vì sao các cô gái cơ yếu đó có thể chấp nhận tình cảm nhanh chóng và nồng nàn đến thế. Các bạn có tin được không, cái cảnh cầm tay nhau như chuẩn bị khiêu vũ ấy tái diễn đến bảy đêm. Bọn chúng tôi, ban đầu do nghịch ngợm, đến thời gian sau nghe các cô kể chuyện mới thấy thương thương và mủi lòng thực sự. Chúng tôi hôn nhau qua hàng rào. Nụ của tôi nước mắt chứa chan. Tôi loay hoay xoay xở mãi mà không có cách gì ôm được nàng. Nụ cho biết, các cô phải làm việc dưới một chế độ kỷ luật rất nghiêm, vì như tôi nói từ đầu, đấy là một công việc cực kỳ quan trọng và tuyệt mật. Mỗi tháng các cô mới được ra khỏi hàng rào một lần và phải đi cùng nhau, hạn chế tiếp xúc với người ngoài, phải về trước giờ điểm danh buổi tối. Thường thì khi xuất ngũ hay phục viên các cô được giải quyết đồng loạt và ngay sau đó Bộ Quốc phòng thay mã khóa cơ yếu để đề phòng bị lộ. Đấy, tình yêu của bọn chúng tôi nằm trong tình thế nghiệt ngã như vậy đấy. Tôi thì không tin rằng sẽ còn đóng quân tại đó cho đến cái buổi mà Nụ của tôi được ra ngoài hàng rào. Tình hình chiến trường đang nóng như cơn sốt. ở Quảng Trị giặc đã phản công tái chiếm thành cổ. Bộ binh chiến đấu thiếu hỏa lực đột kích nên rất gian nan. Đơn vị hối hả hoàn thành các khoa mục cuối cùng. Đến những ngày cuối cùng tôi cuống lên. Tôi khao khát được một lần, một lần thôi ôm Nụ vào lòng, quàng tay vòng qua cái eo lưng mặc quân phục nổi lên đường cong đẹp như một thiếu nữ trong hội họa Phục Hưng. Tôi giống như chú nghé con bị nhốt trong chuồng vươn cái cổ khát khao với tới đám cỏ mới nhú lên sau những đêm mưa. Một lần thôi rồi chết cũng được. Tôi quyết định đột nhập doanh trại đơn vị cơ yếu đặc nhiệm. Nghe tin này thằng Hoàng Sâm và Bá Hùng xúm lại can, các hắn vẫn chưa quên được bộ mặt băng giá của hai gã đàn ông khoác súng dạo nọ. Nhưng chí tôi đã quyết, không ai có thể ngăn cản được. Chiều hôm ấy, tôi đánh xe về đậu sát hàng rào húc đổ một cây bạch đàn. Mặc, tôi không sợ, có húc đổ một cây chứ mười cây tôi cũng húc. Tôi hồi hộp chờ trời tối: Thằng Sâm và thằng Hùng hứa giúp tôi. Phần tôi, tôi tranh thủ xác định lại hướng tiến đến cái "ki ốt" mà đêm đêm Nụ vẫn trực ca từ 20 đến 21 giờ. Màn đêm buông xuống, lạy trời, đêm hạ tuần trời tối đen. Tôi đang đứng bên hàng rào.

<span class='text_page_counter'>(117)</span> dõi mắt về phía sâu trong doanh trại đến chỗ có mấy ánh đèn thắp ắc quy rồi. Trong đêm tối, cái tháp pháo quay chầm chậm nửa vòng trên xe rồi lặng lẽ gác cái nòng 100 ly đen trũi, lạnh buốt ngang qua hàng rào. Tôi lẩy bẩy ôm cái ống thép dài ngoằng ấy bò lên, vượt qua trên đầu hàng rào, rồi thả tay rơi xuống. Mọi việc đang tiến triển tốt đẹp. Tôi đang ở phía trong bờ rào, thuộc vùng cấm địa. Thằng Sâm đang quay cái nòng pháo trở ra. Chỉ ba phút nữa Nụ sẽ ngả vào vòng tay tôi, mềm mại như một thiên thần bé nhỏ. Thú thực trong giờ phút nghiêm trọng nhất cuộc đời ấy, tôi có thoáng nhớ đến gia đình, đến kỷ luật quân đội, đến tòa án binh, nhưng tất cả đều nhanh chóng mịt mờ đi: Chỉ ba phút nữa thôi, tôi sẽ ôm đầy vòng tay một cơ thể ấm nóng và hôn nàng mà không sợ bị thép gai cào cấu. ... Em ơi rất có thể Anh chết giữa chiến trường Đôi môi tươi đạn xé Chưa một lần biết hôn Tiến lên, hỡi hiệp sĩ Tankistơ! Tôi thì thầm hô khẩu hiệu. Sau lưng tôi, cả hai thằng Sâm và Hùng đều áp người vào hàng rào giục: "Nhanh lên". Và tôi tiến lên đến gần chỗ có ánh đèn hắt ra. Trong đêm cái ki ốt trông rất kỳ lạ, ma quái. Tôi ghé mắt nhìn qua kẽ hở và chợt bàng hoàng: Nụ đang ngồi nhận mật mã giữa một vầng sáng trắng ánh điện và vô số những máy móc rất lạ mắt. Em ngồi đó như thiên thần mất ngủ! Tôi thì thầm nhẩm một câu thơ không biết của ai hay là tôi mới nghĩ ra, rồi thu hết can đảm gõ vào cánh cửa. Mọi việc diễn ra sau đó tôi không đảm bảo là nhớ hết, nhưng cái cảm giác thì bây giờ đã hai mươi năm trôi qua tôi vẫn còn nhớ, và mỗi lần nhớ đến tôi lại ớn lạnh. Đèn vụt tắt cánh cửa sắt bật mở nhanh và mạnh hơn tôi tưởng. Nụ xuất hiện trong bóng tối với bộ mặt đen thui cùng với khẩu súng nhỏ chĩa thẳng vào mặt tôi: - Ai? đứng im, giọng hô sắc nhọn như một mũi kim. Tôi cứng người hoảng hồn: - A... Anh đây... Tư... ờng. - Trời ơi, anh Tường. Chết mất thôi, anh chạy nhanh đi không người ta bắn chết bây giờ! Tôi lắp bắp: - Nụ, anh yêu em, cho anh... - Biết rồi, anh chạy nhanh đi, anh vào đây bằng lối nào, mẹ ơi, cứu anh ấy với! Tôi hoảng cả hồn, sợ gần chết, không biết trời đất là gì nữa. Nụ đút súng vào lưng quân phục dùng cả hai tay xô mạnh vào vai tôi, nhưng đã muộn: "Báo động". Phía đằng sau vang lên những tiếng thét giật giọng, tiếng AK lên đạn, tiếng con chó béc giê gầm lên. Tôi chạy cuống cả chân tay. Đây rồi hàng rào kẽm gai, cái nòng pháo đang quay rất chậm. Đã nghe tiếng bước chân rào rào, ánh điện đèn pin loáng thoáng. Tôi cuống cà kê định lao đầu vào hàng rào nhưng lập tức dừng ngay lại, hàng rào mắt cáo rất dày và là một thứ kẽm gai rất sắc. May thay, cái nòng pháo đã hạ xuống, tôi bật người đu lên nhưng lại buột tay. Đêm, sương xuống ướt đẫm khối thép, cái chỗ tôi đu tay vào lại dính một tý mỡ trơn nhẫy. Tôi nhảy hai lần và thở phào co người lên. - Đứng lại, giơ tay lên! - một ánh đèn pin chiếu thẳng vào lưng tôi, thốt nhiên cái "cần trục" ngưng lại. Tôi thét: - Quay nhanh lên Sâm. - Pằng! Tôi lạng người, mắt hoa đom đóm, trong tia chớp hiểm nghèo vừa vượt qua, tôi còn kịp nghĩ rằng mình đã chết và buông tay cho người rơi xuống ngay sát hàng rào. * * * Nếu không có lệnh cấp tốc lên đường chiến đấu ngay sáng hôm sau, chắc chắn tôi đã phải ra tòa án quân sự và lãnh vài năm tù giam. Chỉ huy đã bảo vệ tôi và ký vào tờ cam kết với đơn vị bạn rằng, đó chỉ là trò trai gái thông thường. Mặc dầu vậy, trong vòng hai.

<span class='text_page_counter'>(118)</span> tiếng đồng hồ, quân báo đã lục tung cái sơ yếu lý lịch ba đời ăn củ chuối của gia đình tôi rồi mới tạm yên tâm cho tôi lái xe tăng vào Nam. Giây phút cuối cùng khi chuẩn bị lên đường, không cầm lòng được chúng tôi đã đến bám vào hàng rào gọi toáng lên, và các em đã đến. Cơn choáng "vượt rào" còn chưa qua, nghe chúng tôi thông báo lệnh đi chiến trường, các em bàng hoàng. Nụ, nước mắt đầm đìa cầm tay tôi khóc mãi điệp khúc: - Tha lỗi cho em, tha lỗi cho em... Giây phút ấy tôi có nhìn thấy những chiến sĩ cảnh vệ ban đầu. Họ ý tứ đứng xa nhìn lại. Mãi sau mới đến gần chào chúng tôi và nói lời thông cảm với vẻ mặt hết sức thân thiện. Thế là chúng tôi đi, khi lái xe lên tàu ở ga Vĩnh Yên chúng tôi mới nhớ ra rằng, chưa hề biết quê hương các em ở đâu và hòm thư của đơn vị các em. Cả một lời hẹn ngày về cũng không thằng nào kịp nói - thật là "ngu lâu" cả một bọn! ... Rồi, chiến trường đẫm máu cuốn chúng tôi đi... * * * Hỡi các em Nụ, Quang, Lài, Bích, Lâm... hiện giờ các em ở đâu? Đang là một phụ nữ nông dân lo toan miếng cơm, manh áo cho chồng con, vui vầy với khói lam chiều, giàn mướp, mái gianh, đang là một chủ sạp hàng chợ Châu Long, Đồng Xuân nào đó hay đã trở thành mệnh phụ, phu nhân một bộ trưởng, thứ trưởng, cục, vụ, viện nào đó? Dù các em đang là ai, phục vụ đức ông chồng nào cũng xin các em một phút - một phút thôi như buổi chia tay năm nào lên đường vào Nam đánh giặc - nhớ đến chúng tôi, những chú lính lái xe tăng nghịch ngợm nhất dưới gầm trời này. Những người lính thuộc trung đoàn huấn luyện 207 đã cùng các em làm nên những chuyện động trời mùa hè năm 1972 trên đồi bạch đàn Vĩnh Phú. Chúng tôi, hai mươi năm qua như Hoa Xuân Toàn, Phùng Anh Dũng, Nguyễn Tự Chính đã ngã xuống ở chiến trường như những hiệp sĩ chết vì quê hương và người đẹp. Có người bị thương cháy hết mặt mày đã lui về làm vườn, vào hội chiến binh vùng sơn cước. May thay chưa có ai chết vì trụy lạc xa hoa. Chúng tôi vẫn là những Hoàng Sâm, Quốc Tuấn, Mạnh Tường, Bá Hùng tuyệt diệu của các em. Tuy đuôi mắt có nhiều nếp nhăn, râu ria có mọc ra rậm rạp, nhưng trái tim chúng tôi vẫn trẻ trung, vẫn nguyên vẹn đến hoang sơ những kỷ niệm ngọt ngào với các em, cả mùa hè đầy lo âu khi là Tankistơ trên đồi Vĩnh Phú. Vĩnh biệt những người bạn gái tốt nhất trên đời, hẹn gặp lại sau hai mươi năm nữa, như thể hai mươi năm qua chúng ta đã không thể gặp nhau.. Chị dâu Thứ năm, 02 Tháng 4 2009 16:05 Chị đã mất - chú về ngay". Sau chuyến đi công tác ở thành phố Sài Gòn về, bức điện của ông anh trai như một cú sét làm tôi bàng hoàng... Là con trai út trong một gia đình đông anh em, sự ra đi mãi mãi của những người trên là lẽ tự nhiên. Nhưng cái tin về người chị dâu cả mất đi là điều tôi không bao giờ ngờ tới. Không ai có thể quen được với sự vắng bóng của những người thân yêu. Với tôi, từ khi còn thuở ấu thơ, chị là người chị gái, người mẹ, là cô tiên dịu hiền với những khả năng vô biên, là người không thể vắng bóng trong cuộc đời... Tôi vội vã lên chiếc xe sớm nhất về quê. Chiếc xe khách ì ạch đỗ tại chợ huyện, tôi quầy quả xách túi, thả bộ trên con đường về làng. Quê tôi nghèo, nằm ven sông Hồng, lại là vùng đất giữa, mỗi lần đi chợ phải dậy từ tờ mờ sớm. Tôi bồi hồi đếm từng bước chân. Nhớ đến ngày nào vẫn hay theo chị đi chợ. Mẹ tôi bảo: "Mày theo chị làm gì cho quẩn chân?". Tôi thì cứ nhõng nhẽo đòi theo. Còn chị thì cưng chiều tôi nhất nhà, sẵn sàng đáp ứng những đòi hỏi rất trẻ con của tôi. Chị gánh trên vai một gánh khoai nặng mà vẫn.

<span class='text_page_counter'>(119)</span> đi nhẹ nhàng, miệng nhai trầu bỏm bẻm. ở quê tôi, các cô gái đã có chồng rồi đều ăn trầu. Có lần đi chợ sớm, tôi gà gật, lẽo đẽo chạy theo chị. Tới lúc tôi mỏi chân theo không kịp, chị cõng tôi trên vai và tôi thì ngả đầu trên bờ vai chị, ngủ ngon lành cho tới chợ. Sau này lớn lên, dù đã đi dọc ngang đất nước, mỗi khi bước chân trên con đường đê về làng, lòng tôi vẫn hối hả, gấp gáp, tưởng như mình bé lại. Với tôi, làng quê gắn bó với những kỷ niệm thuở ấu thơ, gắn bó với hình ảnh chị. Người phụ nữ mảnh mai luôn nhai trầu tươi rói, có sức mạnh dẻo dai đến kỳ lạ và tấm lòng mộc mạc thơm thảo như khoai, sắn. ít ai thấy người phụ nữ tần tảo ấy ngơi tay từ sáng cho đến tối khuya. Không, tôi không tin. Những người như chị không thể mất. Chỉ chút nữa thôi khi về đến nhà, tôi sẽ gặp lại chị đứng ở đầu ngõ với câu hỏi muôn thuở: "Chú đã về đấy ư". Câu hỏi quen thuộc thay cho lời chào của chị không tỏ ra vồn vã, không khách sáo nhưng âm điệu của giọng nói bao giờ cũng làm khóe mắt tôi cay cay. Tôi biết, từ trong nhà chị đã nhìn thấy tôi từ xa, chị ra đón tôi ở cổng để tỏ nỗi vui mừng bằng một câu hỏi rất mộc mạc. "Khoai luộc và mật ong phần chú trong chạn ấy". Lần nào cũng vậy chưa cần hỏi thăm, chị đã có một thứ gì đó phần tôi. Khoai lang là đặc sản vùng quê tôi, củ lớn, vỏ đỏ au, khoai luộc lên, bẻ ra bở tơi, hạt lấm tấm mịn màng như hạt phù sa, ăn vào ngon ngọt như tấm lòng thơm thảo của người dân quê. Tuy đã được nếm nhiều món cao lương mỹ vị ở đời nhưng bao giờ tôi cũng ăn không biết chán món khoai lang chấm mật ong chị dành phần tôi. Với chị, tôi luôn luôn vẫn là đứa em bé bỏng ngày nào. "ăn xong đi tắm đi, quần áo để đấy chị giặt cho". Câu nói ấy sao giống của mẹ tôi thế. Mẹ tôi và chị, hai người phụ nữ gắn bó với nhau, giống nhau kỳ lạ. Cây đa đầu làng như một già làng với bộ râu tua tủa quanh thân đã chờ đón tôi từ đằng xa. Bóng đa mát rợp một khoảng đất rộng lớn, chồm ra cả những thửa ruộng mới cấy. Cây đa cổ kính khiến mỗi lần tôi đi qua phải dừng lại một phút như để trút hết bụi trần trước khi trở lại là đứa con của dân làng. "Chú đã về đấy ư?" Tiếng gió thoảng qua như tiếng chị khiến lưng tôi ớn lạnh. Ngôi mộ của ai nằm kia mà còn nguyên mầu đất, vòng hoa chưa kịp héo. Không lẽ chị tôi nằm đấy ư? Không, tôi không tin, chỉ ít phút nữa về đến nhà chị sẽ đón tôi ở cổng như những ngày nào. Tôi tập tễnh bước lòng thầm mong bức điện kia chỉ là sự lầm lẫn. "Chú về đấy ư?". Lòng tôi run lên, chân tôi muốn khụy xuống khi đón tôi không phải là chị mà là anh trai. Như một sự vô tình anh lặp lại câu hỏi của chị mỗi khi tôi về. Hay giờ đây anh thay chị thể hiện tình cảm mộc mạc với đứa em trai? Tội nghiệp, mới đó mà anh tôi đã già xọp, lưng còng xuống, đôi mắt ngơ ngác như gà lạc mẹ. Anh vẫn chưa quên với sự thiếu vắng bóng hình chị. Anh nắm lấy tay tôi, mái tóc bạc trắng rung rung "Chị mất rồi em ơi, khổ anh quá".. * *. *. Ngày ấy, tôi còn nhỏ xíu, tôi ngạc nhiên thấy hôm ấy nhà tôi ai cũng bận rộn, vui vẻ, tôi nhõng nhẽo bám theo anh trai, khuôn mặt tươi rói trong bộ quân phục mới. Mấy hôm trước nghe anh nói sắp vào nam chiến đấu, mẹ đã khóc suốt. Vậy mà, sao hôm nay cả nhà vui thế? Anh cười dí tay vào trán tôi: "Em sắp có chị dâu". Tôi nhăn mặt. Tôi không thích chị dâu. Trong ý nghĩ tôi, hình ảnh mụ dì ghẻ độc ác, người con dâu nanh nọc trong các câu.

<span class='text_page_counter'>(120)</span> chuyện kể còn vương vấn. Vả lại không có chị dâu thì tôi đã có khối anh chị rồi. Khác với trí tưởng tượng của tôi. Chị dâu tôi như một cô bé mới trưởng thành. Dường như chị mới bỏ chơi chuyền, chơi ô ăn quan để đi lấy chồng. Ngày ấy anh tôi 22, còn chị tôi 18 tuổi, ngay ngày đầu chị đã là cái cớ để chúng tôi trêu trọc. Buổi sáng đầu tiên ở nhà chồng, từ trong buồng bước ra, nhìn thấy ba mẹ tôi ngồi ở bàn uống nước, chị nhanh nhảu: "Cháu chào hai bác, hai bác mới sang chơi ạ". Rồi sực nhớ ra, chị mắc cỡ chạy vụt vào bếp. Ba tôi thì cười, còn mẹ tôi thì lắc đầu: "Con gái gì mà vô ý", chỉ có vậy mà chị ngồi dưới bếp khóc suốt. Sau đó ba ngày, anh tôi đi biền biệt. Trong nhà, ba tôi là người hay bênh vực chị nhất. Còn mẹ tôi thì vẫn hay xét nét những ngày đầu như những bà mẹ chồng nhà quê. Tôi ngồi xuống bậc cửa, lòng thổn thức. Mới đấy mà đã hơn 30 năm, chị gắn bó với gia đình tôi, đồng cam cộng khổ. Quê tôi đồng đất ít, gặt được đấu thóc phải đổi cả đấu mồ hôi. Ba mẹ tôi ngày càng già yếu, đông con. Chị là lao động chính, suốt ngày quần quật ngoài đồng. Chiều về lại túi bụi việc nhà. Riêng việc quét dọn và chăm sóc lũ em chồng là chúng tôi cũng khiến chị mệt nhoài. Chúng tôi sắp hàng chờ chị dội từng gáo nước, tắm cho từng đứa, dỗ dành lúc đi ngủ, lúc giành ăn. Tới bữa cơm, sáu đứa tuổi ăn tuổi lớn cứ rào rào như tằm ăn rỗi. Chị ngồi ở đầu nồi xới cơm, chúng tôi cứ nhấm nháy nhau, thi nhau ăn cho thật nhanh để chìa bát cho chị xới. Đến khi chúng tôi đã ăn no thì chị chưa xong một bát và nồi cơm đã cạn đáy. Có lần tôi phát hiện trong túi áo chị có một cục cơm cháy. Tôi dọa chị sẽ mét mẹ. Chị đã ôm lấy tôi và... khóc. Sau này tôi mới hiểu, mỗi bữa cơm chị chỉ kịp ăn xong một bát thì cả nhà đã ăn xong, không dám ngồi đến cuối bữa, chị phải cất cơm cháy vào túi để ăn dần. Tôi cũng có biết đâu rằng bao đêm, chị khóc âm thầm trong cảnh chồng xa vắng, chịu những lời trách móc, những quan hệ họ hàng phức tạp. Con dâu trưởng họ, với làng xóm đó là một "chức danh" chỉ có trách nhiệm nặng nề. Từ giỗ chạp, đình đám cho đến chăm sóc gia đình nhà chồng, mọi việc đều do tay chị lo liệu với một sự hy sinh âm thầm vô bờ bến. Chúng tôi lớn lên, dựng vợ, gả chồng, cũng có chị. Cha mẹ tôi già yếu mất đi cũng chị lo toan. Dường như những biến cố lớn lao trong gia đình tôi, những lúc khó khăn nhất, bao giờ chị cũng là người đứng ra đương đầu với một thái độ tự tin, bình thản. Coi như đó là trách nhiệm chính của chị. Trong bức tranh toàn cảnh của gia đình tôi nếu không có chị, chắc hẳn bức tranh ấy sẽ mờ nhạt lắm. Một lần, hồi cha tôi đã mất, tôi về thăm quê giữa lúc làng tôi đang mất mùa. Mẹ tôi đã hơn 70 tuổi. Thấy tôi về, chị mừng rỡ mổ một con gà, một con gà duy nhất còn đang đẻ. Mâm cơm chỉ có ba người, nồi cơm phía trên độn toàn là khoai. Chị xới hai bát cơm cho tôi và mẹ, giành cho mình toàn khoai. Tôi ngạc nhiên: "Các cháu đâu hết rồi?" "Ôi chúng nó ăn no đi học hết rồi". Khi chị đi xuống bếp, mẹ tôi mới nói: "Tội nghiệp con mẹ cả. Suốt một tháng nay có bữa nào nên mâm, nên bát đâu. Cả nhà chỉ có mỗi mình mẹ là được ăn cơm, còn mẹ con nó toàn ăn khoai, ăn ngô. Mẹ bảo nó: "Ráng mà ăn uống có sức khỏe còn nuôi con. Mẹ già rồi, ăn uống thế nào cũng được, chết cũng chả sao. Nó bảo: Bà chỉ nói linh tinh. Bà còn sống ngày nào, chúng con còn nhờ ngày ấy. Nó nói vậy, chứ mẹ có giúp gì được cho nó nữa đâu...". Nói rồi bà khóc. Miếng cơm nghẹn đắng trong cổ tôi. Tôi đã nghe chuyện xưa có người con dâu cắt thịt mình nuôi mẹ chồng. Nhưng đó chỉ là truyền thuyết. Còn chị dâu tôi... Khi mẹ tôi sắp mất, con cháu về đông đủ cả. Chúng tôi xúm quanh giường, chờ xem bà có trối trăn điều gì. Mẹ tôi nhìn qua con cháu một lượt rồi hỏi: "Mẹ cả đâu?". Đợi cho chị tất tả từ dưới bếp chạy lên, bà mới nói: "Các con phải thương yêu nhau, nghe lời chị cả. Nó thay mẹ". Rồi bà xòe bàn tay nhăn nheo ra bảo chị: "Con nhổ một miếng nước bọt vào tay mẹ đi, mẹ đỡ nhớ con". Một giọt nước mắt lăn trên thái dương, rồi mẹ tôi nhắm mắt..

<span class='text_page_counter'>(121)</span> Cho dù ba tôi trước kia hay trách mẹ tôi xét nét con dâu nhưng cho đến lúc chết bà vẫn là người thương chị nhất. Phải chăng sự đồng cảm phận làm dâu của người phụ nữ suốt đời hy sinh vì chồng con khiến bà hiểu và thương chị nhưng không nói ra? * * * - "Chị chú bị u ác tính, đau có ba ngày rồi mất!". Tối đó dưới ánh đèn hiu hắt, anh tôi kể, khuôn mặt của ông đại tá già suốt bao năm vào sống ra chết vẫn chưa hết nỗi bàng hoàng trước sự ra đi mãi mãi của vợ. - Tôi nghĩ lại mà ân hận quá chú ạ. Suốt hơn ba mươi năm tôi chỉ quen với sự hy sinh âm thầm của cô ấy. Tới lúc chị chú đau tôi vẫn chủ quan bởi trong ý thức tôi, chưa bao giờ nghĩ rằng cô ấy có thể ốm. Cho tới lúc bệnh viện họ trả về, tôi mới cuống lên, chả biết làm gì nữa. Trước lúc mất cô ấy tỉnh táo lắm gọi tôi ra giường bảo: "Mình nằm xuống đây với em, có chuyện này, em muốn nói với mình". Tôi chiều ý nằm xuống cạnh cô ấy. Vợ chồng già, con cái lớn hết rồi, còn âu yếm gì nữa. Nhưng cô ấy cứ ôm chặt lấy tôi hồi lâu rồi nói: "Mình à, suốt chừng ấy năm là vợ chồng, mình có giận em điều gì không?". Tôi lắc đầu mà trong lòng chỉ muốn khóc thật to. Làm sao tôi có thể giận cô ấy trong khi cô ấy đã thay tôi gánh vác mọi việc lớn nhỏ trong nhà từng ấy năm. "Em không qua khỏi được đâu. Em chỉ ân hận không chăm sóc được mình lúc tuổi già. Em có mong ước cuối cùng này, nhưng nói ra mình đừng cười em nhé". Thề có trời đất, lúc ấy tôi sẵn sàng làm bất cứ việc gì để đáp ứng được mong ước cuối cùng của cô ấy... Tôi đã vào sống, ra chết, đã có quyền cao chức trọng, đã ra nhiều mệnh lệnh... làm sao lại không thực hiện được ước nguyện cuối cùng của vợ? Vậy mà tôi đã xụm xuống, tưởng như chết giấc khi nghe cô ấy nói: "Em chưa bao giờ được nghe mình nói "Anh yêu em" cả". "Nhưng lúc nào tôi cũng yêu mình. Tôi có điều gì không phải với mình đâu?". Tôi lắp bắp. "Em biết mình thương em, mọi người thương em. Trước kia còn trẻ, mình đi biền biệt, đến khi về thì đã già rồi. Nhưng em vẫn muốn nghe một lần mình nói câu ấy". Nói rồi cô ấy ngượng ngùng áp mặt vào vai tôi khóc. Còn tôi, tôi không thể khóc được nữa. Lòng tôi tê tái đau đớn. Tôi lấy chị chú chưa kịp yêu đương, chỉ vài lần biết mặt. Đang ở trong quân ngũ lại chiến tranh ác liệt. Trước khi đi nam gia đình bảo lấy vợ cho cha mẹ yên tâm. Mình hồi ấy còn trẻ thấy nói lấy vợ cũng thinh thích. Thấy cô ấy cũng hay hay con mắt. Thế là cưới. Về sống với nhau mới nảy sinh tình cảm, mới yêu thương. Nhưng tôi đi suốt năm, suốt tháng, mỗi lần về phép vợ chồng lại thấy ngượng ngùng như lần đầu mới gặp. Đến khi vợ chồng mới quen hơi, bén tiếng thì lại hết phép. Khi về hưu được ở gần nhau thì đã thành bà, thành ông rồi. Còn âu yếm, anh em như lúc trẻ thế nào được nữa. Vả lại tôi quen tác phong quân sự rồi cứ nghĩ vợ chồng sống có nhân, có nghĩa là đủ. Cần gì lời nói. Tôi đã làm chính trị trong quân đội ba mươi năm trời, đã làm đến chức đại tá, tưởng đã hiểu về con người. Vậy mà cuối cùng vẫn chỉ là một lão già đầu trọc, chả hiểu gì về phụ nữ, về vợ mình cả. Hơn ba mươi năm chị chú mòn mỏi chờ chồng, vất vả hy sinh âm thầm chỉ mong ước nghe một câu dịu dàng khen ngợi của chồng. Và suốt đêm đó tôi cứ ôm lấy cô ấy mà thì thầm mãi câu: "Anh yêu em". Lần đầu tiên trong đời tôi mới nói được câu ấy và cũng là lần đầu tiên tôi mới hiểu thế nào là tình yêu, tình chồng vợ. Tôi cứ ôm lấy cô ấy mà kể lan man. Những điều mà lẽ ra tôi phải nói ra ba mươi năm trước. Sáng ra tôi mới nhận thấy thân thể cô ấy đã cứng lạnh, đôi môi phảng phất một nụ cười, bàn tay nắm chặt chiếc lược đã mòn vẹt. Chiếc lược làm bằng xác máy bay tôi tặng cô ấy ngày cưới. Và đấy cũng là món quà duy nhất trong đời tôi tặng vợ... Anh tôi khóc, nước mắt ràn rụa trên khuôn mặt héo hắt, mái tóc bạc trắng rung bần bật..

<span class='text_page_counter'>(122)</span> Không có gì khổ não hơn trước cảnh một ông già khóc vợ. Khóc khi hiểu ra giá trị thực của tình yêu, khi nó không còn nữa. Khóc cho nỗi ân hận xót xa trước những lỗi lầm mà mãi mãi không lấy lại được. Tôi lập cập thắp nén nhang trên bàn thờ chị, đứng tựa lưng vào tường. Nhưng đâu phải chỉ mình anh tôi có lỗi. Sự xa cách, cuộc chiến tranh đã cuốn hút tâm trí con người. Nó bắt buộc người ta phải dồn nén tình cảm cá nhân, tạm gác một bên những mong ước đời thường. Cuộc chiến tranh đã làm bao người ngã xuống, để lại bao nỗi đau và cuộc chiến ấy cũng tạo nên biết bao những anh hùng. Nhưng phía sau những anh hùng ấy là những người phụ nữ như chị dâu tôi. Họ yêu thương, mòn mỏi trông chờ, hy sinh tất cả. Họ không cần đến những tấm huân chương, những chức vị mà chỉ ước ao một câu nói dịu dàng của người chồng... Hoàng Tuấn Bên bờ những dòng chảy Thứ năm, 26 Tháng 3 2009 13:58 Quê tôi có ba con sông giao nhau tạo nên năm bãi bồi và một ngôi làng nhỏ. Ông tôi bảo những bãi bồi đều mang hình dáng của các linh vật như doi đất phía nam là đất Phượng, bãi sú phía tây bắc là hình Rồng, gò đất phía đông nam là hình Lân, dải cát phía tây nam mang hình Ngựa, bãi ngô đằng đông bắc là đất Rùa, cả năm linh vật đó chầu về làng, do vậy làng này được coi là linh địa. Ngôi làng linh địa đã sinh ra bó tôi ấy trải qua những thăng trầm của lịch sử như con đò mắc lại ngã ba sông, cũ kỹ, mộc mạc chẳng hy vọng có ngày bừng thức dậy để trở thành một thị tứ. Ký ức nhắc nhở tôi có những buổi chiều tuổi thơ ông đưa tôi ra bến sông, chỉ cho tôi thấy những dòng nước chảy đi muôn nơi và bảo: “Nước sông ở quê thì đỏ, ra đến biển lại xanh cũng như đời mỗi người là một dòng chảy nhỏ, khi ra đến biển lại hóa cái hư vô xanh thẳm rong cõi mênh mông vô cùng” Ông tôi có hai đời vợ. Người vợ đầu của ông sinh được một trai là bố tôi bây giờ, sau đó bà bệnh rồi mất, ông phải gá nghĩa với bà hai. Bà hai cũng chỉ sinh được một mụn con là chú Nghĩa rồi bỏ ông mà đi. Ngày ấy bố tôi mới lên mười tuổi còn chú Nghĩa lên bảy. Bố tôi là anh nên phải nhận về mình phần vất vả nhưng không vì thế mà ông bỏ dở việc học hành. Chú Nghĩa được chiều chuộng nhưng ngay từ hồi còn bé chú đã tỏ ra không có chí đèn sách. Bố tôi đỗ Cao đẳng sư phạm, ông nội mổ lợn khao làng, trong lúc vui rượu với các cụ, ông bảo: “Thằng Nghĩa mà đỗ đại học nữa tôi khao gấp ba thế này” Nhưng chú Nghĩa chỉ học hết lớp bảy thôi. Ngày bố tôi vào trường chú cũng theo người ta thoát ly đi làm công nhân. Bố tôi học được một năm thì viết đơn tình nguyện vào chiến trường. Ông tham gia chiến đấu được một trận duy nhất rồi bị thương và quay trở về trường cũ tiếp tục học. Tốt nghiệp, bố tôi được điều về nhận công tác ở một trường cấp hai ngoài thị trấn. Thế là ông nội tôi chính thức có một người con được nhập hộ khẩu ngoài huyện. Bố tôi dạy môn văn, sử, được nhà trường phân cho một căn hộ tập thể cấp bốn, có cả một mảnh vườn nhỏ trước cửa nhà. Chú Nghĩa đang làm công nhân thủy lợi, mỗi ngày đội của chú phải đắp 100 mét đê, cứ chiều thứ bảy chú lại nhảy xe về chỗ bố tôi. Chú rất thích ăn phở và uống cà phê. Ngày ấy bố tôi thường đưa chú lên cửa hàng ăn uống số 1 ở Ngã năm để mua vé phở và vé cà phê cho chú. Chủ bảo ở dưới xí nghiệp chỉ toàn ăn bánh bột mì, đến tháng lương không được nhận tiền mặt nên thèm nhiều thứ lắm. Bố tôi hồi đó đồng lương có đều đặn hơn, lại thương chú lao động chân tay vất vả nên nhiều chủ nhật hết tiền bố vẫn phải vay mượn bạn để mua đủ cho chú mộtvé phở và một vé cà phê. Thời ấy người ta chưa nói đến kinh tế thị trường như bây giờ, bố tôi cũng không dạy thêm dạy nếm gì được. Chú Nghĩa thì mong ngày mong đêm giật được cái danh hiệu ba năm liền là chiến sĩ thi đua để chuyển sang đội chăn trồng. Ở xí nghiệp của chú đội chăn trồng là khá hơn cả, mặc dù vất vả cũng không kém gì đội đê điều, đội máy bơm, đội đóng gạch hay đội vận tải. Có lẽ vì chăn nuôi và trồng trọt trực tiếp làm ra những sản phẩm ăn được, mà ngày ấy thì người ta chưa được ăn ngon như bây giờ nên.

<span class='text_page_counter'>(123)</span> cái gì cũng thấy thèm. Bố tôi lấy vợ và sinh tôi vào ngày giải phóng miền Nam. Chú Nghĩa còn có con trước bố tôi, nghe đâu đó là kết quả mối tình đầu của chú ở đội chăn trồng. Chú Nghĩa bị kiểm điểm về chuyện đó, sau tổ chức cũng lờ đi cho. Năm đứa bé lên bốn tuổi, chú Nghĩa đón nó về nuôi để mẹ nó đi lấy chồng. Chú Nghĩa gửi thằng Lực (tên đứa con chú) nhờ bố mẹ tôi nuôi hộ. Thế là tôi và thằng Lực được ở với nhau từ bé. Thằng Lực hơn tôi một tuổi nhưng bị đúp năm lớp hai nên xuống học cùng lớp với tôi. Khi tôi và thằng Lực học lớp ba thì chú Nghĩa lấy vợ và được chuyển về Ban Thủy lợi huyện. Vợ chú là con gái ông phó giám đốc sở, nghe đâu chú lấy người ấy là vì cô ta có nhiều thịt hộp và sổ lương thực ưu tiên loại A. Chú chuyển về thị trấn, cách nhà toi không xa, hôm đón thằng Lực về chú bảo: “Lấy mẹ mày thì không bao giờ thoát khỏi được cái đội chăn trồng ấy, thôi con trai bố vui vẻ về ở với mẹ kế, có đủ thịt hộp cho con ăn đến năm mười tám tuổi” Năm tôi vào cấp ba thì chú Nghĩa bỏ cơ quan về thu mua sắt vụn. Chú là con rể ông phó giám đốc nên mua được rất nhiều bãi sắt rẻ. Thằng Lực không vào được cấp ba đành xin vào trường bổ túc. Tôi với nó thường đi học ngược đường nhau. Vào đến năm lớp 11 tôi vẫn còn mặc lại quần của bố còn thằng Lực thì đã ra dáng một thanh niên thành thị. Mẹ kế nó chỉ đẻ được hai đứa em gái nên nó là cục vàng của gia đình. Nó đi học mà mùa hè thì áo sơ mi màu, quần ngoại, dép xăng đan, mùa đông thì áo lông Nam Triều Tiên, quần bò, giầy Môka múi khế. Thỉnh thoảng nó gọi tôi lại, dúi vào tay tôi thanh sôcôla hoặc thỏi kẹo cao su. Những thứ nó cho, tôi thường để trong cặp, chờ đến lúc về nhà mới mở ra ăn. Bố tôi đã lên đến chức hiệu phó của trường, còn mẹ tôi là giáo viên dạy cấp một. Thời gian này kinh tế gia đình tôi neo bấn lắm. Tôi còn một đứa em gái nữa, học rất giỏi nhưng gầy như que sậy, gân xanh nổi rõ ở cẳng tay. Chú Nghĩa không còn đến nhà tôi sau đận to tiếng với bố. Nguyên do rất đơn giản. Chú Nghĩa hay chở bố tôi về quê thăm ông nội (lúc này chú đã có chiếc xe 79 - 50 màu xanh) nhưng lần nào chú cũng mang theo một gói quà to tướng, còn bố tôi chẳng có gì, thỉnh thoảng mang được mét vải. Một lần về quê, bố tôi gặp lại bạn cũ, đồng thời cũng là bạn của chú Nghĩa. Bố tôi mời ông ta lên thị trấn chơi, chú Nghĩa vô tâm bảo: “Ra phố ông cứ đến nhà tôi, nhà anh Tình (tên bố tôi) chật chội lắm, điều kiện cũng còn khó khăn”. Hôm ấy về bố tôi bảo chú Nghĩa là ăn nói quen thói quân vô học, sỉ nhục anh mình, khoe cái giàu cơ hội, thực dụng mà không biết liêm sỉ. Chú Nghĩa thấy nóng mặt, quay ra bảo bố tôi là sĩ, là bảo thủ, là hủ nho. Từ ngày ấy thỉnh thoảng chú mới đến, bố tôi cũng tuyệt nhiên không nhắc gì đến chuyện cũ nhưng ông không nhận bất cứ một sự giúp đỡ nào của chú. Tôi với thằng Lực thành ra phải chơi với nhau một cách dấm dúi. Một lần thằng Lực cho tôi đôi dép xăng đan cũ, bố tôi biết được ông đay nghiến tôi suốt một tuần liền, cho đến khi tôi phải vứt đi mới thôi. Ông bảo cái giàu trền nền tri thức mới đáng tôn thờ, còn những kẻ trọc phú thì nên coi khinh. Nhưng ông cũng không giấu được tiếng than hờn tủi khi gom góp mấy năm tiền lương mới mua được chiếc xe đạp. Trong khi đó chú Nghĩa đã mua thêm hai đám đất bên cạnh nhà để làm bãi tập kết sắt vụn. Chú còn bắt nợ một cái ô tô con màu sữa, thỉnh thoảng tôi vẫn nhìn thấy chú ngồi nghễu nghện trong đó. Tình cảm giữa tôi và thằng Lực không hề bị ảnh hưởng bởi mâu thuẫn của bố và chú Nghĩa. Có lẽ vì chúng tôi còn trẻ con quá, lại có chung tuổi thơ êm đềm, đẹp đẽ nên vẫn chơi thân với nhau. Năm lớp 12 thằng Lực đã biết hút thuốc lá và đi xe máy rất thạo. Mỗi khi tôi đến nhà nó chơi, bố mẹ nó tỏ ra quý tôi lắm. Tôi có cảm giác cả gia đình chú Nghĩa đang cố gắng bù trì những thua thiệt vật chất cho tôi, sợ rằng nếu không sẽ chẳng còn cơ hội nào nữa. Nhưng tôi không dùng được thứ gì của nhà chú Nghĩa cả. Thấy tôi mặc quần áo mới nhất định bố tôi sẽ hỏi, giầy dép cũng thế, đồng hồ, thắt lưng da, thậm chí cả chiếc cặp sách ngoại tôi đều phải gửi trả lại. Vợ chú Nghĩa thương tôi chỉ biết gắp thật nhiều thức ăn vào bát cho tôi, còn chú Nghĩa thì ngả người vào thành ghế hút thuốc, khuôn mặt tư lự, trầm tư không biết là mải lo làm giàu hay đang nghĩ về tình anh em giữa chú và bố tôi? Tất nhiên chú Nghĩa còn có thể giúp tôi bằng cách cho tôi tiền. Tôi tiêu những đồng tiền ấy một cách bí mật và dè sẻn. Thỉnh thoảng tôi cho cái Trà, em gái tôi, cũng có lần tôi đưa cho mẹ tôi khi bà đi chợ. Nhìn chung suốt quãng thời gian đi học tôi luôn ở trong tình trạng yếm thế. May có kết quả học tập kéo lại nên trong con mắt của thầy cô và bạn bè, tôi vẫn còn được ghi nhận ở một khía cạnh tích cực nào đó. Song tôi đã ý thức được sâu sắc cái nghèo nó gắn với cái hèn như thế nào. Chú Nghĩa bảo: “Khi.

<span class='text_page_counter'>(124)</span> nghèo đói thì người ta thèm sự đủ đầy, khi còn vô danh thì người ta thích nổi tiếng, khi thấp cổ bé họng thì người ta nghĩ đến quyền lực. Con người xét cho cùng mục đích sống vẫn là đầy đủ về vật chất và được tôn vinh về tinh thần. Kẻ bất tài thường tự bào chữa cho mình, cho rằng mình thanh tịnh, coi thường của cải phù vân, không thèm mơ tưởng đến công danh hão. Trong xã hội chỉ có ba loại người tài, đó là người giàu có, người nổi tiếng và người có quyền lực. Còn loại trí thức nhàng nhàng học được dăm ba chữ lại luôn tỏ ra mình đạo cốt phong vân, lũ ấy chú coi khinh!” Nghe ra có vẻ cách nhìn đời và nhìn người của chú Nghĩa đã không thể tránh được một sự đối đầu với bố tôi. Tôi thi đỗ một trường đại học ở Hà Nội, còn thằng Lực ghi tên học trường dân lập ở tỉnh. Thời gian này tôi đã lớn hơn, được tự chủ trong các mối quan hệ, bố tôi không còn gay gắt với việc tôi mặc trên người thứ gì, của ai, ở đâu nữa. Bố tôi cũng đã tận dụng mảnh vườn trước cửa nhà để làm nơi dạy thêm. Bố tôi dạy môn văn, không có nhiều học sinh lắm, lại phải cạnh tranh với một cô giáo trẻ vừa ra trường được phân ở căn hộ đầu khu tập thể. Trong cuộc cạnh tranh này bố tôi yếu thế hơn. Giảng về “Cỏ non” của Hồ Phương, bố tôi nói rằng nhân vật Nhẫn được xây dựng trên nguyên mẫu anh hùng Hồ Giáo ở ngoài đời. Cô giáo trẻ kia lại giảng khác, cô ta bảo nhân vật Nhẫn có tính dự báo cho sự ra đời của anh hùng Hồ Giáo. Bố tôi cho nhân vật Nhẫn là biểu tượng của lòng yêu của công, của con người mới xã hội chủ nghĩa, ý thức công dân là yếu tố quyết định đưa đến sự thành công trong mọi công việc. Cô giáo trẻ kia lại không nói thế, cô ta nhấn mạnh cái gọi là “cảm hứng trước công việc”, cho đó là cái có trước ý thức công dân và chính nó đã tạo nên hiệu quả lao động của nhân vật Nhẫn. Kỳ thi học sinh giỏi văn năm ấy không may cho bố tôi người ta lại hỏi đúng tác phẩm “Cỏ non” và học trò của cô giáo trẻ kia đã giật được giải. Từ ấy học sinh lại càng ít đến học thêm ở bố tôi hơn. Dự định sửa lại nhà của bố tôi không tực hiện được. Việc ăn học của cái Trà tốn kém quá, bố tôi lại bị bệnh dạ dày hành hạ, thành thử kinh tế nhà tôi cứ thế đi xuống, chẳng lấy gì làm dư dật. Tôi về Hà Nội học với tư thế của một học trò nghèo. Năm thứ ba, một lần tôi theo bạn bè đi đào quặng, kiếm được rất ít mà lại bị ngã bệnh, trở về trường không kịp dự ngày thi, tôi phải bỏ mất một môn. Trường tôi rất nghiêm, nếu một môn không thi sẽ bị tính điểm không, là điểm liệt, phải xuống học với khóa sau. Tôi lo phát ốm cả người. Thằng Lực lên thăm biết chuyện nó hỏi: Điểm đã công bố chưa? Tôi bảo: Chưa. Nó bảo: Thế thì anh đưa em đến nhà thầy trưởng khoa. Tôi đưa nó đi mà trong người run rẩy như một kẻ phạm tội. Ngược lại, nó vào nhà thầy giáo với một thái độ rất tự tin, điềm tĩnh, chuyện trò tình cảm mà lại rất nghi lễ. Chẳng biết trong gói quà của nó có những thứ gì mà đến khi công bố điểm tôi được bốn. Vậy là tôi không bị điểm liệt, chỉ phải thi lại lần hai, tránh được nguy cơ đúp. Cuối năm đó bố tôi được bầu bổ sung vào Hội đồng nhân dân thị trấn. Cái việc bố tôi tham gia quan trường cũng rất tình cờ. Trong đợt họp phụ huynh học sinh bố tôi gặp lại một người đồng đội cũ. Ông này có cái mũi rất to, sần sùi, răng hô nhưng cười nói trông rất sang. Ông ta giữ một vị trí quan trọng gì đó ở ủy ban. Nếu không có cuộc gặp gỡ ấy thì chắc con gái của ông ta đã không được lên lớp và bố tôi cũng chả bao giờ trở thành ông nghị dẫu chỉ là một ông nghị cấp xã. Bố tôi làm việc tích cực lắm, lại nghe đâu bảo có chiều hướng phát triển lên làm công tác chuyên trách ở ủy ban. Quản lý một cái thị trấn thì có lẽ quan trọng nhất là quản chợ. Có lần về nhà tôi thấy có mấy bà buôn luôn mồm tự nhận là “buôn bán tiểu thương” mang đồ đến biếu bố tôi. Họ nói nhiều về việc buôn bán khó khăn, về thuế má, thuế đánh cao quá nên không làm ăn gì được. Vậy mà tôi thấy người nào cũng béo tốt, hồng hào, vàng đeo đầy trên những ngón tay múp míp, ngay cả những gói quà mà họ mang theo cũng vuông vuông, tròn tròn bí ẩn một cách hấp dẫn. Với đống đồ đó bố tôi không nhận mà cũng không từ chối, ông chỉ ca cẩm là bọn họ kém ăn nói. Chắc bố tôi chưa quen với kiểu cầu thân bỗ bã ấy, ông muốn mọi việc phải được đặt vấn đề một cách tình cảm. Kẻ sĩ như ông rất dễ bị kinh tế thị trường thời nay làm tổn thương. Có một lần phụ huynh học sinh của bố tôi đến biếu ông một chỉ vàng để ông nương nhẹ điểm môn thi văn. Ông đã hạ bút cho điểm 5, người học trò ấy cũng đã yên tâm vào năm học tiếp theo, thế mà bố tôi vẫn áy náy không yên, mấy lần định mang trả. Sau gia đình cô học sinh ấy cũng biết, phải đem cô đến xin bố tôi nhận làm con nuôi, từ đấy ông mới thôi không nghĩ về chuyện đó nữa. Bố tôi tham dự được hai kỳ họp Hội đồng nhân dân thì trở nên bị cô lập. Trong các.

<span class='text_page_counter'>(125)</span> buổi họp ông hay chất vấn, lại toàn chất vấn những vấn đề tế nhị như đất đai, tài chính, công quỹ, các khoản thu chi. Hết nhiệm kỳ ấy ông không được liệt vào danh sách đề cử nữa. Vị chủ tịch gặp bố tôi bảo: “Hiệu trưởng có ý kiến với Mặt trận xin rút bác, kể ra bác không tham gia được cũng tiếc, bác là người có tinh thần chống tham nhũng lắm” Trong khi ấy chú Nghĩa có quan hệ rất tốt với cán bộ huyện. Đúng ra là họ nể chú Nghĩa vì chú chơi với cán bộ tỉnh. Biết chuyện của bố tôi, chú bảo: “Tề gia chưa xong làm sao trị được quốc. Trong nhà bố không quý, em không ưa, con không phục thì bảo ra ngoài làm sao thiên hạ họ cho cưỡi đầu cưỡi cổ chứ?” Năm cuối đại học, thằng Lực gọi điện bảo tôi về ngay. Nó đưa tôi đến quán cà phê bằng chiếc xe GL to kềnh, to càng. Khi đã yên vị đâu vào đấy, nó bảo: - Chị Trà bị thằng đểu ấy nó hại. Rất may là nó mới chỉ lột được quần áo chứ chưa làm được gì. Anh muốn em xử nó thế nào? Tôi rụng rời chân tay. Sao bố tôi lại để cái Trà quan hệ với những thành phần bất hảo như thế? Thằng Lực không để tôi kịp bình tĩnh, nói tiếp: - Em cảnh báo nhiều nhưng chị ấy dại lắm, cũng chỉ vì nhà thằng ấy giàu, mà người ta sa ngã vì sang giàu cũng là chuyện thường tình. Nhưng thôi không nói chuyện đó, anh muốn em xử nó thế nào? - Đủ yếu tố về tội hiếp dâm chưa? Nghe tôi hỏi thằng Lực cười khảy: - Nếu bố anh biết chuyện chắc cũng sẽ giải quyết theo hướng ấy, tức là sẽ ép chị Trà viết đơn tố cáo, tìm người làm chứng và chờ đợi sự công minh của pháp luật. Em tưởng anh khôn hơn chứ nếu biết thế này thì em gọi anh về làm gì, em đến báo luôn cho hai bác có phải hơn không? - Nhưng nhà nó giàu có, lại thế lực…? - Thế mà anh lại định dùng đơn thư để đọ lại à? Tiền nhà nó làm sao dày bằng tiền nhà em, thế nhà nó làm sao mạnh bằng thế nhà em, em di nó chết lúc nào mà chả được! - Thế mày định? - Phạt nó tiền, cho nó một trận để biết là đừng có động vào chị Trà. Thế thôi, còn nếu nó thích chơi tiếp, em cho cả nhà nó tiêu luôn. Sau đận ấy tôi chỉ còn biết nhắc mẹ tôi để mắt tới cái Trà hơn. Bố tôi không sao lên được chức hiệu trưởng. Về trình độ chuyên môn, bản lĩnh chính trị, thời gian công tác bố tôi đều đạt yêu cầu cả, vậy mà đã qua hai đời hiệu trưởng trẻ hơn bố tôi rồi mà ông vẫn cứ yên vị. Tôi ra trường đúng lúc nghề giáo đang mạt. Vậy mà tôi lại được xin về làm giảng dạy ở trường chính trị của tỉnh. Mẹ tôi phải nghỉ dạy để chạy chợ kiếm tiền lo cho cái bệnh của bố. Thị trấn tôi ở bắt đầu cựa mình rũ bỏ màu xám phố, du nhập những dấu hiệu của sự phồn thịnh. Lại thêm được nhà nước công nhận là thị xã, đám thanh niên choai choai tha hồ thích chí. Chú Nghĩa có một bước tiến dài trong quá trình làm giàu. Tôi cứ có cảm giác chú là người được sinh ra cho thời này, thời mà mọi khát vọng vật chất đều có thể biến thành hiện thực trong chốc lát. Chú Nghĩa không buôn bán sắt vụn nữa mà mở khách sạn. Hôm thành lập thị xã lại đúng vào ngày họp họ. Bố tôi chở mẹ về trước bằng chiếc xe đạp mà tôi vẫn dùng để đi làm. Tôi cùng thằng Lực tranh thủ đi mít tinh, rước cờ chạy lòng vòng qua mấy phố chính để mừng thị xã mới. Sau đó chúng tôi lên ngã năm ngồi uống bia. Thằng Lực bảo: “Ngày xưa bố anh thường đưa bố em lên đây mua vé phở. Bây giờ nếu anh thích em mua vé vật lý trị liệu cho anh vào tắm hơi”. Tôi cười gượng gạo: “Thôi, để dành tiền về biếu ông”. Thằng Lực thật thà: “Bố em lo cho ông chẳng thiếu thứ gì, ông chỉ than phiền là thương bác và anh”. Tôi bỗng nghĩ đến cái Trà và đêm sinh nhật vừa rồi của nó. Nó bảo tôi bằng mọi giá phải lo cho nó cái bánh ga tô ba tầng. Bây giờ nó đã là sinh viên trường Cao đẳng sư phạm rồi. Cũng xinh xắn, nhưng gầy gò, hanh hao lắm. Nó mặc chiếc áo dài trắng thấy mỏng manh, yếu ớt, con gái đang tuổi lớn mà trông cứ như ngọn rau khoai lang. Nhận lời nó rồi mà hôm ấy chẳng xoay đâu ra ba mươi lăm ngàn để mua cho nó cái bánh ga tô ba tầng. Buỏi chiều, sau khi giảng cho lớp cán bộ xã về một trong năm hình thái kinh tế xã hội xong, tôi vội chạy xuống phòng tài vụ xin ứng tiền. Tài vụ bảo lớp này tỉnh đăng cai, kinh phí đưa cả vào ngân sách cấp đầu năm nên không có tiền bồi dưỡng đứng lớp. Tôi chạy sang anh.

<span class='text_page_counter'>(126)</span> bạn bên tổ Lý luận Nhà nước - Pháp luật. May quá, anh bảo: “Bài viết hôm nọ cậu sửa hộ mình được đăng rồi đấy, tạp chí trung ương hẳn hoi, mai mình nhờ cậu xem hộ mình bài nữa nhé. Mà cần tiền thì cứ sang đây, thanh niên lúc nào chả thiếu tiền, mình biết chứ” Tôi đạp xe về đến nhà lúc trời đã nhá nhem. Cái Trà đứng ngóng ở cửa, thấy tôi vội chạy ra đón hộp bánh, giọng chờ đợi: “Bố mẹ ăn cơm rồi nhưng em chờ anh về ăn cùng cho vui, sao anh về muộn thế?” Tôi đã phải kiếm ba mươi lăm ngàn một cách khó khăn để em gái tôi đỡ tủi trong đêm sinh nhật, còn chưa bằng một cái vé vào tắm xông hơi mà thằng Lực có thể mua cho tôi lúc này. Tự nhiên tôi thấy cốc bia trước mặt mình đắng chát. Hai đứa về nhà ông thì nghe bảo họ đang họp bên nhà anh Chúc. Anh Chúc là người của chi trưởng, rất có kinh nghiệm về tổ chức họp họ. Họ tôi khá lớn, cứ ba năm họp một lần, con cháu kéo về rất đông. Trước từ đường ngay dưới bậc tam cấp có ba hàng ghế được đặt đóng từ khi tôi chưa đẻ. Hàng đầu dành cho những người có công với nước. Bố tôi là thương binh nên được ngồi ở hàng này. Hàng thứ hai dành cho các cụ 70 tuổi trở lên. Tôi đã nhìn thấy ông đang ngồi giữa hàng ghế đó. Hàng thứ ba thuộc về những người có học hàm, học vị, những chức sắc trong xã trong huyện. Tôi quan sát vẫn còn một cái ghế nữa nằm tách biệt hẳn với hàng ghế đầu, đặt ở bên phải, hơi nhô lên một chút. Tôi đoán chắc đó là ghế của trưởng ban tổ chức. Khi anh Chuác lên đọc gia phả dòng họ thì tôi thấy chú Nghĩa xuất hiện. Chú đảo mắt một vòng rồi nhẹ nhàng tiến đến cái ghế trên cùng nãy giờ vẫn bỏ trống và ngồi xuống đó. Chẳng thấy ánh mắt khó chịu nào của các cụ, ngoại trừ bố tôi, ông cứ thay đổi thế ngồi liên tục. Tan họp tôi tranh thủ ngồi nói chuyện với anh Chúc. Tôi hỏi khéo: “Chiếc ghế chú Nghĩa ngồi chắc mới đóng?” Anh Chúc đáp: “Các cụ trong ban tổ chức bảo đóng cho ông ấy ngồi để ông ấy còn biết hai chục triệu ông ấy gửi về được chi tiêu ra sao, không rồi sau này lại khó ăn nói”. Tôi ngạc nhiên: - Họp họ mọi người đều phải đóng tiền cơ mà? - Năm với mười ngàn thì đáng bao nhiêu. Ngay cả cây cầu mà xã vừa mới xây cũng là do ông Nghĩa bỏ tiền ra cả đấy. Ông ấy là trường hợp đặc biệt của họ. - Chắc xã nể chú Nghĩa lắm nhỉ? - Thì dải cát phía tây nam kia bây gờ để xà lan của ông ấy vào khai thác. Bãi sú đằng tây bắc ông ấy cũng biến thành đầm tôm. Nghe bảo đâu mấy bãi bồi còn lại rồi đây xã cũng bán cho ông ấy nốt để lấy tiền xây trường học và trạm xá. Sau lần họp ấy bố tôi bị chảy máu dạ dày phải vào bệnh viện cấp cứu. Mẹ tôi vay của chú Nghĩa một món tiền lớn để chạy chữa cho bố. Hôm bố tôi ra viện mẹ tôi bảo từ nay bà không đi chợ nữa mà đến làm cho chú Nghĩa. Bố tôi không can ngăn chỉ hỏi nhỏ: “Coi xe, tỉa cây hay dọn phòng?” Mẹ tôi bảo: “Đã bỏ nghề dạy thì tôi làm gì cũng được, chú Nghĩa chẳng đến nỗi đối xử tệ với người nhà”. Bố tôi không nói gì nữa, từ đó ông sống trầm hơn.. * *. * Căn bệnh dạ dày của làm cơ thể bố tôi kiệt đi trông thấy. Tôi đã trải qua thời kỳ tập sự, chính thức hưởng lương biên chế một trăm phần trăm. Nhưng tỉnh nghèo nên trường tôi cũng xơ xác. Tiền bồi dưỡng đứng lớp rất phập phù mà tiền ăn trưa cũng chỉ cho thêm một cách tượng trưng. Năm nay lại có ngày họp họ. Chú Nghĩa ra nước ngoài theo lời mời của một tổ chức phi chính phủ để dự hội thảo về doanh nghiệp tư nhân nên không về được. Bố tôi mắc bệnh dạ dày không thích hợp với ăn uống, cỗ bàn, cũng không muốn về. Ông tôi đã khuất núi hai năm nay, quê bây giờ chỉ còn tồn tại trong mối liên hệ nghĩa vụ với tôi và thằng Lực. Cái Trà cũng đã ra trường, về dạy hợp đồng ở chỗ bố tôi. Mẹ tôi vẫn làm cho chú Nghĩa, tiền công đủ để giữ cho cái cơ thể của bố tôi khỏi teo tóp thêm. Thằng Lực đưa ô tô đến đón tôi về họp họ. Cũng vẫn cảnh xưa, người cũ. Vắng đi một số người và thêm lên một số người. Tôi được giới thiệu một cách trang.

<span class='text_page_counter'>(127)</span> trọng là cử nhân, giảng viên chính trị của tỉnh và được ngồi ở hàng ghế thứ ba. Còn thằng Lực khoác một cái túi da bên nách đứng ở phía cuối. Một lúc sau tôi thấy anh Chúc nói nhỏ vào tai nó điều gì đó và nó tiến đến chiếc ghế mà bố nó vẫn ngồi. Tự nhiên tôi nghĩ đến bố tôi. Trong lúc anh Chúc đang đọc gia phả, giới thiệu về lịch sử dòng họ, tôi bỏ ra ngoài. Tôi lang thang dọc theo bờ sông nơi ngày xưa ông vẫn thường đưa tôi ra chơi. Thằng Lực đã nhiều lần bảo tôi về làm cho nó. Bây giờ bố nó đã mở công ty, một mình nó lo không hết việc. Nhưng tôi biết dù bố tôi không còn can ngăn nữa, tôi cũng không thể làm như vậy. Những nhánh sông ở làng tôi vẫn chảy đi trăm ngả. Ông tôi đã đi hết một dòng chảy nhỏ và bây giờ đang hóa vào cái xanh thẳm hư vô trong cõi mênh mông vô cùng. Nước sông ở quê thì đỏ mà ra biển lại xanh, ở nơi ấy, cuối cùng những dòng chảy, những người như ông tôi đã tìm thấy gì? Ngôi làng linh địa như con đò mắc lại nơi ngã ba sông, để những người như ông tôi ngồi thả hồn theo dòng nước mà nghĩ về kiếp nhân sinh. Tôi rất sợ phải ngồi lại một mình bên bờ những dòng chảy. Bởi vì tôi còn rất trẻ. Phù sa trong lòng tôi đang ngầu đỏ.. Nhà ba hộ Thứ hai, 23 Tháng 3 2009 10:44 Ngôi nhà không số. Con đường không tên. Nguyên xưa là đất vật bùn ven hồ của một xưởng than quả bàng, sau bỏ hoang, đầy bụi gai, cỏ, rác, phân, xác súc vật thối. Con đường lồi lõm hiện ra từ các vệt bánh ô tô chở hải sản sơ tán đến cái nhà kho tạm một thời. Người quanh vùng lần theo, đi bộ tắt sang khu bên kia hồ, nơi có đường lớn gần hơn vào trung tâm thành phố. Lối nhỏ luôn lép nhép bùn. Nước đọng. Những đám cỏ bánh chè. Đôi khi lác đác mấy con cuốc mỏ hồng, chân đỏ, thân đen, ăn lẫn với đám gà nhà. Đường cong như cánh tay ôm dải cúc tần sát cái hồ. Hồ cũng không tên, ba mẫu. Bên cùi chỏ cánh tay là khu tập thể của công ty thủy sản : tám ngôi nhà hai tầng. Xuân và đông nồm, nom như tám con tầu cũ rẽ sương, khói bếp mù mịt. Dải cúc tần lắm dây tơ nguyệt, mùa xuân nhả mớ tóc vàng óng phủ trên mầu xanh đông đã già. Ngôi nhà quay lưng vào đầu hồi một nhà tầng, mặt ngoảnh đón gió hồ. Nhà rộng bẩy chục mét vuông, lợp lá gồi, xưa là kho tạm chứa cá khô, nước mắm từ ga Giáp Bát về. Hết chiến tranh, kho không cần tới. Cỏ dại mọc xoá vệt ô tô, chỉ còn vệt đi bộ. Rồi người quay lại Hà Nội như kiến, công ty nhớ tới cái kho bỏ quên hai năm, cải tạo lại, lợp tấm phi-bờ-rô-xi-măng, quét vôi vàng, ngăn thành ba phần không đều cho ba hộ. Thật bất ngờ, ba chủ dọn đến đều là vợ chồng mới cưới. Một tuần, đám phụ nữ đã tường gần hết lý lịch của nhau. Tôi, thương binh phục viên, cán sự ba, phòng bảo vệ công ty, ở gian giữa. Vợ chồng anh Phạn bán lòng lợn tiết canh, cô vợ tên Xuân, con gái lớn của bà phó phòng tổ chức ở chái hữu. Vợ chồng anh Thủ, chị Huyền, cán bộ kiểm nghiệm công ty ở chái tả. Hộ cô Huyền rộng gấp rưỡi hộ của tôi và Phạn. Lý do giản đơn là nó có sẵn bức ngăn gỗ, xưa là nơi thủ kho làm việc. Được chia nhà là diễm phúc rồi. Mè nheo hơn kém vài thước vuông làm gì ! Sự giống nhau của ba hộ là ba cái cửa vào đều loại gỗ tạp, bản lề sắt luôn kin kít và hở toác trên, dưới, đón gió hồ lồng lộng thổi. Không có gió hồ thì thật không thể nằm trong cái nhà trần thấp lợp xi măng tấm bắt nhiệt như hun ấy. Lại mùa đông, khi gió heo may về, những ống tre hu hú đón gió và bụi đất lả tả bay từ vách tre trộn bùn rơm ngăn giữa hộ tôi và hộ Phạn. Trời nồm, tường sau và trước nhiễm mặn cá khô, tưa nước đọng.

<span class='text_page_counter'>(128)</span> thành hột, toả mùi khăm khẳm, khó thở. Trần bưng bằng cót, kín mà hở. Mùi của ba nhà, tiếng động cứ thông thống từ hộ này sang hộ kia. Chủ nhật, vợ chồng tôi hì hục dán giấy báo lên biên giới phía trái để che bụi. Phía phải vang lên tiếng đóng đinh cồng cộc, chan chát. Tôi đoán, anh chàng rể của công ty mới đi tây về xẩm chiều qua, da trắng nhễ nhãi phá hòm gỗ, sớm nay chắc làm xong gác xép, thừa gỗ gia cố biên giới giữa hộ tôi và anh cho vững chắc. Buổi sáng tuần thứ hai đi xếp hàng lấy nước máy ở đầu nhà A3, gặp ngay Phạn. Hắn đang rửa cái thùng to còn dính cáu mỡ lòng và tiết lợn. _ Chào ông bác ! Gớm làm gì mà chèn chắn ghê thế. Để hổng ra một tẹo cho thoáng. Đã bó rì rì các bố lại thi nhau bưng thêm. Đứa đếch nào nghe tiếng phì phò ! Em cũng như bác, lúc mải cái ấy thì để ý đến ai. Phạn bán tiết canh lòng lợn chợ cóc (1). Gã vừa nói vừa đổ ào thùng nước đầy bọt mầu hồng lênh láng khắp mặt đất. Mắt nháy với tôi nom vừa trải vừa bất cần. _ Ấy, mình che chắn gì đâu. Bụi quá ! _ Nói là nói thế thôi, chứ ông bác có đổ tường xi măng em cũng kệ. Phía em căng cái nilon xanh vừa dịu vừa cách âm hết xảy ! Ông bác đi tây hôm qua mới lấy hòm về. Bốn năm cái Kích (2), một đống hàng như núi. Tiên sư ! Các bác sướng thật ! Chả đầu tắt mặt tối như cánh em ! Tôi không dám trả lời câu chửi đổng bất ngờ ấy. Tủm tỉm cười và lấy thùng nước quẩy nhanh về : " Tớ cũng như ông thôi ! ". Phạn có thể nhìn dáng cà nhắc của tôi mà đoán ra điều gì, chắc thế, ái ngại mời với : " Em nói cái bác Thủ thôi ! Bác xá cho ! Chủ nhật này rỗi, tối, ông anh sang em làm chầu tiết canh nhé. Đừng khách khí ông bác ạ. Trước lạ sau quen ! " Điều mà Phạn vạch ra trần trụi ấy là có thực, nhưng mà không đáng lo. Bởi vốn hay e thẹn nên vợ tôi nhất quyết bất động trong thời gian khi mấy nhà mới đi nằm. Chúng tôi thường rón rén yêu nhau lúc gần sáng. Khi ấy chỉ có tiếng chuột chạy, tiếng gió đu đưa sáo trên các lỗ tre, tiếng thở, ngáy đều đều của bốn đứa người ở hai hộ bên. Mọi sự hoạt động của ba hộ, sau ba tuần chúng tôi đã thuộc làu lịch ăn uống, khẩu vị từng bữa, sinh hoạt, yêu nhau. Tất cả như một mùi hỗn tạp song vẫn phân biệt được, nhất là mỗi chiều chủ nhật, ba nhà cùng nổi lửa. Mùi tỏi xào thịt bò của anh Thủ, mùi rau muống xào tóp mỡ của vợ tôi hoà trong mùi rượu đế thơm nức với tiếng mỡ sôi lép bép, béo tanh khi nhà Phạn rán cá. Mùa hè năm ấy, gió quật từ hồ đem theo cả mùi ngai ngái và hơi tanh của bèo tây và bọt khí lòng hồ. Tôi thường đọc sách tới khuya bên vách đất. Vợ tôi đã lăn ra ngủ, thở đều, đôi chân trắng nõn của nàng gác lên bức ngăn gỗ. Tất cả quen dần như vậy. Nó cũng giống như ta thở hít thứ không khí làng quê. Hương làng sống ăn đời ở kiếp bao đời với đa số người Việt Nam, nhưng chẳng ai để ý. Khi ra thành phố, vẫn nhơ nhớ một cái gì đó, thiêu thiếu cái gì đó, xưa ẩn giấu trong vô thức, nay có dịp, hong hanh nhớ ra, gợi về cái làng xa kia mà chẳng nhớ rõ mùi gì. Tuần thứ tư từ khi lấy nhau, vợ tôi ghi một dấu thập to vật trên tờ lịch. Mới chín giờ tối, mà hai nhà bên đã tắt đèn. Tôi đành tắt đèn trần và bật cái đèn ắc quy vẫn dùng khi mất.

<span class='text_page_counter'>(129)</span> điện. _ Trời nhiều mây, gió nhẹ, nhiệt độ từ 18 tới 25 độ. _ Tôi tắt vội đài. _ Tiên sư mấy con phò bán trứng (3). Bảo mấy lần rồi mà nó cứ chèn ngang vào đầu hàng nhà mình. _ Ngày mai anh sẽ bảo nó. Thôi, lại đây ! Anh chúa ghét cái thứ khuy cài. Mai anh lên Hàng Đào mua cho em cái loại mới về của Thái ! Mềm và đẹp lắm. Sờ vào, mát cả tay ! _ Rõ dơ ! Tay gì như hòn than thế ! _ Gớm _ có tiếng khúc khích rồi yên một lát. Tôi cố tập trung cúi xuống đọc tiếp giáo trình thương phẩm để khỏi mang tiếng là nghe trộm. _ Anh yêu em như thế nào ? Có tiếng rất nhẹ từ chái phải vọng sang._ Tiếng Huyền ! Tôi bịt tai lại. Đầu ong ong mà vẫn nghe tiếng rinh rích của bầy chuột đùa chơi trên trần nhà. Bịt tai mới được muơi phút phải bỏ hai ngón tay ra. Khó chịu quá ! _ Mùa đông bên kia lạnh lắm. Tuyết trắng xoá. Anh ở nhà một mình ngồi nghĩ tới em ! _ Nói dối ! _ Thật đấy, đoá hồng của anh ! _ Ai tin ma ăn cỗ ? _ Nhìn trăng kia kìa. Có nó chứng giám cho anh ! _ Bây giờ của anh rồi, ván đã đóng thuyền. Còn yêu thế không ? _ Hơn chứ, Cưng ơi ! Anh yêu em bằng cả trái tim chỉ dành cho em ! Tôi chợt nhận ra, trăng lên thật. Tia sáng loang loáng như lưỡi kiếm màu vàng chém xéo qua khe cửa xuống vạt chiếu vợ tôi nằm. Có tiếng gì chun chút như tiếng mở cái giác chữa cảm khỏi da thịt, như mút bóng từ miếng bóng bay vỡ, vọng từ chái phải. Lại nghe : " Anh thích trai hay gái ? " _ Trai gái đều được tuốt ! Gì cũng thích. _ Em thích con trai ! _ Anh cũng thích con trai !.

<span class='text_page_counter'>(130)</span> _ Em thích con gái ! _ Thôi, gái trai như vậy cả. Đấy ! Con gái nhe... ! _ Có tiếng thở. Tiếng cựa mình. Rồi tất cả chìm trong im ắng như tuyệt đối. Một lát lại nghe tiếng sột soạt của áo quần. " Ngày mai anh còn đi lên viện, có cuộc họp rất quan trọng ! Thôi, ngủ đi cưng ! " Gió đêm nổi lên. Đập vào chỗ trần nào kẹp không kỹ, dập lên dập xuống. Hình như có tiếng thổn thức. Hay là gió ? Buổi sớm hôm sau tôi ra chợ. Đám hàng rong bán rau và trứng bầy lấn ra hết cả lối đi. Mới sớm mà trời oi lạ. Những người ở ngoại thành kéo ra bán rau tự sản từ tinh mơ, những người buôn từ chợ rau Mơ cũng đã qua nhà tôi rình rịch từ khi trời còn tối. Cái chợ bé mà chẳng thiếu gì. Tôm cá từ mạn Đuôi Cá tươi đành đạch trong các thùng sơn hay trên mẹt. Rau, dưa, hành, thơm, đủ cả. Quầy bán tiết canh lòng lợn ngay đầu chợ. Họ không trông thấy tôi. Tôi nhìn thấy Phạn thoăn thoắt thái lòng cho vợ anh xếp lên đĩa. Mùi cháo dăm hành phả ra thơm ngậy. Tôi nín thở. Tôi quay mặt đi vòng nhanh trốn chạy cái mùi hấp đẫn. Cồn cào ! Tới chỗ bán đậu phụ còn nghe tiếng Xuân lanh lảnh : " Nhà em hãm tiết bảo đảm, nước luộc lòng sôi trăm phần trăm. Các bác có chén tới ễnh bụng cũng vô tư đi ! " " Tổ sư con kia, ông đã bảo không quang thúng chềnh ểnh chỗ đấy cơ mà. Đổ xe của khách ông bảo ". Tôi quay mặt đi. Giọng Phạn ! Có tiếng cười nồng khùng khục của ai đó. Tiếng ai : " Em đi đây, em đi đây ! " v Tháng sau, phòng quản trị công ty cho người tới chuẩn bị mắc nước cho ba hộ chúng tôi. Người ta đo đạc sau nhà và quyết định đào phía sau một cái hố, xây bể nước. Công việc chẳng cần sự có mặt của tôi nên tối về mới biết công trình ngày mai khởi công. Phạn chạy sang nhà Huyền rồi quay sang nhà tôi : " Anh em ta mỗi người bỏ ra năm ngàn bồi dưỡng thợ. Chúng em tính giá lòng mua, đắt là hai lít chính hiệu Con Nai Vàng (4) nếp lủi. Thôi thì cho bọn nó nhờn mép một tí, không mai bể nước lại rò rỉ thì chết cả nút." Vợ tôi lấy tiền đưa Phạn. Gã cầm tiền xỉa vèo vèo. Xong ! Phạn cười, mùi rượu phả vào tôi : " Giầu mà kiết, anh ạ. Nó tưởng em lợi dụng chém nó, hỏi đi hỏi lại mấy đồng bọ, như thanh tra không bằng. Em cần đếch gì mấy cắc đểu (5) của nó ". Nửa tháng sau bể nước xong. Cái bữa xả nước hồi hộp như đào vàng. Dòng nước trong vắt lừ đừ dâng lên trong bể. Cô Xuân, cô Huyền chốc chốc lại ra ngó xuống. Phạn và tôi xúc đất, than xỉ làm một cái nền quanh bể. Từ nay chúng tôi đỡ chen chúc tranh nước quanh cái vòi công cộng. Cám ơn công ty. Công ty muôn năm ! Phạn tự nhiên hô to như vậy, gã nằm lăn ra đất, sau khi dội ào ào liền mấy xô nước lên cái thân hình khi nào cũng ám lòng lợn và mùi rượu. Vợ tôi dọn một mâm cơm đậu phụ và đĩa thịt vịt ra chiếc chõng kê ngay đầu hồi nhà Phạn. Dù đã mời gia đình cô Huyền trước, nhưng cô Huyền cười cười từ chối : " Các bác cứ tự nhiên xơi, chứ nhà em hôm nay có hội nghị đã ăn cơm rồi ". " Cán bộ có khác, suốt ngày đi họp, lại đỡ cơm nhà ! " _ Xuân nói. _ Gớm ! Người đẹp vì lụa, lúa tốt vì cứt. Ấy, em xin lỗi bác ! _ Phạn nhìn theo cặp mông căng lẳn của cô Huyền tấm tắc cái quần hồng cô đang mặc để nhận một cái véo rứt thịt của vợ..

<span class='text_page_counter'>(131)</span> Đêm ấy thực là dễ chịu hiếm có. Gió phe phẩy, nhiệt độ chỉ 18 độ. Tôi nằm xuống cứ thao thức mãi, có thể vì quá chén chăng ? Trăng mười bẩy và ánh sáng của muôn ngàn tinh tú loang loáng qua các khe hở phía trước nhà. Tiếng đồng hồ rí rách, chậm và thong thả thế ! _ Lần này thì trúng thật rồi anh ạ. _ Nói thật chứ ! _ Tiên sư đứa nào lừa anh ! Tôi giật mình nghe tiếng ré lên ngẹt trong họng của Phạn sau đó. Tôi trả vờ ho đánh tiếng. Có tiếng đấm bùm bụp vào da thịt chắc nịch. Yên ắng một lúc, lại nghe : _ Anh yêu em không ? _ Yêu ! _ Yêu thế nào? _ Yêu đéo chịu được ! _ Thật không ? _ Đ... mẹ thằng nào nói dối ! Tôi thiếp đi sau tiếng rúc rích, tiếng chân chuột vẫn chạy trên tấm trần cót. Tôi không hề biết rằng gần sáng hôm đó vợ tôi cũng trúng, bắt đầu có trong người một mầm sinh linh. Sự kiện phải hai tháng sau mới xác định được. Ba tháng sau, vợ cho biết tin ấy, tôi vừa mừng vừa lo. Mừng vì mình sẽ có con. Lo vì cuộc sống thế này, hai miệng ăn với lương lậu chỉ đủ chi hạt tiện, nay mai thêm trẻ, nuôi nấng ra sao ? Tôi không dám nói điều băn khoăn ấy cho vợ biết. Còn vợ tôi thì hớn hở khi thấy nụ cười của tôi trong đêm. Chưa gì nàng đã dự kiến tương lai của cái hoa mới vừa hong noãn. Nào là đi học trường y, trường nhạc, nào là sẽ may cho nó đồ màu xanh ; nào là đi học bách khoa hay trở thành nhạc sĩ ? Đàn bà trẻ bao giờ cũng lãng mạn như bọn thi sĩ ấy, còn khi đã có con, trăm công ngàn việc, họ có còn vậy không ? Tôi không dám cười, lặng kéo vợ vào lòng, nhìn nước mắt vợ cũng lặng ứa và chợt nhớ bao nhiêu mộng ước trước chiến tranh tôi từng có. Câu chuyện của chúng tôi nói nhỏ thế mà sớm ấy Phạn nghe thấy. Phạn chả hay dậy sớm uống trà rồi đi lấy lòng và tiết từ ba giờ. Vài tháng sau, khi thau bể nước vì con chuột nào ngu ngơ sểnh chân, chết nổi lềnh bềnh, Phạn khoe : " Vợ em cũng có rồi. Ba tháng ! Mẹ em sờ bụng, xem tóc gáy bảo : con trai ! Vợ chồng anh thì mong cháu đi học này, học nọ chứ con em chả cần học gì hết. Chỉ cần biết đếm là đủ ! Đếm không nhầm là đủ. Con trai cho học hết lớp năm, biết đọc báo. Con gái thì ở nhà giúp mẹ thái lòng, đếm tiền ! Hết ! " Phạn nhoẻn miệng cười rồi vỗ vai tôi. Nụ cười của gã ngoắc tận tai, nom vô tư và rất thiện cảm. Nụ cười ấy xoá hết những nét rất sắc cạnh ở khuôn mặt phong trần của gã. Người ta, khi cười rõ hình thiện và ác, có phải thế chăng mà tôi quên đi hết nét mặt vốn.

<span class='text_page_counter'>(132)</span> dĩ chờn chợn của gã, giữ lại nụ cười ấy suốt bao nhiêu năm phiêu lạc sau này của mình. Bàn tay gã nặng và ấm đặt lên vai tôi. Tôi nghĩ, Phạn không đùa. Mùa thu năm ấy đến sớm hơn mọi năm. Không gian trước nhà chúng tôi như rộng ra khi gió trở mình đùn hết bèo từ mặt hồ bên này sang bờ bên kia. Vợ chồng tôi cuốc đất, dọn bụi trồng rau ven hồ từ đầu hè. Thu tới, rau muống vừa cằn thì cải lên xanh. Nom rất mát mắt. Thấy vậy, vợ chồng Phạn cũng xí một khoanh. Cô Huyền cũng xí một manh, chạy dọc tới năm chục mét, rào kỹ mà chẳng trồng xới. Vợ chồng Phạn không mát tay, rau cải của họ chưa kín luống đã vàng. Bù lại, mấy hàng ớt của họ rất tốt. Xanh mướt và cho trái ngay. Phạn bảo, gã bứng cả gốc từ nhà bạn nên lạ đất và lắm phân gà mà như vậy, chứ chả giỏi giang quái gì ! Con người em như ớt ấy, càng lạ càng tốt, nhiều phân rác càng hay ! Lạ là cái gì nhỉ ? Tôi chẳng biết gã muốn nói gì. Hắn lại bảo, hơn ba chục tuổi mới biết cái sở trường của hắn là chọc tiết và hãm tiết ! Ông anh biết không, thọc con dao vào cái cổ mũm mĩm trắng toát để máu phun ra chói loà ấy mà, chuyện ấy đâu có giản đơn. Phải biết ! Phải xử chính xác lưỡi dao. Không run tay, chệch hướng. Chọc một cái, đứt màng trên. Dí cái thứ hai, trúng tim. Tiết chảy hết, không đổ màu tím, không còn một tiếng kêu. Đấy là nghề ! Nghe gã nói mà rởn người. Những khi rau rộ, chúng tôi tỉa vài cây tươi roi rói chia cho hai nhà. Đúng là chúng tôi bắt đầu già trước tuổi, hay là khó khăn mà thấy vui vui bên luống rau. Những câu chuyện bên cái vườn ấy lan man đủ thứ. Tôi biết thêm việc Phạn cũng từng ở lính. " Ông đừng nhìn tôi bây giờ mà đánh giá nhé ! Tôi từng là học sinh giỏi, chẳng khi nào chịu tổng kết các môn tự nhiên dưới điểm 9 đâu ! " Phạn mở màn với câu như vậy. Phạn vào Bình Trị Thiên hai năm, đánh dăm trận rồi bị thương, ra Bắc điều dưỡng. Cả năm, anh đi xin việc khắp nơi mà không có công sở nào nhận. Sau nhờ bạn đồng ngũ, làm ở lò mổ dạy cho nghề tiết canh lòng lợn, lại tìm cả mối bỏ hàng. Phạn kể : " Gia đình tôi gốc ở Nam Hà. Hai đời các cụ kỵ đều đỗ đạt, làm quan cho triều Nguyễn. Đời ông cũng bằng tây, chữ ta đủ cả. Tới đời bố tôi thì ruộng nương cũng chẳng còn mà cái sở học, tiếng tây, những sự biết của ông về Hắc Sơn, Man, Chu Chi, Hê Min Uê (7), đại loại như vậy, trở nên thừa thãi. Chẳng kiếm đủ cơm ở Hà Nội, bố mẹ tôi lên Tuyên Quang khai hoang rồi lại xuôi Hà Nội. Xoay đủ thứ, sau chuyển làm hộp giấy gia công, rang xay café. Khi sinh tôi, mẹ tôi chỉ muốn tôi sau này đủ ăn nên đặt tên tôi là Phạn. Phạn là cơm. Mẹ tôi nói vậy. Người ta đói thì cần cơm. Cha mẹ tôi trong loạn lạc triền miên, nên giản đơn mong tôi có ăn là đủ. Các anh chị tôi tên đẹp lắm, nào Hùng, nào Lan, Ngọc. Chuyện tôi lấy vợ là duyên số. Tôi quen cô ấy trong một lần đi xem phim ở Tháng Tám. Gặp người ta gây gổ với nó. Tôi can thiệp. Sau đó nên vợ nên chồng. Vợ tôi như miếng mỡ gầu, ngu hơn tôi một chút. Cô học chỉ hết cấp hai. Cái thời sơ tán, đạn bom, đi theo mẹ lang thang suốt trên những chuyến giao hàng. Nồi lành úp vung lành, méo úp méo. Chúng tôi hợp nhau. Trời cho lộc thì chả mấy chốc tay dao tay thớt mà có của ăn của để ! ". Đêm ấy tôi nằm nghĩ lại chuyện Phạn. Cái tên là lạ của anh ấy cũng có cả một lịch sử dằng dặc của mấy đời. Đời phức tạp quá hay con người ta trót mơ mộng nhiều nên khi vỡ mộng thì quay lại thực tế với những điều giản đơn nhất ? Lạ thật, có còn xứ nào cái tên cũng cõng theo thân phận, ước mơ của một kiếp đời không ? Vài lần, khi cả bọn đang làm vườn, tôi thoắt trong thấy bóng anh Thủ nhìn chúng tôi qua cửa sổ. Cái nhìn rất khó hiểu, gật đầu chào nhau mà tôi vẫn thấy có gì đó không cắt nghĩa. Sao anh ấy không trồng hái gì nhỉ ? Tôi tự hỏi khi cô Xuân và vợ tôi vừa nhổ cỏ vừa thì thào. Họ thương cùng kiếp đàn bà mà sao chị Huyền vợ Thủ chưa có gì. Phạn cười phá lên : " Các bà lo bò trắng răng. Tại giống đấy. Bọn tôi lực điền, giống xịn. Còn nó giống phò. Không tin để tôi thử một phát. Lách trái con gái, lách phải con trai. Trúng ngay ! ". Xuân đứng bật dậy, tát liền vào má chồng : " Tiên sư cái thằng dê ! " Tát rõ mạnh. Ten tét hai ba cái liền, thế mà Phạn chẳng né tránh, còn cười như phá..

<span class='text_page_counter'>(133)</span> Tiếng cười thia lia trên mặt hồ có làn sóng lao xao. Chúng tôi cứ như thế, như thế sống. Tôi bước vào năm cuối cùng tại chức nên rất bận. Tuy nhiên vẫn phải chuẩn bị vật chất cho đứa con sắp chào đời. Tôi đi làm thợ hồ, thợ chụp ảnh đám tang, đám cưới, làm điện trong tất cả các ngày chủ nhật, cả ngày lễ, tết. Vợ tôi năng lên bà ngoại lấy tóp mỡ, dưa, thịt kho, cá kho. Vợ chồng Phạn thì xoay ra mua lợn tự mổ, bán kèm thịt. Có hôm, không mổ ở nhà chủ lợn, Phạn đèo lợn bằng xe đạp về chọc tiết ngay đầu hồi. Hắn làm thế nào mà không có một tiếng kêu. Sáng ra, thấy vệt máu mới biết đêm qua hắn làm lợn ở đó. Tôi bảo, ông khéo thế ! Gã hiểu ý tôi cười : " Sợ làng xóm mất ngủ thôi, còn mấy ông bác thuế vụ, có phần cả rồi ! ". Vợ chồng anh Thủ vẫn đều đều đi làm. Mỗi sớm, anh dắt xe máy qua cửa nhà thấy tôi gật đầu chào. Bây giờ anh để bộ ria đen nhẫy, cặp kính râm vừa khuôn mặt màu xám nom rất hợp. Mắt luôn nhìn thẳng như chưa bao giờ trông thấy chúng tôi. Tôi nghĩ, mỗi người có một cá tính và sống bên Tây rồi nên như thế. Nhưng Phạn thì phản ứng ra mặt. Một lần đụng nhau ở chỗ bể nước, Thủ vụng về để rơi thùng múc nước xuống mà không sao lấy lên. Phạn nhổ nước bọt ra dáng khinh bỉ, đu xuống lấy hai chân khều cái dây lập lờ lôi lên. Thủ không nói gì, mặt hơi tái, xách xô nước đi về nhà không ra nữa. Cô Huyền ra kín nuớc thay chồng. Phạn múc nước giúp Huyền, lại xách cả hai thùng về để ở đầu hồi nhà Thủ. Không hiểu sao Phạn hay ác cảm với Thủ như vậy ? Sau tết, qua xuân, sang hè, cái bụng vợ tôi cao lên bao nhiêu thì công việc chuyền sang tôi bấy nhiêu. Vợ tôi yếu, người vàng nhớt. Cô ấy chẳng chịu ăn, hơi trở trời là kêu mỏi, đau. Vợ Phạn thì không như vậy. Chị quần quật từ sáng tới tối mịt như chưa từng có chửa. Cái bụng ưỡn ra phía trưóc, bước chân khuỳnh khoàng nhưng vẫn thoăn thoắt đi trước gánh lòng, thịt chồng gánh. Đúng là trời sinh ra mỗi người một phận. Chúng tôi thường an ủi nhau rằng có con thì hạnh phúc phải trả giá, thêm vất vả, neo bấn. Cô Xuân đôi khi e ngại nhìn vợ tôi rồi lại bảo : " Sướng chán, nom con Huyền kia kìa, có cái đéo gì để sướng như tụi mình đâu ! ". Lời thì thế, nhưng mặt ngó không có ý ác. Vợ tôi nhăn nhó cười. Tháng tám vợ Phạn sinh trước. Một thằng con trai rõ to khoẻ, bốn cân hai, chân tay mũm mĩm, mắt đen nhìn lơ láo, miệng đỏ tươi như múi quýt hồng. Tôi hỏi Phạn, đặt tên con là gì ? Phạn bảo : " Tiến ! Tiến lên ông ạ ! ". Hồi ấy, Hà Nội chưa chơi Tá Lả, mới có trò Tiến Lên. Giá có Tá Lả thì chắc Phạn đã đặt tên con là Tá. Vợ tôi vật vã hai ngày hai đêm trong bệnh viện Bà Mẹ Trẻ Em. Mụn gái chưa đầy ký rưỡi, ủ trong lồng kính, chân tay đầy lông như con chuột con, nom rất thương. Phạn chắc cũng như tôi chỉ mong mọi việc xong là về nhà với con. Khuôn mặt người ta có hạnh phúc là biết ngay, lúc nào Phạn cũng tơn tớn. Không biết nom mặt tôi có thế không ? Sự thật là như vậy ! Nhưng bên niềm vui dễ cảm nhận ấy thì Phạn rất vất vả trong mỗi phiên chợ mà chỉ có mình anh. Tôi thì khỏi phải kể. Ai đã từng có con ở cái thời bấy giờ, cái thời mà mua một hộp sữa, một lạng sườn nấu cháo cho trẻ cũng phải cân nhắc, đắn đo mãi, phải nhịn ăn, nhịn tất cả mọi sở cầu vật chất, tinh thần của người lớn như thịt tươi, xi nê. Sự ấy, cho tận tới khi con gái tôi biết đi, biết chạy và đến lúc bẩy tám tuổi, chúng tôi chưa hết vất vả vì cháu luôn đau ốm. Tim dị tật, bẩm sinh, phản kháng rất nhậy với đủ mọi thời tiết. Sau, do tiêm gì đó động huyệt, chân cứng nhắc, đại tiện đứng rất tội ! Không khí trong nhà luôn căng thẳng, nhất là những ngày nóng bức mà con khóc ngặt nghẽo, mềm lả trong tay người vợ tôi..

<span class='text_page_counter'>(134)</span> Có thể tất cả những điều ấy đã làm cho một thằng tôi, một người quen với cuộc sống 12 năm ở lính, chỉ quen chấp hành mệnh lệnh, nay trở nên một người hết sức lúng túng chăng ? Đi bộ xuyên rừng tốt, kiếm rau rừng tốt, kinh nghiệm tìm nơi ẩn giấu, giữ cái mạng mình tốt, nhưng chả biết gì ở cuộc sống một cặp vợ chồng phải mềm mại giải quyết những khó khăn khi rơi vào hoàn cảnh mà tôi kể trên. Tôi trở nên thường xuyên cáu bẳn vô cớ. Vợ tôi cũng hết cả sự dịu dàng của cô kỹ sư trẻ vừa ra trường. Cả hai kẻ chẳng đứa nào xấu, nhưng ngô nghê trước cuộc sống gia đình vốn chả giản đơn. Sau này nghĩ lại, tôi vừa xa xót vừa ân hận. Nhất là nghĩ tới vợ tôi, người suốt cả thời gian ấy phải chịu đựng quá nhiều, việc cơ quan, việc nhà, việc con cái ốm đau. Song thường là, người ta có gục xuống, thì mới nhận ra điều đã mất. Đã mất đi thì cái gì chứ tình cảm như con chim sổ lồng đã vụt bay mất rồi. Chúng tôi cãi nhau về những điều rất lặt vặt trong đêm. Từ chuyện tôi hút thuốc nhiều ; chuyện đi hôm về tối chẳng buồn nhắn một câu ; chuyện sao nhà bừa bộn thế, đến cái đầu tôi luôn hôi, bốc mùi trong căn buồng hẹp ! Tất tần tật ! Mọi sự cứ sinh sôi, chất đầy, nèn chặt trong cái hộ vốn hẹp tí của chúng tôi. Tháng, năm, những giọt nước mắt khô đi để lại khuôn mặt lầm lì và nặng chình chịnh của vợ cả mỗi khi cơm nước dọn ra ; có khi bất ngờ không duyên cớ, những tiếng bát vỡ tan tôi ném vào cái cửa đầy những khe hở. Trong khi đó, cuộc sống của vợ chồng Phạn, Xuân vẫn hùng hục như ngày nào, vất vả hơn, nhưng thực là thứ cây hoang dã bất chấp mọi thời khí, để những khi Phạn dậy muộn, chúng tôi phải nghe một câu chửi rất chói tai của Xuân : _ Trời ơi, đéo mẹ nó chứ, bảnh mắt rồi mà bố con nó còn ôm nhau ngủ như chó thế kia ? v Khi đứa trẻ đầu mới chập chững biết đi thì vợ Phạn lại chửa. Công việc đòi hỏi cần có người giúp đỡ. Lúc sinh con đầu lòng, mẹ Xuân tới, hai tháng quần quật giặt tã đỡ đần Phạn. Lần này Phạn dứt khoát không muốn mẹ vợ vất vả. Sáng xuống nhà, chiều ngược vào phố. Bà ngoại già rồi, phải ngơi chút xíu chứ ! Phạn bảo vậy. Một cô gái thôn Linh Cầu, đang tuổi xuân thì, em họ Xuân, tên Phượng. Tóc dài mượt đến ngang lưng. Hai tháng trời ra Hà Nội ở nhà trông cháu, không mưa đồng, gió bãi, trắng ra, mắt luôn lấp lánh, đôi má mơn mởn như rắc phấn. Có người giúp việc, quán xuyến, tháo vát từ trông cháu tới cơm nước, vợ chồng Phạn rảnh rang đan tay làm ăn. Mà đúng khi ấy, Hà Nội đang rộ cao trào nhà nhà nuôi lợn, nên công việc giết mổ, tiết canh rất thuận. Phạn bận bịu lắm, quần quật suốt tháng, suốt năm, nhưng vẫn phởn ra hơn cả hồi mới lập gia đình, lại bớt say ngất ngư. Một bữa Phạn sang tôi bảo, sao vợ chồng tôi không thêm một nhau. Cho có lứa ! Cho chó có đànấ! Tre ấm bụi ! Như cách nói của Phạn. Hắn cười hoắc cái miệng khi ghé tai tôi : " Hay máy ông anh tịt rồi ? ". Phạn thừa sức biết gia đình tôi khó khăn ra sao, nhưng điều hắn không thể biết là tôi đã rất nhiều lần phải tự dày vò với mình khi công ty mở chiến dịch giải toả hàng, điều cán bộ bảo vệ đi áp tải. Chỉ cần phẩy tay một cái, trút ngay vài can nước mắm là có mấy tháng lương. Sự hao hụt vài chục lít nước mắm sẽ được bù trừ dễ dàng bằng nước ruộng. Nhưng tôi không sao làm được cái điều giản đơn ấy. Can nước mắm trở nên nặng như buộc đá mỗi khi định xách nó xuống xe dọc đường. Hay, vì công việc chuyên môn, những lần lập biên bản, giáo dục những người ăn cắp hàng hoá níu tay tôi lại ; hay từ điều xa xôi nào, ẩn tàng một cái nhìn như quở trách con người thực tại của tôi khi ấy. Ai nhìn tôi ? Mắt vô hình ! Ở đâu, từ đâu nhỉ ? Tôi cũng không tự lý giải ngọn ngành mà chắc Phạn càng không biết. Hay là hắn biết mà không thèm nói, vì có lần thấy tôi đăm.

<span class='text_page_counter'>(135)</span> chiêu, hắn bảo : " Các ông là hay phức tạp lắm. Đời rắc rối quá rồi, cứ để nó thiên nhiên ! (8) Nghĩ nhiều là tổn thọ ! ". Vợ chồng Thủ, Huyền vẫn chưa có con. Tôi ngửi thấy mùi thuốc bắc đủ loại thơm phức bay sang nhà tôi. Tôi luôn nhìn thấy khuôn mặt đã buồn buồn lại buồn hơn theo năm tháng của Huyền. Anh Thủ vẫn qua cửa nhà tôi mỗi sớm. Cái Mu Kích đã thay bằng chiếc xe Hon Đa đầu bằng máy cộc, long lanh giọt lệ (9), nhưng khuôn mặt thì chẳng đổi, vẫn là cái gật chào rất lịch sự, bộ ria nhẵn nhụi và kính nâu nhạt. Năm ấy hay mất điện. Mất điện thì ngày cũng như đêm. Ngôi nhà của chúng tôi biến thành lò thiêu. Riêng chái nhà Thủ ở hướng Nam, lại có bóng cây lớn phủ lên và Thủ trổ thêm cửa rộng đằng hồi, nên rất mát. Buổi chiều, bên hồi ấy trẻ con hai nhà hay làm sân chơi. Phượng cũng bế cháu ra đó cho uống sữa, ăn bột, hóng gió. Tháng bẩy, cô Huyền đi dưỡng bệnh trên Tam Đảo một tháng theo tiêu chuẩn công đoàn. Chắc ở nhà buồn, chiều nào anh Thủ cũng ra chơi với trẻ con. Nom người vậy mà dỗ trẻ còn tài hơn cô Phượng. Anh bế con Phạn rung rinh trên tay, cười nắc nẻ. Tôi nhìn ra chợt thấy thương anh. Căn hộ chật ních tiện nghi, lương lậu đủ chi, lại thấy anh luôn có khách tới mua bán đồ phim giấy, chắc kiếm ăn được. Thế mà anh chưa có một đứa trẻ ! Nom đôi mắt và cái miệng có ria xanh kia nựng trẻ tươi ron rón, chắc cũng thèm một mụn con ? Cuối tháng bẩy, trời chợt đổ cơn mưa chiều bất ngờ. Cô Xuân từ chợ đội mưa về lấy thêm nước mắm, thấy dãy quần áo chưa kịp rút, ướt sũng trên giây phơi. Xuân ngó vào nhà chẳng thấy cô em đâu. Linh tính thế nào, cô đạp mưa, chạy xô cửa nhà Thủ. " Con em tớ còn ôm cháu. Mặt gục xuống. Thằng khốn nạn đã cởi hết khuy áo của con bé dại dột. Thền lễn vú vê, hêu hếu cả rồi. Tớ điên hết cả người, chả kịp nói gì, lao vào giật con và tát ngay một cái lệch mặt thằng khốn nạn ". Hai tuần sau Xuân vẫn kể hệt như vậy với vợ tôi. Đêm ấy tôi tưởng tượng lại câu chuyện qua lời thuật của vợ. Tôi thấy Thủ mặt tái với vệt tát đỏ, cúi mặt xuống. Thấy tiên nữ làng quê của tôi hới hải ôm áo đội mưa chạy về nhà. Thấy Xuân chạy ngược ra chợ báo tin dữ với chồng mà Phạn mặt tím lại nhưng vẫn bình thản thái thịt xếp lòng. Tôi nghĩ Phạn sẽ vác dao xông vào băm cho Thủ mấy nhát. Nhất là vợ anh cứ sấn sổ quát : " Bỏ dao thớt đấy cho tôi, về cho nó biết thế nào là mỡ chài với mỡ khổ ! ". Vậy mà im như thóc. Tối ấy, Phạn vẫn sang tôi uống trà nhưng lầm lì, không hé răng về chuyện đã xảy ra. Mưa chiều làm nhẹ không khí cho vợ chồng tôi ngủ thiếp từ chín giờ. Có lẽ hai giờ sáng, tôi chợt tỉnh vì tiếng thì thào từ nhà Phạn vọng sang : " Tôi nói như thế đủ rồi. Đàn bà như cô biết đéo gì ! ". Có tiếng thút thít. Không biết Xuân khóc hay cô Phượng khóc. Lại nghe. _ Em cô vú vê nòn nõn như thế, làm đếch gì không có đứa thích. Nó chưa tụt quần em cô là may rồi. Xử như cô chả ra sao, lại tan nát hết ! Lỗi ở con mả mẹ kia nữa. Con gái phải biết giữ mình. Các bà, cái gì chả đổ tội dâm ô trụy lạc cho đàn ông ! Đàn ông, đàn bà đều là đàn. Còn thằng Thủ, tôi có cách của tôi. Sao cho nó sợ mà lại biết rõ bộ mặt nó, cho nó biết rõ cái mặt mình. Khóc gì nữa. Ngủ đi, mai còn chợ. Con Phượng muốn lên thành phố thì thiếu gì chỗ. Bạn bè tôi, dân giang hồ, tứ chiếng, đủ cả ! Không thiếu thằng chồng ra chồng. Các bà thời này cứ tưởng, mới một tí là chu lên như chó, khóc thảm như thiên hạ khóc Kiều ấy ! Bà biết Kiều không ? Hay đếch biết nốt ? Cũng như cô.

<span class='text_page_counter'>(136)</span> em cô thôi. Đẹp mà, thời nào chả chết ! Không đẹp thì chó nó dòm, một quan cũng chả đắt, tiền đâu chuộc ông via. Nín ngay cho tôi nhờ ! Thế đấy ! Chán quá ! Đời ơi là đời ! Đời cứ là đời. Lý thuyết lằng nhằng với cô chán bỏ mẹ. Ngủ đi cho nhanh để mai còn chợ búa ! Tôi bàng hoàng. Thì tôi cũng là thứ chẳng ra gì. Tay đây, vai đây, sức vóc đây mà như bị vòng kim cô thít chặt. Xoay xoả như thế nào, kiểu nào cho vợ con mát mặt ? Tôi nín thở, cắn răng để khỏi đấm mạnh xuống giường. Buổi chiều hôm sau. Biết Thủ có nhà, Phạn sang rủ tôi sang. Tôi từ chối. Nhưng Phạn quyết kéo tôi đi. Anh không lo ! Phạn này chả dẫn ai vào thế cùng đâu, gã nói vậy và kéo tôi xềnh xệch ra cửa. Cái bàn gỗ lát có tấm kính và bộ uống trà men sứ tây long lanh trước khuôn mặt tái nhợt của Thủ. Tay anh run run nhưng còn chút bản lĩnh để mở cửa, lịch sự mời chúng tôi vào nhà. Đôi mắt Thủ vốn vô hồn, giờ đây nhớt nhát, khó tả quá. Tôi ngoảnh mặt đi chỗ khác, nín thở. Không khí căng, im như khi tôi lên dây mí đàn ghi ta. Phạn vào đề ngay. Tiếng anh nhỏ, nhưng gằn : _ Nói cho ông biết ! Vuốt mặt phải nể mũi ! Đánh đĩ thiếu đéo gì nơi. Nó là em tôi ! Chúng tôi không phải là chó ! Cho ông một nhát thì dễ hơn chọc con lợn. Nhưng như thế thì tiệt cái thứ giềng tỏi xóm gừng. Ông định lợi dụng nó thì phải dứt khoát sang xin lỗi vợ tôi, xin lỗi con Phượng. Còn muốn có con vì vợ thiếu trứng, hoặc yêu thực nó thì báo vợ. Có gan ! Tôi cho ông quan hệ thoải mái. Đ...mẹ ! Đừng có lập lờ ! Hẹn cho ông ba ngày ! Nếu không làm thì nói một câu cho nhanh ! Nhắc lại, chúng tôi quyết không phải giống chó ! Nhưng... ! Phạn chợt dừng nói. Anh đứng phắt dậy. Tôi giật thột nguời. _ Thôi ! Đủ rồi ! Phạn kéo tôi đứng dậy, đi luôn. Suốt vài hôm, tôi không thấy bóng Thủ. Hắn biệt đi hai hôm, lại về. Tôi không rõ việc Thủ có gặp Phạn không và nếu gặp thì gặp ở đâu, nhưng thấy Phạn trở lại vẻ tơn tởn xưa. Thậm chí còn tỉnh bơ huýt sáo như chưa hề có chuyện gì. Mãi nửa năm sau Phạn mới bảo, nó thực hèn, đạo đức giả, cố làm sang, tách ra khỏi hàng xóm láng giềng. Đi mẹ đâu cho khuất chứ còn gầm trời này, phải thở khói bụi này ! Nhưng may là nó còn biết thương vợ một chút. Còn không thì em bảo, Phạn này không thích đùa dai. Chuyện chỉ biết đến vậy. Mắt gã khi ấy kinh thật ! Quắc sáng như điện, chớp lạnh cả sống lưng tôi.. Hết đợt nghỉ, Huyền về và sự việc Thủ với Phượng chìm trong lãng quên. Cũng còn do sau đó hai tháng Phượng về quê, thế chỗ là một chị cứng tuổi, cũng em Xuân. Đùng một cái có tin vợ Thủ có mang. Một năm sau sinh một cháu gái rất kháu khỉnh. Con Thủ đầy tháng, cô Huyền tổ chức đầy tháng cho con, xe pháo chật cả dẫy bên hồ. Chúng tôi, hàng xóm láng giềng cũng sang mừng vợ chồng Thủ. Vợ tôi và Xuân bàn nhau đi mua quà mừng. Họ mang về một cân đường, hai chục trứng gà, một bộ quần áo lọt lòng rất đẹp trên hàng Đào làm quà mừng đẫy tháng. Từ nhà Thủ, xong việc, Phạn vào tôi uống nước. Hết tuần trà thứ hai, gã ghé vào tai tôi nói : " Ông có thấy con bé.

<span class='text_page_counter'>(137)</span> giống ai không ? ". Tôi trừng mắt lên ngạc nhiên. Phạn cười bảo : " Nó chẳng giống ai cả. Thụ tinh nhân tạo đấy ! Như lợn ấy mà. Ông không biết chuyện này đâu. Nhưng tôi thì biết rõ ! ". Tôi có cảm giác bất nhẫn, nhưng lại nhớ lại việc gặp vợ chồng Thủ ở viện bữa nào mà họ cứ né mặt. Có thể như vậy thật. Trầm ngâm một lúc, Phạn lại nói : " Cái hôm nó gặp tôi để nói chuyện con Phượng, có lúc điên tiết, tôi đã tính đạp mẹ nó xuống hồ, thí cho một nhát. Đến lúc nó cúi mặt xuống, kể chuyện rằng vợ chồng phải thụ tinh nhân tạo thì mình lại thấy giận dữ, căm thù cái bộ mặt đểu giả của nó biến đi đâu hết cả. " Từ ngày có con, Thủ chẳng thay đổi gì, vẫn khuôn mặt như hôm nào, nổ máy xe nhè nhẹ qua cửa nhà tôi. Gia đình Phạn cũng thêm đứa nữa là ba mống, hai trai một gái. Vợ chồng tôi vẫn ở với nhau. Chúng tôi hoàn toàn tan vỡ về mặt tình cảm nhưng bệnh tật của đứa con gái vẫn níu chân nhau lại. Có bận, tôi bỏ nhà một đêm sau lần tôi thư từ với một bạn gái cũ tận Huế, bị vợ nghi ngờ trai gái, vặn vẹo rồi ném thẳng vào mặt một câu nói khinh bỉ : " Anh là đứa phản bội. Từ bộ đội về, thực khố rách áo ôm ! Bây giờ no xôi chán chè lại định mèo mả gà đồng hả. Muốn bỏ mẹ con tôi thì nói cho rõ ràng rồi chia tay ! ". Tôi không muốn thanh minh cho sự hèn hạ và kém trải đời của tôi khi ấy. Tôi không đủ sức chịu đựng và hiểu ra nguồn cội câu nói nặng nề của vợ. Tôi cảm thấy bị xúc phạm nặng nề. Tình cảm của cả hai như con chim sẻ già bị bẫy vào lồng, cố vùng vẫy càng xơ xác. Chỉ còn nước chim tự cắn lưỡi chết hay vụt bay đi khi cửa lồng vô ý hé mở. Như thế, vợ tôi và tôi là hai bóng ma buộc vào đứa con tật nguyền. Năm 1988, con gái tôi đã hơn mười tuổi. Cơ quan có đợt đi Đức. Tôi quyết định ra đi mong : " Có tiền mà tay vẫn ". " Cũng nên biết ở xứ khác, người ta sống thế nào " vợ tôi nói vậy. Chúng tôi quyết định, nếu tôi đi thì bán căn hộ ấy để vợ tôi có cái mà chi tiêu chữa chạy cho con. Vợ tôi cũng muốn đi chỗ khác. Cô ấy bảo, đất ấy xúi quá nên con cái không ra gì. Nếu bán hộ ấy, tính cả đất chúng tôi chiếm được trước, sau nhà làm vườn, chái bếp công ty mới làm cho ba hộ sau nhà, vị chi khoảng hai cây rưỡi. Tôi hoả hồng một phòng nhỏ ở khu tập thể gần nhà mẹ vợ bên Tương Mai còn dư ra vài chỉ. Thế là quyết ! Vợ tôi đánh tiếng cho cô Huyền vì biết cô dóng tiếng mua nhà. Dây dưa hai tuần, ông Thủ dứt khoát chỉ trả cây tám. Chuyện bán chác nhà tập thể khi ấy chẳng phải che giấu như xưa nên đến tai Phạn. Tối chủ nhật Phạn sang hỏi giá và không bớt một cắc, hẹn tuần sau chồng đủ hai cây rưỡi. Vợ tôi mừng rỡ, sớm sau vay tiền mẹ đặt cọc cái phòng nhỏ nói trên. Đùng một cái, thứ tối thứ hai vợ tôi lại nhận tiền đặt cọc của cô Huyền. Ba cây ! căn hộ này ba cây ! Vợ tôi báo với tôi giọng mãn nguyện. Tôi không biết xử lý ra sao. Trời ơi, nửa cây với chúng tôi là cả gia tài lớn. Bảo vợ giữ lời với Phạn thì mất toi nửa cây. Tôi trằn trọc tới nửa đêm nhưng không sang nói lại với Thủ hoặc là thưa lại chuyện với Phạn. Đêm tối, tôi quay về nhà Phạn lầm rầm : " Phạn ơi tha thứ cho vợ chồng tôi ! " Ngày giờ tôi đi Đức được quyết định chính xác. Ngày giờ chúng tôi chuyển đi, bứt khỏi nơi chúng tôi sinh sống, chung đụng mười hai năm trời trong cái nhà ba hộ, đã xác định. Vợ chồng tôi vào đêm trước ngày chuyển nhà không sao ngủ được. Con gái đã ngủ, chúng tôi ngồi yên lặng nhìn nhau không nói một lời. Cô ấy đang nghĩ gì nhỉ ? Bao lần tôi tự hỏi. Đêm ấy, tôi linh tính cảm thấy cuộc đi của tôi là cuộc chạy trốn vô vọng hay cô ấy cũng cảm thấy điều ấy mà mọi sự nói chuyện phút chia tay đều trở nên vô nghĩa và dối trá ?.

<span class='text_page_counter'>(138)</span> Cuộc dọn nhà diễn ra trước khi tôi đi Đức hai ngày, rất nhanh và không kèn trống. Tôi và vợ sang chào Phạn. Vợ Phạn vẫn cười chúc chúng tôi may mắn. Phạn thì chẳng nói nửa lời. Mắt hắn lơ lơ nhìn đi đâu. Mãi lúc ra cửa gã mới hạ một lời gọn lỏn : " Thôi, ông đi ! " Gã giận là phải ! Tôi nghĩ. Tôi ngoái lại mảnh đất. Con đường. Cái hồ. Ba căn hộ ! Khi ấy bất chợt xuất hiện bẩy sắc huyền ảo của chiếc cầu vồng dẫn từ bên bờ bên này sang bờ bên kia hồ. Tôi dụi mắt. Không ! Cầu vồng ! Cái hồ nửa nắng, nửa mưa tạo thành cầu vồng, bắt đầu từ cái dải đất bên này vắt sang bờ bên kia. Thực ra câu chuyện chỉ nên kể đến vậy. Nhưng thực bất công nếu quên nhắc tới việc vợ tôi đã hết sức kiên trì theo đuổi chữa bệnh cho con gái tôi. Qua bàn tay của giáo sư X, với hai lần phẫu, mổ tim và mổ chữa xơ cứng cơ tứ đầu đùi, con tôi hoàn toàn đi lại bình thường. Tất nhiên cũng phải tốn kém. Con gái chúng tôi học xong đại học và ra trường, nay công tác tại một viện khoa học. Nửa năm, sau khi nó khỏi bệnh, tôi nhận được thư và đơn ly hôn của vợ tôi gửi sang. Thư khá dài, nhắc lại thêm đau buồn. Nhưng không bao giờ tôi quên được đoạn thư sau : " Em biết, anh không yêu em. Sự cầu mong một gia đình, sau lần anh cãi nhau với chị dâu anh, dẫn đến việc chúng ta đột ngột quyết định từ mới quen biết thành vợ thành chồng. Đốt cháy giai đoạn, cả em và anh đều ngộ nhận. Tuy mỗi người ngộ nhận một dạng khác biệt. Chia tay, em cầu mong cho anh sẽ chẳng khi nào mắc lại khuyết điểm ấy. Không thể có một gia đình thiếu một tình yêu đích thực..." Tôi về phép. Chúng tôi ly dị. Tôi thề chẳng bao giờ quay lại nhà ba hộ. Nó không có tội gì, nhưng tôi không muốn nhìn lại quá khứ, kỷ niệm một thời chật chội ! Vì thế, mấy năm liền, dù vẫn về Việt Nam ăn tết với anh chị tôi nhưng không khi nào tôi ghé qua nơi đó. Sự đời chẳng giản đơn giữ một câu thề. Tết vừa rồi, tôi lại về thì gặp con cả của Phạn đi cùng chuyến, ngồi cạnh ghế. Vô tình hỏi chuyện, mới nhận ra cậu bé mũi xanh lét, ngày nào cha cậu định quyết số phận cậu chỉ học hết lớp năm, biết đếm là đủ. Thằng mũi xanh ấy, vừa đỗ đại học kiến trúc tại Đức với số điểm cao tuyệt đối và được ở lại để làm tiếp bằng tiến sĩ. Vậy là tôi quay lại nhà ba hộ với sự háo hức qua những lời kể của con Phạn : " Bố mẹ cháu vẫn nhắc tới bác. Mẹ cháu vẫn hay tới thăm vợ bác. Mà sao cả hai bác không đi bước nữa hở bác ? Chú Thủ sinh thêm con gái nữa. Vẫn ở đấy, nhưng bây giờ nổi tiếng lắm. Chú ấy lên ti vi, viết cả thơ, mới đỗ tiến sĩ mĩ học gì đó ! Cô Huyền lên Hồ Tây xây một biệt thự, sống hẳn trên đó với con. Bố mẹ cháu dạo này bỏ bán lòng lợn tiết canh, chuyển sang mở hai cửa hàng bia hơi. Người làm thuê bây giờ ở quê ra đầy nên bố mẹ cháu không phải đầu tắt mặt tối như trước nữa." Tôi bàng hoàng không nhận ra con đường cũ. Một dãy phố dù lộn nhổn nhưng đúng là phố, hiện ra bên hồ không tên xưa. Mặt hồ vẫn nhiều bèo tây và tôi cảm thấy hẹp lại. Tôi chẳng còn trẻ để xúc động, dù nhận ra cái mùi tanh tanh của nước hồ ngày nào. Ngôi nhà của Thủ và Huyền rộng tới hơn bẩy chục mét, cao vót lên với cái tháp tròn Ba Tư. Tháp muốn nghiêng chùm lên ngôi nhà ba tầng của Phạn. Được báo trước, Xuân ăn mặc rõ nuột nà, còn Phạn thì nghiêm chỉnh trong bộ com lê màu xám rất điệu. Họ đã bốn cháu, nom cũng khác truớc, đẫy ra và tóc đều đổ muối tiêu cả lượt. Chẳng đứa nào chịu chỉ biết đếm cả ! Gã cười toắc tận mang tai khi tôi nhắc chuyện cũ và chỉ sang nhà bên : " Xem kìa ! Ông tiến sĩ mĩ học xây cái nhà nửa tây, nửa ta cứ chực.

<span class='text_page_counter'>(139)</span> nuốt tôi. Tôi thu xếp xong cửa hàng bia hơi nữa cho ổn, sẽ bán đây đi, nhường khu này cho lão và chuyển hẳn đi anh ạ. Con cái đều muốn vậy. Chúng nó bảo, bố mẹ lưu luyến gì đây ? Sau này người ta sẽ chẳng phá tất đi để xây lại hết cho mà xem ! Bây giờ chả đứa nào nó nghe mình, nên mình khéo phải theo chúng lên khu mới làm nhà mới, cho đời chúng chuyển hẳn sang cái đất khác đi. Ông anh và tôi cố sống chờ xem bọn trẻ chúng nó có cơm cháo gì không rồi nhắm mắt. Mà đếch ai biết được con tạo nó vần thế nào ông anh nhỉ ? ". Phạn đặt tay lên vai tôi. Mắt ấy, môi ấy, hơi rượu thơm nức phả vào tôi để tôi nhận ra hắn đã rũ sạch nỗi bực xưa. Mưa xuân lắc rắc lẫn trong nắng nhạt. Bụi cúc tần sót bên kia đường mới nhả đám tơ hồng vuơn lên chua chúa những sợi lua rua vàng óng, cố bứt lên, trong ảo huyền mưa nắng, khỏi màu xanh đông già cũ. -------------------------(1) Chợ Cóc : chợ họp do nhu cầu tự phát. Lúc nơi này khi mọc lên nơi kia. Không có tên, không nằm trong quy hoạch.Hà Nội rất nhiều chợ như vậy. (2) Xe máy Simson của Cộng Hoà Dân Chủ Đức. Những người đi du học khi ấy thường được tiêu chuẩn mang về hai chiếc trong bốn, năm năm tại Đức. Rất được giá thời kỳ Đông Đức chưa thống nhứt. (3) Đồ phò, trứng phò, có ý loại trứng không ra gì. (4) Nhãn hiệu Con Nai Vàng. Cách nói của đường phố, ý đây là đồ xịn. (5) Đồng bọ, Cắc đểu. Tiếng lóng đường phố. Chỉ tiền không đáng mấy. (6) Knut Hamson, Thomas Mann, Winston Churchill, Ernest Hemingway, bốn nhà văn giải Nobel trước 1954 của Nauy, Đức, Anh, Mỹ. (7) Thiên nhiên- Tự nhiên , cũng từ biến dạng của đường phố, ý nói hợp tự nhiên. (8) Một kiểu xe được ưa chuộng thời kỳ ấy của Nhật. Trên bảng đồng hồ có đèn xanh, kim vàng nên người ta gọi vậy để phân biệt với xe Honda Sài Gòn trước bẩy nhăm. Thung lũng hoa vàng Thứ tư, 11 Tháng 3 2009 09:19 Tôi có dịp làm quen với người cựu binh phía Nam thời 1975 khi về Củng Sơn viết bài kinh tế miền núi. Đêm Thị trấn heo hút này vẫn nhấp nháy dãy điện và cũng như bao phố núi khác, cũng có quán đèn mờ, karaôkê văng vẳng, video xập xình và các dãy quán nhậu đèn dầu ngọn lu ngọn tỏ Đám thanh niên mới lớn chập chững làm theo thiên hạ cũng phì phèo thuốc lá, văng tục, đi lang thang và tụ tập từng nhóm đàm tiếu các cô nàng đang mua vé vào xem cải lương Sài Gòn ra Trung biểu diễn. Thấp thoáng vài mái tóc quăn tít, đen cóc cáy trong bộ quần bò, áo pul trắng thơm sực mùi camay của đám thanh niên Êđê. Bên tôi, thằng bạn cũ ở quê nhà sót lại, giải phóng vào du kích xã, vào đoàn thanh niên và đến nay chễm chệ ngồi ghế chính quyền. Bên cạnh, còn vị khách phương xa mái tóc điểm bạc đang cúi đầu đếm bước và cô con gái.

<span class='text_page_counter'>(140)</span> trắng trẻo, dễ thương đến dịu dàng đang tò mò tròn mắt nhìn quang cảnh xa lạ trước mặt. Duy, bạn tôi khẽ nói: “Đây là chú Nam, người mà cách đây hai mươi năm trong đoàn người tháo chạy toán loạn ở trận mở màn đánh Ban Mê, tin sống đấy, cậu ráng khai thác”. Rồi nó bảo nhỏ vị khách. Người đàn ông nhìn tôi cười nửa miệng, khẽ gật với khuôn mặt chữ điền, ánh mắt sâu kín trên sóng mũi thẳng. Thả bộ cũng hết thị trấn trong 15 phút, chúng tôi quay về nhà khách. Duy chiêu đãi bia lon cho thằng bạn lâu ngày gặp mặt và tế nhị cáo từ. Ngồi bên cạnh người cựu binh ngày trước, cả hai yên lặng nghe gió núi lồng lộng thổi về từ phía xa như ngàn con chiến mã băng băng tung vó đổ về đồng bằng, rồi lao đến, ồ ạt, cuộn tung lá cỏ rồi vút đi bỏ lại phía sau âm thanh của hàng cây nghiêng ngã ràn roạt. Người lính cũ trên bờ Nam vào buồng buông mùng cho con gái, trở ra với chai rượu trên tay, nhỏ giọng: - Hai mươi năm qua rồi, nhưng hình ảnh cũ luôn để lại trong tâm trí tôi. Đau đớn, dằn vặt, khổ tâm dù tôi đã sang phía bên kia bờ đại dương để sống. Tôi biết anh thích nghe câu chuyện tôi kể. Ừ. Thì tôi kể, nói anh nghe. Đừng viết gì trên mặt báo. Có tội cho người đang còn sống và những người đã mất đi, thân xác trải dài theo đường Năm, đường Bảy, dọc thượng nguồn sông Ba mênh mông, cả trên những cánh rừng heo hút từ Hậu Bổn, Cheo Reo, và cả những con đường mòn phủ ngập cỏ tranh mơ hồ trên sơ đồ tác chiến. Đêm nay, ngồi cùng anh dù quá lâu mới có dịp trở lại nhưng tôi vẫn còn cảm giác như ngày nào cùng tháo chạy... Ông thở dài. Phía xa, đợt gió của đại ngàn tiếp tục đổ xuống ào ạt và gió từ thung lũng sông Ba thổi lên réo rắt, để hợp lại vun vút, cuồng nộ như thít chặt không trung, như tái hiện hàng loạt bước chân rầm rập, hỗn loạn, nức nở, ai oán và lại yên lặng. Ông cúi đầu, trầm buồn kể... “ Tháng ba năm một chín bảy lăm. Một tiếng nói vang lên không đúng mật ngữ: - Ê Kỷ, tao chuồn đây! Lại tiếng trả lời khẩn thiết : - Khoan đã, mày... Nam đã vứt vội ống bộ đàm cho thằng hạ sĩ truyền tin rồi nhoài người trườn vào cánh cửa trực thăng HU.1A vừa hạ xuống và đang hối hả nhấc càng bốc khỏi mặt đất. Cánh quạt tạo cơn xoáy lốc cuốn tung cát bụi, xoáy tròn từng đám cỏ tranh. Khi máy bay đảo vòng lượn, anh ngồi thở dốc vuốt vầng trán đẫm mồ hôi, mắt nhìn xuống bóng gã lính ban nãy đang khom người chạy lúp xúp tránh gió giật rồi mất hút trong đám lau sậy. Hết rồi. Xong rồi. Cả tiểu đoàn đóng rải rác các cứ điểm phía Tây nam Ban Mê Thuột bị nướng sạch. Đại đội tiếp viện của Kỷ vừa đổ xuống bị giập pháo nặng nề lúc chiều vừa sập tối. Bọn bên thông tin đã cung cấp số liệu trinh sát cho quân báo. Vậy mà cả lũ không tin ở hướng này, làm gì có T.54, cũng chẳng thấy vết môlôtôva lẫn dép lốp. Giờ đây thì có thật khi Nam được lệnh đi thị sát. Tội Kỷ. Chờ bọn nhảy dù đến thì nó nằm trong poncho phủ bụi đất đỏ hoặc tan xác nơi rừng rậm. Nam lắc đầu thở dài. Thằng lái phụ chuyển gói salem sang anh, hét to át tiếng động cơ rung lắc ầm ĩ: “Hút đi, Đại úy. Hú vía hả?”. Anh khẽ gật, châm thuốc, vị đắng cay xòe nơi cổ. Nhìn qua khung kính phía bên dưới là những trảng rừng ngút mắt, từng cụm khói bốc lên từ từ và hiện dần nhánh sông Sêrêpốc lấp lánh trong nắng buổi sáng. Nam biết, phía đó quân giải phóng dày đặc. Nam thẩn thờ chợt nhớ Kỷ cho đến khi thằng lái hạ dần độ cao đưa máy bay từ từ tiếp đất làm khói bụi bốc lên vần vũ. Nó lột mũ lái, mỉm cười quay sang bảo nhỏ lúc khóa xong hệ thống điều khiển cần: “Đến rồi, Đại úy”. Anh đẩy nhẹ cửa, nắng lóa mắt trải dài trong sân cỏ cháy sém nham nhở đất cát. Từng ụ đất chống đạn trong bao cát đặt dài bên cạnh những cụm thép gai xen kẽ với vỉ sắt PSP. Nam bước tránh hàng máy bay lên thẳng và bọn kỹ thuật đang ngồi hút thuốc trò chuyện to nhỏ bên cạnh. Trung sĩ trực ban nhô đầu kêu từ hầm số 1: “Đại úy, đại tá cho gọi...”. Anh quay lại đã thấy Hiền, bạn Kỷ chờ sẵn từ lúc nào bên cửa phòng trực. Quần Jean sẫm, áo pul vàng bó sát khuôn ngực đầy đặn, trông cô nhỏ nhoi khác lạ và không hợp với khung cảnh chiến trận này. Hiền đến sát bên, nghe rõ tiếng thở dồn, đôi mắt tròn ngơ ngác, khẩn cầu: “Kỷ không về sao anh?”. Nam khẽ lắc: “Nó ở lại, về sau”. Hiền khóc, bíu chặt Nam: “Sao anh không đưa Kỷ về? Hai người dối em”. Nam mệt mỏi quay sang hướng khác, nói chậm: “Nó kẹt, ít bữa sẽ về, em nên quay lại Sài Gòn”. Hiền lắc đầu, khóc nấc: “Không, em sẽ ở lại”..

<span class='text_page_counter'>(141)</span> Anh nín lặng, từ xa chiếc Jeep phóng hết tốc lực, xoáy tung bụi đến sát chỗ anh trong tiếng phanh gấp, có tiếng gọi: “Nam lên xe, về phòng tác chiến”. Đại úy Phi nhô người ra ngoài kéo vội Nam: “Ổng đợi, gầm gừ trên đó, tan nát hết rồi hả ?”. Nam nhìn Hiền rồi cúi đầu lúc xe trở ngược tay lái nghiến rít lên đá sỏi dằn sốc để chạy về Bộ chỉ huy. Chao! Kỷ ơi, con Hiền lên thăm mày. Cô bé văn khoa gặp chàng sĩ quan Đà Lạt trong đêm “Hát cho đồng bào tôi nghe” tại Sài Gòn ba năm về trước. Thôi hết. Một giờ sau từ phòng tác chiến bước ra, Nam được tin cả đại đội Kỷ kể như xóa sổ trên bản đồ hành quân. 2 Trong tiếng pháo rít róng dồn dập nổ, chớp nhoáng ùng oàng, tiếng AK nhịp dài, B40 toang toác, ầm ào và hỏa tiễn rú rít chụp xuống phía sân bay chính. Tiếng la hoảng loạn của đội cảnh vệ trong tiếng trực thăng quạt cánh rời khỏi mặt đất. Nam vứt vội ống nghe, chụp lấy mũ sắt khi được lệnh di tản khẩn cấp để lao vội ra ngoài. Trời mờ sáng, sương mù dày đặc bóng người lom khom hối hả qua lại, anh nghe rõ tiếng Thiếu tá Hoàng: “Zoọt thôi. Bám theo bọn bọc hậu. Mẹ kiếp, bọn sĩ quan tham mưu họ tẩu từ lúc nào rồi, còn lính nữa, chạy sạch!”. Nam quay lại vừa lúc Phi đến, gọi giật: “Đi Nam, theo tao...”. Chiếc Jeep Phi dự tính còn đó, cả hai liền hòa vào dòng xe đang chen nhau xuống phố. Nam chợt nhớ Hiền đang ở khách sạn Anh Đào liền nhắc: “Qua ngã sáu, đón Hiền, rồi vù thẳng ra sân bay”. Phi trợn “Đ.m, tan nát sân bay rồi. Việt cộng giập gớm thiệt, không khéo xuống đó bị nghẽn”. Rà sát cửa thềm khách sạn, Nam nhảy vội từng bậc, từng bậc thang xoắn ốc rồi đạp tung cửa phòng kịp thấy Hiền cuốn mình trong chăn run rẩy, tím ngắt. Nhận ra anh, cô càng ôm chặt. Nam nói vội: “theo anh, lẹ lên, trễ rồi”. Xe lại trở đầu cho Phi rước thêm gia đình người bạn. Cuống cuồng, vội vã, va lách, chen lấn rồi hối hả theo dòng người xuôi hướng đồng bằng bởi sân bay không còn bọn lái. Tuồn chạy. Nháo nhào. Phía ngã sáu đã dày đặc từng cụm khói lan tỏa trong tiếng đì đùng của súng, lựu đạn, kho tiếp liệu, trung tâm hành quân. Tiếng khóc, tiếng réo như át hẳn tiếng gầm rít của từng loại máy bay tiêm kích, của bom tọa độ, của Cachiusa, ĐKZ, của muôn vàn kim khí va chạm nhau loảng xoảng. Rồi nghẽn đường. Rồi thông đường. Rồi chà đạp lên nhau để chạy. Gã thiếu tá Thanh, bạn Phi đã vung súng ngắn mở đường và lăm lăm súng phóng lựu bên hông xe canh chừng trước mọi sắc lính lúc Nam lo thay lái để Phi nắm tiểu liên. Một tên rằn ri rớt xuống từ chiếc GMC chật cứng vội chạy theo đu bám càng xe Nam van nài: “Thiếu tá, thiếu tá cho em lên với”. Gã bạn Phi lạnh lùng lắc đầu: “không được”. Tên rằn ri nhỏ giọng lần nữa liền bị vẩy nhẹ phát đạn vào ngực ngã đập xuống đường và đoàn xe phía sau đang rú ga đến cháy lốp bình thản đạp lên. Một chiếc, hai chiếc, đoàn quân xa đi qua không để vết tích gì của tên lính ban nãy, chỉ còn chiếc thẻ mã hiệu KBC sũng máu trơ trọi dưới lòng đường. Nhà cửa tan nát, súng ống vứt lăn lóc cùng xác chết, vật dụng vung vãi như cơn bão lớn vừa quét qua. Từng dòng người vẫn chạy, máu vẫn đổ sủi bọt trên đường nhựa hâm hấp nóng, trên các hành lang với những đôi mắt mở trừng không còn sự sống. Xe qua khỏi thị xã. Dừng lại trong cái nắng hanh của tháng ba Tây Nguyên, từng cơn gió khô khốc thổi bốc từng đám đất đỏ tạt vào những người đã kiệt sức. Mọi người mồ hôi bết bụi, lào phào từng tiếng ngắt quãng và nhìn lại phía sau thị xã Buôn Mê Thuột khói lửa ngùn ngụt. Thiếu tá Thanh chửi đổng: “Mẹ nó. Cả bầu đoàn thê tử cuốn sạch, không nói một tiếng”. Nam yên lặng, lục túi cá nhân tìm khăn tay đến mở nắp capô xả nước bình. Nóng, nóng cùng khắp thùng xe, lốp xe, mặt đường, từ thân thể trong cơn hỗn độn, nháo nhào. Anh đem khăn lại cho Hiền. Cô ngồi rũ rượi trong góc, mắt nhắm nghiền và miệng cầu kinh nho nhỏ. Nam khẽ lay vai, cô hốt hoảng mở choàng mắt và thờ thẫn cầm lấy: “Đi đi đâu nữa anh?”. Nam lắc đầu khi nghe xa xa vọng lại những tiếng nổ đanh giòn: “Cứ theo dòng người, hẵng hay”. Thiếu tá Thanh đóng máy bộ đàm, cáu kỉnh: “Lộ béng, thông tin bị nhiễu, phía Việt cộng đào mã tao trong máy. Thôi, chuẩn bị tuồn về Cheo Reo, mấy cha ở dưới”. Gã đến bên vợ con, người đàn bà đầy đặn sau mấy giờ tuôn chạy mắt đã thâm quầng, đôi tay trắng múp ôm choàng hai đứa nhỏ ngơ ngác, bàn chân đặt trên chiếc Sansonal đã ố bụi vàng và xung quanh đồ đạc hòm xiểng chất đầy. Gã nhìn với khuôn mặt đờ đẫn thoáng chốc rồi nghiến răng: “Đi tụi mày”. Nam, Phi ngồi băng trước, gã cầm thêm M.16 bọc hậu phía sau. Xe lại chuyển bánh hướng theo đoàn xe đang chen nhau cuốn bụi cả một vùng. Anh mường tượng cảnh đàn bò rừng đang rùng rùng di chuyển tìm vùng đất sống trong cơn lốc mịt mù khói xăng, lửa đỏ, trong những triền cỏ úa vàng và cả những bụi dã quỳ bầm máu..

<span class='text_page_counter'>(142)</span> Buổi chiều xe Nam bám kịp đoàn xe của các sĩ quan bên quân đoàn. Đủ sắc lính còn áo mũ cân đai, có cả xe bọc thép M.113 và M.48 tuôn xích rào rạt. Trên từng thùng xe GMC, DOG, cả xe của hãng Phi long, quân nhân khu gia binh và dân chúng đang chen chúc đu bám cùng vẻ mặt kinh hoàng. Họ ngước nhìn từng phi đội máy bay đang rà sát yểm trợ rồi sãi cánh sang ngã Ban Mê. Thiếu tá Thanh nối được ban tham mưu, thúc Nam vượt gấp, lách qua từng dòng xe dày đặc để rẽ ngang vào trảng trống trước mặt. Sáu chiếc Jeep phủ bụi có dãy ăng ten tua tủa châu đầu vào nhau và trước nó túm tụm nhiều người. Gã phóng xuống, lao đến gằn giọng: “Mẹ! Các ông chạy giỏi dữ vậy. Sao...”. Đại tá Quảng, tham mưu phó quân đoàn, khẽ nạt: “... xuống được đây là may rồi. Còn bao người đang kẹt trên đó, có giỏi về Tuy Hòa mà xỉ vả”, rồi... đùng đoàng, chớp nhoang nhoáng lé, bầu trời như chao đi bên mặt đất đưa võng. Lưỡi gươm khổng lồ đột ngột phạt xuống bởi tiếng rít của hỏa tiễn, của pháo, của tiếng hô xung phong ồ ạt từ những quả đồi trọc xung quanh vang lên trong trận tập kích đột ngột. Cắt xé, banh nát đội hình với tiểu liên, trung liên, đại liên quất chéo cánh sẻ, với M.79, B.40, B.41, cối không giật và cả lựu đạn bùng nổ dữ dội. Từng chùm bom từ F.5, F.111 không giúp nổi phản kích mà thêm phần hỗn loạn làm cả không gian bùng vỡ, sôi réo trong tiếng hô, tiếng rên, tiếng gào, tiếng khóc... Mọi người từ ngơ ngác sang kinh hoàng chỉ kịp chúi đầu vào xe mình để nhìn bánh xích M.113 và nòng pháo quay cuồng, cấp tập. Lại ngừng, không gian im ắng chỉ tồn tại từng cụm khói, bãi lửa cuồn cuộn, mùi khét của thây người chết cháy và những đống thịt xương vung vãi, nhòe nhoẹt với đồ đạc. Rồi lại ồn ào, la khóc, tiếng gào thét chửi bới gọi tìm nhau văng vẳng. Tốp sĩ quan bật dậy, tức tốc đảo vòng xe rời trảng, vẫy tay cho cả đoàn quân xa còn lại tiếp tục tuôn xuống đồng bằng. Bỏ lại phía sau lưng di thể cuộc chiến với mảnh đất một thời đã sinh sát. Ông Nam ngừng lời kể lơ đãng nhìn ra ban công nhà khách, nhìn những tàn cây đang nghiêng ngã vì gió và lắng tai nghe lời thì thầm của đất. Như từ trong sâu thẳm nỗi nhớ đang dần hiện về, ông lại cúi đầu thì thầm kể: “Tôi nhớ đoàn quân rút chạy bị chặn vào buổi trưa ngày hôm sau tại chân đèo Cheo Reo. Lúc những loạt A.K bất thần tuôn xuống xối xả và B.40 bắt nhịp chặn đứng chiếc chiến xa mở đường máu. Vậy là tán loạn, không còn sự chỉ huy, mạnh ai nấy chạy. Đoàn rồng rắn của hàng trăm ngàn dân thường cộng thêm lính và mấy ngàn xe pháo đạp lên nhau tìm đường thoát. Bọn biệt động và thiết giáp liều chết xông lên bị đánh bật xuống chân đèo cộng thêm bọn không quân từ sân bay Thành Trung- Phan Rang đổ bom phá vây trúng phải đội hình. Vậy là tan nát rệu rã. Xe tôi tuồn rừng sang Phú Bổn. Đói, khát, tuyệt vọng chưa kịp nghỉ ngơi thì chập tối những loạt pháo kích dập xuống ngay lòng thị xã. Lại hỗn loạn cực điểm và kéo cả người dân ở đây vào con đường địa ngục. Con đường địa ngục 7B cả gia đình thiếu tá Thanh đã chết ở đó, khi xe chúng tôi cạn kiệt xăng, nước. Phía trên đầu là những chùm đèn dù lơ lửng của máy bay ném xuống soi đường. Tôi bỏ xe dẫn Hiền bám theo đoàn người khi gã thiếu tá nấn ná ở lại vẫy xe cho vợ con đi nhờ. Tôi nghe gã kêu rống liền ngẩn nhìn. Bọn lính kỵ binh từ chiếc GMC đang pha đèn nhảy xuống cả tốp, chúng bâu lại, chửi bới : “ĐM. Sao không tử thủ...”. Rồi đạp gã ngã nhào. Khi gã còn lê la dưới đất chúng xô đến chiếc Jeep cười khả ố lôi người phụ nữ và hai đứa nhỏ ra ngoài. Gã rút súng nhả đạn làm hai thằng bật ngửa, còn gã nhận nguyên băng M.16 nát bấy, hai đứa nhỏ chúng nhét lại chiếc Jeep bật chốt lựu đạn trước khi đẩy bà mẹ lên xe chúng. Buổi sáng tiếp theo trận bom lạc hướng nhằm vào con đường địa ngục, xóa sổ thêm lũ người hành hương tìm đất sống. Tụi tôi lại luồn rừng, nhổ trộm sắn mì và uống nước suối nơi bản Thượng. Những bản này cũng bị bọn lính đến trước tàn phá, cướp bóc, nát sạch. Trưa hôm sau chúng tôi đến thung lũng Sông Ba, thoáng nghe gió thổi mát rượi dù trời đang chan nắng. Ở đây đã có nhiều người, nhất là cấp chỉ huy quen mặt chạy xuống sớm đang ngồi kêu trời bởi dòng sông rộng trên 300 mét trở thành: “Thung lũng chết” vì không có một cầu phao nào như công binh báo trước. Phía sau, dòng người vẫn đổ đến. Tôi nghĩ, chỉ cần một trận pháo nữa thì hủy sạch. Đoàn người vẫn đổ đến trước dòng sông Ba cuộn chảy loang loáng nắng. Rồi máy bay Chinooc đổ vỉ sắt PSP, rồi hàng đàn trực thăng bu đen đặc trên thung lũng sông Ba để ném bánh mì, lương khô, sữa hộp xuống những con người lả đi vì đói khát, vì hoảng loạn cứ lịm dần gục xuống mặt sông gợn nước. Những xác người từ thượng nguồn lững lờ trôi cộng những người hoảng loạn đến điên dại đang thất thểu đi lại thành một hình ảnh khủng khiếp. Phi cũng chết nơi đấy bởi Hiền bị ốm. Cô ấy đã cạn kiệt sức lực không lê bước nổi. Phi đi tìm sữa trong lúc máy bay tiếp tế đổ thực phẩm thưa dần. Sự giằng co đến ẩu đả và chốt lựu đạn đã bật..

<span class='text_page_counter'>(143)</span> Phi bò về người đầy máu với lon sữa trên tay và đuối hơi dần bởi thi gan cùng mặt trời trút lửa lúc ban ngày và hơi đất, sương núi bốc mù mịt vào ban đêm. Ngày rưỡi sau công binh bắt xong cầu phao chở hàng vạn con người để họ ào lên, bám lên và rơi xuống dòng sông cuộn chảy. May sao, không có cuộc pháo kích lớn xảy ra nhưng tôi vẫn biết, thung lũng sông Ba đã trở thành nghĩa trang khổng lồ vì đói, bệnh tật, vì thanh toán nhau để giành sự sống dù là đoạn cuối cùng để đặt chân đến đồng bằng”. Ông Nam đứng lên, bước chếch ra ban công hướng mắt đăm đăm về phía có nhánh rẽ của dòng sông Ba đang lặng chảy và mờ trong sương mù. Tôi bước đến sát cạnh để nghe ông nói: “Tôi không qua được bởi Hiền đã ốm. Để ngày hôm sau trông thấy từng bầy quạ đen dày đặc bãi sông. Trên khúc sông dài, xác người vẫn trôi xuống và từ phía tỉnh lộ 7B dòng người vẫn còn thất thểu, ùn ùn kéo xuống cầu phao qua sông. Hiền là cô gái Sài Gòn lần đầu va chạm với tiếng súng khởi điểm cuộc tấn công và bị kéo vào cơn lốc hoảng loạn của sự sụp đổ. Tôi tưởng cô ấy không thể qua được dù một phần ba chặng đường máu lửa. Nhưng không, từ cơn kinh hoàng tột độ của phi pháo đổ xuống lòng Ban Mê Thuột đến khi thấy vợ gã thiếu tá bị quẳng lên xe, thì cô ấy bình tĩnh trở lại để bám theo tôi từng bước, ngủ vùi trên vai tôi dưới tán lá rừng lạnh lẽo đầy ánh lân tinh và mơ thấy Kỷ về hiện hữu cùng cô ấy trên chặng đường dài. Lúc bên bờ suối cạnh buôn Thượng bị tàn phá, tôi đứng canh cho cô ấy tắm và nghe có tiếng nấc tắt nghẹn nên đã lao vào để sững lại. Bên dòng nước róc rách chảy, ba cô gái Thượng bị lính hãm hiếp nằm trần truồng trên gờ đá mắt trừng trừng nhìn mây trời và dòng máu đen thẩm còn đọng nơi khóe miệng. Tôi ôm chặt cô ấy, sợ cơn ức chế lâu ngày bùng phát. Nhưng không, Hiền vẫn yên lặng và bình thản hái lá cây rừng che phủ”. Lúc Hiền sốt ven bờ sông Ba. Bên tôi, cô ấy nói: “Bạn anh chết, Kỷ chết, em thì theo anh. Có vướng bận không hở Nam?”. Tôi lắc đầu, Hiền cầm tay tôi, khá lâu để nói: “Em để ý mỗi khi bên kia đánh, họ chỉ nhằm vào đám lính, ta phải đi le hoặc hòa vào dân chạy nạn”. Cũng đúng, mỗi lần tập kích, mỗi lần bắn chéo cánh sẻ họ thường quạt tơi bời vào những ai còn mang quân phục nên sau này sắc lính lại hợp cùng áo dân. Rồi chúng tôi thoát được khi còn kẹt bên này sông Ba. Tôi đưa Hiền lên quả đồi có nhiều bụi sim tím và lũ chuồn chuồn cánh đỏ. Trực thăng cánh quạt quần đảo chờ bốc người di tản bị lạc đã đáp xuống khi tôi vẫy rối rít chiếc áo lót của Hiền và tay cầm vài thẻ vàng mang theo sáng lóe trong nắng chiều. Máy bay đảo vòng bốc thêm vài gia đình khá giả để quay về bệnh viện tiểu khu Phú Yên. Trên trực thăng tôi nhìn xuống đồng bằng Tuy Hòa xanh rì ruộng lúa và bỏ lại sau lưng thung lũng tử thần, quên đi con đường chết. Hiền đã ngất khi nhìn thấy bãi biển lấp lánh những cơn sóng bạc vỗ về bãi cát phía xa...”. Người đàn ông ngừng kể, chậm rãi đi vào trước phòng đứa con gái và nhẹ đặt người xuống ghế. Ông nhìn tôi, nói nhỏ: “Hoài Niệm đã ngủ, nó không biết mình và con của cha Kỷ mẹ Hiền. Ngày Kỷ về Sài Gòn học khóa huấn luyện cấp tốc khi trở lên Kỷ đâu biết đã để lại giọt máu và khi Hiền lên thì Kỷ đã chết. Lúc chúng tôi rời Tuy Hòa vào thẳng Cam Ranh sang hạm đội bên Phú Quốc thì Sài Gòn bị tấn công và giải phóng. Tôi đưa Hiền qua Mỹ và liên lạc cho gia đình nhưng không một tin tức. Tôi thành người chồng hờ bên đứa con người bạn vừa sinh ra. Khi con bé đủ tuổi, cô ấy bên những cơn strees đầy bấn loạn phải vào viện Tâm thần và mất ở đó. Hai mươi năm tôi trở lại chiến trường xưa cùng con đường máu lửa. Từ Ban Mê Thuột lên dòng Sêrêpốc thả nhẹ nắm tro của Hiền như lời ước nguyện cuối cùng là về bên Kỷ và xuôi đường tỉnh lộ 7B qua thung lũng sông Ba hiền hòa đâu còn thung lũng tử thần như tên gọi thuở nào. Giờ đây, mọi vật đã khác hẳn, những nhịp cầu sắt xưa kia bị đánh sập nay đã thay bằng trụ xi măng vững chắc. Dòng sông Ba mơ màng với những cánh buồm lộng gió nhẹ nhàng xuôi ngược. Đôi bờ thấp thoáng cỏ lau, hoa vàng của mướp, những nương bắp trổ cờ. Nó trở thành thung lũng hoa vàng dù trong lòng đất một thời chứa đựng máu xương và nước mắt. Bởi chiến tranh nào cũng có kết quả của nó”. Ông im lặng. Ngoài kia, gà rừng đã gáy. Sương núi tràn xuống bay la đà. Đã hết những cơn gió lộng thổi từ thung lũng phía xa và của đại ngàn. Tất cả vẫn yên lặng như chìm vào cõi vô thức đầy hoài niệm. Cà.

<span class='text_page_counter'>(144)</span> na đắng Thứ tư, 25 Tháng 2 2009 08:46 Năm tôi lên tám thì anh hai tôi hy sinh. Ngày được tin báo tử, mẹ tôi vật vã đến lịm người. Ba tôi lúc nào cũng kề một bên. Ông van nài: “Thôi mẹ nó! Phải sao chịu vậy. Âu cũng là...” Lâu lâu, ông quay mặt đi, lén chùi nước mắt.... Mấy tuần liền nhà buồn như nấm mộ. Đi học về, tôi lủi thủi ăn cơm một mình rồi chui vào xó nhà buồn thỉu buồn thiu. Ba tôi kịp lấy đâu ra tấm hình của anh hai tôi đặt lên chiếc bàn nhỏ phủ khăn trắng, cạnh bàn thờ dì tôi. Từ nay, nhà có hai liệt sĩ - đều chết trẻ. Dì tôi, lúc hy sinh nghe nói cũng chỉ quá hai mươi. Luôn một tháng, ba tôi không về Phước Chỉ. Ông tự tay lo cơm nước cho mẹ tôi. Việc này trước kia ông vẫn thường làm, kể cả khi còn là một cán bộ đương chức. Đáp lại sự vỗ về của ba tôi, mẹ tôi chỉ khóc. Hoặc ngồi thẫn thờ. Một đêm, tôi tỉnh giấc. Nghe khát nước nhưng không dám gọi mẹ, tôi đành rón rén rời giường mò ra phòng ngoài. Tôi giật thót mình khi nhác thấy một bóng đèn trước bàn thờ anh hai tôi. Trong ánh sáng tù mù của ngọn đèn dầu nhỏ và mấy nén nhang lập loè tôi định thần nhìn kỹ. Hoá ra là ba tôi. Ông lầm thầm khấn vái gì đó rất lâu, rồi đứng lim dim, đầu cúi gục. Hôm sau, tôi thì thào với mẹ: “Mẹ ơi! Ba cũng thương anh hai dữ lắm hả mẹ?” Mẹ tôi hơi sửng sốt. Bà nhìn tôi hồi lâu: “Sao con hỏi vậy”. Im lặng một lúc, bà thở dài: “Con ruột sao không thương? Rất đỗi là...” Thấy mẹ tỏ vẻ không muốn tiếp tục câu chuyện tôi đành im, dù lòng đầy thắc mắc. Rồi mẹ cũng nguôi, thôi không vật vã nữa. Sáng hôm ấy, bà dậy sớm lặng lẽ chuẩn bị các thứ cho ba tôi về Phước Chỉ. Vài ký đường, ít hộp sữa, rồi xà bông, thuốc cảm... Ba tôi đeo cái túi đầy ứ lên vai, ngập ngừng: “Mẹ nó ở nhà rán giữ sức. Thông cảm cho tôi...” Ông hấp tấp quay đi sau khi vỗ nhẹ vào đầu tôi: “Ba đi nghe Thảo”. Tôi không dạ, lòng bỗng trào lên nỗi tức giận. Trước đó, tôi cứ nghĩ ba tôi sẽ không đi đâu nữa sau cái biến cố đau buồn ấy. Từ khi có chút trí khôn đủ biết lưu ý những điều bất thường quanh mình, tôi đã lờ mờ cảm thấy gia đình tôi hình như không giống nhiều gia đình khác. Ba mẹ tôi chưa từng to tiếng với nhau bao giờ. Người này luôn tìm cách làm vừa lòng người kia từ những việc nhỏ nhất. Vậy mà vẫn có gì không ổn. ẩn náu bên trong cái hạnh phúc dịu ngọt êm đềm, có những khoảng tối mơ hồ, âm thầm và dai dẳng. Tôi không tự giải thích được điều gì, chỉ miết một cách mang máng rằng: ngoài cái gia đình nhỏ bé, trong đó có tôi, ba tôi còn có một gia đình khác ở Phước Chỉ – với một người đàn bà không phải mẹ tôi. * * * Mấy năm sau, ba tôi vẫn giữ thói quen mỗi tháng về nhà một lần, mỗi lần năm ba bữa. Lần nào về, ông cũng rất chăm đốt nhang cho hai bàn thờ vẫn đề liền nhau. Bàn thờ dì không có ảnh. Có khi ba tôi lại đờ đẫn ngó bức di ảnh của anh hai tôi cả giờ, rồi lại lầm thầm khấn vái chi đó. Những lúc ấy, tôi cứ thắc mắc. Không biết ở cái cõi riêng của mình, anh hai tôi có nghe được lời nào không. Cũng chẳng biết vong hồn anh có về nhà được chưa, khi mà hai cốt vẫn còn đâu đó tận chiến trường. Mẹ tôi ngày càng ít nói. Bà vẫn chăm sóc cha tôi rất chu đáo, chu đáo đến từng bữa ăn, từng ký đường, hộp sữa mỗi khi ba tôi chuẩn bị rời nhà. Một hôm, mẹ tôi nói: “Thảo sửa soạn về Phước Chỉ với ba, thăm dì Lành”. Giờ, thì tôi đã biết tên người đàn bà từng chung sống với ba tôi bấy lâu. Chuyện thăm nom với tôi ăn nhằm gì. Điều làm tôi, con bé suốt mười mấy năm lớn lên ở đất thị xã quen thuộc, cảm thấy hứng thú là sẽ được quen với một vùng quê lạ, được lênh đênh trên sông nước như ba tôi thường kể. Ngồi trên chiếc xuồng máy lướt băng băng trên con rạch Vàm, tôi như bay bổng. Cảnh vật mở ra trước mắt, tựa hồ trong một câu chuyện thần tiên nào. Những tàu môn nước.

<span class='text_page_counter'>(145)</span> lắt lay. Nhữn giề lục bình nở bông tím ngắt, bệp bềnh theo sóng nước. Cái gì cũng đều có vẻ kỳ diệu với tôi. Ba tôi ngồi gần đằng mũi, tay chỉ chỏ lên bờ, kể những kỷ niệm thời trai trẻ, hoạt động cách mạng vùng này. Tôi lơ đễnh nghe, mắt chỉ chăm chăm dõi theo tiếng con chim gì ánh ỏi trên đọt cà na. Lần đầu tiên, tôi biết cây cà na. Chúng mọc khá nhiều, xùm xoà theo bờ rạch, trái lít chít trên cành lá. Nhà dì Lành nằm ở một góc ngã ba, nơi con rạch Vàm đổ hoà ra sông lớn. Ngôi nhà tranh có vẻ quạnh hiu bên cạnh cái mênh mông của trời nước. Làng xóm ở đây còn thưa thớt lắm. Nhà này cách nhà kia rất xa. Buổi trưa thật vắng vẻ, yên tĩnh ngoại trừ mấy tiếng gà xao xác gáy và tiếng mái chèo khua nước ì oạp trên sông. Tôi theo ba tôi, bước lên bờ, ngần ngại bước vào nhà dì Lành. Trong nhà mọi thứ đều sơ sài, cũ kỹ. Một người đàn bà xanh xao đang ngồi bệt dưới đất, tay bắt mấy cái nan rổ. Đó là dì Lành. Dì nhìn tôi sững sờ rồi cuống quýt chụp lấy cây nạng bên cạnh, lập cập đứng dậy, kêu lên: “Trời ơi! Thảo đây hả con?” Ba tôi đỡ nhẹ lấy lưng dì, dìu đến bên chiếc chõng tre. Dì đập đập tay xuống mặt chõng, hối hả nói: “Ngồi đây! Ngồi đây đi con! Ngồi đây, cháu!”. Ngây người nhìn tôi từ đầu đến chân, dì tiếp giọng vấp váp: “Trời ơi! Con mau lớn quá. Hồi mới giải phóng, dì có lên Tây Ninh thăm con. Lúc đó con còn chưa biết nói. Mới đó mà hơn chục năm...” Gần như suốt cả ngày, dì Lành quấn lấy tôi. Nhưng cái chân teo tóp bất thường và cây nạng tre của dì cứ làm tôi rờn rợn. Tôi hay kiếm cớ chuồn khỏi nhà, theo ba tôi đi xúc tép hoặc vớt cá con. Ba tôi xúc thật giỏi. Chẳng mấy chốc, cái rá to đầy nhóc lũ tép mòng. Chúng nhảy rào rào chen chúc với đám rô non, bù niễng. Buổi chiều, khi ba tôi quẩy đôi thùng ra bờ rạch, tôi lẽo đẽo theo sau. Trong lúc ông lúi húi bên cây cầu ván, tôi đứng trên bờ tò mò nhìn mấy đứa trẻ trạc tuổi đang hụp lặn dưới nước. Chúng ném những trái cà na vào nhau, vừa la hét vừa cười rầm rĩ. Những tấm lưng trần đen nhẻm, bóng lên dưới nắng chiều trông cứ như được trát một lớp bùn mịn. Tám chán, chúng tồng ngồng kéo nhau lên bờ, mặc quần áo. Xong, chạy đến moi từ một bụi rậm mấy cái giàn thun cất giấu tự lúc nào chẳng biết. Rồi mặc cho đầu cổ tai lòng ròng những nước, chung đi dọc theo bờ rạch, vừa đi vừa nghiêng ngó theo tiếng chim trên cành cao. Trưa hôm sau, ba tôi đi lấy thuốc cho dì Lành. Dì Lành nói dì uống thuốc nam đã ba bốn năm nay, chẳng biết phải uống đến bao giờ mới thôi. Tôi lại trón ra hè nhà, thơ thẩn bên những cây cà na. Không rõ chúng được dì Lành trồng hay tự mọc? Chắc đang mùa nên trái nhiều lăm. Tôi lượm cành củi khô, với người lên quất. “Lấy sào mới thọc được con à”. Dì Lành đứng ở chái bếp nói vọng ra, rồi lọc cọc nạng tre bước đến bên vách nhà, rút cây sào trúc dài, đầu có móc lẽm đưa cho tôi. Tôi mải mê lần hết cây này qua cây khác. Dì Lành tay cầm bọc nilông, khập khểnh chống nạng theo sau, kiên nhẫn lượm từng trái một. Khi cái bọc căng phồng tôi cũng mỏi nhừ cổ. Dì Lành ngồi bệt xuống đất, tây lần bóp ống chân, vừa cười vừa thở gấp: “Để dì lấy muối ớt cho con chấm ăn mới ngon”. Nhưng tôi chỉ thích thọc chơi chứ không thấy khoái khẩu cái thứ này. Những trái cà na xanh xanh, mũm mĩm nhìn thấy hay hay ngồ ngộ nhưng cắn vào chát xít lại đắng và chua. Thấy tôi lè ra, nhăn mặt dì Lành cười: “Mai mốt khoẻ khoẻ, dì làm cà nà muối cam thảo gởi lên cho mẹ với Thảo ăn, ngon hơn”. Ở Phước Chỉ thêm vài ngày, tôi theo ba tôi về thị xã. Dì Lành gửi biếu mẹ tôi mấy hũ mắm tép và một ít khoai môn. Dì lọc cọc nạng tre đưa cha con tôi ra bờ rạch. Tôi xách bọc cà na - đêm về chơi rải ruộng ngồi thảm xuống lòng xuồng. Dì Lành nước mắt giàn giụa, cố nói với theo: “Mai mốt rảnh, con về chơi. Dì trông nghe Thảo.” * * * Tôi đỗ vào đại học. Mẹ tôi nói: “Con cứ đi. Mẹ còn khoẻ lắm. Ở nhà có cậu con tới lui thăm chừng, không sao đâu”. Thế là tôi xuống thành phố, lòng không mấy yên. Một hôm, nhà điên xuống: “Có việc cần. Về gấp”. Không kịp phép tắc gì, tôi lao ra bến xe. Ào vô nhà, tôi gần nghẹn thở vì mừng khi thấy mẹ tôi ngồi trên bệ ván. Ơn trời, mẹ vẫn yên lành nhìn tôi một lúc, mẹ tôi buồn rầu báo tin: “Dì Lành sắp chết”. Tôi hơi sững người. Một chút xao xuyến thoáng gợn lên trong lòng. Đã lâu lắm gần một chục năm ròng tôi không gặp lại dì Lành. Gần chục năm tôi chưa một lần trở lại Phước Chỉ. Dì Lành đã năm lần nảy lượt nhắn gọi, tôi chẳng hề để tâm. Còn ba tôi, cứ mỗi bận quẩy túi rời nhà, ông lại cố hỏi tôi thêm lần chót: “Thảo không về dì Lành chơi thật à con?” Thấy.

<span class='text_page_counter'>(146)</span> tôi lắc đầu quầy quậy, ông thở dài quay đi. Cái làng quê sông nước nghèo nàn hiu quạnh ấy không đủ sức lôi cuốn tôi lần thứ hai. Những chú tép nhả lao xao trong chiếc rá tre cũ kỹ, những đứa trẻ đen cháy trần truồng bên sông, những trái cà na đắng nghét với người đàn bà tật nguyền xanh xao chỉ còn thấp thoáng trong ký ức xa xôi mờ nhạt. Ba năm qua, cứ lâu lâu dì Lành lại gửi lên cho tôi vài hũ cà na muối. Những trái cà na muối ngả màu vàng vàng, ăn nghe mằn mặn, chua chua, ngọt ngọt khá hấp dẫn. Thứ quà đồng quê là lạ ấy khiến cho lũ bạn cùng lứa tôi vô cùng thú vị. Tôi hào phóng chiêu đãi chúng trong niềm hãnh diện của kẻ có trong tay thứ vật quý không ai có được. Đó là tất cả những gì còn lại rõ nét nhất trong tôi về một vùng quê xa thẳm. Mẹ tôi nhìn tôi nói rõ ràng từng tiếng một: “Con thu xếp về dưới ấy ngay, kẻo không còn kịp”. Trước ánh mắt ngơ ngác của tôi, ba quay đi, nói như người sắp hụt hơi: “Cũng đã đến lúc con cần phải biết hết mọi chuyện”. * *. *. Tôi về đến nơi, tất cả đã muộn màng. Ba tôi cắm thêm mấy nén nhang trước phần mộ mới đắp nằm trên một gò cao. Từ đây nhìn hút ra xa kia, vẫn có thể thấy được mặt sông loang loáng nắng, thấp thoáng hàng cây rậm ven bờ. Ba tôi cúi mặt, hai tay thu vào lòng. Ông già đi cả chục tuổi. “... Hồi đó, khi ba được điều về công tác bí mật vùng này thì bà ngoại con đang sống cảnh mẹ goá con côi. Ba ẩn náu nhà ngoại non sáu tháng thì bị lộ, do bọn chiêu hồi chỉ điểm. Đêm ấy, ba vừa từ ngoài lọt vào thì bọn lính ập tới. Không còn con đường nào khác, ba tông vách lá bay ra ngoài. Bà ngoại với má con liều chết xông vào giằng kéo chúng để cản đầu súng. Ba lao xuống sông thoát được, nhưng bà ngoại bị chúng bắn chết tại chỗ. Má con thì bị lôi về đồn, bị tra tấn đến liệt cả hai chân. năm đó má con mới vừa mười bảy...” Mấy làn khói mong manh, run rẩy vờn lên quanh bia mộ. Không có một tấm ảnh nào lưu lại để tôi có thể hình dung cô gái tên Lành mười bảy tuổi năm xưa – ngây thơ và quyết liệt. Ba tôi đốt thêm một nén nhang trao cho tôi rồi vòng tay sau gối, mắt dõi ra sông, lặng lẹ. Ôi! Không biết trong hơn bốn mươi lăm năm qua, đã bao lần người cán bộ binh vận trẻ trai ngày nào từng ngồi như thế, một mình với những hồi ức âm thầm và day dứt? ... Năm 1965, khi bọn lính nguỵ ở đồn Rạch Tràm rút chạy, người cán bộ binh vận có dịp quay lại Phước Chỉ. Anh tìm Lành, cô bé của sáu năm về trước. Chân Lành, sau những trận đòn thù hồi ấy, không còn bình thường nữa. Lâu lâu, cô vẫn bị những cơn đau nhức hành hạ. Mặc dù vậy, Lành vẫn nhất quyết tham gia công tác bí mật. Lúc chia tay cô gái côi cút, anh cán bộ trẻ ngậm ngùi tặng cô chiếc khăn rằn làm kỷ niệm. Anh không hề ngờ rằng món quà đơn giản ấy đã để lại sau nó cả quãng đời thanh xuân tươi trẻ của Lành. Năm sau, từ vùng địch anh về quê ở Đôn Thuận. Ở đó, có bà má nuôi và cô em kết nghĩa đang cưu mang đứa con trai mồ côi của anh, như đã từng cưu mang nó suốt tám năm qua kể từ khi người vợ trẻ của anh ngã xuống trong một trận đánh quyết liệt ở Bồi Lời. Gặp lại con anh mừng thấy nó khoẻ mạnh, khô ngô. Nhìn thằng bé quân quít bên “bà nội” và âu yếm gọi cô gái bằng mẹ, anh hiểu ra rằng cuộc đời của nó, và cả của anh nữa từ nay không thể tách rời cái tổ ấm thân yêu này. Đám cưới, chỉ một mâm cơm cúng ông bà và vài bà con cùng xóm. Được mấy ngày thôi, anh lại đi. Năm 1972, khi phong trào diệt ác phá kìm ở Phước Chỉ lên cao, anh được điều về lần nữa. Anh gặp lại Lành, bàng hoàng hiểu ra từng ấy năm ròng, cô chờ đợi... Hay tin anh đã có vợ, cô gái – nay đã luống tuổi – lặng người đi. Rồi cô xót xa nói với ah – tuổi xuân của cô đã qua. Chẳng còn gì để mà chờ nữa. Giờ cô chỉ mong có một đứa con. Anh đã khóc khi ôm cô vào lòng. Nhưng đứa con của niềm mong đợi cũng không ở lâu được với Lành. Nó lên một tuổi rưỡi thì Lành bị thương nặng trong một trận công đồn. Cô bị địch bắt. Đứa bé được tìm cách đưa đến cha nó. Rồi lại đưa về Đôn Thuận. Người vợ hiền dịu của anh cán bộ binh vận, suốt bao năm đằng đẵng chờ chồng đã phải ngậm ngùi, chua xót nhận thêm một đứa con không phải do chính máu thịt của mình... Ba tôi ngừng kể. Ông thoáng nhìn tôi, vẻ bối rối, e ngại. Tôi cúi mặt không rõ mình đau xót cho ai. Cho chính tôi - đứa con gái hai mươi tuổi đầu mới rõ cội nguồn. Cho anh hai tôi đến ngày nằm xuống cũng không hề biết người dì chết trẻ vẫn thờ trong nhà bấy lâu.

<span class='text_page_counter'>(147)</span> mới là người đã rứt ruột đẻ ra anh? Hay cho cả hai người mẹ cả đời mất mát của tôi? Ba tôi nói như van xin: “Thảo ơi! Suốt đời ba cứ ăn năn. Ba đã làm cho cả hai người đàn bà yêu thương ba đều khổ. Mẹ con trên ấy là người mẹ tốt nhất trên đời. Ba yêu quý và biết ơn mẹ con. Nhưng má Lành con cũng là người đáng thương, đáng trọng. Bao nhiêu năm ba về đây cũng vì muốn đỡ đần, bù đắp phần nào cho người đã rứt ruột đẻ ra con. Bà ấy chẳng còn ai bên cạnh. Bấy lâu, ba mẹ giấu kín mọi chuyện vì sợ các con buồn rầu, nghĩ ngợi. Má Lành cũng không muốn làm xáo trộn cuộc sống êm ấm của con. Bà ấy tự biết mình không thể lo cho con được đầy đủ như mẹ con, và cũng không sống được bao lâu...” Tôi nắm bàn tay xương xẩu của ba tôi, lắng nghe từng nhịp run rẩy của nỗi dằn vặt suốt những tháng năm dài dồn nén lại. Ba tôi đã già rồi! * * * Tôi ở lại Phước Chỉ hơn một tuần, rồi trở về thị xã. Mẹ tôi chắc đang đứng ngồi không yên. Ba tôi đòi đưa tôi ra tận ngoài bến đò, nhưng tôi không chịu. Ông đành đứng trên bờ rạch nhìn theo, dặn với: “Nói với mẹ, vài hôm nữa ba về”. Xuồng rời khỏi ngã ba sông. Tôi còn thấy cái dáng khòm khòm, nhẫn nại thấp thoáng sau vòm lá. Khách, trên xuồng khá đông, phần lớn là người đi chợ Trảng. Hình như ai cũng quen nhau. Tiếng cười nói râm ran, ồn ã. Thỉnh thoảng có một vài chiếc ghe đi ngược chiều. Tiếng kêu gọi í ới lại nổi lên nhộn nhịp. Xuồng lướt mỗi lúc một nhanh. Hàng cây bên bờ nối nhau chạy lùi lại phía su. Những cây cà na, chắc không phải mùa nên không thấy trái. Nắng sớm trong veo, óng ánh trên mặt nước không ngừng chao động. Ngồi co gối, ôm cái túi xách nhỏ, trong có lọ cà na muối vào lòng, lắng nghe tiếng gió vun vút bên tai, tôi khép mắt lại... “Năm nào, đến mùa cà na rộ, má con cũng muối sẵn để dành. Đợi hoài không thấy con về, má con cứ bắt ba phải mang về trển cho được...” Tôi vừa thấy ba tôi quay mặt giấu đi một giọt nước mắt vừa ứa ra, chưa kịp rơi xuống. Tôi lại thấy những trái cà na xanh đầy nhựa, đắng đắng, chua chua và con bé con mười hai tuổi tay cầm cây sào trúc, thẩn thơ hết cây này sang cây khác. Theo sau, là tiếng nạng tre lọc cọc, những ánh mắt âu yếm dịu dàng... “Cà xa xanh hơi đắng, nhưng muối kỹ với đường ăn cũng được lắm, con à! Để khi nào dì khoẻ khoẻ...” Ôi! Tất cả đều đã xa xăm... Úp mặt vào tay mình, tôi khóc... Nhất Phượng Con sóng Đồng Tháp Mười Thứ tư, 18 Tháng 2 2009 09:54 Thằng Lịch búng người trên mặt sóng, khúc sông này rộng nhất, sâu nhất của nhánh sông cái đổ ra Tiền Giang. Trời nắng lâu, nước sông thiệt trong. Thỉnh thoảng chụp vào dề lục bình lập lừ thế nào cũng có chú cá vướng trong mớ rễ, nó tung lên trời. Con cá quay tít, tạo nên một dải ánh bạc và rơi bóc xuống mặt nước... Chợt nó thấy qua lớp nước tung tóe sáng lóa, trên cây cầu khỉ mảnh như nét vẽ nguệch ngoạc đằng kia, một ông già - nó nhìn không phải người vùng này, đang chới với như sắp xô cả cái tay vịn nhỏ xíu để nhào xuống sông. Nó trồng thẳng người giữa dòng nước, in như có một cái cọc ngầm chỗ nó đứng, và hét lạc giọng: - Đứng im. Đừng đụng cựa. Đừng nhìn xuống! Nó bơi như băng mình về phía cây cầu. Người đàn ông lấy lại được thăng bằng trên cây bông gòn bằng bắp chân, kinh hãi nhìn dòng nước mênh mông, thăm thẳm. Bình tâm lại một lúc, ông bỗng nhận thấy thằng bé trước mặt đẹp lạ lùng: một cơ thể cân đối, thon dài và rắn chắc, những cử động mềm dẻo và khỏe khoắn, đôi mắt sáng ngời trên gương mặt thanh tú của con gái nhưng lại ẩn chứa sự mạnh mẽ của con trai. Nước chảy ròng ròng trên làn da nâu bóng như da siêu người mẫu Naomi Campbell. Không nhìn, không.

<span class='text_page_counter'>(148)</span> vịn, không thèm dang tay giữ thăng bằng, đôi chân nó lướt trên cây gỗ tròn. - Ông đưa giày tui cầm giùm cho! Một tay xách giày, tay kia nó nắm tay ông. Một cảm giác lạ lùng lan trên da thịt ông. "Tay thằng bé ấm và mềm quá". Khổ sở lắm nó mới gắng để không lôi ông tuồn tuột. Và sốt ruột buông tay ông khi chân vừa chạm đất, nó nhún một cái, bắn người xuống sông, không để ông kịp cảm ơn. Nó bơi nghiêng và vẫy vẫy, toe miệng cười, chắc là vì sự vụng về của ông. Ông bần thần vì nụ cười của thằng bé, tiếc rẻ vì đã không mang theo máy ảnh. Hình như mình đã gặp thằng bé này ở đâu đó - lâu lắm rồi - như hàng chục, hàng chục năm trước... Ông cố nghĩ... Không! Không có. Đôi lúc ta vẫn hoang tưởng thế đấy: Đúng là gặp chuyện xảy ra lân đầu tiên, lại vẫn thấy quen quen! Thằng Lịch bươn ra giữa sông, chỗ cây xuồng của nó và nắm mũi xuồng, vặn nhẹ cổ tay. Thế là đã có lưng lửng xuồng nước, nó đẩy xuồng về phía bờ. Ông khách vẫn đứng nhìn nó. Ông vẫy nó lần nữa và bước đi. * * * Lịch đổ nước vào khạp. Nó đã có chừng, chỉ lấy đủ ba khạp, thừa cũng không có chỗ đựng. Quậy phèn, đậy khạp cẩn thận, xong nó buộc xuồng vào gốc trâm bầu rồi đến quăng mình vào gốc ổi, hít lấy hít để mùi ổi chín thơm lựng. Thứ ổi này chỉ được sướng hai lỗ mũi. Má nó lấy giống từ ngoài Bắc, trái nhỏ mà lắm hột, hột cứng như sạn. Nhưng mà thơm cha trời là thơm, lại ngọt nữa. Bạn hàng không ai mua thứ này. Má nó cũng không muốn bán, biểu để cho chim về. Hồi ngoại còn sống, nó xui ngoại đốn, thay thứ khác, má cự, ngoại chỉ thở dài. Vườn ổi nhà thằng Lịch nổi tiếng cả vùng này không phải vì rộng. Trừ hàng ổi ngoài rìa, hai cây ổi giống tốt, nhiều cơm, ít hột, chua ngòn ngọt, thơm rất lạ, giòn, trái bự lại lắm trái; ăn một lần là nhớ. Người trên tỉnh, trên huyện, cả người đâu đâu cũng đến. Coi, ăn đã, còn hỏi mua làm quà. Má nó không lấy tiền ai. "Người ta có lòng, từ xa xôi đến, mình tiếc chi mấy trái ổi. Không bao lăm nhưng họ vui". Khổ nhứt là gặp tụi học trò, đi từng tốp mấy chục đứa, cắn vài miếng rồi ném nhau, bẻ trái khác. Ra về còn bẻ cả cành, gánh trên vai mỗi người cả chục trái ổi mập núc, bóng ngời. Nhìn từng bao ổi ruột trắng tươi bị cắn nham nhở phải đổ vào chuồng heo, nó tiếc húi hụi. Má nó an ủi: "Thôi con, để mai mốt má chở lên tận chợ Sa Giang bán, bù lại. Trên bán được giá lắm". Nhưng nó đâu tiếc tiền ? Thằng Lịch nhớ ra má sắp đi ăn đám cưới, lật đật trở xuống bến lau xuồng, rồi mới thủng thẳng đi vào nhà. Cái mũi thẳng và gọn của nó hơi hỉnh lên, nó sửa giọng cho giống cải lương, chuẩn bị nhắc lại câu "Dạ, thưa má, con đã lo xong việc nước". Bỗng nó khựng lại. Nó bàng hoàng. Nó không tin vào mắt mình. Nó dụi mắt ha lịa. Và nó nhận ra điều mà nó thấy là thiệt: Cái ông hồi nãy mà nó dẫn trên cầu, đang đứng trên thềm, quay lưng về phía nó, đang ôm má nó. Nhìn qua nó cũng biết má đang đổ người vào ngực ông ta, còn ông thì xoa vuốt đôi vai tròn cái thân hình sinh ra để bận áo bà ba, áo dài, của má. Chắc má vừa thay áo. Chiếc áo dài màu tím than chỉ thêu độc một chùm bông ổi trắng xanh, má rất quý, nó cũng coi đó là sự tinh khiết, cao quý như con người má nó, hôm nay thế là dây bẩn. Máu nổi hai bên thái dương, ứ đỏ mặt nó. Ông khách nói với má rất nhỏ bằng giọng Bắc: - Thoan đừng khóc nữa, kẻo con về nó thấy... Con? Ông vừa nói con nào vậy cà? Mà làm sao má phải khóc?....

<span class='text_page_counter'>(149)</span> Nó không biết nên tiến hay phải lùi lại, thành thử cứ đứng như trời trồng giữa sân. Mãi tới lúc má nó đứng lên được bằng đôi chân của mình thì bà nhìn thấy nó và buông vội ông khách mà không giấu kịp gương mặt ướt ngời hạnh phúc. Nó chiếu thẳng ánh mắt dữ dằn như con thú non bị thương vào ông khách, rồi lập tức bẻ cái nhìn sang má. Ông ta thì xúc phạm má, và má cũng xúc phạm nó. Má đạp đổ hết cái thần tượng nó xây trong lòng... Chị Thoan bối rối chỉ vào con. - Thằng Lịch đó anh! Và chị quay sang Lịch. - Con chào... bác, đi con. Bác Hảo là... bạn của má! Thằng Lịch bậm môi bỏ đi. Nó cố giấu hai con mắt ầng ậng nước. * * * Thoan chống xuồng đi hái bông điên điển. Ông Hảo biết món canh cá lóc nấu với bông điên điển chưa có ai làm ngon như chị. Từng dự bao cuộc chiêu đãi ở những nhà hàng danh tiếng, ông vẫn chưa hề gặp lại món canh chua giống như chị nấu. Những khúc cá gần như trong suốt pha lẫn ánh hồng còn rung những nhịp đập của sự sống, ngả sang màu trắng ngà trong nồi nước me đang sôi, và được vớt ra, chấm nước mắm chanh tỏi, thịt cá trắng tươi, săn và ngọt lừ, thơm mùi bông điên điển, rau ngổ... Chỉ có thế mà vợ ông, con ông, các cô gái ở nhà hàng khách sạn, ông chỉ bảo mãi vẫn không làm đúng được. Lúc thì cá còn mùi tanh, lúc thì cá chỉ còn bã, lúc thì mang cá toàn mùi rau ngổ, không còn mùi thơm của thịt cá vừa chín... Ông Hảo ngắm Thoan đầy mắt mà không thấy đủ. Cô ấy chẳng khác nhiều so với ngày trước. Những đường nét trên gương mặt nàng mềm mại hơn, rõ hơn. Chỉ có đôi mắt vẫn buồn. Ông không ngờ Thoan vẫn sống một mình, và ngạc nhiên hơn là chị có một đứa con trai, con của ông. Gá khuôn mắt ông trên má chị đẫm nước, có lẽ ông đã tự tha thứ được cho mình. Thoan cũng không khóc nữa. Chị đã từ lâu không còn chờ đợi ông hay sự chờ đợi đã làm chị mòn mỏi, kiệt sức? Sau những giây phút xúc động vì được gặp lại quá bất ngờ và do sự xa cách quá lâu, lúc này chị muốn lấy lại bình tĩnh. Không thể sai thêm một li nữa! Chị định trốn vào rừng điên điển khóc một mình thật to thật lâu. Thế mà Hảo lại đòi theo. Thoan hơi đỏ mặt vì cái áo bà ba chị mặc tà xẻ quá cao, để lộ vùng da trắng ngần, cái quần xéo bằng vải soa Pháp vừa chảy vừa khéo cắt ôm tròn cặp mông đẹp - Chị biết rõ là rất đẹp. Tay chị run rẩy ngắt từng bông điền điển. Tim chị vẫn bồi hồi rần rã. Không! Không được! Con người này không bao giờ là của ta. Ta đã chấm dứt đau khổ rồi mà! Về thôi, ở đây nguy hiểm quá. Chị định lao xuống ra khỏi đám điên điển ken dày. Cả một rừng hoa chấp chới trên đầu chị. Những thân cành mảnh mai đã ngả xuống cản hết lối ra. Hảo giữ chặt lấy một túm cành. Chiếc xuồng dừng lại. Thoan ngỡ ngàng buông rơi con sào. Đôi tay Hảo lại vuốt tóc chị, rồi đặt lên vai chị, gần nơi da thịt ở cổ chị. Không có lối nào cho chị bỏ chạy. Hình như chân chị cũng không muốn bỏ chạy. Chị đã bao năm cố tin mình là cục than đã cháy hết. Thực ra cái lõi của hòn than vẫn đỏ rực. Hảo đã thổi.

<span class='text_page_counter'>(150)</span> hết lớp tàn tro, và cuốn chị vào cỏ khô, và thổi lên, bắt chị cháy... * * * Ông Hảo như đang mơ. Đồng đất Tháp Mười lại dâng ông người đàn bà đẹp giữa khung cảnh thần tiên. Những bông điên điển vàng mịn như nắng trời buông xuống tóc, xuống vai họ, rung rinh như những chú bướm vàng nhỏ xíu. Thoan mát ngọt, thơm tho như trái chín cây rụng vào ông, nồng nàn như đất ủ, khắc khoải và mê đắm. Cái lần ân ái cùng nàng, đả bao năm ông vẫn nhớ, nhưng ông không cảm thấy sung sướng vô bờ như lúc này. Ông đã không đổi bao nhiêu thứ khác để có nàng. Nhưng giá được làm lại chắc gì ông đã làm khác đi? Ông còn nhớ rõ, dù có nhiều điều ông đã quên, là ông đã không dám qua đêm, không dám cả đến về muộn để được ở thêm với Thoan một lát trong căn nhà ấy. Thế mà Thoan đã lặn lội hai ngàn cây số để tìm kiếm một người không địa chỉ, chỉ biết rằng "Quê anh có con sông Tô". Ông nhớ, trong ngôi nhà lá của người bạn vắng nhà đêm ấy, lúc ông sắp sửa ra về, đôi mắt Thoan như van vỉ, níu kéo, đầy trĩu buồn rầu, cay đắng, tủi nhục. Ông đã bỏ Thoan một mình với đêm Hà Nội chỉ vì sợ hãi cho tương lai của mình, sau khi tận hưởng sự trao hiến đầy đặn của những gìn giữ chăm nom hai bốn năm con gái. Bây giờ Thoan vẫn không trách hận gì ông. Nàng bảo ông đã đúng, rằng tất cả là tại nàng muốn thế, nàng buộc phải như thế. Nàng không thể chịu đựng được và đã rời căn nhà lá trong đêm hôm ấy... Đấy là nàng nói để an ủi ông và tự an ủi mình: Ông cảm thấy không như thế. Trong sâu thẳm, có một nơi nào của lòng mình, hẳn nàng vẫn chứa nỗi oán trách ông? Ông như thấy trong sự dâng hiến của nàng - đầy ắp mà vẫn hàm chứa nỗi thất vọng. Với ông, ngoài vợ ra, nàng đâu phải là người đàn bà duy nhất? Những rung động bất ngờ đã cho ông những tác phẩm được công chúng hào hứng mê say? Ông cho đó là sự trả nợ của trái tim nghệ sĩ. Và ông lên án mình. Bởi vậy, ông trở về chốn này, chỉ muốn thăm lại, ôn lại những kỷ niệm đẹp, gặp lại nàng một lần cuối - chắc đã con cái đầy đàn, rồi để cho mọi chuyện trôi qua. Không ngờ sự thể lại thế này. Bây giờ ông mới cảm thấy rõ về nỗi đau len lỏi đâu đó trong đời mười mấy năm qua. Ta đã thành kẻ bạc tình bạc nghĩa. Tại sao không bao giờ ta nghĩ đến việc có thể mình đã có một đứa con với Thoan? Thoan đã không xử sự theo lối thường, lại găm hết tất cả vào lòng để cắn răng chịu một mình? Thế mà sáng hôm ấy, trở lại căn nhà nhỏ, thấy Thoan đã bỏ đi, mình vừa tiếc rẻ, vừa ân hận, thương xót, lại vừa thở phào nhẹ nhõm! Ta khốn nạn quá. Lúc này ta lại thành kẻ hành khất ngồi trước bàn tiệc đã dọn, nhận lấy tất cả: Cả trái tim nồng thắm chân thành, cả nỗi khát khao mê đắm dồn căng thân thể nuột nà của nàng: mà không nghĩ mình có xứng đáng nhận không, mình có gì để cho nàng... Thoan gần như không ngủ. Chị sợ lại mất ông. Mà thực ra có bao giờ chị có ông ? Nhưng thằng Lịch là sự đền đáp đầy đủ nhất mà ông và cuộc đời dành cho những nỗi cơ cực, đắng đót của chị. Và sự chờ đợi vô vọng của chị mà từ lâu chị cố dối mình là không có, đã được đáp lại. Hạnh phúc tỏa sáng trên người chị, trên mỗi lối chị qua, chẳng giấu vào đâu được, nhưng chị cố giấu. Chị sợ nó vơi bớt. Hảo có thể bớt yêu chị: Mà biết đâu lòng chị cũng bớt yêu ông? Chị cố giấu cả những ngàn vạn âu yếm mà chị muốn phủ lên ông. Không phải một lần chị đã nuôi ý định trở lại ngôi nhà bên bờ sông Tô Lịch cùng với con. Nhưng chị sợ. Hảo sẽ đón nhận mẹ con chị thế nào? Còn vợ con danh vị của ông nữa. Cố để quên, thì lại càng không quên được. Đa sự, đa đoan chùa kiếp đàn bà! Kể cả cái chuyến đi ngày ấy chị đâu dám nuôi hy vọng là đời chị có Hảo? Chị chỉ mong được nhìn lại Hảo một lần, được Hảo ôm trong tay một lần, được thấy lại những ngón tay gầy xanh xao lướt trên cần đàn cho thứ âm thanh ma quái ào vào lòng chị, thít chặt lấy ngực chị. Nhưng đêm ấy Hảo đã không dạo đàn mà dạo vào cuộc đời chị. Bao nhiêu lần trái tim trách móc thì cũng bấy nhiêu lần nó bênh vực ông quyết liệt hơn. Thằng Lịch không thèm nhìn ba, cũng là lỗi tại chị. Rồi nó sẽ hiểu ra thôi. Máu nào thâm thịt ấy mà. Chị chỉ thấy thương và có tội với ba chị. Ông không được nhìn thấy chị đang sung sướng, thấy thằng Lịch có ba. Mười mấy năm trời ông biết rõ thằng Lịch là giọt máu của chị mà chị.

<span class='text_page_counter'>(151)</span> không nói được với ông. Ông lặng lẽ chăm sóc, dạy dỗ nó như cha với con. Nó yêu ông lắm. Chỉ cần nghe tiếng đờn ông khác lạ, đang ở ngoài vườn, dưới sông, nó cũng biết ngoại đang khóc, nó chạy vào ôm lấy cổ ông. Chỉ hít cái mùi tóc khen khét của nó là ông thấy hết buồn, sắp ra đi, ba còn dặn chị "cho thằng Lịch nhìn ba nó". Người xóm chị ai cũng nghĩ chị còn con gái. Chị ít tắm sông. Nhưng có lần tụi thanh niên xóm này bắt gặp. Nước sông trong quá chị giấu không nổi. Trông chị huyền ảo, uyển chuyển như tiên giáng. Tụi nó la lốt om sòm: "Uổng quá trời! Vậy mà bà ở giá. Tụi tui con gái còn muốn cắn một miếng chớ đừng nói đàn ông. Phải mà bà làm diễn viên, người mẫu cho cả nước được nhòm". "Bộ bà chê đàn ông ở vườn hả?". Thực ra cũng có lần chị tính nhắm mắt đưa chân để vui lòng ba chị . Nhưng rồi chính ba chị lại cản. Ông thấy con gái nặng tình với người ta quá. Hai năm trời nhìn con héo hon, ông đành chiều ý để chị đi tìm Hảo. Ông nậy gạch lấy đôi nhẫn cưới của vợ chồng ông trao cho chị. Nhiều năm trời ông tự giày vò rằng mình đã hại cuộc đời con. Khi chị trốn nhà với cái thai ba tháng quyết giữ giọt máu của Hảo, ông cảm thấy lờ mờ điều đó. Giận mình, xót con, ông đã khăn gói đi tìm suốt một tháng ròng mà không gặp. Ông đành đắc tội với bà con lối xóm, dối rằng chị lên thành phố học nghề. Cũng may chị đã kịp học nghề thêu tay... * * * Thằng Lịch cứ đi biệt cả ngày. Bữa cơm, nó về, xới một tô, chọn khúc cá ngon nhất, bưng đi (mọi hôm nó toàn tranh má ăn đầu). Mặt nó như ướp đá. Đôi lúc nó tạt về ngồi tréo ngoe trên bộ ngựa coi ti-vi, ý rằng ta đây là gã đàn ông duy nhất làm chủ cái nhà nầy. Ta đi suốt ngày là vì ta không muốn nhìn thấy cái bản mặt người. Ông Hảo ghé lại ngồi bên, nó né người, hằm hằm bỏ đi. Có lần ông đỡ cây đờn kìm trên vách, định chơi lại bản nhạc ông viết cho Thoan mười tám năm trước, bản nhạc nhờ nó cả nước biết tên ông, trong đó có tiếng sóng Đồng Tháp Mười mùa nước nổi, có cánh cò trắng lạc mẹ đậu nhờ vai áo đen cô du kích trên chiếc xuồng ba lá, có ánh trăng lung linh đồng nước cỏ cây, có câu vọng cổ da diết quấn quít với tiếng đờn kìm lão luyện như có ma nhập, có tiếng sếu gọi bạn ở Tràm Chim... Sau này, không bao giờ ông tìm lại được cái giai điệu mênh mang da diết đến thế cho dù kỹ thuật điêu luyện hơn, ca từ chau chuốt, tinh tế hơn. Thằng Lịch giọng lạnh và rắn: - Cái đó ngoại tui cho tui rồi! Chị Thoan rầy con. Lịch tin rằng nó chỉ cần má và ngoại, và chẳng cần biết gã đàn ông nào là ba nó. Chị gỡ cây đờn trao cho ông. Ông Hảo nhận ra tuổi già đã đặt bàn tay gớm ghiếc lên mình khi những ngón tay ông di chuyển vụng về trên các phím đồng. Giọng hát ông không theo sự điều khiển của ông được nữa. Khi ông ôm Thoan trong tay, ông cũng cảm nhận điều đó, nhưng cố dối mình , cố xua đuổi nó đi. Thoan không cảm nhận hết điều đó. Bởi lòng chị chỉ có yêu thương và ngưỡng mộ ông. Chị không nhìn thấy ông Hảo tiều tụy bây giờ, chỉ có anh Hảo tuổi bốn mươi đầy quyến rũ hay chị chỉ nhìn thấy những vẻ quyến rũ của ông trong cái thân thể già nua? Ngày ấy chị là cô gái nhút nhát, tối nào cũng kiếm được mồi thiệt ngon cho ba và Hảo lai rai. Lúc thì con cá lóc mập ù nướng trụi, với chén nước mắm Hảo kêu là "chỉ muốn húp". Khi cái lẩu rắn, lẩu lươn, hoặc mấy con tôm hấp. Trời mưa to, Thoan cũng có cái lẩu mắm thơm.

<span class='text_page_counter'>(152)</span> điếc mũi. Chỉ cốt sao Hảo có chút hơi men, anh nhìn chị mơ màng, và hát; hát như rứt ruột gan mình. Chị thì thấy như là câu hát đang hôn lên má, lên tóc, đang quấn lấy chị. Thế mà cả tháng ròng, cho đến khi ra đi, anh chỉ mới nắm tay chị một lần, nhìn chị thật lâu, và vuốt tóc chị thật dịu dàng. Để rồi quanh năm suốt tháng chị cứ nâng niu chút kỷ niệm ấy. Và nhiều năm sau, chị cứ tin rằng không có gã đàn ông nào có được những cử chỉ, những cái nhìn tuyệt vời như thế, rằng anh ấy sinh ra là để cho chị, và chị cũng chỉ có thể cho anh ấy. * * * Chiếc tắc ráng lạ cặp trúng phóc vào gốc trâm bầu. Thoan hiểu là những giờ khắc ấy đã đến. Có cái gì đó đang vỡ ra trong chị. Dù chị đã yêu Hảo vô cùng, thì tình yêu cũng chỉ là tình yêu. Nó chẳng mạnh vô biên. Nó cũng không có phép thuật gì. Con người thật bé nhỏ, thật tội nghiệp. Nỗi đau của chị trộn thêm cái chát đắng của sự thật. Rằng chị đã ảo tưởng vào cái cao vời của ái tình suốt bao năm nay. Chị đã chối từ những cái chị không cho là tình yêu mà lẽ ra đã có thể là hạnh phúc. Tình yêu không đủ sức bứt chị khỏi mảnh đất này: Là chị nghĩ thế, chứ Hảo cũng không có ý muốn bứt chị khỏi đây. Tình yêu cũng không thể kéo Hảo về đây. Đó là điều hiển nhiên chẳng có phần trăm nào nghi ngờ. Cuộc sống của ông là tiện nghi, là giao lưu cùng các quan khách, ở đâu ông cũng là trung tâm chú ý cửa đám đông. Nó không thể hòa nhập với cái cuộc sống hàng ngày chống xuồng đi bán ổi, hái rau, làm ruộng, bắt cá. ở lại đây vài ba ngày thì còn được, nó như một chuyến du lịch nhỏ thú vị, nhưng chỉ cần thêm một vài ngày nữa, ông sẽ cảm thấy nhàm phán, thiếu thốn, cô quạnh. Thôi, thế là chẳng ai có lỗi. Không có duyên phận với nhau thì đành... Hảo hôn tóc chị và dặn chị đừng ra bến. Thoan múc một gáo nước phèn trong vắt, mát lạnh, giội cho ông rửa mặt. Bây giờ chị mới thấy tóc ông đã bạc gần hết, cái thân hình ông bắt đầu còng xuống, chậm chạp. "Em không khóc đâu" - Chị nói. Mấy người lối xóm ông mới kịp làm quen, sang tiễn ông. Họ chỉ vừa biết ông là nhạc sĩ nổi tiếng mà ai cũng có trong nhà, ít ra vài ba băng nhạc. Rồi không biết từ đâu, trẻ con lối xóm kéo đến chật sân. Đứa nào cũng chìa ra mấy cái băng catssete cũ kỹ để xin ông chữ ký. Chúng xầm xì với nhau: "Nhạc sĩ Vũ Hảo là ba thằng Lịch". Thằng Lịch bị lũ bạn đẩy tới cạnh ông. Nó không hất tay ông, nhưng vẫn không hé môi; nét mặt không khác gì mấy bữa nay. Chị Thoan bước lại, quàng tay qua vai con. Đôi vai nó đã rắn chắc lắm rồi. Hai người đứng bất động như hai tượng đá dính liền nhau. Cái nhìn của Thoan trống rỗng rơi trên mặt sông, chắc chị không thấy ông Hảo vụng về dò dẫm bước trên tấm ván. Chiếc tắc ráng nổ máy và rời bờ. Ông Hảo nhìn hút vào hai mẹ con Thoan cho tới lúc không thấy gì nữa. Mắt ông mờ đi, ông nhắm chặt lại để nước đọng thành giọt và lén dùng ngón tay chấm chấm. Bỗng người đàn ông chạy tắc ráng làm ông giật mình. - Đây đã phải là chuyến đi thực tế cuối cùng chưa, thưa nhạc sĩ? Ông Hảo nhìn ông ta mấy giây. Lúc ông ta vấn điếu thuốc rê và dán lại bằng nước bọt, ông mới nhận ra đây chính là người mười tám năm trước đã đưa đón ông: ngón tay út phải của ông ta bị cụt và cánh tay cháy sém vì bom na-pan..

<span class='text_page_counter'>(153)</span> - Ông vẫn chưa nghỉ sao? - Ông Hảo hỏi để tránh câu trả lời. - Nghỉ mần chi cho buồn! Tui đâu có ai chờ đợi ở nhà để về, đừng nói chuyện có chỗ này chỗ kia mà tới lui giải trí... Ông Hảo thấy đau nhói bên ngực trái. Ông run rẩy tựa vào mạn thuyền và cố để không ngã. * * * Dạo này thằng Lịch nghiền xem ti-vi. Học bài nó cũng mở ti-vi. Ăn cơm cũng xem ti-vi. Nó ít nói cười hơn, học nhiều hơn, chăm làm việc phụ với má hơn. Đôi khi chị Thoan kín đáo nhắm tới ông Hảo để dò ý con, nó chỉ im lặng, sắc mặt không đổi. Tối nay, mới cơm nước xong, chị cứ thấy váng vất trong đầu. Không đau hẳn để uống thuốc, cứ cảm giấc khó chịu, nhộn nhột, tưng tức đâu đó. Chị đi nằm và bảo con tắt ti-vi. Thằng Lịch cứ dạ thưa rồi để đó. Chị định gắt con. Bỗng nó la thảng thốt: "Ba". Có cái gì đó dựng chị dậy. Chị vùng chạy ra nhà ngoài. Thằng Lịch méo xệch miệng đang bíu lấy ti-vi, mắt dán vào những dòng chữ trắng. Chị cũng nhìn theo - và chị từ từ đổ xuống. Lúc Thoan tỉnh lại đã thấy người đầy nhà. Thằng Lịch đã buộc khăn. Một người trao cho chị dải khăn trắng xếp nếp phẳng phiu. Ôi! Con trai chị đã thay chị ngồi trước ti-vi, từ hôm ông Hảo ra đi, để hàng ngày chờ được thấy ông, được nghe nhắc đến ông! Anh Hảo ơi! Anh không bao giờ được biết là con nó rất yêu anh. Nó đã tha thứ cho anh. Cả em nữa, có lúc buồn chán, thất vọng, em trách giận anh, quyết từ bỏ bóng hình anh, cố tin rằng lòng đã hết thương anh. Bây giờ em mới biết là em chỉ có anh thôi. Trời sinh ra em để chịu sự đọa đày ấy. Không cồn cào, vật vã, nhưng vẫn nhớ anh, từng ngày, từng giờ... Không biết ai đó đã giúp chị có tấm hình ông Hảo viền khung đen. Chị cũng không kịp nghĩ họ có tấm hình ông từ đâu. Mấy ngày sau, thằng Lịch đòi mẹ chặt nửa vườn ổi. Lúc đó Thoan mới biết nó đã chọn và ươm thứ ổi mà trước kia nó đòi đốn. Nó bảo mẹ: - Giống ổi nầy thơm, chim chào mào thích lắm. Để cho chim nó về, má hà? Bây giờ thì Thoan nhớ ra rồi. Mà sao hôm đó cái mặt nó lạnh ngắt; cứ tưởng nó không bỏ vào tai lời nào của ba nó. "Hồi bé, anh nhớ, vườn nhà anh nhiều chim chào mào lắm, nhờ giống ổi này. Anh thích chim này lắm!".. Nguyễn Thị Phước Phiêu linh trắng Thứ tư, 11 Tháng 2 2009 09:18.

<span class='text_page_counter'>(154)</span> Giờ thì em đang hòa nhập, hư ảo, loãng tan ra trong một thế giới khác. Thế giới nơi người ta chỉ còn là những tia lửa không bóng sắc, những sinh thể dạt trôi phiêu linh quá vãng, những mảnh phù du lập lòe váng vất, chút u mê sót lại của phần hồn. Vậy là tôi lên xe đến Đ. để tìm gặp cô gái có cái tên Phi Anh. Đi theo nhiệm vụ được ba tôi giao. Ông là chủ một cửa hàng bán đồ lưu niệm không lớn lắm thuộc khu trung tâm thành phố. Không lớn - nhưng khá nổi tiếng vì chuyên bán những món hàng độc, những món mà khách sưu tập sành điệu cả Tây lẫn ta đều thích săn. Tự hào mà nói: shop đã có tên trong kh á nhiều sách guide-book dành cho dân du lịch. Chính vì vậy, vừa nghe phong thanh thông tin về Phi Anh ở Đ., ông không thể bỏ lỡ. Đúng hơn, ông không quan tâm tới bản thân cô gái có cái tên là lạ,mà săn đón chủ yếu vì tranh của cô.Những bức tranh được thêu bằng tóc! Tranh thêu, cho tới thời điểm này đã phát triển đại trà, và gần như bão hòa. Đầu ra giảm nóng, đầu vào trăm hoa đua nở. Nhưng tranh tóc là ý tưởng hoàn toàn mới lạ. Người kể chuyện cho ba tôi nghe là một nhà nhiếp ảnh lớn tuổi có óc thẩm mỹ đáng tin cậy. Ông bảo rằng những bức tranh tuyệt đẹp. Họ bàn luận với nhau: có lẽ do được thêu bằng thứ chất liệu sống, nên tranh có hồn. Những đường nét như thở ra làn hơi của sự sống, như chuyển xoay, cựa quậy... Ba muốn là người đầu tiên ở thành phố bày bán những bức tranh khác thường, và nếu có thể, cửa hàng chúng tôi sẽ là đầu mối tiêu thụ độc quyền. Riêng với tôi, đây chính là cơ hội để thể hiện vai trò trợ lý đắc lực cho ba. Bởi tương lai không xa, tôi sẽ thay ông cáng đáng shop. Cũng theo lời nhà nhiếp ảnh già, Phi Anh tự tay thêu tranh không thuê mướn người ngoài, cũng không sao chép những bức họa nổi tiếng theo kiểu mà tranh thêu xưa nay vẫn làm. Cô ấy sáng tác. Tóm lại, có thể nói không quá rằng cô ấy giống như một họa sĩ phá cách cô đơn và độc đáo. “Những tác phẩm mãnh liệt, của một tác giả mãnh liệt”, nhiếp ảnh gia lớn tuổi nhấn đi nhấn lại. Tranh làm ra không nhiều, và không có bản sao. “Phàm thứ gì càng hiếm càng quí!”, ba tôi kết luận sành sỏi. Và tôi càng lúc càng tò mò về nhân vật quí hiếm ấy. Tôi đã đến thành phố Đ. nhiều lần, nhưng hầu hết là đi chơi cùng đám bạn – chủ yếu lớt phớt cưỡi ngựa xem hoa. Đây là lần đầu công cán. Tôi đi xe đêm, lên đến nơi khoảng bảy giờ sáng. Xuống xe, xóc ba-lô lên vai, tôi ngoắt một anh xe ôm, trả giá chiếu lệ rồi leo lên ngồi sau anh ta. Vừa chạy xe vòng vèo lên đèo xuống dốc trong cái lạnh râm ran những khoảng hở của thịt da, anh vừa tẩn mẩn kể chuyện cho tôi nghe. Truyền thuyết về hoa, về thác, về suối, về thung lũng, về đồi thông... Tản mạn. Nhưng đầy chất thơ. Nghe để nhớ, có khi để quên. Nghe cho ngắn bớt một chặng đường đồi. Tranh thủ khoảng nghỉ lấy hơi giữa hai truyền thuyết, tôi hỏi anh ta về Phi Anh. Nhưng anh ngập ngừng, cuối cùng lắc đầu. Tôi nghĩ như vậy càng hay, một anh xe ôm mà đã biết thì có lẽ tôi chỉ là một đại diện thương mại tới trễ... Vào đến khu trung tâm, tôi nhờ đưa đến một chỗ trọ nhỏ, anh ta hăng hái quá mức (có lẽ vì khoản hoa hồng chủ trọ hứa trước?). Tôi muốn có thời gian sửa sang hình thức, dù sao đối tác cũng là phái nữ. Anh ta dừng xe trước Hoa Hồng - khách sạn tư nhân ở khu khuất nẻo. Nội thất tầm thường, cảnh quan nhàm tẻ. Tuy nhiên tôi đã không phàn nàn, cũng không đòi đổi chỗ khác. Vì hai lẽ: từ đây lại địa chỉ của Phi Anh khá gần, và tôi nghĩ mình sẽ không ở lâu. Tôi trả tiền và bo thêm cho anh xe ôm, chào vui vẻ sau khi nhận số điện thoại của anh, hứa hẹn với anh sẽ gọi nếu cần đi đâu đó. Ngay buổi chiều, cơm nước nghỉ ngơi tỉa tót xong xuôi, không điện thoại trước, tôi đến gặp Phi Anh. Nhà nằm ở đầu đường dẫn vào một thung lũng đầy thông, hoa, rau, cây và trái. Biệt thự bé nhỏ, cheo leo đeo lấy sườn đồi, xinh như nấm nhà trong cổ tích. Dây leo hoa đậu biếc bao kín cổng, lan sang những bờ rào nghiêng ngả. Hoàng anh vàng mượt phủ kín vòm cong. Góc kia, bụi loa kèn trắng xanh đầy ấn tượng... Tôi kéo chuông cửa một loại chuông tay cổ điển. Sợi dây truyền vào trong dội lại tiếng reo lanh canh vui tai của hàng cà-rem. Một cô gái xuất hiện khá nhanh ngay sau hồi chuông, mở rộng cánh cổng nhìn tôi. Cái nhìn thẳng và sâu của người bạo dạn. Nụ cười nặng chất thăm dò xã giao. Cô mặc đầm trắng, khoác áo len trắng. Nhẹ nhàng tươi tắn và xinh đẹp hơn rất nhiều so với những gì tôi đã nghĩ. “Một nhan sắc mãnh liệt”, thốt nhiên tôi lẩm bẩm, dùng luôn cái từ mà nhà nhiếp ảnh già đã dùng. Phải, “Mãnh liệt!”. Gật đầu chào, tôi vào đề.

<span class='text_page_counter'>(155)</span> bằng một câu hỏi: -Có lẽ cô là Phi Anh? Cô gái nhíu mày, thủng thẳng trả lời bằng câu hỏi khác: -Có chuyện gì không, thưa ông? Ấn tượng ra phết Tôi mỉm cười: - Chuyện khá dài dòng.Tôi có thể vào nhà? Cô gái gật: - Đồng ý.Nếu ông thấy cần. A, cô gái này. Không lẽ cô luôn ở thế vừa phòng thủ vừa tấn công? Tôi so vai, chỉ còn cách gật: “Cần chứ!”. Và theo chân cô đi dọc lối sỏi nhỏ. Một phòng khách giản dị, ấm cúng. Một bộ bàn ghế kiểu xưa thật xưa. Vừa nhìn lên những bức tường, tôi đã bật nghĩ: mình đi chuyến này thật không uổng công. Đó, kia, và kia nữa! Trên tường treo hai bức tranh khổ sáu mươi - chín mươi, quá lạ lùng. Vừa dữ dội vừa huyền ảo. Một là cảnh cơn bão giữa ngàn trùng biển khơi - con tàu, những mảnh buồm, những thân người, những mỏm đá nhọn hoắt... tất cả tan nát, xô dạt, ngả nghiêng. Một là cảnh cháy rừng - muông thú hoảng loạn cuống cuồng, lửa đỏ tàn than khốc liệt. Thứ vật liệu kỳ diệu mà tôi đã biết trước là tóc đã làm cho cả hai bức tranh óng ánh khác thường. Thứ ánh sáng có hồn theo cách nói của nhà nhiếp ảnh già. Đẹp mê muội. Chưa kể tài nghệ thêu và phối màu tuyệt hảo. Tuy nhiên vẫn nảy trong tôi thắc mắc về những sắc màu trái với màu tự nhiên của tóc: đỏ, cam, lam, tím, vàng, hồng, biếc... Như đọc được suy nghĩ của tôi (hoặc có thể tôi không phải là người đầu tiên nảy ra loại thắc mắc ấy), Phi Anh thủng thẳng: - Hoàn toàn có thể đem nhuộm màu những sợi tóc trước khi thêu. Giống như nhuộm chỉ.Không có gì lạ hết! Ra vậy. Tôi à lên, nhưng mắt vẫn chưa dứt được thứ ánh sáng óng ả trong hai khung gỗ như thôi miên. Ảo quang huyền hoặc. Từng mẩu nhỏ trong tranh đều phản sáng hoặc hắt lân tinh. Và chủ đề tranh. Và bố cục. Và đường nét... Quả tình không có từ ngữ nào phù hợp hơn từ mãnh liệt. Lại một lần nữa, Phi Anh đoán được suy nghĩ của tôi (hoặc tôi tiếp tục phản ứng giống như nhiều người đã tới đây?).Cô cười cười: - Những bức tranh khác còn dữ dội hơn... - Còn nhiều không?Tôi có thể xem được không? - Sao nhỉ.Tôi còn chưa biết anh là ai? -À...Tôi quên..Xin lỗi cô... Vậy là một màn giao đãi diễn ra. Tôi nói về cửa hàng của ba tôi, về những cuốn guidebook, về website trên mạng, về khách Tây khách ta, về những món hàng độc đáo, và về nhiệm vụ của tôi. Nhắc nhở ít nhiều nhà nhiếp ảnh già có chòm râu bạc. Bài nói dài dòng, khô khan. Chứa đựng chủ yếu những thông tin cần trao đổi, những thương lượng, hơn là cảm xúc của tôi khi thấy người, thấy tranh, thấy cảnh trước mắt... Đã khiến cho không khí cuộc nói chuyện trở về đúng nghĩa một cuộc mua bán. Phi Anh lạnh lẽo: -Ra vậy. Tôi bỗng như đọc trong mắt cô ngay lập tức thái độ kẻ cả, cao ngạo. Tuy nhiên bề ngoài cô vẫn cố tỏ ra nhã nhặn, khiêm tốn: - Cũng không nhiều đâu, tất cả chỉ mười hai. Nếu anh thật sự muốn, tôi sẽ cho anh xem mười bức còn lại. Lại còn không muốn ư? Tôi đi theo cô vào gian trong. Ngay khi chúng tôi vừa bước vào, một cô gái khác cũng mặc toàn trắng đang ngồi trên chiếc ghế mây gần cửa sổ vội vã đứng bật lên, đi như chạy vào gian buồng kế tiếp. Và khép ập cánh cửa. Tôi chỉ kịp nhìn thoáng. Cô gái trẻ hơn Phi Anh. Tóc cũng dài nhưng lưa thưa. Thân hình mảnh dẻ xanh xao, nước da trắng bệch. Cái nhìn hình như hoảng hốt. Có lẽ sợ sệt. Một nhan sắc nhạt nhòa, không sức sống. Một cái bóng mờ. Một ảnh ảo...Phi Anh giọng dịu hẳn đi: - Em gái tôi, Phi Yến. Nhà chỉ còn hai chị em. Bố mẹ tôi mất đã lâu. Và cô khẳng định luôn: - Tôi yêu em tôi nhất trên đời. Tôi gật đầu với vẻ cảm thông, tránh không hỏi thêm những gì người ta không muốn nói..

<span class='text_page_counter'>(156)</span> Thật ra, ánh mắt tôi đã bị hút vào những bức tranh khác treo ngay ngắn thành hàng trên tường. Cùng một phong thái tả thực mãnh liệt, cùng một cách tỏa sáng phi phàm, cùng những chủ đề dữ dội. Một đôi ngựa bờm đỏ tung vó dội ngược những cái đầu kiêu hãnh - những chiếc sừng bạc nhọn vút như sừng kỳ lân, hai con mắt hai bên và một con mắt giữa trán phát ra những tia sáng quắc; một đàn chim bay tan tác trong cơn mưa giông một con trong đó cắp trong mỏ một ngọn lửa màu cam chói sáng; ba bức khỏa thân từ những góc độ hết sức khốc liệt, hai bức khác là những đôi tình nhân đang âu yếm nhau hầu như luông tuồng, buông thả, đắm mê; một bức là những cánh bướm mang những con mắt người bén ngọt, bức khác là ba đóa hồng đỏ rực, trên nền lờ mờ một chân dung thiếu nữ sắc xám ủ ê, mắt và môi tươm máu; bức cuối cùng vẽ một người đàn bà mọc cánh bay lên, vẻ mặt bà ta nhuốm vàng cơn thất vọng chất ngất... Tôi hoàn toàn bị thuyết phục. Phi Anh khoanh tay, có vẻ hài lòng. Và chậm rãi nói, như đang cân nhắc từng lời: - Sự thật thì... chúng tôi đang rất cần tiền để trang trải cuộc sống. Em gái tôi thường xuyên đau ốm... Nhưng... bán tranh không phải cách thức kiếm tiền duy nhất, nếu không được giá thà chúng tôi cứ để treo... Anh không phải người đầu tiên lặn lội đến đây đặt vấn đề mua tranh, nhưng tôi có cảm giác anh cuối cùng sẽ mua được... Chưa kể, anh đã đến từ một nơi xa xôi nhất, cũng là nơi sáng giá nhất... Dù sao, tôi luôn mong có cơ hội được trao những bức tranh tuyệt vời này vào tay một người am hiểu, biết cách phát tán chúng cho ai thật sự yêu thích, nâng niu... Quá rành rọt, tôi thầm nghĩ. Cô không chỉ là họa sĩ giỏi, mà còn là một người rất biết thương thuyết. Cô tỉnh bơ đề cao tôi, tỉnh bơ làm giá tranh mình. Quá biết cách vừa xoa, vừa đập... Điều đó khiến tôi không vui, tôi thích cô ngây thơ dại dột, thậm chí ngơ ngác. Sẽ hợp với chất mãnh liệt đầy nghệ sĩ tính trong các tác phẩm mà cô đã vẽ. Cái giọng con buôn sành sỏi này, cứ như cô đã phân thân thành hai con người rất khác. Có thể những người đến trước tôi đã gợi cho cô cách thức tư duy theo kiểu cân đong, đo đếm? Có thể sự mê thích lộ liễu của tôi đã khiến cô động lòng sân si? Nhưng tôi phải tự an ủi, có sao đâu. Vụ làm ăn sẽ kết thúc nhanh gọn. “Cứ rõ ràng, sòng phẳng thì mọi chuyện sẽ giải quyết nhanh” - lời ba tôi đúc kết sau cả đời dài bạc tóc bán mua. Kể cũng tiếc, tôi hầu như đã mến cô. Tôi thậm chí suýt nghĩ cô đòi bao nhiêu tôi cứ thế mà trả, không nì nèo căn cơ. Dù sao tôi cũng chỉ là một gã trai chưa vợ, trái tim quá dễ xúc cảm. Mà cô thì đẹp mãnh liệt, thông minh mãnh liệt, sắc sảo mãnh liệt... Nhưng khi chuyện bán mua được bàn luận thấu đáo theo kiểu này, tôi không có cơ hội đóng vai một kẻ tình si dại dột. Phi Anh bỗng nhẹ nhàng thanh minh (lạ, tôi luôn có cảm giác cô đọc vanh vách từng ý nghĩ của tôi,để kịp ứng xử thích đáng): Một khi người ta sống côi cút không cha mẹ, còn phải bảo bọc cho một đứa em gái yếu ớt, bệnh tật... thì đương nhiên người ta phải biết cứng cỏi, rành mạch, đâu ra đó.Anh có đồng ý với tôi không? Bỗng chốc, tôi không thể không tin là cô quá đúng. Suy cho cùng, một sự việc khi được thực thi với động cơ tốt đẹp, thánh thiện, sẽ mang những sắc màu hoàn toàn khác. Ở trường hợp này, cô gái cứng cỏi và rành mạch đứng trước mặt tôi không hề so đo tính toán cho bản thân. Cô còn gánh nặng của cô... Chừng như biết tôi đã thấm đòn, cô gật nhẹ: -Chúng ta ra ngoài bàn bạc. Sau đó, trong cuộc trao đổi tôi biết thêm một số thông tin. Rằng thứ tóc được dùng để thêu tranh hoàn toàn là tóc của các trinh nữ. Phi Anh có quen thân với khá nhiều nhà chùa, thiền viện ở vùng này... Khi các nữ tu thí phát quy y, họ có thiện ý trao lại cho cô mớ tóc của mình. Dài, đẹp, óng ả, thanh xuân. Một chút gì còn lại với đời. Tóc là thứ vật liệu bền vững không thể tính bao nhiêu kiếp người. Cải táng những ngôi mộ, người ta luôn thấy tóc là thứ còn lại cùng với xương và răng, sau khi da đã tan, thịt đã nát... Tôi cũng biết thêm, cô đang cần tiền để mổ tim cho em. Và cô muốn sửa sang lại ngôi biệt thự nhỏ đã có dấu hiệu rệu rã. Tôi đã mua được tất cả tranh của Phi Anh với một số tiền tương đối lớn, nhưng cầm chắc một sẽ phải lời đến năm, sáu. Đem ra ánh sáng ngày, tất cả lại càng đẹp, càng ấn tượng hơn nữa. Tôi đưa danh thiếp cho cô, dặn đi dặn lại khi nào có thêm tác phẩm mới.

<span class='text_page_counter'>(157)</span> muốn bán, thì hãy nhớ liên lạc ngay cho tôi. Sau đó, tôi trở về khách sạn. Mất cả ngày hôm sau, tôi loay hoay đóng gói từng bức tranh thật cẩn thận. Đến chiều thì mọi việc đã tạm ổn, và tôi thở phào, nghĩ mình có quyền được hưởng một buổi tối thong thả trước khi lên đường trở về. Sáu giờ chiều, khi tôi xuống đến quầy tiếp tân khách sạn thì thấy Phi Anh đã ngồi chờ sẵn. Tôi ngạc nhiên, chẳng lẽ chúng tôi còn gì để nói? Vẫn cái nhìn thẳng của một cô gái bạo dạn (rất khác với bản chất dịu nhẹ, kín đáo của nhiều thiếu nữ ở Đ.), Phi Anh nói: -Tôi muốn...rủ anh đi dạo phố đêm.Nghe nói ngày mai anh về. -Thật hân hạnh.Nếu vậy, tôi mời cô đi ăn. Phi Anh vui vẻ đồng ý. Nói đi nói lại vẫn phải nói thêm, rằng cô đẹp quá. Đẹp đến nỗi khiến người ta khó thể cưỡng lại không yêu mến. Nhưng thấy rõ là cô luôn cố giữ khoảng cách, luôn thích tỏ ra lạnh lùng. Mặc kệ, tôi sung sướng được lang thang cùng cô qua những nẻo đường. Lên lên xuống xuống, bảng lảng sương giăng, vi vu thông hát. Khí lạnh buộc người ta phải co ro nép sát vào nhau, rồi tìm đến những quán cà-phê ấm. Chúng tôi ngồi đối diện qua ánh nến, qua mảnh bàn mộc mạc gỗ nâu. Ngồi mãi đến tận khuya. Phi Anh nói chuyện bằng một giọng du dương. Nội dung câu chuyện hấp dẫn, nhiều góc cạnh, nhiều ý tưởng. Phong thái cô tự tin, hoàn toàn làm chủ tình thế. Nhưng không hiểu sao tôi cứ có linh cảm rồi cô sẽ nói ra một điều gì đó, điều mà vì nó cô đi tìm tôi, điều mà cô cứ phải vòng vo tam quốc thật lâu trước khi mở lời. Mãi cho tới khi quán chẳng còn ai ngoài hai chúng tôi, Phi Anh bỗng ngập ngừng: - Anh sẽ... bán tranh của em cho những nhà sưu tập nổi tiếng và sành điệu, phải không? -Anh chưa biết.Anh sẽ cố.Thật tình anh rất muốn... - Nên là như vậy. Rất tốt cho cả anh lẫn em. Sẽ còn những bức tranh khác. Và sẽ là cả một dòng tranh độc đáo. - Anh tin em đúng. Một cô gái có khả năng lại thông minh như em thì điều đó không phải quá khó. - Anh đã nói muốn khai thác độc quyền tất cả loạt tranh thêu bằng tóc. - Đúng vậy. Và anh nhớ chúng ta đã thỏa thuận. Có cần dùng văn bản để ghi nhớ điều này? - Không cần đâu... Anh ạ, em nghĩ chúng ta sẽ được nhiều, rất nhiều, nếu biết cách.Vấn đề không phải là mục đích,mà là cách thức. - Đừng nói trước, chỉ sợ bước không tới.Anh lo... - Sự lo lắng đó không hợp với tuổi trẻ của anh, và nghị lực của em. Em thích nghĩ người ta có thể nắm được mọi thứ trong lòng bàn tay. -Anh đã nghĩ về một điều khác...(tôi thở dài) -Em đoán ra được điều anh nghĩ. Nhưng em chưa nghĩ (cô nhìn thẳng). - Em tự tin lắm, hơn anh có thể hình dung. - Phải. Em tự tin.Và..anh phải hứa sẽ giúp em? - Anh hứa,miễn trong khả năng của anh. -Lúc khởi đầu thôi,còn về sau tự em biết phải làm gì... - Nếu em thành công, anh có thể thấy trước tương lai đáng thất vọng cho mối quan hệ của chúng ta!(tôi thoáng buồn) - Xin đừng nghĩ em như kẻ vô ơn. (cô lại nhìn thẳng tôi) Sau đó thì mọi chuyện xảy ra quá nhanh. Mười hai bức tranh đã về tay chín chủ nhân đáng giá chỉ trong vòng hai tháng (một người mua hai bức, một người mua ba, bảy người mua một). Ba tôi hết sức hài lòng: giá cả cao phát sốt. Thật sự thì trước khi tranh tìm được chủ, mọi chuyện đã kịp ầm ĩ. Người ta phát cuồng lên vì những ấn tượng mới mẻ. Báo chí bình luận rôm rả, truyền hình sôi nổi đưa tin. Các nhà phê bình hội họa cả chuyên lẫn không chuyên ồn ào nhập cuộc. Giới mỹ thuật người hưởng ứng kẻ phản đối, cái chính là hầu như không ai có thể lơ đãng. Dù muốn dù không, tôi trở thành đầu mối cung cấp thông tin về Phi Anh. Người ta cần biết cô, cần khoe cô ra cho nhiều người khác biết. Tôi nghĩ mình đã thực hiện được những gì từng hứa: giúp cô trong bước khởi đầu. Và cũng chỉ khởi đầu thôi. Rất nhanh, tất cả vượt khỏi tầm kiểm soát. Tràn ngập.

<span class='text_page_counter'>(158)</span> những nguồn thông tin chính thức và hành lang, xung quanh nhân vật mới nổi. Ở thành phố của tôi, người ta hay dễ điên lên vì mốt – kể cả mốt thích túm năm tụm ba sôi nổi bàn tán: về một thứ gì, hay một ai đó, một đám mây đang lên, một ngôi sao đang rạng, một mặt trời sắp xuống... Chưa hết. Sau khi mua được tranh, những đại gia viên mãn họp lại hả hê. Họ bàn nhau tổ chức một cuộc triển lãm sang trọng tại một gallery thượng thặng. Họ bỏ tiền tài trợ mời tác giả (tức Phi Anh) về dự. Đợt bày tranh thành công ngoài sức tưởng tượng: từ chỗ tung hô tranh, người ta tâng bốc luôn những kẻ mua tranh có con mắt vàng, nhìn ra vẻ đẹp từ bóng đêm tăm tối. Chỉ tội cho những dân chơi sành điệu chưa kịp bổ sung cho bộ sưu tập của mình những bức thêu thời thượng. Họ xôn xao ấm ức, đổ xô đi tìm ba tôi. Từ giây phút Phi Anh xuất hiện tại gallery trong dáng vẻ xinh đẹp, phong thái lạnh lùng, đầu ngẩng cao, cái nhìn kiêu hãnh; từ khi cô trả lời phỏng vấn trên hàng loạt báo, đài bằng ứng xử lịch duyệt, lời lẽ khôn ngoan, công chúng lại càng bị cô cuốn đi. Một giai nhân mãnh liệt sáng tạo ra những tác phẩm mãnh liệt. Nói như một cây bút lão làng chuyên lăng-xê người mới: “Nàng có đủ mọi phẩm chất để trở thành một ngôi sao sáng chói – và nếu vẫn tiếp tục sáng tác tốt, nàng sẽ giữ rất lâu vị trí ngôi sao trên bầu trời thành phố, thậm chí trong cả nước”. Thực dụng, ba yêu cầu tôi phải đi gặp Phi Anh ngay, với hy vọng cô vẫn giữ lời hứa cho chúng tôi độc quyền khai thác tác phẩm. Tôi nghi ngờ điều này. Nàng Lọ Lem bây giờ đã trở thành công chúa, là đối tượng săn đuổi của những đại gia hùng mạnh hơn chúng tôi bao nhiêu lần. Tuy nhiên để chiều ý ba, tôi vẫn thử thời vận thêm một lần. Trước tiên, tôi gọi về số điện thoại ở Đ., được nghe một giọng yếu ớt trả lời rằng chị Phi Anh có về, nhưng rồi lại đi, lại về, lại đi. Và hiện nay thì vẫn chưa về. Tôi đoan chắc đó là Phi Yến, cô em gái ẻo lả bệnh tật mà Phi Anh đã từng tuyên bố trên đời này cô yêu quí nhất. Tôi ngọt ngào dò hỏi: Em thân mến, em có biết phải làm sao để liên lạc được với chịemkhông?Có cách nào để nhắn gửi không? Cô gái yếu đuối trả lời rằng: Không. Những tiếng thở hụt hơi đứt quãng, những lời thầm thì khó đoán biết. Xen ngang là hai ba tiếng nấc nhỏ, nghẹn ngào. Không rõ lý do gì khiến tôi làm cô hoảng hốt…Tôi cố mềm giọng hơn: Anh là người đã từng đến nhà, từng thoáng gặp em, từng mua tranh với chị em.Rất mong là em vẫn nhớ. Phi Yến bớt run rẩy hơn:Dạ. Có.Em nhớ... Tôi bỗng chốc bông lơn, muốn chọc đùa, hỏi: Em nhớ anh ra sao? Cô nghẹn lời, đáp: Tha lỗi cho em, nhưng em không tả được, em không có khả năng, em không đủ sức diễn đạt bằnglời… Tôi thở dài: Tiếc quá, vậy mà anh thì đã… nhớ em dễ sợ. Nhớ tới độ bị ám ảnh (?!)... Nhưng em à, thiệt tình anh rất mong gặp được chị em. Nếu em biết cách, làm ơn hãy giúp anh.Được không, em thân yêu? Cô thì thào, nói: Vâng, đúng năm giờ chiều nay xin anh gọi lại. Tôi đồng ý, chào cô, cám ơn cẩn thận và dịu dàng. Năm giờ chiều không sai một phút,chính là Phi Anh chủ động hẹn tôi. Chúng tôi gặp nhau ở quán cà-phê giữa khu trung tâm. Mới đó mà Phi Anh đã quá khác xưa. Cô càng đẹp lộng lẫy, càng thản nhiên, càng lạnh lùng hơn. Gương mặt dửng dưng, giống như mặt nạ. “Cám ơn anh về tất cả”, cô lơ đãng. Bất chợt xoay sang nhìn tôi, “Không có anh thì em làm sao có được như ngày hôm nay...”. Tôi chẳng thấy hân hoan, có lẽ do hơi hướng xã giao lạnh lẽo tỏa theo mỗi lời cô nói. Tôi chợt nghĩ, Phi Anh có vui sướng thật không? Nếu không, cô chẳng việc gì phải hội nhập vào một cuộc sống vàng son,hào nhoáng mà cô không cần.Tôi chán nản: - Em có thừa thông minh để biết anh cần gặp em vì lý do gì. -Phải.Em biết Anh cần mua tranh. -Và em không cần phải giữ lời hứa. - Em sẽ giữ lời hứa với anh. Tôi nhún vai,tỏ ý khôn gtin.Cô bật cười: -Thì cứ coi như em muốn trả ơn anh. -Sòng phẳng quá... - Không, em cần anh thật mà. Chẳng phải chính em đã chủ động hẹn anh sao? Em sẽ.

<span class='text_page_counter'>(159)</span> bán cho anh năm bức tranh mới hoàn thành. Tôi nhẹ nhõm thở phào. Tôi đã ngờ oan cô dựa theo những đổi thay bên ngoài. Thật võ đoán, sai lầm.Phi Anh trở lại lạnh lùng: - Lần này là tranh theo trường phái ấn tượng... - Em bây giờ thêu gì mà chẳng bán được. Thiên hạ cuống lên vì tranh em. Năm bức sẽ không bõ bèn gì đâu... - Em biết, nhưng sức người có hạn. Anh quá hiểu mà, sáng tác đâu phải như sao chép. -Vâng, anh hiểu.Chưa nói chất liệu sử dụng lại là tóc... Năm tác phẩm phi thường. Và dễ sợ. Những ám ảnh nào đã vướng vít trong tâm hồn Phi Anh, để đến khi tượng hình tượng dạng thì méo mó, kinh hoàng, ngả nghiêng, gãy đổ, vỡ toác, điên cuồng đến đỉnh điểm... Không là cái gì nguyên vẹn: những vết nứt địa chấn, những dòng nham thạch tuôn đổ, những cơn đại hồng thủy, những gương mặt người dị dạng, những cơn giao ái hân hoan, những mắt, miệng, mũi, môi sứt sẹo, lung lay, những tay, chân, đầu, mình quằn quại, rên siết... Cảm giác như người tạo tác đã cố rướn lên, dù chỉ một lần rồi thôi, để tinh anh phát tiết tới tận cùng,và ngày mai sẽ chết... Tôi đã trả một số tiền rất lớn cho cô, nhưng ba tôi vẫn sướng run lên khi lô hàng về tới. Công bằng mà nói, dù không hiểu gì về ý đồ, bố cục, sắc màu, nghệ thuật, người ta vẫn phải thốt lên rằng tranh quá đẹp. Quá hoàn hảo về mặt gây cảm xúc. Ý thức rằng đây là cơ hội vàng, ba tôi không vội bán ra. Và ông đã tính không sai. Những kẻ đam mê đẩy giá tranh dâng lên từng nửa tháng, từng tuần, từng hai ba ngày, rồi thậm chí từng ngày. Như trong một cuộc đấu giá khốc liệt. Ba tôi tỉnh táo khôn lường, ông thuần thục cách đeo bám mồi của con sói già. Còn tôi, học lối cừu non, mỏi mê vô vọng dõi theo Phi Anh. Tôi biết chắc giờ đây cô đã trôi xa khỏi tầm tay. Vài lần gọi vào số di động mà cô cho, không có trả lời, tôi tự bảo mình “Hãy thôi đi. Làm ơn thôi đi”. Cô vốn dĩ lạnh như băng, lại đang là ngôi sao. Mới nhất, tôi nghe cô được mời sang Paris, dự một triển lãm tranh. Rồi cô đi Ý, đi Úc. Khi cô trở về, cũng là lúc ba tôi bán ra bức tranh cuối cùng mà ông cố ghìm với giá tiền cao nhức nhối. Riêng tôi, sa lầy trong tình cảm đơn phương. Tôi biết là tôi yêu. Nhưng tôi tự cười: không hiểu sao những lúc gặp nhau, giữa chúng tôi chỉ toàn những chuyện làm ăn, cân đong đo đếm, sòng phẳng bán mua. Âu cũng là số phận. Cho tới một ngày, trên một mặt báo tôi thấy đăng tấm ảnh Phi Anh và một người đàn ông cười rạng rỡ bên nhau. Người ta đưa tin cô lấy chồng. Hai hôm sau, điện thoại của tôi rung lên, chính là cô gọi.Để mời dự đám cưới. Thật tức cười khi chính trong ngày cưới của cô, chúng tôi lại thỏa thuận xong với nhau một vụ làm ăn mới. Phi Anh cam kết sẽ bán cho tôi bộ tranh trừu tượng mười lăm bức. Tôi ngạc nhiên khi cô dặn tôi giấu chồng. Càng ngạc nhiên hơn khi được xem tranh. Cô thay đổi luôn luôn, mỗi lần tung tranh ra là một lần tự làm lạ, làm mới mình, lần sau mãnh liệt hơn lần trước. Tưởng như cô đã lên đến đỉnh, nhưng không, Phi Anh vẫn còn có thể lên cao. Cao mãi. Bộ tranh lần này khó thể được tiếp nhận ngay trong lần chiêm ngưỡng đầu tiên. Nhưng ra về thì người ta bị ám ảnh, muốn trở lui quay lại xem. Kể từ lần thứ hai, tranh hút hồn người ta vào một thế giới siêu thực, vỡ òa, thẳm sâu. Người ta như muốn phát điên vì cảm xúc... Tôi không còn lời nào để nói, đời với cô viên mãn quá: vừa thành danh, lại vừa hạnh phúc. Tôi biết Phi Anh lấy chồng vì tình yêu, không phải vì so đo, khác với trước nay cô vẫn thường hay toan tính. Chồng cô không giàu, không danh vọng, không thế lực, nhưng chắc chắn có những phẩm chất tuyệt vời tương hợp với cô. Tôi mừng vì cô hạnh phúc,và tôi thấy tội nghiệp mình. Trong khi ba tôi thì hãnh diện chất ngất với công trạng mà tôi đã lập, ngợi khen tôi không tiếc lời. Nhờ bán tranh Phi Anh, ông phất lên như diều. Đem tiền đó đi đầu cơ vô bất động sản, ông lại càng thắng lớn. Ông vững bước trở thành một đại gia. Hệ thống năm cửa hàng thủ công mỹ nghệ và đồ lưu niệm của ông vươn như vòi bạch tuộc, tóm chặt địa bàn kinh doanh khai thác khách du lịch. Nếu biết tôi làm hỏng cơ may cưới cho ông cô con dâu dệt tóc ra vàng, chưa biết ông sẽ còn tiếc rẻ đến đâu. Thật vô lý cái vòng luẩn quẩn này: ba tôi cần tranh Phi Anh để tiếp tục hái ra tiền – tôi cần chứng tỏ với ba rằng tôi được việc – cô cần bán tranh cho tôi vừa có lợi vừa có danh, vừa để tự trấn an đã giữ lời hứa – và tôi cần gặp cô vì tôi yêu cô. Tôi yêu cô, yêu tâm hồn tinh tế đã thúc đẩy cô vẽ nên những bức tranh phi thường, yêu nhan sắc tuyệt trần, yêu cái vỏ lạnh lẽo.

<span class='text_page_counter'>(160)</span> bí ẩn khôn cùng; nhưng tôi đã luôn bàng hoàng ghê sợ trước vẻ ngoài tỉnh táo, mưu toan và đầy thực dụng– một Phi Anh quá khác. Tôi quay lại Đ. trong một buổi sáng ảm đạm mưa giăng. Đêm qua, Phi Anh nức nở gọi cho tôi, báo tin em gái cô vừa mất. Đám tang lặng lẽ thưa người. Không gian ủ ê. Vắng bóng ông anh rể mới. Chỉ có một lý do, bởi vì Phi Anh muốn vậy. Mắt cô thâm quầng, sũng nước. Nghẹn lời, cô kể cho tôi hay đã không kịp đưa Phi Yến đi mổ tim, dù bạc tiền dư dả đã từ rất lâu. Cô có quá nhiều cơ hội, nhưng lại quá thiếu thời gian. Cô có quá nhiều việc để làm, nhưng không làm được việc cô muốn nhất. Bệnh tật của cô em gái đã trở thành đòi hỏi thứ yếu, cứ thế lùi lại dần, nhường chỗ cho bao nhiêu các loại ưu tiên khác. Cô phản bội và thất hứa. Cô mải mê đuổi theo hạnh phúc bản thân, mải mê leo cao lên đài danh vọng. Cô càng muốn thì càng có nhiều, càng có thì càng muốn nhiều. Để giờ đây cô đánh mất vĩnh viễn tạo vật trên đời mà chính cô luôn tuyên ngôn rằng yêu quí nhất. Buổi tang lễ có một điều kỳ quặc làm tôi phải chú ý: người ta đã chôn xuống ngôi mộ cùng lúc hai chiếc quan tài. Một chiếc cho người chết (thì đã đành), còn chiếc kia là của một con rô-bốt. Rô-bốt có kích cỡ như người, nói thẳng ra là bản phỏng theo khá chính xác nhân dáng Phi Anh. Cô giải thích vắn tắt với tôi: cô đã dành phần lớn số tiền kiếm được để đầu tư cho việc nghiên cứu, chế tạo, tu bổ, hoàn thiện người máy này. Nó có khả năng thực hiện các thao tác đơn giản, nói được vài câu ngắn gọn, thậm chí có thể giao tiếp theo một số chương trình cài đặt sẵn. Tuy giống, nhưng vì chỉ là máy nên nó hơi thô, hiện vẫn chưa hoàn chỉnh. Dù vậy, không thể phủ nhận đó chính là một tác phẩm siêu hạng của một kỹ sư tài hoa thích sống ẩn danh (tôi buột thốt: mảnh đất lãng mạn trên đồi trong rừng thông này sao lắm ý tưởng kỳ lạ, tạo nên bao nhiêu thứ thành quả ghê gớm khác người!). “Vì sao em chôn bỏ nó?”. “Phi Yến không còn, con rô-bốt đâu còn cần cho ai”. “Phi Yến cần có con rô-bốt đó?”, tôi cố tình vặn hỏi tới nơi tới chốn. Phi Anh buồn bã, “Em còn cuộc đời riêng của mình, em không thể suốt ngày cận kề bên em gái”. Tôi gật – hoàn toàn lô-gích. Phi Anh không thể chôn vùi đời mình ở nơi khỉ ho cò gáy này. Cô có quyền được vi vu thong thả đó đây, có quyền được sống theo ý mình. Người máy chính là giải pháp. Nhắm mắt, tôi cố hình dung, một ma-nơ-canh giả danh cô chị đi ra đi vào trong ngôi nhà thiếu vắng tình thương, thiếu vắng hơi người, và cô em nhạt mờ – giống y như một ma-nơ-canh khác. Tôi nhớ cuộc nói chuyện rời rạc qua điện thoại. Ngoài kỷ niệm ngắn ngủi ơ thờ và bông lơn đó ra, tôi hầu như không có dấu ấn gì đặc biệt về chân dung cô gái trẻ lặng lẽ. Dù sao cũng thấy xót xa khi chứng kiến Phi Anh tự dằn vặt mình. Sám hối – giờ đây cũng chẳng để làm gì. Ân hận, nuối tiếc – tất thảy đều vô ích. Dù biết vậy, nhưng người ta vẫn đau,đau như có thể chết... Tôi đã ở bên Phi Anh cho tới lúc quanh cô chẳng còn ai. Tôi nhận ra, sự yếu đuối đã kéo con người ta lại gần với bản chất thật của mình nhất. Khổ đau, Phi Anh đã quên hết tất cả những điều luôn tâm niệm phải giữ gìn, che đậy, bưng bít. Còn tôi, đâm bối rối vì được là người mạnh mẽ, được ra tay bảo bọc cho cô. Trở về từ nghĩa trang, có lúc cô hầu như phải tựa người vào tôi để bước đi. Nước mắt cô nóng bỏng, thấm ướt vai tôi qua hai lần áo. Trong căn biệt thự nhỏ (không sửa sang được gì nhiều so với lần đầu tôi đến, có phần còn tàn tạ hơn), chúng tôi ngồi đối diện nhau. Phòng khách với những bức tường vô cảm trống trơn. Không gian thinh lặng, khiến ngỡ thời gian như đang nhỏ giọt. Bụi lơ mơ bám trên bàn ghế xưa. Ngoài trời, qua cửa sổ, bóng tối hạ màn dần. Hồi lâu Phi Anh đứng dậy vào trong, đem ra trao cho tôi một bức tranh. Khổ nhỏ, bốn mươi nhân sáu mươi. Chưa kịp đóng khung. Dưới ngọn đèn vàng cổ lỗ, ánh sáng hắt lên trong tranh kỳ ảo, mượt mà. Tôi ngỡ ngàng: chân dung của chính tôi. Dáng vẻ phong trần, ánh mắt đắm say, môi nhếch lên khinh bạc.Phác họa một nụ cười xót xa Tôi ngước nhìn Phi Anh, thảng thốt: - Anh cần được nghe em giải thích?Chuyện này... - Nếu em nói ra, sẽ là phanh phui một điều bí mật ghê gớm... - Anh có quyền được nghe không? -Có. Anh có quyền....

<span class='text_page_counter'>(161)</span> Và cô đã nói.Giống như xưng tội lầncuối. Hóa ra tôi cũng như bao nhiêu người khác, hết sức nghệch ngờ và cả tin. Một sự giả mạo ngoạn mục. Một kế hoạch tinh vi. Phi Anh quả là siêu trong những ứng biến tài tình... Suy cho cặn kẽ, chỉ vì tôi không có cơ hội, không linh cảm được đó chính là cơ hội. Tôi đã cố tình từ chối không tiếp cận em – một lần, hai lần, ba lần – để ngu dại đuổi chạy lao theo lớp vỏ hào hoa của nhan sắc, của sự mãnh liệt giả hình và ảo ảnh phù du của tài năng chân xác. Trước ngày trở về, tôi một mình đi thăm ngôi mộ mới. Nấm đất nhỏ nhoi trên một sườn đồi, lọt giữa bạt ngàn hoa xuyến chi. Sương chiều bảng lảng, mây buông lửng lơ. Nữ họa sĩ tài hoa bạc mệnh, sống đời phiêu linh – ngắn ngủi mong manh nhưng chứa đầy ẩn ức. Bia mộ khiêm nhường định danh cuộc đời kín đáo của em. Nhưng chính em, Phi Yến, mới là tác giả đích thực của toàn bộ các bức tranh thêu kỳ ảo bằng tóc. Tác giả giấu mặt, tác giả khuất danh, tác giả trong bóng tối. Ngoài bệnh tim, em còn mắc phải một chứng bệnh kỳ lạ: sợ tiếp xúc với con người. Sợ đám đông. Sợ để lộ mình. Sợ thay đổi hoàn cảnh sống. Sợ đối diện với những gì không quen thuộc. Và đây là điều khó hiểu nhất trong toàn bộ các điều khó hiểu: rằng em yêu tôi. Phi Anh kể rằng Phi Yến đã thêu khuôn mặt tôi trong bức chân dung bằng tóc của chính em – mớ tóc càng về sau càng thưa, càng rụng, càng xác xơ – nhưng vẫn là tóc của trinh nữ. Thêu như lên đồng, như hồn thoát xác. Có những khi mải mê bị kim đâm vào tay đến rỏ máu, vậy mà em vẫn không hay. Dưới ngọn đèn vàng cổ lỗ, ánh sáng hắt lên trong tranh kỳ ảo, mượt mà. Tôi ngỡ ngàng: chân dung của chính tôi. Dáng vẻ phong trần, ánh mắt đắm say, môi nhếch lên khinh bạc. Phác họa một nụ cười xót xa. Là tôi đó ư? Dáng vẻ phong trần, ánh mắt đắm say, môi nhếch lên khinh bạc. Phác họa một nụ cười xót xa. Là tôi ư? Tôi không thể tin, không thể nghĩ... Nguyễn Thu Phương Bầu trời ngoài ô cửa Thứ sáu, 06 Tháng 2 2009 14:53 Năm tuổi, Linh đã ngồi trước khung toan và cầm cọ vẽ. Cha dắt Linh vào con đường hội họa quá sớm. Thảng hoặc, cha dắt Linh đi dạo quanh sân khu tập thể. Linh mặc váy mầu hồng, hai bím tóc đong đưa thắt nơ mầu đỏ. Đôi chân trắng, dài trước tuổi và hai gót hồng khiến bọn trẻ con trong cả khu nhà tập thể nhìn Linh ghen tỵ. Chúng chưa biết thế nào là sự đố kỵ nhưng trước mắt chúng, Linh xinh đẹp và giỏi giang hơn chúng rất nhiều. Bọn trẻ không thích chơi với Linh. Linh sống với thế giới riêng biệt lập của mình từ thơ bé. Người lớn thì nhìn Linh chép miệng: "Con bé này đẹp quá! Lớn lên sẽ bị khổ thôi". Thế là Linh khổ thật. Mười bảy tuổi Linh theo cha rong ruổi suốt những ngày nghỉ hè. Cha đưa Linh lên tận những vùng núi cao cao phía bắc, đến vùng biển Nha Trang đầy nắng, gió và cát... cùng khung vẽ, thuốc mầu, chì, cọ. Nếu không có một ngày Linh sung sướng, lâng lâng cầm tờ giấy trúng tuyển vào Đại học Mỹ thuật, phóng xe như bay trên phố, và bất ngờ chiếc ô-tô lao đến... thì cuộc đời Linh đã khác. Năm năm rồi, Linh sống trên xe lăn. Cha bận liên miên ở trường, ở xưởng vẽ riêng của cha nên việc ăn uống, sinh hoạt của Linh, cha thuê người giúp việc đỡ đần. Một ngày của Linh thường bắt đầu bằng những tia nắng yếu ớt, mong manh và rất nhiều âm thanh lẫn lộn. Tiếng rao: Bánh rán nóng ròn đê... ê a kéo dài. Tiếng lọc xọc của chiếc xe đổ rác sớm. Tiếng hót của bày chim lảnh lót: Chi... chi... chiệc chiệc... Và tiếng gió vờn lá lao xao... ngoài ô cửa sổ. Ngoài ô cửa sổ. - Cháu chào bà, cháu đi làm ạ..

<span class='text_page_counter'>(162)</span> - Hôm nay trời nắng đẹp đấy. - Khổ thân nhà Long, đêm qua sơ sểnh để kẻ gian cắt khóa lấy mất toi cái xe máy. - Cho chết. Ham của cho lắm vào. Tiếng người léo nhéo, ca cẩm, phàn nàn, giận dỗi, than vãn. Đủ cả.. Vẫn ngoài ô cửa sổ. Gương mặt không rõ là của ai, tung tẩy bím tóc cột nơ mầu da trời lướt qua. Tiếng líp xe lách tách. Líu ríu tiếng trẻ rủ nhau đến trường. Bác bảo vệ già kéo chiếc giày cũ sạt sạt, bác đi khấp khểnh bằng một bên chân giả, áo đại cán kiểu cổ Tôn Trung Sơn kéo kín suốt mùa đông, áo dài tay bộ đội bạc mầu vận suốt mùa hè. Bác ló đầu ngoài chấn song: - Mở to cánh cửa sổ ra, cháu. Linh vòng xe lăn đến sát tường, rướn cổ hỏi: - Hôm nay trời sẽ nắng hay mưa, bác. - Hôm nay trời đẹp đấy. Mở to cửa ra cho ánh sáng nó ùa vào. Bác cứ hay nhắc Linh như vậy, dù biết rằng chẳng bao giờ Linh làm theo lời bác. Vì với Linh, bất kể mưa hay nắng bên ngoài ô cửa sổ kia cũng chẳng liên quan gì. Trời mưa hay nắng, gió bão hay trời lặng, cao xanh thanh bình... cũng chẳng làm Linh vui hơn hay buồn hơn. Linh đã có bốn bức tường của Linh và cái trần nhà cao vòi vọi. Lâu ngày, sách không đọc và ti-vi Linh cũng chẳng buồn xem. Ngủ. Thức dậy. Lượn xe lăn trong nhà. Cầm cọ vẽ. Vẽ mải miết. Đếm những con kiến hành quân không biết mỏi trên tường nhà. Ăn đã có người giúp việc bưng đến. Thỉnh thoảng nhìn mây trôi qua cửa sổ. Và chán, Linh lại ngủ. Dãy nhà Linh ở chỉ qua một khoảng sân là đến chiếc hồ xây nhỏ. Khoảng sân vừa là lối đi lại, vừa là nơi vui chơi của đám trẻ con và cũng là chỗ tụ tập, túm năm tụm ba của người lớn trong ngày cuối tuần rỗi rãi. Chỗ này khi xưa là một rãnh nước, người ta tôn nền, làm nhà cao rồi kè đá và xi-măng thành một chiếc hồ. Nước ở đây quanh năm tĩnh lặng lờ lờ đục và tù đọng. Từ ô cửa sổ nhà Linh nhìn ra có thể thấy một cụm hoa súng dại giữa mặt hồ. Buổi sáng những nụ súng nhô lên he hé mầu nâu sẫm, trưa có nắng hoa súng nở tung ra hồng tím rực rỡ rồi chiều đến những bông súng lại khép vào hờ hững, đến cả đám lá bồng bềnh cũng trở nên nhợt nhạt. Linh hay nhìn cụm hoa súng dại này, mỗi buổi sáng cô nhẩn nha đếm một... hai... ba... rồi lẩn thẩn nhẩm tính cụm súng dại nở hơn hôm qua một bông, hay lùi đi mất một bông. Chậu hoa giấy cha trồng mấy tháng trước leo ngoài chấn song đã có rất nhiều hoa. Hoa tươi hẳn hoi mà lại gọi là hoa giấy, nở hết đợt này đến đợt khác, đỏ tươi, tím biếc, trắng phơn phớt lẫn lộn. Rồi hết đợt lại trơ cành khẳng khiu, gai góc. Có một buổi sáng tự nhiên Linh phát hiện ra đám rêu xanh mềm mại lún phún phủ đầy cái chậu trồng hoa giấy như ai đắp lên chứ không phải nó được mọc ra từ lớp bụi này đến lớp bụi khác. Chả lẽ lại là bác bảo vệ già? Sáng, trưa, chiều, tối, thời gian cứ lặng lẽ trôi đi. Có lúc Linh như quên mình đang sống,.

<span class='text_page_counter'>(163)</span> đang tồn tại, từ lâu lắm rồi. Bất chợt có một lần, Linh bắt gặp cô gái buộc tóc bằng chiếc nơ mầu da trời hay đi giày cao gót, mặc áo dài tân thời trắng tinh líu ríu đi qua cửa sổ nhà Linh cùng một chàng trai cao lớn. Họ vừa đi vừa trò chuyện vui vẻ. Họ mỉm cười với nhau và thỉnh thoảng chàng trai cúi xuống khẽ hôn lên mái tóc cô gái. Cô gái ấy lên là Hiền, giáo viên dạy Anh văn, nhà ở tận cùng trong ngõ. Ngày trước, Hiền không chơi với Linh và Linh cũng chẳng chơi với Hiền. Hiền nhan sắc bình thường, không đẹp, không mặn mà, vẫn thường đi dạy ngang qua cửa sổ nhà Linh. Vậy mà, bên chàng trai mới lạ, má Hiền ửng đỏ, mắt lúng liếng và hình như đẹp ra... Sau đó, những buổi sáng chủ nhật chàng trai thường đỗ xịch xe máy trước cổng nhà Hiền, tặng cho người mình yêu khi thì một bó hoa hồng đẹp rực rỡ, có hôm là một cành khế lúc líu quả mọng căng, vàng rộm. Có một cái gì đó chợt cựa quậy, thức dậy lao xao, thì thầm, dạt dào trong lòng Linh. Cô đau xót nghĩ đến mình. Chiếc xe lăn và căn phòng vuông vức, giá lạnh, hoang vắng đến vô cùng. Hai chân Linh không hề có cảm giác, teo lại, thõng thượt như một khối thịt thừa. Từ ngày ở bệnh viện về nhà, Linh vẫn cầm cọ vẽ. Cô cắn răng lại chịu đau và cô vẽ quyết liệt. Vẽ tiếp thêm sức sống cho cô, mà không vẽ cô cũng chẳng biết làm gì. ở triển lãm tranh của các họa sĩ trẻ năm trước rất nhiều người đã dừng lại trước bức chân dung tự họa của Linh. Cô gái trong tranh có gương mặt đẹp, sống mũi thẳng, đôi môi hơi mím và đôi mắt buồn mênh mang. Có người bảo đôi mắt ấy mang nỗi buồn của người kỵ mã phải rời xa lưng ngựa trên thảo nguyên mênh mông rập rờn nắng gió. Lại có người bảo đôi mắt người thiếu nữ ấy là nỗi buồn của con đại bàng phải giã từ bầu trời lộng gió... Người ta hỏi, người ta khen, người ta đòi gặp tác giả, người ta gửi tặng rất nhiều hoa cho chủ nhân bức chân dung sơn dầu ấy. Nhưng không ai biết người trong tranh, không ai biết mặt tác giả của bức tranh ấy lại là Linh. Linh có khuôn mặt trái xoan đẹp thánh thiện, da Linh trắng nõn nà như da trẻ con, đôi mắt to, trong và buồn buồn, dưới hai hàng chân mày đen xanh mượt. Linh có tiền từ những bức tranh được bán với giá cao trong các cuộc triển lãm. Có tiền, nhưng Linh không biết tiêu vào những khoản nào. Một bộ quần áo lót cũng tiền cha cho, một thước toan mới cũng cha mua, một gói ô mai cũng lại cô giúp việc mua. Linh có nhiều những bức vẽ ấn tượng. ở đó là một thiếu nữ mặc áo dài trắng đắm đuối ngắm một cành hoa loa kèn trắng. Một bầu trời bao la, mông lung và cánh chim cô đơn nhọc nhằn bay dưới những đám mây mầu xám. Một chú mèo ngẩn ngơ nhìn cuộn len lăn... Tĩnh vật, phong cảnh, chân dung... Chỉ có bầu trời, mặt đất, hoa lá, cỏ cây, thiếu nữ và nỗi buồn, không có những bon chen, giành giật, không có tội ác trong tranh của Linh. Riêng một miền khát khao trong tranh mà Linh hằng ước ao nhưng chưa vươn tới được. Miền khát khao ấy là thiên đường của những cô gái, những chàng trai yêu nhau. Linh đã từng khóc. Cô khóc không phải vì sự chán nản với đôi chân tật nguyền mà vì sự bất lực trong ý tưởng, trong cách thể hiện. Tại sao? Ta không thể vẽ được một bức tranh về tình yêu kia chứ? Cho đến một ngày. Người cha ngắm nhìn những bức tranh của Linh. Ông mỉm cười rồi khuôn mặt ông buồn lặng ngay. Ông thương con gái và ông thấy nuối tiếc. Giá như con ông không bị tai nạn, giá như con ông có thể bay nhảy khắp nơi thì thế giới nghệ thuật sẽ mở ra trước mắt nó rộng rãi, lớn lao biết bao nhiêu? Ông nhớ lại ở các triển lãm lần trước, những bức tranh con gái ông vẽ về một người lính vai đeo ba-lô đứng hát ở lưng đèo, vẽ một cô sơn nữ che ô thấp thoáng trên đỉnh dốc, bước chân đung đưa theo những chấm nắng... Ông đã từng nghe những lời bình phẩm.

<span class='text_page_counter'>(164)</span> tiếc rẻ. Tranh của con gái ông đẹp, ấn tượng nhưng bị thiêu thiếu một cái gì đó. Ông thương con gái đến cháy lòng. Con gái ông trong trẻo quá. Nhìn những bức vẽ mới nhất ông hiểu con gái ông không còn vô tư nữa, trong đôi mắt trong veo của Linh giờ còn có muôn vàn những tia nắng lấp lánh và các đám mây mầu xám đang trôi. Con gái ông đã biết mơ đến một miền xa xôi lắm. Nó muốn thoát ra và đi đến một nơi mênh mông nào đấy ở đó có vi vút tiếng thông reo, có róc rách tiếng suối chảy và có tiếng dịu êm thì thầm hay cáu gắt, giận dỗi vì nhọc nhằn của con người. Con gái ông đang bị bao vây, bị giam cầm gò bó trong bốn bức tường. Tranh của Linh phải thực tế hơn, bề bộn, sinh động hơn chứ không thể èo uột do tưởng tượng thế này. Linh ơi ! Giá như con đi xa bằng đôi chân của mình, giá như con được yêu? Ông không hề biết rằng Linh cũng đã đang thổn thức, bởi vì con gái ông đã hơn hai mươi tuổi, cái tuổi mà lẽ ra trước mắt là một bầu trời rộng mở, ở đấy có những tia nắng vàng rực rỡ; có những câu nói ấm vang, vòng tay khỏe khoắn, hơi thở nồng nàn của đàn ông; những đóa hoa hồng đỏ rực trinh bạch còn đang ngậm sương long lanh và những cái nhìn khác giới mê say; là những nụ hôn cuồng nhiệt, nóng bỏng. Nhưng tình yêu vẫn còn là một cái gì đó quá đỗi mơ hồ, xa lạ với con gái ông. Sau mỗi chuyến đi xa trở về cha Linh thường dành thật nhiều thời gian để kể chuyện về những nơi ông đã đến cho con gái nghe. Ông chỉ có thể nói cho con gái biết ngọn núi thì cao, dòng sông hiền hòa chảy và có những cánh buồm trôi lững lờ, con người sống bên nhau thì có dối lừa, có nhân ái... Nhưng ông không thể giảng giải cho con gái biết tình yêu là thế nào? Cho đến một ngày. Linh đang say sưa với bức tranh của mình, từng nét bút đưa đưa mềm mại, khoảng mầu hiện lên sống động trên toan thì có một chàng trai đứng lặng ngoài cửa sổ. Chàng mải mê nhìn những nét vẽ theo những ngón tay thon nhỏ búp măng của cô. Bất chợt chàng trai thốt lên: - Đẹp quá! Không biết bức tranh vẽ dở đẹp hay cô họa sĩ tật nguyền đẹp mà chàng trai cứ đứng ngây người ra mãi. Linh giật mình xoay người lại. Cô ngỡ ngàng. Lại là chàng trai sáng sáng chủ nhật mang hoa đến tặng cô giáo Hiền. - Đẹp quá? Chàng trai lại thốt lên. - Anh không gặp được chị Hiền à? Đến lượt chàng trai cầm bông hoa hồng bối rối. Anh vừa lúng túng, vừa tiến lại sát gần song cửa sổ: - Anh tặng em này. Em vẽ tranh đẹp quá. Có một cái gì đó như linh tính mách bảo, có một cái gì đó như là sự nhạy cảm của người con gái, cô ngập ngừng: - Em cất hộ anh cho cô giáo Hiền..

<span class='text_page_counter'>(165)</span> - Không! Anh tặng em. Thật đấy! Linh kịp nhìn thấy đôi mắt anh thoáng buồn. Hoa hồng thơm ngát, dìu dặt, tức tưởi. Linh cầm bông hoa e ấp vào ngực, khẽ khàng đưa lên mặt, đôi môi trinh nữ của cô hôn nhẹ lên bông hồng đỏ còn đọng giọt sương đêm lóng lánh. Mọi cử chỉ của Linh nhẹ nhàng như mèo con, hình như cô không dám thở mạnh, mạnh một chút thôi tất cả sẽ tan biến đi mất. Hoang phí quá mà Linh đang muốn dè sẻn đến từng tý một cái khoảnh khắc hiếm hoi ấy. Linh khóc nức nở. Lần đầu tiên Linh khóc như vậy, nước mắt chảy thành dòng tràn xuống đôi gò má mịn màng trắng. Ngày trước khi biết mình sẽ tàn tật và phải làm bạn với cái xe lăn suốt đời Linh cũng không khóc to như vậy. Lần đầu tiên, bầu trời ngoài ô cửa vỡ òa ra, đôi mắt cô sáng ngời và khuôn mặt cô rạng rỡ. Chàng trai đã đi từ lúc nào. Ngoài sân những tia nắng vàng đang nhảy nhót, bày chim chào mào chí chóe cãi nhau. Gió thổi nhẹ, khẽ lay lá hơn mọi ngày. Bác bảo vệ già đi đi lại lại, một bên giày kéo sạt sạt trên nền sân. Bác nhìn đi đâu như chẳng hề biết việc gì vừa xảy ra với Linh. Đến gần cô, bác khẽ nhắc: - Mở cửa rộng ra nữa, cháu, hôm nay trời đẹp đấy. Từ hôm ấy. Ngoài những lúc mê mải vẽ, thời gian còn lại Linh hay dán mắt lên bầu trời ngoài ô cửa. Vệt nắng chui qua khe lá hở rọi vào nhà, thành những vệt sáng trắng dài dài và vô số những giọi bụi ly ti nhảy múa. Trời cao hơn, chim hót líu lô hơn và những tia nắng hồng hơn. Linh biết đấy là một buổi sáng đẹp trời. Linh thấy yêu đời, yêu mình hơn. Và Linh chờ mong một ngày chủ nhật mới đến nhanh. Chủ nhật mới đến nhanh thật, nhưng không có bông hoa hồng bất chợt hiện ra, điều thầm kín mong ước trong lòng Linh lại không đến. Linh vẫn hay dậy sớm nhất và đi ngủ muộn nhất. Buổi sáng cô mở tung các cánh cửa sổ, gió sớm mát mẻ ùa vào. Một chủ nhật nữa và lại một chủ nhật nữa. Không thấy cô giáo Hiền mặc áo dài trắng thả gót đi ngang qua ô cửa sổ. Và cũng chẳng thấy chàng trai ấy đâu nữa. Linh thẫn thờ nhìn ra ngoài. Cụm súng dại phía hồ xa kia hoa đã lụi. Nước hồ vẫn lặng như chưa hề thay đổi bao giờ. Linh lại nhìn mây trôi mải miết trên bầu trời và cô nhớ đến chuyện cổ tích có chàng hoàng tử đến cứu công chúa xinh đẹp bị cầm tù trong lâu đài hoang. Chuyện cổ tích thì chưa đến với Linh, nhưng lại vẫn tiếng rao bánh rán nóng giòn đê..., tiếng xe đổ rác sớm lọc xọc, tiếng chim chí chóe và tiếng lá lao xao ngoài ô cửa như không hề thay đổi. Mặc kệ, Linh vẫn mong một ngày chủ nhật mới. - Sao mắt cháu buồn thế? Mở cửa sổ to ra. Bác bảo vệ già như đọc được nỗi buồn trong đôi mắt của Linh. - Hôm nay trời nắng hay mưa, hở bác? - Hôm nay trời đẹp đấy. Lại cho đến một ngày. Linh mở tung cửa sổ. Ban mai ùa vào nhà. Những tia nắng đầu tiên óng ánh rọi qua kẽ.

<span class='text_page_counter'>(166)</span> lá. Linh sững sờ bắt gặp một bông hồng đỏ còn ướt đẫm sương đêm trên bậu cửa sổ. Linh ấp bông hồng lên ngực, đưa lên môi mơn man tận hưởng hương thơm dịu dàng và trinh bạch của tuyết hoa. Nắng mới vẫn nhảy nhót ngoài sân và trên cây lá, tiếng ríu rít của lũ trẻ con ngang qua cửa sổ. Linh lật tờ lịch trên tường - Hôm nay là ngày chủ nhật. Kỳ lạ thay, những bông hoa hồng bên cửa sổ tươi hết cả tuần, dần dần hoa chỉ khô đi chứ không héo. Linh lấy những sợi chỉ buộc lại và cẩn thận treo thứ tự lên đầu giường. Linh ước ao một ngày nào đó, chàng hoàng tử có vầng trán thông minh, mái tóc bồng bềnh hiện ra. Đôi mắt cương nghị và giọng chàng ấm áp: "Công chúa Linh bé nhỏ xinh đẹp của anh. Anh sẽ đem em đến một miền cổ tích xa xôi... ở đấy chúng ta sẽ có những đứa con trai, con gái; những đứa con của chúng ta sẽ rất thông minh và xinh đẹp; chúng có trái tim của mẹ và khối óc của cha. Những đứa con của chúng ta, đứa làm ca sĩ, đứa là nhà văn và có đứa lên rừng trồng cây hái quả, có đứa xuống biển cấy lúa bắt tôm, cua, ngao, sò...". Đặt bông hồng xuống gối trong đầu Linh lóe lên một ý tưởng mới mẻ... Linh đến ngồi trước giá vẽ. Bao điều bí ẩn giờ đang ở trước mắt Linh, không còn xa lạ đối với Linh nữa. Tình yêu ơi tuyệt vời quá? Lứa đôi. Linh sẽ đặt tên cho bức họa mới là Lứa đôi. Ngày tháng lại trôi trôi. Linh vẫn đi ngủ muộn và dậy sớm hơn tất cả mọi người. Cho đến một buổi sáng chủ nhật, cô háo hức mở toang cánh cửa sổ. Bên ngoài gió rít ù ù và mưa rơi lả tả. Trên thành cửa sổ không có bông hồng đỏ nữa. Chả lẽ vì gió mưa? Chả lẽ... Bao nhiêu ước đoán, nghĩ suy. Đành phải chờ đến chủ nhật sau. Chủ nhật sau và chủ nhật sau nữa, chỉ có tiếng chim chảnh chọe cãi nhau, tiếng lá lao xao ngoài ô cửa, tiếng lọc xọc của xe đổ rác sớm..., không có bông hồng trên thành cửa sổ! Cha Linh về. Ông báo tin mừng tác phẩm Lứa đôi của Linh được giải thưởng của Triển lãm mỹ thuật trẻ toàn quốc. Cái tin ấy làm cho cô vừa vui vừa mừng. Cô nói với cha: - Con sẽ ăn mừng và mời bác bảo vệ già cùng dự. Cha đồng ý không cha? Cha Linh chợt buồn. Ông lưỡng lự một lúc rồi mới nói: - Bác bảo vệ già ốm nặng, mất ở bệnh viện một tháng rồi. Bà giúp việc bảo: - Tôi có thay ông đi viếng, nhưng quên không nói với cô. Linh lặng người, có một cái gì đó cồn lên chẹn cứng trong ngực. Cô chợt nhớ ra gần một tháng nay không thấy bác bảo vệ già kéo lệt sệt một bên chân giả nữa. Thay bác bây giờ là một chàng trai trẻ, anh ta cao gầy nhưng trông rắn rỏi. Anh bảo vệ mới vẫn đi đi lại lại khắp dẫy nhà, trong sân, bên bờ hồ xây và đến trước ô cửa sổ nhà Linh, anh ta đi chậm hơn một chút rồi bao giờ cũng liếc mắt như kiếm tìm. Linh nhìn anh thấy vừa quen vừa lạ. Hình như Linh đã gặp anh ta ở đâu rồi thì phải? Bà giúp việc kể đám tang bác bảo vệ già đông lắm, có những người lính cựu cùng chiến trường năm xưa của bác cũng về đưa tiễn. Linh vẫn tin rằng một ngày nào đó sáng ngủ dậy, mở cửa ra Linh sẽ thấy mái đầu tóc bạc của bác bảo vệ già lấp ló: "Mở cửa sổ to ra, cháu. Hôm nay trời đẹp đấy.". Linh vẫn chờ một ngày chủ nhật như thế..

<span class='text_page_counter'>(167)</span> Vũ Minh Nguyệt Hàng xóm Thứ tư, 28 Tháng 1 2009 12:24 ...Giọng Đông giễu cợt, cứ kéo dài ra. Nghe tức anh ách. Thế nên chẳng bao giờ Đông nói được hết câu, vì chỉ cần nghe đến đó, tôi đã lao vào mắng Đông xa xả, bằng tất cả những ngôn ngữ… tuyệt vời của người Bắc, khi cãi nhau. Những ngôn ngữ mà tôi đã được nghe từ bà nội, rồi đến mẹ tôi và tiếp đến là các chị của tôi.... Đông nói: “Con anh đây! Phong. Tên Nguyên – Khải Nguyên – . Tôi thấy thích ngay vẻ bối rối hơi điệu một tí ở chàng trai. Cái này thì giống Đông, còn những cái khác để xem sao đã. Nguyên hỏi tôi: “Cô có còn đi dạy không?”. Tôi lắc đầu. Đông chờ lúc con trai không để ý, nói vội và rất khẽ, vừa đủ để mình tôi nghe: “Em không hiểu vì sao nó biết à? Anh kể đấy!”. Với khuôn mặt giương giương tự đắc. Cái này thì chẳng khác gì ngày xưa. Đông ấy mà. Hồi trước Đông làm tôi mệt nhoài với đủ thứ chuyện: lém lỉnh, lì lợm, liến láu… của mình, suốt hai năm mười một tháng bốn ngày. Cũng may gia đình Đông dọn đến, ở sát bên nhà tôi, chỉ có ngần ấy thời gian, chứ ở thêm chừng nửa ngày trời nữa, không khéo, tôi chịu hết nổi và phải yêu Đông mất. Tôi còn nhớ gia đình Đông dọn đi vào lúc trưa. Tất cả đồ đoàn được chất hết lên một cái xe tải. Đông ngồi phía sau, mở đôi mắt to hết cỡ – dẫu vốn đã to – và thò hẳn cái mặt xuống dưới đường, “liến láu” với tôi lần cuối: “Bỏ hẳn cái thằng bồ… cà khuỷnh của Phong đi. Phong thương anh không thích hơn à? Thật đấy! Anh…” thì xe chạy và câu nói dở dang của Đông, thêm một lần nữa, bị cuốn đi, khiến tôi không được nghe. Không được nghe có nghĩa là không được biết. Thà như thế lại hay hơn. Mẹ tôi bảo: “Tao chẳng làm sao hiểu được chúng mày. Cùngmột trang lứa. Là hàng xóm. Là bạn bè. Thế mà cứ thấy nhau, là y như rằng. Rõ hay… Nhỉ?”. Bác Nga – mẹ của Đông – thường tủm tỉm cười, khi nhẩn nha đáp lại: “Thì bác tính, thằng Đông nhà em ba lém. Cái Phong cũng chẳng vừa. Thế là đụng nhau. Đụng cứ gọi là chan chát ngay. Đây để nhà bác dọn đi, chúng mày không phải thấy nhau. Chẳng còn chuyện gì để cãi vã. Tha hồ mà sướng nhé!”. Sướng gì đâu! Đông đi rồi, tôi lên sân thượng nhà mình, nhìn sang sân thượng nhà Đông, khóc oà. Cũng hai mảnh sân, chiều chiều, ở bên này tôi rút quần áo phơi đã khô, quét tước và học bài. Ở bên ấy, Đông tập tạ và tưới cây. Thế mà chẳng hôm nào lại không có chuyện. Lạ thật! Và một trăm lần cãi nhau cũng từ phía Đông mà ra. Tôi học trường Nữ. Đông hoc trường Kỹ thuật. Tôi ghét cái dân “cờ lê, mỏ lết” như Đông nhất đời, vì lần nào có việc vào trường Đông, cũng đều bị trêu đến khóc lên được nhưng có bao giờ tôi thèm… hé môi. Còn Đông? Con trai gì đâu mà dò xét, dòm ngó, nhỏ nhen… Hôm thì Đông bới chuyện con gái trường tôi già mồm, ăn hàng và cãi nhau đến độ… toét môi. Hôm thì Đông bảo tôi chỉ mặc áo dài bằng hàng tơ được thôi, mà cũng chỉ được gọi là, chứ còn bằng hàng gì cũng cứng như… gỗ tạp. Hôm thì Đông bảo tôi để tóc dài, còn hơi được được, chứ để tóc ngắn, nhìn bị lé mắt ngay, vì nó cà đuột, cà đuột, trông khờ không chịu nổi. Và cuối cùng của những câu chê bai… hết cỡ ấy, vẫn là: - Phong nghĩ sao mà lại đi bồ cái anh chàng xứ “nẫu” quê một cục thế. - Ai bảo anh bồ Phong “quê”? - Ối giời! Thằng này á? Chỉ cần hé nửa con ngươi, liếc một phát là biết ngay nhé! - Ai bảo liếc. Em đâu có cần anh liếc. Bồ của em, mược em. - Đây liếc cho còn là quí đấy. - Thế anh làm gì bồ em? - Làm gì rồi khắc sẽ biết nhé! Bỏ đi. Anh Đông bảo bỏ nó đi. Em ơi! Phong ơi! nó nói tiếng Bình Định dở lắm. - Nhưng em yêu người, chứ đâu phải chỉ có yêu tiếng. Sao bồ của em mà anh dám nói.

<span class='text_page_counter'>(168)</span> nó thế này, nó thế kia? - Khiếp thế! Làm gì mà bảo vệ nhau dữ thế. Xì. Yêu người. Thơ nhỉ Phong? Nghe anh Đông hỏi đây. Khi người yêu thủ thỉ bên tai em, thì có phải thủ thỉ bằng tiếng không nào? Anh ta phải nói chứ! Và nói như thế này này… Giọng Đông giễu cợt, cứ kéo dài ra. Nghe tức anh ách. Thế nên chẳng bao giờ Đông nói được hết câu, vì chỉ cần nghe đến đó, tôi đã lao vào mắng Đông xa xả, bằng tất cả những ngôn ngữ… tuyệt vời của người Bắc, khi cãi nhau. Những ngôn ngữ mà tôi đã được nghe từ bà nội, rồi đến mẹ tôi và tiếp đến là các chị của tôi. Gia đình tôi sống giữa một cộng đồng người Trung, nên trong sinh hoạt thường ngày, cái chất Bắc cũng bị phai tạp, nhòa lấp bớt đi. Để rồi chỉ trở lại trong những trường hợp cần thiết mà cãi nhau là một. Khi ấy, thôi thì, “Bắc” chẳng còn giấu vào đâu được. Những câu chì chiết, những lời cay độc, những vần, những điệu, những ví, những von… “Bắc” sao mà “Bắc”. Hiện ra cứ gọi là nguyên vẹn, đầy đủ. Tôi thấy thú vị những lúc ngồi nghe nhưng cũng có hơi sờ sợ… bị thấm vào và không dè là thế thật. Thấm từ khi nảo, khi nào, chính tôi cũng không biết. Cứ nằm im ỉm ở trong người mình, từ năm này sang năm khác, chờ có dịp là trỗi dậy ngay. Đông đã không biết lại còn khơi ra. Đúng là “cây muốn lặng, gió lại chẳng muốn dừng”, nên tôi mắng Đông như thế đấy. Cho hiện nguyên hình cái đanh đá – cá cầy, cái điêu ngoa của gái bắc. Gái bắc đây còn chưa thấy gì huống là trai bắc. Đông cứ tưởng cái trai bắc của mình là hay hớm lắm đấy, nên lúc nào cũng lôi người yêu miền trung của tôi ra trêu chòng, mà trêu cũng một vừa một phải thôi. Đằng này… Thường sau những lần như thế, tôi có phần áy náy. Còn Đông cũng có hối lỗi và luôn làm hòa với tôi trước. Cái cách làm hoà của Đông mới đến là buồn cười chứ! Từ sân thượng nhà mình, suốt mấy buổi chiều liên tiếp, Đông hát ông ổng một bài thơ của Nguyễn Tất Nhiên được phổ nhạc “…nhìn anh đi hãy nhìn cho rõ, trước khi nhìn đám đông…” rồi tự than thở: “Khổ thế! Cái gì ở sát tầm tay mình thì mình xem thường, muốn vứt bỏ. Rồi lại đi tìm kiếm ở những đâu đâu…”. Tôi ở bên này, nín cười mà không được. Nghe tiếng khúc khích của tôi, Đông men lại sát bờ rào hai nhà và ra vẻ ngơ ngác. Giọng mềm như bún, khi giả vờ hỏi: “Phong này! Em có nghe tiếng cười không. Ai đấy nhỉ? Khéo người ta để ý đến anh. Người ta đang muốn làm quen với anh đấy”. Thế là xong. Đông… như thế, bảo tôi còn bụng dạ nào mà ghét bỏ, giận hờn. Cũng được mấy hôm, Đông cư xử với tôi có dịu dàng, mềm mỏng hơn. Rồi lại trở về với cái “liến láu” quen thuộc: “Bỏ thằng bồ của Phong đi. Phong thương anh không thích hơn à? Thật đấy! Anh…”. Chẳng bao giờ Đông nói được trọn câu. Hôm thì mẹ Đông gọi xuống “có chuyện”. Hôm thì chị tôi gọi xuống “có khách”. Hôm thì các em Đông cùng kéo lên sân thượng một lúc. Hôm thì tự nhiên trời đổ mưa và lần cuối cùng cái xe tải chất đầy đồ đoàn, không đợi được đến một giây, đã bất ngờ nổ máy đưa Đông đi mất. Chẳng biết Đông có còn giữ, khi trở về cùng với thằng con trai mười bảy, cao hơn bố gần hai cái đầu, giống bố ở đôi mắt thật to, một nụ cười nghịch ngợm và một chút bối rối… điệu điệu ở lần gặp đầu tiên. Đến nhà tôi cách đây mấy hôm, Đông có vẻ bần thần khi đối diện với người phụ nữ đã trên tuổi bốn mươi, chứ không phải là cô bé hàng xóm – tinh nghịch và đanh đá – của Đông, một thuở nào. Lúng túng sao đó Đông mồi mãi điếu thuốc mà chẳng được. Còn tôi bưng khay trà, chống chếnh thế nào mà chỉ chực rơi. Đông ngước nhìn và tôi vội lấp liếm: - Không phải vì xúc động đâu nhé! Anh đừng có hòng. - Nếu mà anh “hòng “được”, thì cái anh chàng ngày trước làm gì đã cưới được em. - Anh vẫn nhỏ mọn à? Đâu lại có người thù dai đến thế cơ chứ! - Anh chứ còn ai nữa. Em lấy chồng người ở đây thì sẽ không bao giờ anh trở lại xứ này. Thề rồi. Thề hẳn hoi đấy nhé! - Sao bây giờ ở đây? Lại đến cả em nữa. - Con anh đòi ra ngoài này thi Đại học sư phạm. Anh cũng muốn một lần… Để xem nhỏ Bắc kỳ ngày xưa, còn được bao nhiêu ký lô gam trong trái tim của anh. Nên đến Qui.

<span class='text_page_counter'>(169)</span> Nhơn là tìm em ngay, chứ chả sợ gì. -Thành chi em nghe tiếng gõ cửa của anh khí to. Đi đứng, nghe ra, cũng khí mạnh bạo. Khẽ hơn không khéo lại hay. Em nói thật đấy. Lời tôi nói, không ngờ, lại làm cho chính tôi đâm xốn xang. Hình như đó cũng là câu tôi luôn muốn nói với Đông ngày trước, mà chưa thể. Hồi ấy giá như Đông biết cư xử với tôi gượng nhẹ, ngọt ngào thì tình cảnh hai đứa chắc đã khác và biết đâu… Lần hai đứa cãi nhau dữ dội nhất cũng vẫn là trên sân thượng của hai nhà. Cũng chỉ bắt đầu từ những chuyện vẩn vơ, vậy mà Đông hay thật! Đông dẻo mồm, dẻo miệng thế nào mà lôi kéo, tròng tréo bồ của tôi vào. Đông ra sức chê bai, chế giễu… người Bình Định, xứ Bình Định. Còn tôi hết lòng bênh vực, bảo vệ… quê hương của người yêu. Càng cãi tôi càng nói năng vấp váp. Càng cãi Đông càng nói năng lưu loát. Cáu. Tôi “giở quẻ” đả phá người bắc chơi. Tưởng là Đông thua rồi và trận chiến phải kết thúc, ai dè, Đông quá già họng khiến tôi đành cứng hàm. Trong lúc bí thế, tôi đã ngốc làm sao, khi bỗng nhiên rống thật to: “Bắc kỳ ăn cá rô cây. Ăn nhằm lựu đạn chết cha Bắc kỳ”. Còn Đông? Thật chẳng hiểu ra làm sao nữa, khi bắt chước cái ngốc của tôi, rống to hơn cái câu tôi vừa rống. Rồi cứ thế bên này một đứa con gái chỉa sang “Bắc kỳ…” thì lập tức đứa con trai bên kia đối đáp ngay “Bắc kỳ…”. Mãi cho đến lúc tôi bị xách tai, kéo xuống và Đông bị bợp tai thì mọi chuyện mới chịu kết thúc. Đêm ấy hai nhà láng giềng có một phiên họp đặc biệt với đầy đủ mọi người. Tôi và Đông được đẩy ra ngồi ở giữa. Hình như đó là lần đầu tiên và duy nhất trong đời, chúng tôi được ngồi gần nhau đến thế. Gần đến nỗi tôi nghe được những hơi thở của Đông, rất gấp. Bố tôi lên tiếng trước: - Thằng Đông nghe bác hỏi. Cháu người gì? Đông lí nhí: - Dạ… Dạ… Cháu người bắc. - Thế còn cái Phong? - Dạ… Dạ… Cũng giống anh Đông. Bố Đông gằn lại: - Không được trả lời vòng vo như thế. Đáp thẳng. Người gì? - Dạ… Cháu là người bắc. Hình như chỉ cần tôi và Đông xác nhận gốc gác, là hai vị chủ gia đình bắt đầu bài diễn thuyết của mình ngay. Bố tôi với giọng buồn bã mở lời trước: “Chẳng ai muốn rời quê của mình mà đi đâu cả nhưng cái hoàn cảnh nó đẩy đưa. Chỉ có điều ở bất cứ nơi nào những người như bố mẹ, như bác Nga đây cũng phải là chịu thương, chịu khó, làm lụng căn cơ, nuôi dạy bảo ban con cái tử tế. Sống sao cho hợp lẽ đạo, lẽ đời. Phải cố, các con ạ! Để những người khác quê nhìn vào không phải chê bai, dè bĩu người bắc của mình thế mà các con… Rõ là bôi tro, trát trấu vào các ông bố, bà mẹ bắc này, vào cái gia đình họ mạc xứ bắc này mà quê hương bản quán đã làm gì nên tội, nên vạ, khiến cho các anh, các chị phải xấu hổ, ghét bỏ, khinh chê, rẻ rúng như thế hả?…”. Càng nói giọng bố tôi càng nặng nề, gay gắt và mới nhìn thoáng qua cũng biết là bố tôi rất giận nên chẳng một ai dám lên tiếng, ngoại trừ bác Nga trai. Bố Đông nói có phần nhẹ nhàng hơn nhưng vẫn không kém sự cương quyết và rắn rỏi. Đại để những điều bác Nga nói cũng tựa như là lời của bố tôi. Và nếu như giọng bố tôi có những lúc như khản đặc hẳn đi vì tức tưởi thì giọng bố Đông không hiếm lần phải nghẹn lại bởi ngậm ngùi. Tôi ngồi nghe chết điếng và giận mình quá thể. Rồi mủi lòng, chẳng thể kềm được, tôi bỗng bật lên khóc nức nở. Khóc nhưng không chịu mở mồm xin lỗi. Đông xin lỗi được và lại còn hứa nhưng ấp a ấp úng trông tội lắm cơ! Hai mắt Đông cúi xuống, chớp chớp và mọi người đều hiểu ra chỉ cần tra vặn thêm một tị nữa thì Đông sẽ khóc oà lên ngay. Không chừng còn khóc nhiều hơn tôi nữa ấy chứ! Thời gian ấy đang gần đến lễ Giáng sinh và để chuẩn bị tâm hồn đón Chúa Hài Đồng, tôi đi xưng tội. Không ngờ lại được gặp Đông. Hai đứa nhìn nhau thẹn quá. Sau đêm họp cả hai nhà, Đông và tôi trốn tiệt. Chiều, đố có đứa nào dám héo lánh lên sân thượng vì sợ… thấy nhau. Đông ra nhà thờ trước, ngồi sẵn nơi bậc tam cấp như có ý chờ tôi. Tôi.

<span class='text_page_counter'>(170)</span> ra sau. Cũng ngồi một bậc với Đông nhưng cách quãng. Đông bảo: “Phong ơi! Anh thích lấy người cùng đạo”. Tôi cười: “Em cũng thế. Em thích lấy người cùng đạo như anh”. Sau khi chuyển nhà đi, mọi người trong nhà bác Nga đều có trở lại Qui Nhơn. Người về nhiều nhất thì hằng năm và người ít nhất cũng được vài ba lần. Còn Đông thì biền biệt và tôi chỉ được biết tin qua những người trong nhà. Không ngờ Đông láu táu là thế mà lại lấy vợ sớm, khi chưa đến tuổi hai nhăm. Vợ Đông không cùng đạo và việc cưới xin đã tưởng chẳng xong vì vấn đề tôn giáo. Sau Đông thuyết phục mãi phía đằng gái mới chịu cho con theo. Bố Đông hả hê kể, ra chiều đắc chí. Còn bố tôi, hẳn là thích thú lắm nên cười rõ to: “Tôi đã bảo rồi. Cái thằng ấy vốn được lợi ở cái mồm. Những chuyện hệ trọng như thế này, dễ gì nó để hỏng cơ chứ!”. Có tí hơi rượu trong bữa cơm chiều, hưng phấn, nên giọng nói, tiếng cười của bố Đông và bố tôi to quá. Hai cụ bàn tính về chuyện cưới xin của Đông. Giọng cứ oang oang và vọng đến phòng tôi, ở mãi trên lầu, lùa tất tần tật và tận tai tôi, bắt nhức. Mắt tôi cay sè, nghĩ đến một chiều gần Giáng Sinh năm nào. Đông bảo: “Phong ơi! Anh thích lấy người cùng đạo”. Trắc tréo làm sao! Bảy năm sau tôi lấy chồng cũng gặp cảnh éo le như Đông. Chồng tôi đến bả cả người với hết lớp “giáo lý tân tòng” đến lớp “giáo lý hôn nhân” ròng rã trên một năm trời mới chịu được các phép. Tôi không được dẻo mồm như Đông nhưng cũng thuộc loại ba lém, thế mà tôi đã câm như hến, tắc tị hết mọi ngôn từ… trong suốt thời gian người yêu tôi đi học đạo. Lòng như quắt lại vì thương và luôn nhủ thầm: “Em đền anh sao đây cho đủ”. Có một chiều ngồi ở bậc tam cấp nhà thờ đợi người yêu ở lớp giáo lý ra, tôi bỗng thấy nhớ Đông da diết. Nhớ Đông và nhớ đến một chiều Giáng Sinh năm nào, tôi nói: “Đông ơi! Em cũng thích lấy người cùng đạo như anh”. Vợ chồng tôi mời bố con Đông đến nhà ăn cơm, nhưng chiều ấy Đông lại kẹt sao đó. Trước hôm đi Đông có gọi điện đến nhà mời chúng tôi đi uống nước và hẹn gặp ở một cái quán gần biển. Tôi đến đó một mình vì chồng tôi bận công việc. Đông ra cổng đón, dắt xe tôi vào bãi, cười nhỏ: “Em không sợ à?”. Tôi nhíu mày: “Sợ gì?”. Đông – người đàn ông gần năm mươi tuổi, trong phút chốc quay trở lại làm chàng trai chưa đến tuổi hai mươi – lập tức liến láu ngay: “Sợ chồng em ghen. Sợ anh chẳng hạn…”. Tôi nhìn Đông im lặng rồi bỗng cười phá lên thật to và chợt nhận ra biển chiều nay sao mà phẳng êm đến thế. Tôi uống những ngụm bia nhỏ và ngắm nhìn Khải Nguyên tu ừng ực nước khoáng. Mùa hè trời nóng quá và chưa đầy nửa tiếng đồng hồ, thằng bé đã ừng ực đến chai “Vĩnh Hảo” thứ hai. Đông cũng đã uống đến chai bia thứ ba và tôi vẫn nhẩn nha với chai đầu tiên của mình. Hai loại bia chúng tôi uống cũng khác. Đông chọn cho mình “Heineken”. Tôi nói thơm nhưng nhẹ quá và uống: “Tiger” dù đậm, nồng và hơi nặng với phụ nữ. Chúng tôi hỏi han nhau về gia đình, con cái, công việc làm ăn. Câu chuyện chậm rãi, hơi buồn buồn như Đông càng về sau càng rơi rớt bớt đi cái liến láu và lém lỉnh. Rồi thì người đàn ông gần năm mươi tuổi vẫn là người đàn ông của tuổi năm mươi. “Ở tuổi của anh hóm thì vẫn hơn là lém”. Tôi nói và Đông cười. Cái cười sạch trơn… tươi trẻ. Sạch trơn những nông nổi, bộp chộp, gai góc, dại điên… Khải Nguyên gặp lại đám bạn ra ngoài này thi và nó xin phép rời bàn. Khải Nguyên đi, khi sắp uống đến chai nước khoáng thứ ba. Đông đã sang chai bia thứ tư. Còn tôi chai thứ nhất hãy còn. Sau khi con trai đi, có vẻ Đông nhìn tôi nhiều hơn thì phải. Đông nhìn tôi. Tôi nhìn biển và nghĩ về một điều gì đó rất mơ hồ. Không phải về chồng tôi. Không phải về Đông. Không phải về ngày xưa và cũng không phải là bây giờ. Tôi hơi giật mình, khi Đông hỏi đột ngột: - Chồng em thế nào? - Anh muốn biết à? - Ừ! - Anh ấy… Biết nói như thế nào nhỉ? À! Phải đấy. Anh ấy thật thà và thâm trầm. - Và em thấy đủ? - Vâng. - Nghe giọng của em là anh hiểu. Em bằng lòng với cuộc sống của mình. Nhìn cái cách của em, từ lúc gặp lại anh là anh hiểu: Em có hạnh phúc. Thích thật. - Cho anh hay cho em?.

<span class='text_page_counter'>(171)</span> - Cái gì? - Cái “thích thật” mà anh mới nói ấy. - Thật thà thì cho em mà lếu láo thì cho anh. - Hoàn toàn là Đông không nghĩ em… như thế này, khi trở về và gặp lại em. Đúng không? - Đúng! Em vẫn hiểu anh, rất hiểu anh như cách đây ba mươi năm. Hay thật. Em đấy. Em hay thật đấy, Phong ạ! - Còn vợ anh? - Cô ấy luôn tin cậy và yêu thương anh hết lòng. - …Và anh không thấy đủ? - Ừ! Tiếng “ừ” của Đông khô khốc rơi giữa ngụm bia tôi uống sao mà đắng nghét. Rơi giữa biển lặng làm gợn lên những con sóng lăn tăn. Rơi giữa chiều lẻ loi một cánh chim bay miết. Rơi xuống chỗ tôi ngồi sẽ mãi mãi là cách quãng với Đông. Chia tay bố con Đông lúc chiều đã sẫm. Ngồi trên xe tôi nghĩ ngay đến nụ cười chờ đợi của chồng và một bữa cơm tối sẽ có với nhau đầm ấm. Xe vừa phóng đi, tôi đã nghe tiếng Đông í ới gọi theo: “Phong ơi! Phong.”. Tưởng có chuyện gì, giật mình, tôi quay xe trở lại và bắt gặp một Đông rất khác với lúc chia tay vừa rồi. Khuôn mặt Đông như căng ra trong sự thích thú. Hai mắt mở to – dẫu đã to sẵn – chất đầy niềm vui. Xe tôi vừa ngừng, Đông đã nói vội : “Khổ quá! Có thế mà quên. Này Phong biết không? Thằng Khải Nguyên nhà anh có bồ rồi đấy. Bồ ruột hẳn hoi đấy nhé! Em xem… Rõ có hay không?”. Quả là mới nghe câu đầu tôi có hơi…. buồn cười nhưng liền sau đó thì bị cuốn ngay vào sự háo hức của Đông, rồi thật bất ngờ và thú vị bởi nhận ra: Có gì là hay đâu nhỉ? Cái chuyện Khải Nguyên có bồ ấy mà nhưng Đông kìa! Cũng lạ… Nguyễn Mỹ Nữ Vịt trời lông tía bay về Thứ tư, 21 Tháng 1 2009 09:35 ... Cách thuyền một khoảng mươi sải, anh ta dừng lại, rút con cá từ miệng ra tung cầu vồng lên thuyền. Người vợ đã sẵn sàng, hai tay cầm chiếc vợt đưa ra đón con cá, thành thục và chuẩn xác như xiếc. Trong giờ khắc đó, nếu chị ta hứng trật thì sự xui cả năm là phần chắc. Nhưng điều này gần như chẳng bao giờ xảy ra... Đầm phá bao la, khúc phình ra, khúc eo lại kéo một vệt dài theo mép biển, chạy suốt từ Thuận An đến Tư Hiền, nối liền hai cửa. Tháng giêng, khi cái rét cuối mùa còn nấn ná trong màn sương thưa màu tàn giấy buông lơ lửng từ trên vòm cây xuống sát mặt cỏ, thì làng xóm ven bờ bắt đầu rậm rịch vào mùa lễ hội cầu ngư. Trong lúc dân đánh cá chuyên sống trên cạn, đẫm mình vào không khí đình đám, rước cầu rộn ràng mổ bò, mổ heo ăn uống xô bồ thì dân vạn chài đầm phá chuyên sống trên mặt nước hành lễ theo tục lệ riêng của họ một cách lầm lì, đậm màu bi tráng hoang dại. Dân trên cạn gọi họ là "bọn mọi đầm". Từ xa xưa, có lẽ từ khai thiên lập địa, và không biết khởi đầu từ đâu, từ điều gì, dân chài vạn đầm phá quen sống cô lẻ từng vạn thuyền một. Gần như họ không có ý thức cộng đồng và không chấp nhận sự cộng đồng. Người già kể lại rằng, sau Tết, vào một ngày giữa tháng Giêng nắng ráo nhưng thường là còn căm căm gió đông bắc, họ nhổ sào từ nơi ẩn trú đưa thuyền ra giữa vời phá mênh mông. Họ bày bàn lễ Thấm Đầm ngay trên đầu mũi thuyền. Mâm cúng đơn sơ nhưng khác thường. Ngoài đồ mã như mũ mãng giáp giày bằng giấy và hương hoa, người ta bày độc một thau đựng nước trong đó lững.

<span class='text_page_counter'>(172)</span> lờ bơi mấy chú cá. Trên miệng thau, hai thanh tre nhỏ bản đặt chéo chụm đầu lại thành hình chữ V, phần hở hướng vào lòng thuyền, tượng trưng cho sự vây bủa thắng lợi. Chủ thuyền đóng khố hoặc quần đùi, mình trần trùng trục, một dải vải đỏ dài đủ chít một vòng ngang trán, hai múi quàng vòng ra sau vai, luồn qua nách, thắt hờ lại rồi buông thõng giữa hai vầng vú. Người vợ chủ thuyền cũng phục sắc như vậy, chỉ khác là phần dưới mặc quần vo lên ngang bắp chân. Đứa con trai trưởng của họ ăn mặc như bố, hai tay cầm hai thanh gỗ gõ vào mạn thuyền loong coong theo nhịp một. Hương trầm đốt lên, thân chủ rì rầm khấn. Đoạn anh ta thò tay vào thau nước, tài tình nhót lên một chú cá đang lượn lờ, ngậm ngang miệng, nhảy xuống sông bơi đứng. Cách thuyền một khoảng mươi sải, anh ta dừng lại, rút con cá từ miệng ra tung cầu vồng lên thuyền. Người vợ đã sẵn sàng, hai tay cầm chiếc vợt đưa ra đón con cá, thành thục và chuẩn xác như xiếc. Trong giờ khắc đó, nếu chị ta hứng trật thì sự xui cả năm là phần chắc. Nhưng điều này gần như chẳng bao giờ xảy ra. Khi người vợ nghiêng vợt đổ con cá vào sạp thuyền, người chồng liền hụp đầu lặn xuống đáy đầm. Ở đó, anh ta lạy Hà Bá hai lạy như người đang trên cạn vẫy lạy. Xong, bơi trở lại thuyền. Tất cả lễ vật đều trút xuống sông dâng Hà Bá, trừ con cá ném từ dưới lên. Đó là con cá mà thần phá đã ban tặng cho thân chủ. Lễ tất. Vào một ngày như thế, một chiếc thuyền đóng toàn bằng tôn trắng không rỉ của Mỹ từ mút đầm Thuỷ Tú lướt bay ra mặt phá Cầu Hai. Bấy giờ là lúc họ vừa lễ Hà Bá xong, trên chiếc trang thờ nhỏ được trang trí khá đẹp bằng nhựa màu và giấy trang kim lấp lánh treo chính giữa vòm, cách ngăn nhìn từ cửa mui vào, nén hương cúng ông bà tổ tiên đang cháy nốt phần còn lại. Những người lớn đã ăn xong, đã vào việc của mình. Một bầy năm sáu đứa trai gái lít nhít đang còn ngồi quanh mâm cỗ, ăn rốn. Dáng vẻ chúng hậm hụi, cần mẫn như việc ai nấy làm. Chúng không hề nói năng, tranh cướp nhau ồn ào như bọn trẻ con trên cạn mỗi khi chúng ăn, những đôi mắt vát đuôi thuyền lạnh sắc cứ chốc chốc lại lia chéo qua nhau, mồm phùng to, nhai một cách khoáng đạt và bất cẩn. Tiếng máy nổ phành phạch, đều đều hoà tiếng nước bị rạch xé, ào ạt, long bong, xoá xoà… hai bên mạn. Người chủ thấp đậm ngồi sau lái, điều khiển thuyền bằng một sợi dây, đầu có buộc chiếc vòng quấn màu xanh làm chỗ ngoắc các ngón tay, dáng ung dung nhưng đôi mắt bồn chồn nhìn qua vai trần của anh con trai cao lớn đang đứng chống nạnh đầu mũi. - Mừng! Mi nhìn chi rứa? - Người mẹ thôi lục cục dọn dẹp trong khoang, khom lưng chui ra, giọng âu yếm mà gần như mắng. Mừng quay mặt lại trả lời mẹ: - Có nhìn chi mô! Mạ sửa soạn, chuẩn bị mọi thứ cho tui chưa? - Rồi! Đã đến ngày mô mà gấp? Có giấy báo rồi hả? - Rồi. - Đưa coi! Đứa mô đọc tau nghe thử - người cha lên tiếng. Anh con trai ngồi xuống, mặt vẫn quay về phía trước, nhìn mông lung về vệt mờ làng xóm bên này cửa sông. Lườn thịt ở lưng anh ta động đậy, báo hiệu sẵn sàng cuộc đối thoại và tuồng như ngồi vậy, anh ta vẫn nhận biết những gì đang xảy ra phía sau, kể cả cái tia nhìn đượm buồn của mẹ. Người cha bắt đầu. Sự ngổn ngang lòng dạ và cố kìm nén khiến ông bã bượi cả người, giọng nói vốn đã trầm giờ đây càng chìm xuống, đục như nước lụt nguồn về. - Mi quyết rồi hả Mừng? - Rồi đó cha! - Rứa răng bữa đi "khám bác sĩ" mi không cho tau với mạ mi biết? Mi muốn nhảy qua đầu tau hè? - Dạ mô dám cha. Bữa nớ tui cũng có nói rồi. Cha không ưng nên không để tai nghe… Người mẹ bây giờ đã ra mũi, ngồi sau lưng đứa con trai lớn. Bầy em sau khi ăn xong, chúng sà tới ràn rạt như một đàn le le, lặng lẽ ngồi bu xung quanh mẹ, há mồm hóng chuyện. Lát sau, người mẹ chép miệng như tự than với chính mình: - Cả đời chỉ biết sông đầm cá mú, chừ vô đó làm lụng răng, ăn uống răng? Mừng quay lại, nét cô liêu trong đôi mắt mẹ làm anh chùng lòng xuống:.

<span class='text_page_counter'>(173)</span> - Ui chùi! Anh em sao mình vậy, họ ăn chi mình ăn nấy, họ làm chi mình làm nấy. Lo chi lo rứa, mệt quá mạ ơi. Đàn em giờ mới ríu rít, đứa bấu tay, đứa bám cổ: - Anh Mừng, anh đi mô rứa? Vô Đà Nẵng ha? Sài Gòn ha? Ngon lành dễ sợ? Cho em đi với, ha? Ha? Thằng anh lừ mắt, quát to: - Câm! Việc người lớn, đâu phải việc tụi bây! Vô khoang, mau! Thuyền rịch rịch… rịch rịch… rồi tắt máy, tấp vào bờ. Mừng nhún chân. Nhoáng một cái, chiếc dây dừa neo to bằng ngón chân cái đã mềm mại trườn lên, ôm vòng thân cây si, ngoắc lại. Cây si ườn ra trên mặt nước, vòm lá che mát cả một khoảng rộng. Như một ông già thông thái, si buông những chòm râu của mình xuống nước, mách bảo cho dân vạn chài lang thang và ngang tàng những điều mà người đời không ai mách bảo được. Mừng lên bờ. Người cha vẫn ngồi sau lái, trầm tư. Ráng chiều muộn đỏ cả khúc đầm, viền quanh nửa thân của ông, khắc thành những đường gồ nâu sáng. * * * Gia đình ông Vui đã sinh sống trên mặt đầm này kể đến giờ là đời thứ mấy ông cũng không còn nhớ rõ. Hồi còn nhỏ, bảy tám tuổi gì đó, có lần ông đã nghe bố kể chuyện một đêm ngủ trăng mui, sau mấy ngày liền hốt được của trong một mùa cá hanh trời cho. Lần đó, bố ông sắm được thuyền lưới mới. Từ con thuyền nhỏ rách nát mà mỗi lần đánh bủa, ông phải tát bại cả tay vì nước phọt vào từng vòi tồ tồ, bầu đoàn thê tử chuyển sang con thuyền to, gỗ săng lẻ vàng au, mui uốn vòm hai lớp, lớp trong lợp lá thiềm lang, lớp ngoài lợp lá nón già, mặt mui gài toàn nan tre cật ngâm bùn lâu ngày, đen như mun. Tục lệ làng chài đầm phá là như vậy, lễ hạ thuỷ thường chọn ngày tối trăng. Đêm đầu tiên của mùa trăng sau hạ thuỷ là ngủ trăng mui. Tất cả nhà leo lên vòm mui, không được nằm ngang phải nằm dọc. Đàn bà trẻ con nằm giữa, nằm ngoài là đàn ông, trai trẻ. Cái đêm đó, nghe chuyện truyền thuyết, huyền thoại về đầm phá đến khuya, ngủ mê thế nào mà ông từ trong, chuồi ra ngoài, vượt qua tấm chăn là bố ông. Khoảng gà gáy đầu, nghe tõm một cái. Bố ông nhổm dậy, tưởng cá bự quẫy. Trăng thượng tuần đã lặn. Mặt nước lặng lờ, bóng như được quang dầu. Thằng con trai đã biến đâu mất. Nó rơi xuống nước rồi. Bố ông nhào xuống. Bơi, lặn, mò, gọi… suốt cả quãng đầm cho đến gần hết canh… - Uơ Vui!... Vui!... ui… ui…! Chẳng thấy tăm hơi, bố ông đành bơi trở lại, mặt cắt không còn hột máu, đinh ninh là đã mất đứt thằng con nối dõi. Khi bố ông bấu tay vào mạn, định trèo lên thì một nụ cười sáng loá chiếu vào mặt. Vui đã ngồi đó tự bao giờ, nhe hai hàm răng trắng nhởn, người lướt thướt như bó rong mới cào dưới đầm lên. Bố ông nổi khùng, đá cho một đá làm Vui lăn hai vòng, hét: - Thằng "mọi" con! Tau tưởng mi về bưng cặc cho ông Hà Bá đái rồi chớ! - Úi chùi! Cha nói chi lạ rứa? - Răng mi rớt xuống không bơi lên ngay? Làm chi dưới nớ, hả? - Thì tui đang ngủ mà. Chìm xuống đáy một chặp, tui mới thức dậy! Bố Vui trố mắt rách cả mi: - Mệ nội mi! Ai đời rớt xuống nước còn ngủ được. Láo! Tau đánh tuốt da mi đi! - Thiệt mà cha. Tui thấy ngứa lỗ mũi, thò tay ngoáy lôi ra con nhét. Con nhét nớ đó cha tề. - Nó chỉ chú cá đang nằm lăn lóc trên sạp thuyền - không có hắn đến chọc, có lẽ tui ngủ nữa! Ông Vui bất giác bật cười… Nửa thế kỷ đã qua gần trọn một đời người rồi mà chuyện xưa vẫn thỉnh thoảng trồi lên trong óc ông. Dân vạn chài đầm phá là dân giang hồ tứ chiếng, mọi sinh hoạt đi đứng, ăn ngủ, đẻ đái, cưới hỏi, ma chay… đều diễn ra trong khoảng không gian chật hẹp của con thuyền. Vậy mà cũng thấy thoải mái, riết thành tập quán, riết nữa thành cổ truyền. Bao nhiêu đời cha truyền con nối, chữ nhứt không biết, coi trời nước tăm cá bọt tôm thì tài, còn coi quyển sách quyển vở thì lộn nhộn như cua rạm đổ lộn một giỏ. Hồi cách mạng bốn lăm, còn có.

<span class='text_page_counter'>(174)</span> cán bộ bình dân học vụ chèo thuyền đi dạy a - bê - xê, hết thuyền này sang thuyền khác suốt đêm. Hồi đó ông Vui cũng võ vẽ viết được mấy câu trong vè Thông Tâm rồi chớ. Vài ba vụ lưới sau đó, chữ nghĩa ông gửi lại hết cho Hà Thuỷ. Ôi chối! Có lẽ từ khai thiên lập địa đến giờ, ngày nay dân vạn chài mới có người đi học. Thằng Mừng đó, tốt nghiệp lớp mười hai rồi chứ ít à. Nghe nói rứa là thằng Mừng được liệt vào hàng "Ông tú". Ghê thiệt! Còn như ngày xửa ngày xưa u mê ám chướng của dân vạn đầm trên trời dưới nước không biết có ai và có cái gì? Bao nhiêu biến thiên của sông núi, bao nhiêu đổi thay của xã hội đều trượt ngoài đầu óc của họ, họ không có nhu cầu biết đến… Một lần, sau ngày giải phóng miền Nam, trước lễ cầu ngư, có một xuồng máy cập thuyền ông Vui. Ba người bước ra chào hỏi. Một ông cao lớn như dân vạn chài, da trắng, mặt đang còn trẻ nhưng mái tóc bạc xoá. Ông ta xách một can nhựa rượu đầy đến biếu ông Vui nói chuyện đời, chuyện sông nước cá tôm. Mấy tuần sau đó, xuồng ông ta lại đến, xin phép đi theo thuyền ông Vui ít bữa. Cả ngày, ông ta ghi ghi chép chép vào cuốn sổ tay, dày chi chít. Rỗi một chút là khách và chủ ngồi trước mâm rượu. - Bác có biết nước Việt Nam mình chừ đây là nước chi không? - Dạ biết. Nước mình là nước Nam! - Không… Là tôi hỏi bác… thế này nhé. Nước nào trên thế giới này cũng theo một chế độ nào đó, ví như nước Mỹ, nước Pháp theo tư bản chủ nghĩa, nước Nam mình hồi còn vua ở Huế theo chế độ quân chủ. Giờ đây, nước Việt Nam ta thống nhất Bắc Nam theo chế độ xã hội chủ nghĩa, bác có hiểu không? - Dạ… thiệt tình… không hiểu mấy? - Thế… thế bác có biết Cụ Hồ không? - Biết! Biết! Cụ Hồ hồi cách mạng bốn lăm thì biết chớ! - Có biết "ông" Diệm, "ông" Thiệu không? - Hai ông nớ nhà ở mô nghe tên lạ hè? Tui thi thoảng lên bờ, mấy nhà phú hộ vùng ni tui đều nghe nói, răng không nghe đến tên hai ông nớ hè? Ông ký giả tóc bạc nằm bò ra sạp thuyền cười chảy nước mắt nước mũi. Ông Vui hồn nhiên cười theo. Cười chán, ông ngồi dậy ôm lấy ông Vui như hai anh em ruột. Ông hỏi tiếp, lần này thì thấy một giọt nước ngần ngật trong mắt ông chỉ chực rơi xuống. - Thế cái hồi ca-nô giặc nó vây ráp bắt lính các vạn chài như bác kể bữa trước, bác có biết hồi đó miền Nam mình thuộc chế độ nào không? - Dạ không! Chế độ mô thì chế độ, dân vạn bầy tui biết mần chi, mà biết răng được? Có ai nói cho nghe mô. Tui cả đời sống với đầm phá, biển cạn non mòn chi cũng mượn… Nhưng mà nghĩ hồi nớ bọn hắn cũng ngu nè? Bắt ai không bắt lại đi bắt dân vạn đò. Rứa khác chi thằng mù đòi đi nơm cá. Bọn vạn chài bầy tui động một cái là húp một chén nước mắm cốt, hít một hơi dài, chui tụt xuống đáy đầm mênh mông chi xứ, nằm dưới nớ cả ngày cũng được, mần răng mà bắt? Chỉ thương là thương dân trên cạn không biết đường mô cho lọt… Ký ức chen lấn hết lớp này sang lớp khác trong đầu ông Vui. Giờ đây, đã khác xưa lắm lắm. Phải, khác là phải: Thuyền ông đóng tôn, gắn máy, bầy con được đến trường, lúc ở mặt nước thì răng cũng được, ở truồng cũng xong, hễ chúng nó bước lên bờ đi học, đi họp, đi chơi… là rặt áo quần xanh đỏ vàng tím đẹp như các ông hoàng bà chúa. Cả mụ Vui cũng vậy chớ! Mụ đi chợ huyện chợ dinh bán tôm bán cá, mua gạo mua dầu, quần lụa xát xi đen, áo ka tê lát chả lục, ui chui là sang…! … Hồi niệm lần nữa lại hiện về. Đó là một ngày của ba mươi năm về trước. Chàng trai Vui đã ngoài ba chục vẫn không sao kiếm được vợ. Dân vạn chài thường đi bắt cóc đàn bà con gái xa xôi về làm vợ. Họ lên bờ, lân la dòm ngó nơi chợ búa, hễ gặp cô gái nào cô đơn bần hàn ăn mày ăn xin hoặc thất cơ lỡ vận tha hương… là tổ chức bắt. Nửa đêm, ập tới, nhét một củ khoai luộc, cục cơm to vô mồm cô gái (tập tục này cấm kỵ việc nhét giẻ vì cho như vậy là tàn ác, Thuỷ vương Hà Bá sẽ quật chết tươi), chụp áo tơi vác về thuyền, chèo ra giữa phá ngút mắt ngút trời, khói sương mù mịt, chẳng biết đâu là bến là bờ. Đó là cách gần như duy nhất, lại chắc ăn, nếu không muốn chết già. Ngoại trừ trai vạn này được sự bằng lòng của gái vạn khác, ngoài ra, dân trên cạn không bao giờ lấy dân dưới đầm, họ mới nghe đến tiếng "vạn chài" là đã chết khiếp lên rồi…! Cô Mận - bà Vui bây giờ - là một cô gái như vậy. Khi bị bắt về thuyền, Mận xác xơ như con mèo ốm. Đói khổ đã làm cho cô gái vừa qua tuổi dậy thì lép kẹp như mắm mòi, vú.

<span class='text_page_counter'>(175)</span> không có, mông cũng không. Vui vuốt tay từ má xuống chân Mận không bị mắc vào chỗ nào, cứ trơn tuột như vuốt cái sào tre. Cô gái người vùng quê nào đó ngoài Bắc Kỳ, theo mẹ cha đi ăn xin từ khi lên sáu, trôi dạt đến vùng này. Đã nhiều lần, cô gái muốn trốn khỏi xứ "mọi đầm" mà không được, vả lại nếu trốn được thì biết về đâu, ăn cái gì, chết đói là điều không tránh khỏi. Vạn thuyền ba mẹ Vui thương cô dâu không cưới hỏi, quá hơn con đẻ. Chỉ dăm ba tháng sau, được ăn ngày ba bữa, no nê với đủ các loại hiếm ngon của đầm phá, cá dìa, tôm sú, cua lột… Mận hiện lại nguyên hình một cô gái Bắc xinh đẹp, thon lẳn, hai mắt lúc nào cũng như có sóng. Ngày qua tháng lại, ba năm, năm năm rồi mười năm, bầy con nối đuôi nhau ra đời và mẹ chúng thành thạo nghề sông nước như chính cô được sinh ra từ mặt phá... Người ta gọi Mận là o Vui, thím Vui rồi bà Vui… Ngày ngày, Mận mặc quần vo lên đến bắp vế, ngực để trần khỏi vướng víu, đôi vú bánh dày bà mụ nặn tròn vo, lúc nào cũng căng nhưng nhức màu mận chín. Chính đôi vú đẹp một cách hoang dã và rất là đầm phá này đã cứu Vui một lần tưởng như đã chín mươi chín phần trăm rơi vào tay giặc trong một cuộc thuỷ lục không quân Cộng hoà vây bắt lính. Ca nô thuyền chiến súng nòng tua tủa. Trên trời, trực thăng bay kín mặt đầm như cả đàn ken két. Vui vừa hụp xuống, lặn chưa tới đáy thì chúng đã xáp tới. Vì gấp quá và run quá, chàng trai quên không trữ hơi. Sẽ chẳng được bao lâu thời gian nằm dưới nước. Thằng thiếu uý thuyền trưởng râu mép con kiến nhác thấy Mận, rùng mình nhẹ. Hắn thét lính dẹp ra, một mình hắn nhảy qua bên thuyền Mận. Bố mẹ Vui ôm chặt thằng Mừng, ngồi chết khựng nhìn không biết làm chi. Thằng thiếu uý lấy mũi giầy lật tung hết ván sạp, nhìn kỹ không thấy gì liền chui vào khoang, hắn la thét, ngoắc Mận vô. Hắn quẳng mũ hành quân, ôm chầm lấy cô "mọi đầm", vục cả mặt vào đôi vú. Mận vùng vẫy, nghiến chặt răng cơ hồ đứt cả lưỡi. Hắn bóp, hắn hét, hắn mút. Khi cái lưỡi hắn rà rà trên núm vú, Mận run bắn, mềm nhũn và suýt nữa thì ngã xoại. Trong giây phút hãi hùng đó, không biết trời xui đất khiến thế nào Mận buột ra: - Thôi mà thiếu uý. Lính của thiếu uý sắp nhảy qua đó. Để khi khác. Thuyền em tối tối thường neo ngủ ở chỗ kia kìa! Thằng thiếu uý trác táng nên chóng thoả mãn, nhảy về ca-nô, ngồi tọt xuống ghế chỉ huy, thét lính chạy lùng nơi khác. Một chớp mắt sau, Mận thấy chồng nhô lên cái chíp mũi để lấy hơi. Xong, mất hút dưới đáy nước. Yên tâm rồi, bây giờ thì chỉ có Thủy thần mới bắt được anh. Cô oà khóc… Giờ đây đã khác xưa lắm lắm. Ông Vui vẫn đang triền miên trong suy nghĩ - thằng Mừng đã lớn khôn, nghề dưới nước cũng giỏi, nghề trên cạn như sửa xe, chạy máy, áp hàng… càng tài. Ông bà đã già rồi, sức mấy rồi có ngày cũng tàn, ốm đau, run rủi… Nó đi bộ đội, vạn thuyền ông mất đứt tay chèo lái rường cột mần răng đây? Con ông - một bầy vịt mái là vịt mái, lũ vịt này lớn lên, bay giông tuốt thôi. Còn thằng áp út, phải mươi mười năm nữa mới mong thay thế được anh hắn. Người ta bắt thằng Mừng đi lính mần chi hè? Dân vạn chài xưa chừ có ai đi lính. Vậy là đến đời chúng nó, dòng giống, nghề nghiệp đầm phá bắt đầu tàn chăng? Chao ôi… Bầy vịt trời bay ngang, bay dọc hay bay chéo qua mặt đầm mà có để lại dấu vết chi. Nhưng con bay đầu và con bay cuối thì bao giờ cũng có một cái gì đó, một cái gì không rõ lắm song vẫn là một cái gì. Ví như cổ vươn dài và căng hơn, một cách dò tìm rà soát của con bay đầu hoặc khoảng cách hơi doãng ra để làm tín hiệu từ phía sau cho cả đàn của con bay cuối. Như cái lái thuyền đó. Lái đường nào thì mũi theo đường ấy. Ông hay chính thằng Mừng con ông là vịt trời lông tía bay cuối đàn đây…? Ông Vui thảng thốt đứng lên, vớ can rượu, mở nắp, ghé miệng vào. Nghe một cái ực… * * * Đêm không trăng sao. Thuyền đã về từ chập tối, bềnh bềnh nằm trong sự ấp ủ đầy mách bảo của những chòm râu si già. Bà Vui và mấy đứa gái chèo xuồng đi vợt rạm bè. Rạm nổi từng mảng lớn dày đặc như cháo kê. Nửa khuya, xuồng đầy mạp. Cũng vừa lúc Mừng lên bờ đi họp về. Người con trai trịnh trọng thông báo: - Ngày mốt lên đường. Tập trung bên huyện, có xe đơn vị về đón đi luôn. Ông Vui chẳng nói chẳng rằng tuồng như không nghe thấy và tuồng như còn có việc quan trọng hơn, ông châm một bó hương cắm lên trang thờ, cúi đầu khom lưng vái. Ông quỳ xuống khuỳnh hai tay gài các ngón lại đưa lên ngang trán, lầm rầm. Cùng lúc ấy,.

<span class='text_page_counter'>(176)</span> trên mặt đầm bỗng thốc lên một luồng gió chướng, luồng gió gần như dựng đứng, khi tới sát thuyền thì mềm lại, lan ra, hiu hiu, ve vuốt. Ông Vui mặt mày rạng rỡ quay ra, châm tiếp bó hương khác cắm vào chiếc lon vỏ bia hộp vẫn móc ở cành si già, nơi thờ các âm hồn vật vờ của riêng vạn thuyền ông. Xong đâu đấy ông vào ngồi xếp bằng tròn trên chiếc chiếu trong khoang. - Mừng! Vô ngồi đây! - Vô ngồi đây, Mận! Người vợ giật mình. Mấy chục năm nay, mới nghe ông chồng gọi đến tên cúng cơm của bà, cái tên mà chính bà cũng chỉ thi thoảng, mơ hồ nghe vang lên trong giấc mơ. Rõ ràng là một việc cực kỳ hệ trọng sắp xảy ra. Bà bỗng run run như bị nhiễm lạnh. Giọng người chồng bên tai mà nghe như vọng lên đâu từ đáy nước, trầm uẩn, xa vời… - Không ai được cãi lời tui, nghe tui nói cho hết. Tui sắp đặt mọi chuyện, đã cầu xin ông mệ, ông mệ đã bằng lòng rồi. Hồi trước, tui trốn lính quốc gia coi như đã tham gia vào việc cách mạng. Rứa cũng đủ cho cả vạn thuyền mình. Chừ thằng Mừng không việc chi phải đi nữa. Nhưng thời buổi chừ không thể "hút bát nước mắm cốt" được. Phải dông thôi. Ngày mai thằng Mừng lên Huế nhảy lên tàu vô Sài Gòn, lánh tạm vài tháng, chờ tình hình lơi lơi sẽ trở lại ván thuyền nhà. Chuyện ở đây tui lo. Thằng Mừng trốn thì cha thằng Mừng chịu phạt vậy thôi. Phạt mấy cũng chịu phạt, chi cũng làm. Mạ mi vô lấy ít bạc đưa cho con lận lưng… Tui nói rồi, cả nhà không ai được cãi. Ông Vui ngừng. Mặt đầm lặng phắc. Cơ hồ nghe được cả tiếng thở của con cá buôi, loại chuyên ăn ngầm dưới tầng nước đáy. Đã biết tính cha, Mừng nghe quá trái tai nhưng không dám mở miệng. Anh ngồi ngọ nguậy, mồ hôi dầu túa ra khắp người. Chàng trai đưa mắt cầu cứu mẹ. Bà Vui nhè nhẹ lắc đầu. Thời gian tan chậm chạp như sương đầm buổi mai tháng tám. - Răng? Mi có ăn lời cha mi không? - Ông Vui lại cất tiếng, lông mày xếch ngược như hai con tôm vít lộn đầu. - Dạ… dạ… - Dạ dạ chi. Một là mi gật, hai là mi lắc. Gật chẳng nói mần chi. Lắc, sẵn con sào săm bịt sắt nhọn đó, con sào từ thời ông nội mi để lại đến chừ. Tự tay tau sẽ phóng cho mi một phát, cho mi về hầu Hà Bá. Tau đã nói là làm. Ông mệ cho phép rồi. Nói đi, Mừng! Bà Vui kêu xé lên một tiếng, ôm chặt Mừng hoảng hốt. - Dạ, tui xin nghe lời cha. - Phải! Rứa là phải, con ơi. Thề đi, thề trước vong linh tổ tiên ông mệ, trước thuỷ cơ mầu nhiệm Thần Phá đi! Mừng như chiếc đò mỏng manh bị dồn đến giữa mắt bão. Anh đứng dậy, trong đầu loé lên một tia chớp. Đến nước này đành phải lừa dối bố mẹ thôi, điều mà không một người trai đầm phá nào cam tâm làm. Anh hướng về phía bàn thờ, cúi đầu, rành rọt: - Con là thằng Mừng xin thề sẽ làm theo lời phải của cha. Nếu trái lời, xin chịu chết bầm chết giập. Bà Vui thở hắt ra một hơi dài. Ông Vui hả hê với chiếc can nhựa. Rượu tràn ra cả chiếu từ ba chiếc tô loe miệng. Bà Vui uống mấy ngụm xong đặt xuống, trong lúc hai cha con cạn úp tô xuống chiếu. Không ai chấp đàn bà khi uống, dù là đàn bà đầm phá. Nhưng anh con trai có học và mẫn cảm lờ mờ rằng, người mẹ đang tính toán một điều gì đó. Anh thấy cần mau chóng kết thúc câu chuyện. - Tui chỉ xin cha một điều. Không thể trốn vô Sài Gòn được. Làm như vậy mang tiếng lắm và nhất là gây ảnh hưởng xấu cho cả đoàn lính mới của quê ta. Mốt, tui cứ lên huyện tập trung, cứ đi theo anh em về đơn vị. Dọc đường, một lúc sơ hở nào đó, tui sẽ lủi. Cha biết đó, tui mà lủi thì chỉ có Thần Đầm mới bắt được mà thôi…! - Rồi! Rồi! Được! Trong lúc người cha thảnh thơi xoài thẳng cả bốn tay chân ngáy như sấm thì hai mẹ con ra ngồi sau lái, thì thầm. Đêm bí ẩn cũng gần tàn. Mờ sáng. Mặt đầm chìm trong một màu bềnh bệch như nước luộc cá..

<span class='text_page_counter'>(177)</span> Mừng quần Jin xám, sơ mi sọc như một cậu trai thành phố, ngồi sau lái. Người cha giật máy. Ông già sáu mươi tay vẫn còn khoẻ lắm, chỉ hai vòng máy nổ. Thuyền xé nước nhằm hướng tây nam đường quốc lộ. Mừng muốn được một lần tự điều khiển vạn thuyền trước khi đi xa. Ông Vui há mồm ngạc nhiên khi thấy rập rình chung quanh thuyền ông, nhiều vạn khác cùng vượt qua, tiếng máy nổ rền cả mặt phá. Người ta gọi, kêu, hú, hét, vẫy tay, quơ nón mũ… Lại có cờ quạt cắm đầu các mũi thuyền nữa. Đỏ thắm mọi lạch nguồn. Cả một cộng đồng các vạn chài vùng đầm phá, không biết do ai tổ chức, hẹn hò, đúng ngày giờ đã có mặt để đưa tiễn người con trai đầu tiên của họ ra đi bộ đội cách mạng. Ông Vui đứng đầu mũi, bóng dựng như cái cột buồm, mắt lia khắp bốn bên. Trong lúc thằng con ông hoà nhập vào cái giàn đồng ca hú hét, vẫy tay múa chân, quơ nón… đáp lại, thì ông bỏ vào khoang trong, ngồi lặng. Nhưng đôi mắt tinh như mắt rắn nước của ông vẫn không bỏ sót một chi tiết nào qua kẽ hở như sợi chỉ giữa vòm mui và mạn. Ông không khỏi xúc động và tự hào, cho dù là một niềm tự hào cay đắng. Đoàn thuyền cập bến. Mọi người đều ra đứng ngoài khoang. Mừng sải mấy bước trên cầu ván, nhảy lên bờ. - Cha mạ với mấy em ở nhà. Tui đi! - Ơ… đi! Cho mạnh giỏi! Mừng bước lên đường nhựa, khuất dần sau những hàng cây chạy dài hai bên quốc lộ. Đoàn thuyền vạn chài đưa tiễn tản ra, ai về xứ nấy. Một ngày chài lưới mới đang chờ đợi. Phía núi Mu Rùa, ngoài cửa biển, mặt trời nhô lên. Mặt đầm óng ánh một màu trắng say say như rượu tưới. Thuyền ông Vui về sau hết. Hôm nay là ngày Mừng ra đi, ông không đánh bắt. Về tới gốc si già, bà Vui vung tay để sợi neo mềm mại trườn lên, ngoắc vào thân cây. Cái vung tay của bà không thể nói là kém hơn con trai bà. Bà đốt hai nén hương, một cắm lên trang thờ, một cắm đầu mũi - nơi vẫn hàng năm đặt lễ cúng Thần Đầm. Ông Vui nhìn vợ, không giấu được vẻ lạ lùng băn khoăn trên khuôn mặt như tạc bằng lim ròng. - Mụ mần chi rứa? - Thắp hương! - Thắp chi? Hỏi xong, ông Vui cảm thấy mình quá ư vô lý. Thắp hương cho thần linh tiên phật, cho tổ tiên ông bà cha mẹ, cầu mong cho con cái được bình yên vô sự ăn nên làm ra… thì đâu có thừa, đâu phải là việc không nên mà hỏi. Tâm càng thành, càng được phù hộ. Thần linh chỉ trừng phạt những lòng giả dối. Nhưng mà… chi rứa hè? … Ông chột dạ, lom lom nhìn. Bà Vui ngồi bệt xuống, hai chân xếp ngoặc ra sau, chắp tay lạy. Đoạn bà đứng dậy, chiếu thẳng mắt vào chồng. Ông Vui như bị dông khiến bật đứng lên cạnh vợ. Bà Vui khấn to như đọc: - Trên có chư vị Thủy Vương Hà Bá, dưới có vong linh ông bà cha mẹ. Con xin được giải lời hứa nguyện cho chồng con, con trai con. Chồng con vì thương con mà bày điều trái đạo. Con trai con vì không muốn phiền lòng cha mà phải thề nước hai. Đi thuận gió, về thuận mưa, nghe lời phải, bỏ điều tà. Con trai con đã một lòng, chồng con cũng không hai dạ. Rập đầu mong được chứng giải. Kính cáo. Ông Vui đã ngồi đánh phịch - Bà Vui tạ xong ra đứng trước mũi, rút con sào đầu bịt sắt nhọn đặt cạnh. Bà vo quần lên và bất đồ đưa tay xé rẹt hàng cúc áo. Hai bầu vú màu mận chín của ba mươi năm về trước phơi ra, hai bầu vú đã một lần cứu ông thoát tay giặc, hai bầu vú mà bầy con của ông đã lần lượt bấu vào, hút kiệt và lớn lên, giờ đây đã thõng xuống, tóp lại như hai trái mướp khô, ưỡn thẳng. - Đây! Tui xin được thay thằng Mừng gửi lại ông một cái lắc đầu… Ngày xưa, ông trốn lính là lợi cách mạng. Ngày nay, thằng Mừng trốn lính là hại cách mạng. Hắn không bao giờ làm. Ông hãy phóng vào ngực tui đi! Sự việc diễn ra quá dữ dội và bất ngờ. Ông Vui kiệt sức, lắp bắp: - Mụ… mụ… Ui chui cái mụ…!.

<span class='text_page_counter'>(178)</span> Ông rên rỉ trong lòng. Ta thấp mưu hơn vợ con ta rồi… Cảnh tiễn đưa của cộng đồng các vạn chài đầm phá hồi nãy hằn rõ trong óc ông. Thốt nhiên, ông vụt nhận ra rằng, sự thất bại của ông cũng… cũng thật là mát mặt… Ông bước ra, quát vợ: - Thôi đi vô nấu cơm! Con mụ "mọi đầm" kia! Vừa lúc, thằng con áp út đang ngồi chơi khuất đâu bên kia cửa mui, vỗ tay reo: - Mạ ơi! Vịt trời lông tía về rồi! Đó! Đó, mạ thấy không? Vịt trời lông tía! Người mẹ nhìn vọi lên cao: - Ờ… ờ… nó bay đi, đến mùa hè lại bay về, có chi lạ mô con! Ở vùng đầm phá, vịt trời có nhiều loại. Nhưng loại lông tía mới là loại quý hiếm, săn mồi rất giỏi. Dân vạn chài đầm phá chuyên sống trên mặt nước xưa nay vẫn coi chúng là sứ giả của những điều tốt lành, may mắn. Hồng Nhu Những tia nắng hình rẻ quạt Thứ tư, 14 Tháng 1 2009 09:07 Bà cụ Thăng lại chống gậy ra ngồi ở gốc cây hồng đầu ngõ. Trời đã bắt đầu chớm heo may. Ngoài đồng từng đàn chim chèo bẻo bay về lao liệng trên những vạt lúa sớm hoe hoe chín. Đã thấy hương cốm thoang thoảng. Vài nhà trồng sen ngoài đầm đi hái nốt những cái lá cuối vụ đem về gói cốm. Mùa hồng chín cũng về theo... Cây hồng mòng trước ngõ dễ đã gần ba chục tuổi, được chăm chút, quả nào quả nấy to như cái chén uống nước, treo lúc lỉu trên cành, hây hẩy như má trẻ con, ấy vật mà chẳng quả nào có hột. Ai cũng khen đây là giống hồng quý, quanh vùng chẳng nhà nào có. Với bà Thăng, cây hồng như sự hiển diện của một con người, nhất là từ ngày Thăng đi vắng. Dạo còn học cấp ba trên huyện, Thăng mang ở đâu về một đống các giống cây đem trồng ở vườn và hì hục chăm bón. Chiều nào không đi học, không giúp mẹ làm đồng là cậu lại hí húi ở ngoài vườn chiết chiết, ghép ghép những mầm cây. Lũ con gái cùng lớp thi thoảng đến chơi cứ gọi nó là “nhà nông học’. Lụi hịu mấy năm trời, cây lớn, cây nhỏ đều không vừa ý Thăng, chỉ có mỗi cây hồng nó đem ươm ở đầu ngõ là còn sống, Thăng chăm cây hồng quá bà già chăm trẻ nhỏ. Ngày đi bộ đội, Thăng dặn: - Bà chăm cho con cây hồng này, nó không dễ trồng, nhưng đây là giống quý lắm đấy bu ạ! Khi nào về, con sẽ chiết ghép nhân giống trồng ra khắp vườn nhà mình. Sau này con sẽ làm giàu bằng nghề bán cây giống cho bu xem! Bà cười: - Thì bu cũng mong sống được đến ngày ấy! Nó trêu bà: - Bu cứ yên tâm! Mà hồng của con chẳng dễ long tai như hồng của thày khi xưa đâu bu ạ! Bà bật cười và nhớ lại ngày xưa. Khi chưa quen nhau, anh chàng đóng cối hay chữ đã ướm hỏi bà bằng câu hát có hồng có cốm. Câu hát rằng anh chàng mua cốm, mua hồng làm sính lễ sang chơi nhà người yêu. Ai ngờ người ấy đã có chồng, thế là cốm của anh ta bị mốc và một trăm hai chục quả hồng để long tai. Bà nghe, thương quá mà nhận lời. Ai dè, anh ta chỉ là một chàng đóng cối dởm. Cưới nhau xong, anh đi đánh Tây một lèo cho đến khi hy sinh ở Điện Biên Phủ, để lại cho bà thằng con lém lỉn y như bố nó. Thăng đi rồi, bà chăm chút cây hồng như ngày trước chăm nó vậy. Trời mưa nắng, bão giông gì cây hồng cũng có bà bên cạh. Một chiếc lá xanh rụng sớm cũng làm ba xa xót trong lòng. Có lần chị hàng xóm vô tình chạm lưỡi cuốc vào thân cây làm nó ứa nhựa, bà vội xé ngay một vạt áo đang vắt trên dây phơi bằng bó cho nó. Bà hay nói chuyện với cây hồng đến nỗi cái Tầm con ông Đồng xóm dưới đến chơi cứ ngạc nhiên mãi. Tầm là bạn học với Thăng hồi cấp hai. Hình như cô cậu đã có tình ý với nhau nên từ dại Thăng đi bộ đội, Tầm thường qua lại giúp bà nhiều việc, ngồi hàng giờ nghe bà kể chuyện về Thăng. Biết vậy, thư của Thăng gửi về bà hay nhờ Tầm đọc, rồi bà lại đọc để Tầm viết cho Thăng. Bà để ý, thấy lần nào đọc xong, Tầm cũng cất lá thư ấy vào một chỗ, thi thoảng lại lén đọc lại. Bà cũng quý Tầm. Hôm nào Tầm không đến là bà nhớ. Nhà Tầm chỉ có hai bố con. Bố Tầm ốm yếu, đã mấy năm nay chỉ quanh quẩn trong.

<span class='text_page_counter'>(179)</span> nhà. Một lần nhận được thư Thăng gửi về, bà lại đưa cho Tầm đọc. Được vài câu đầu, tự nhiên bà thấy mặt Tầm đỏ ửng đến tận mang tai. Nó cứ lúng búng trong miệng chẳng thành lời, rồi đột nhiên dúi lá thư vào tay bà, bỏ chạy làm bà phát hoảng. Bà vội vàng sang hàng xóm nhờ con Bé học lớp ba đọc hộ. Con Bé đọc được vài câu đầu nó cũng dừng lại một tí rồi reo lên: - Chú Thăng bảo hết đợt huấn luyện này được thưởng phep sẽ về để bà cưới vợ cho chú ấy! Ồ, mà chú ấy bảo bà cướu cô Tầm cho chú ấy bà ạ! Thế là cháu sắp được ăn cỗ rồi! Bà cho cháu đi đón dâu với bà nhớ! Bà cũng sung sướng như con Bé - Ừ, nhất định là cháu sẽ đi đón dâu cho bà rồi! Đọc kỹ lại cho bà nghe xem nào! Con Bé đọc lại hai ba lần nữa, bà mới tin là không nghe nhầm. Thằng Thăng nhà bà mà lấy được con Tầm thì còn phải nói. Bà ưng con bé từ lâu rồi. Tuy mới học hết cấp hai nhưng nó tần tảo, hiền lành và hiếu đễ. Được nó làm dâu, bà chả mong gì hơn thế! Thì ra anh chị đã hẹn hò với nhau, thảo nào đọc đến chỗ Thăng bảo được nghỉ phép về là cưới vợ, nó cứ lúng ba lúng búng. Ngày xưa bà cũng thế, mừng bao nhiêu thì ngượng bấy nhiêu. Tối hôm ấy bà chờ mãi không thấy Tầm sang như mọi bữa. Hôm sau, đi chợ về, bà mua chục trứng gà thật ngon xách sang bên ấy. Tầm đang lúi húi vừa ninh cháo vừa sắc thuốc cho bố. Chắc Tầm cũng vừa đi làm đồng về nên hai ống quần còn vo lên bên trên đầu gối. Nhìn cảnh ấy bà thấy nao nao thương cảm. Thấy bà đến, Tầm cứ luống ca luống cuống. Bà đưa chục trứng cho Tầm. Có vẻ vẫn còn ngượng nên Tầm cứ đứng vân vê tà áo. Ông bố giục, Tầm như chợt nhớ ra chạy đi rót nước mời bà rồi ý tứ đi xuống bếp. Bà cũng lúng túng không biết mở đầu câu chuyện ra sao. Vòng vo mãi bà mới nói được gẫy nhẽ: - Cháu Thăng nhà tôi nó viết thư về. Tôi mừng quá nên mẹn phép sang có nhời thưa trước với ông để xin ông cho phép mấy hôm nữa cháu Thăng về, gia đình tôi sẽ chuẩn bị cơi trầu thưa chuyện cùng ông và họ mạc bên nhà để được lo việc cho hai cháu. Bố Tầm cũng vui mừng chả kém gì mẹ Thăng. Ông cố nói cho thật rành rọt: Nếu cháu nó được về làm dâu con bên nhà thì tôi có nhắm mắt cũng yên tâm lắm. Từ hôm ấy chẳng những chăm chút cây hồng mà bà còn ra sức vỗ bép cho con lơn trong chuồng, mua dăm con gà thả thêm vào đàn gà nhà đang nuôi sẵn. Bà nghĩ, đám cưới sống mới, sống cũ gì cũng được, nhưng nhất định phải làm chục mâm mời họ hàng. Bà những muốn làm đám cưới cho Thăng chẳng kém ai trong làng để đỡ tủi phận con mất bố. Có dễ đến mất tuần sau, Tầm không dám sang lúc bà ở nhà. Vậy mà nhà bà lúc nào cũng sạch sẽ, cám bã lợn gà đâu vào đấy, rau ngoài vườn được tưới tắm, hái tỉa, để sẵn trong rổ cho sáng mai bà đi chợ. Chè xanh đã hãm trong ủ tích. Nhiều khi về muộn bà đã thấy cơm canh đậy lồng bàn đặt trên giường. Bà sung sướng biết mình đang có quả thị vàng. Cô Tấm của bà đang giấu mình têm trầu cánh phượng. Bà đếm từng ngày trên đốt ngón tay. Tất cả mọi thứ cần cho đám cưới bà đã dự tính đâu vào đấy thì một chiều có tiếng trẻ reo ngoài ngõ. Cái Bé đang rối rít gọi bà. Bà lật đật chạy ra. Cái Bé khoe: - Có thư của chú Thăng bà ạ! Bà để cháu đọc cho bà nghe nhớ.! Tai bà chợt ù đi, hai đầu gối tự nhiên run lẩy bẩy. Bà phải vịn vào vai con Bé. Con Bé vô tư giơ bức thư lên ngắm ngiá. Nó nói như reo: - Bên trong như có ảnh ấy bà ạ! Con Bé quay sang nhìn bà. Nó kêu lên: - Bà ơi! Sao tay bà run thế? Để chau dắt bà vào nhà! Đến thềm, hai bà cháu cùng ngồi xuống. Bé đưa phong thư cho bà: - Bà bóc ra đi để cho cháu đọc! Loay hoay mãi bà mới bóc được phong bì. Trong ấy có hai tấm ảnh của Thăng to cỡ bàn tay. Trong ảnh, Thăng mặc quân phục, đội mũ đeo sao, rõ ra dáng lắm. Cái miệng nó cười như chuộc lỗi với bà. Bà hồi hộp nghe Bé đọc thư. Trong thư Thăng nói chưa thể về vì đơn vị có lệnh hành quân gấp. Nó dặn bà cố nuôi con lợn béo thêm một ít nữa. Vào trong ấy đánh thắng vài trận là nó có thể yên tâm về cưới vợ. Biết nó tếu mà bà chẳng thể cười được. Bà phát ốm. Bà nằm hàng tuần không dậy. Tầm như con thoi đi lại giữa hai nhà chăm sóc hai người già ốm. Bà biết ăn nói sao với bố Tầm, với Tầm bây giờ?... Một buổi sáng, bố Tầm bắt con đưa sang nhà bà Thăng. Vốn là người mộc mạc, chả rào trước đón sau, ông nói: - Thôi, bà chớ có buồn phiền lo nghĩ nhiều. Thời buổi chiến tranh, anh ấy chưa về được bây giờ cũng là cái nhẽ thường. Chúng chả cưới bây giờ thì mai này về cưới cũng chả muộn. Với tôi thì một lời là ngãi. Con trẻ.

<span class='text_page_counter'>(180)</span> đã có lòng thương nhau thì xin bà cứ coi con cháu Tầm đây như dâu con trong nhà vậy. Bà có nhận nhời tôi với yên tâm! Ông chỉ nói được có thế rồi từ tạ ra về. Bà Thăng rưng rưng nhìn theo hai cha con Tầm khuất dần sau giậu cúc tần ngoài ngõ. Sau này khi bố mất, Tầm đi về với bà nhiều hơn. Dạo này Tầm tham gia công tác đoàn thể nên tất bật tối ngày, hết việc đồng lại việc xã, rảnh lúc nào lại sang quấn quít với bà. Hết năm này sang năm khác, bà mỗi ngày một già thêm mà vẫn chưa thấy Thăng về, thư từ lâu rồi cũng không có. Trên muốn cử Tầm đi học để sau này về huyện công tác, Tầm không đi. Bà biết Tầm ở lại là vì bà. Bà giục mấy, Tầm cũng chỉ cười trừ. Ngủ lại với bà, Tầm thường mang báo về đọc cho bà nghe tin thắng trận để bà mừng. Bà giật mình khi thấy Tầm đã có nhiều vết rạn chân chim nơi đuôi mắt. Búi tóc to nặnng sau gáy cứ ngày một nhỏ đi làm lòng bà se sắt. Lợn trong chuồng cứ nuôi hết lứa này đến lứa khác mà bà với Tầm chẳng ai dám nhắc đến ngày về của Thăng. Khi nhận được tin Thăng chẳng bao giờ còn về được nữa thì người suy sụp chính là Tầm. Tầm không nói với ai hàng tháng trời. Bà Thăng lại lụm cịm đi về với Tầm, chăm chút, thí dỗ Tầm như trẻ con. Nhiều lần, bà thấy Tầm ngồi trong buồng ngắm mãi cái áo cổ bẻ màu trứng sáo còn mới nguyên không hiểu sao mất một cái cúc ở ngực mà nó không đơm lại. Rồi sự bình tĩnh lắng dịu cũng trở lại với Tầm. Giữa bà với Tầm giờ đây dường như không còn khoảng cách. Mỗi người đều có một căn nhà nhưng ở cả hơi nơi họ đều không có gì riêng cả. Mọi người xung quanh nhìn bà với Tầm bằng con mắt thông cảm, sẻ chia. Bà thấy giữa hai người có quá nhiều thứ để gắn bó với nhau. Chính vì thế mà bà lại quá đau lòng nhìn Tầm đang dần dần đi vào khoảng quá lứa nhỡ thì. Nhiều đêm nằm rủ rỉ, bà khuyên Tầm nên nghĩ đến chuyện chồng con nhưng Tầm cứ vâng dạ để đấy. Càng ngày bà càng không thể nhìn Tầm mòn mỏi trong nỗi đợi chờ vô vọng. Bà biết Tầm còn quá nặng tình với Thăng và Tầm không nở để bà ở lại một mình. Chính điều đó làm bà xót xa. Ngày xưa, bà ở vậy vì bà còn có Thăng nhưng với Tầm thì không có sự vô lý nào hơn là cứ chung tình với người dưới mộ. Nhiều đêm trằn trọc, bà nằm nghĩ cách khuyên bảo Tầm để Tầm phải nghe theo. Một lần vào dịp 27 tháng 7, Tầm cùng đoàn cán bộ xã đi thăm anh em thương binh nặng ở trại điều dưỡng. Khi về Tầm mừng rõ kể cho bà nghe là đã tìm thấy An, cháu goi bà bằng dì. An bị hỏng cả hai mắt. Nó đã cố im hơi lặng tiếng để cho người yêu đi lấy chồng. Con bé ấy cũng là người tốt nết. Hai bên gia đình ép mãi nó mới chịu để cho nhận trầu cau nhà khác. Nó cưới được một năm thì mẹ An qua đời. Chắc con Tầm sợ như thế nên nó nhất quyết không bỏ bà để đi lấy chồng. Bà nghe Tầm kể về An với giọng đầy thông cảm. Tuần sau, Tầm đưa bà đến trại an dưỡng thăm An. Bà không tài nào cầm lòng dưdợc khi An cứ rờ rẫm hai tay lên mặt bà mà xuýt xoa: - Thât là dì của con rồi! Con vẫn hình dung ra dì như thê này. Dì giống hệt mẹ con. Hồi đi học hai anh em chờ dì ghé qua nhà chúng con trọ, thằng Thăng bao giờ cũng bảo, khéo có anh nhận lầm mẹ em đấy! Nhìn nó cười mà lòng bà quặn thắt. An quờ tay nắm chặt tay Tầm: Anh cảm ơn Tầm lắm lắm. Em đã cho anh được gặp dì, thế là anh lại muốn sống rồi Tầm ạ! Nhìn bàn tay hai đứa xiết chặt, trong đầu bà chợt nảy ra một ý. Sau này, bà tìm cách cho Tầm đến với An nhiều hơn. Bà nhờ cậy mà như là buộc Tầm phải thay bà thăm nom săn sóc An vậy. Bà thừa biết An chẳng lạ gì chuyện giữa Tầm với Thăng và hình như Tầm đi thăm An cũng là một sự tự nguyện. Bà hy vọng rồi chúng sẽ như bà mong muốn và bà ngấm ngầm sắp đặt mọi việc. Dường như Tầm biết ý nên dù ân cần với An, bà thấy nó vẫn giữ một khoảng cách. Nhưng vì con, vì cháu nhẽ nào bà lại chịu thua. Gần đây, bà cụ thấy mình yếu nhiều. Lắm lúc nằm trong nhà nhìn ra bà thấy tán lá của cây hồng giống hệt hình người đang lom khom cuốc xới, cái đầu thi thoảng lại ngẩng lên hất mái tóc xõa xuống giống y như Thăng. Rõ ràng người ấy còn cúi xuống phía bà. Bà bàng hoàng chống tay ngồi dậy, nhìn kỹ tán lá của cây hồng chẳng có gì lạ cả nhưng hễ nằm xuống, bà lại thấy nó giống người. Cây hồng cũng ngày một già đi. Nó không được nhân ra thành nhiều cây con để trồng khắp vườn dù Tầm cố chăm bón không để cho nó cỗi. Xuân về, nó vẫn đâm chồi nảy lộc, xòe bóng mát che chở cho người thân những lúc hè về và se sẽ thả xuống những bông hoa hình ngôi sao nho nhỏ như để làm an lòng họ. Mùa cốm đến nó lại cho những quả chín đậm đà hương vị không đâu có được. Bà cụ Thăng vẫn ra ngồi gốc hồng để khâu vá, để nghĩ ngợi. Bà ngồi đấy đau đáu một ước mơ: tìm được hài cốt thằng Thăng để mang về đặt cạnh mộ ông cụ để ngày rằm, mùng một bà có thể đến thắp nén nhang cho hai bố con. Với ý nguyện ấy, đã hai lần Tầm nhắn tin trên đài phát thanh, trên ti vi trong mục “Nhắn tìm đồng đội”. Ngày ngày, bà cụ Thăng lại ra ngồi ở gốc cây hồng cặm cụi với công việc may vá của mình. Thi thoảng cụ lại dừng tay ngóng ra ngoài ngõ để cái kim trên tay rơi tự lúc nào. Thường thì bà cụ chỉ đứng lên vào nhà khi không tìm được kim để khâu tiếp. Hôm ấy, mấy đứa trẻ giúp bà cụ hái hồng để dấm, chúng đã nhặt được dưới gốc cây hàng vốc kim khâu rỉ, may mà không đứa nào dẫm phải. Khi hồng chín, bà cụ chọn những quả thật ngon để Tầm mang lên trại điều dưỡng. Bà lại ngồi dưới gốc cây, một bị đầy những quả hồng mòng để bên cạnh. Bà chờ lũ trẻ đi học về để chia cho mỗi đứa một quả. Cuộc họp Ban chấp hành Đảng bộ mở rộng về việc triển khai cuộc vận động đón người thân là thương binh.

<span class='text_page_counter'>(181)</span> nặng về chung sống với gia đình mà Tầm được giao là phó ban thường trực mãi đến trưa mới xong. Tầm vội đạp xe lên thị xã lấy bức ảnh của Thưng đưa đi chụp lại từ hôm trước. Nhận được bức điện của người đàn bà xa lạ từ Nam bộ gửi ra, chị tin là anh ấy thật. Chị chọn tấm ảnh của Thăng hồi còn đi học. Với chị, tấm ảnh ấy giống Thăng hơn cả. Tầm giấu chưa dám nói chuyện bức điện với mẹ Thăng sợ còn có nhầm lẫn. Lấy được ảnh, chị ra bưu điện gửi theo thư chuyển phát nhanh. Kèm theo bức ảnh, chị ghi tất cả những điều cần thiết vào một tờ giấy. Lời trong bức điện của người đàn bà kia quá ngắn nhưng cũng đủ làm cho Tầm day dứt một nỗi buồn. Đã lâu lắm rồi, khi đọc kỹ bức điện chị mới lại dấm dứt khóc. Mới đầu chị đã định không chút hồi âm cho người đánh bức điện nhưng nhìn mẹ Thăng cứ ngày ngày chống gậy ra ngồi ở gốc hồng, trông hút đến tận cuối ngõ, chị lại chẳng đành lòng. Phần mẹ, chị mong mỏi đấy là anh, phần chị, chị lại mong là không phải. Thư gửi đi và mình Tầm thắc thỏm đợi chờ. Một lần bà cụ nói chuyện về An, Tầm đã nói cho mẹ nghe về chuyện bàn trong cuộc họp ở Đảng bô xã hôm nào. Bà cụ xem ra mừng rỡ lắm. Bà bảo hôm nào Tầm rỗi, đưa bà lên trại điều dưỡng để hai mẹ con cùng bàn với An. Tầm biết từ khi gặp lại An, bà đã coi anh gần như Thăng sống lại. Thế nhưng trong lúc này, Tầm chẳng còn lòng dạ nào mà nghĩ tới chuyện đó. Chị định khi nào tìm được Thăng, đưa Thăng về với mẹ rồi sẽ tính. Một buổi, chị đang chuẩn bị bữa trưa ở nhà mẹ Thăng thì có hai người đi vào ngõ. Chị giật bắn mình khi nhận ra người đi trước chính là Thăng. Thăng của hơn chục năm về trước khi còn là học trò trường huyện. Theo sau là người đàn bà luống tuổi, mặc bộ đồ bà ba. Linh tính bảo cho chị biết những người ấy là ai. Một phút sững sờ, chị vội đi ra đứng cạnh mẹ Thăng để đón hai người khách lạ. Chưa kịp nói gì thì bà cụ đã vứt cây gậy sang bên, nhanh nhẹn khác thường bước lên phía trước, sung sướng gọi: - Thăng về đấy ư con! Tức thì, cả ngần ấy cánh tay cùng đỡ lấy bà cụ. Cậu con trai lễ phép: - Thưa nội… Bà cụ sững lại, một chốc mới với tay tìm cây gậy của mình rồi nặng nhọc bảo Tầm: - Mời khách vào trong nhà đi con. Cậu con trai đỡ bà cụ đi vào. Tầm và người đàn bà lặng lẽ theo sau. Tầm đối đãi với hai người khách như đã quen từ trước. Bây giờ Tầm mới nói chuyện với mẹ Thăng. Bà cụ mừng như được đón con mình về vậy. Linh cảm huyết thống đã làm bà cụ thấy thật gần gũi với hai người mới đến. Cậu con trai ngồi sát liền với bà, bà nhìn cậu vừa sửng sốt vừa mừng rỡ: - Cháu giống thằng Thăng nhà bà y như hai giọt nước! Cậu con trai cười, một chút bẽn lẽn thoáng qua, cậu ngồi sát lại vòng tay ôm lấy bà, mũng nịu ghé vào tai bà khẽ gọi: - Nội… Những nét khó xử trên mặt người đàn bà lạ dần dần giãn ra. Tất cả lời nói, cử chỉ của mọi người xung quanh như cật cứa vào lòng Tầm. Tạo hóa đùa giỡn thò bàn tay vô hình vần vò trái tim tưởng như đã khô cằn của chị. Chị nén nỗi đâu không để cho nó lộ ra trên gương mặt. Nỗi vui mừng của bà cụ làm cho câu chuyện của mọi người thân mật, ấm áp hơn và làm dịu đi những tia buồn chợt lóe lên trong mắt Tầm. Tầm ra chợ mua về khá nhiều thứ. Hai người đàn bà cùng nấu một bữa cơm. Tầm nhìn người đàn bà lạ lóng ngóng đến tội nghiệp. Vừa làm chị vừa chỉ cho người ấy cách nấu vài món ăn ngoài Bắc. Chị cố làm cho người đàn bà lạ không còn cảm thấy mình là khách và người ấy đã có vẻ cởi mở, tự tin hơn. Cơm nước xong, chị thu xếp chỗ nghỉ cho hai mẹ con người đàn bà, ép bà cụ uống vài viên thuốc bổ, dặn dò đôi điều về những thứ đã chuẩn bị sẵn cho vài ngày sau rồi thưa với bà cụ mình phải đi tập huấn ít ngày trên tỉnh. Mải quấn quýt với thằng cháu đích tôn nên khi chị đã dắt xe ra ngõ bà cụ mới nói với theo: - Chong chóng mà về con nhé! Tầm chẳng đi đâu mà đạp xe về thẳng nhà mình. Quẳng cái xe đạp đổ kềnh vào một xó, Tầm đổ vật ra giường. Chị chẳng để ý đến mùi giường chiếu đã lâu không có người nằm và căn nhà bốc hơi ngai ngái, hăng hắc. Chị vật vã trong nỗi đau khô cạn, những giọt nước mắt không ra đến bờ mi. Chưa bao giờ Tầm ý thức được sự mất mát như lúc này. Tình yêu của Tầm đã lắng xuống quá lâu rồi, nó chỉ còn như hòn than âm ỉ trong đống tro ký ức mà bấy nay chị vẫn coi như một báu vật. Bây giờ, với sự hiển diện của cậu con trai giống Thăng như đúc và người đàn bà lạ, chị thấy mình đã mất hết, chị oán hận Thăng và oán giận chính mình. Sao Thăng lại hẹn về cưới nhau rồi cứ để chị phải mỏi mòn trông đợi? Sao cái đêm ở vườn dâu năm ấy chị lại giữ gìn với Thăng để làm gì? Ừ, thì chị đã sợ hãi nhưng sao Thăng lại không quyết liệt hơn để giúp chị bước qua sự sợ hãi vô lý đó. Thăng đã vượt qua được sự giữ gìn làm bật tung cúc áo chị, anh đã vượt qua mọi sự ngăn cách để áp mặt vào bầu vú trinh nữ của chị mà thổn thức. Chị đê mê hít thở mùi nắng cháy khét trên tóc Thăng. Nhưng đến luc cuối cùng, không biết sự ngu ngốc nào đã đánh thức.

<span class='text_page_counter'>(182)</span> chị. Chị đẩy anh ngã vật trên cỏ và ngồi dậy ôm mặt khóc. Sau này. Vắng Thăng, sự sợ hãi ấy đã thành kỷ niệm ngọt ngào cho chị nhấm nháp. Đến khi sự hăng hái, năng nổ và bộn bề công việc không khỏa lấp được nỗi cô đơn, chị đã thấy tiếc cho mình. Cái áo chị mặc hôm ấy lúc nào cũng sạch sẽ thơm tho treo trên mắc, dù biết hàng khuy của nó thiếu khuyết một chiếc, chị cũng không đơm lại. Chị định sẽ mặc nó trong đêm tân hôn để dành cho Thăng một sự thú vị nho nhỏ. Thế mà cái áo ấy cứ treo mãi trên mắc. Chị lấy ở bên nhà cái áo cũ của Thăng đem về lồng vào cái áo của chụi và coi đó như là một sự hòa đồng, ấp ủ, chở che, ngõ hầu làm dịu đi nỗi nhớ mong, thèm khát cồn cào trong quãng trống. Gần cả cuộc đời chị đã không thể nghĩ đến một người đàn ông nào khác. Chị sợ sự động chạm với họ ngày cả lúc vô tình. Tình yêu với Thăng đã gắn chặt đời chị vào đời người mẹ già chịu nhiều mất mát. Hai người đàn bà nương vào nhau, chệnh choạng bước trên quãng đường lầm lụi. Vậy mà giờ đây, một người đàn bà xa lạ dẫn đứa con trai về nhận mẹ chồng, bà nội. Chị thấy mình thừa thãi giữa họ, y như trời đã sinh ra trên khuôn mặt con người có đầy đủ tóc tai mũi miệng với hai con mắt, thêm vào đó một con nữa dù có đẹp đến đâu cũng trở thành thậm vô lý. Chị thầm hét lên rằng anh ấy không có đứa con nào cả! Nếu như anh ấy có thể có một đứa con thì nó phải là con của chị với anh. Noa phải bú dòng sữa chắt ra từ máu thịt, từ tình yêu thương của chị chứ không phải của một người đàn bà khác! Cậu con trai ấy giống Thăng chỉ là sự tình cờ thôi! Thăng không thể là kẻ phản bội! Chị muốn mọi người cũng tin như thế! Nhưng sự thật lại không như ý muốn của chị. Cậu con trai ấy hiển nhiên không phải là sự tình cờ của tạo hóa. Người đàn bà kia đã đem đến cho mẹ Thăng điều lớn hơn rất nhiều so với sự mong đợi của bà, điều mà chị chẳng bao giờ làm được dù có học người xưa xả thân mình nuôi mẹ. Không hẳn người đàn bà ấy đã cướp đi tất cả của chị mà chính là Thăng. Phải rồi, chính là Thăng! Anh đã để chị phải chờ đợi đằng đẵng suốt ngần ấy năm trời. Nhìn lên bức ảnh, chị thấy nụ cười trên môi Thăng đầy vẻ giễu cợt. Tầm lả đi trong tiếng dế nỉ non, ai oán. Dưới ánh trăng suông, Bảy Thơm tìm đến ngôi nhà nhỏ nép bóng tre. Cửa khép hờ, trong nhà im ắng quá. Chị ghé mắt nhìn qua khe cửa sổ. Chị khẽ chạm vào cánh cửa. Trong nhà có giọng nói yếu ớt vọng ra: - Anh chỉ là kẻ phản bội! Bảy Thơm đẩy cửa chính bước vào. Anh trăng đổ một vệt dài qua ô cửa mở. Chị lặng lẽ đến cạnh Tầm trong khoảng không gian sực nức mùi vị của sự lãng quên. Tầm mệt mỏi ngồi dậy. Bảy Thơm nâng lấy bàn tay Tầm lạnh giá, sần sận những vết chai và giữ trong tay mình, sẽ sàng: Em mới là người có lỗi. Em biết rằng anh ấy chẳng yêu em. Em đã chiếm anh ấy của chị. Khi đó em nào có nghĩ được điều gì xa quá tầm tay. Em chỉ thấy rằng em yêu ah ấy, em thèm muốn có được anh ấy. Tối nào bọn em cũng ra đi với súng đạn bên mình. Em đã thấy pháo giặc giết chết một đồng đội ngay trước mặt. Em sợ đến một lúc nào đó em cũng bị như vậy. Thế là em tìm cách để đến với anh ấy, làm cho anh ấy phải cho em điều mà em muốn. Sau đó, em yên tâm ra đi với công việc của mình. Em đã chẳng bao giờ gặp lại anh ấy. Đến quê của anh ấy em cũng không biết ở đâu. Em sẽ bị dằn vặt suốt đời nếu em không đưa được anh ấy và con tìm về quê cha đất tổ và không được thú nhận cùng chị. Anh ấy gởi lại cho em mảnh giấy và kỷ vật này. Em đã giữ gìn nó suốt bằng ấy năm. Bây giờ nó phải thuộc về chị. Bảy Thơm cởi chiếc dây chuyền đeo ở cổ ra để trong lòng bàn tay. Dưới ánh sáng nhạt nhòa của trời rạng, chị cẩn thận mở cái mặt dây chuyền hình trái tim rồi đặt tất cả vào tay Tầm. Tầm lặng người khi thấy trong hình trái tim một cái cúc làm bằng vỏ trai lóng lánh màu xà cừ. Nhìn kỹ trên mặt cúc chị thấy có một chấm đen nhỏ xíu. Lấy ngón tay trỏ khẽ lau cái chấm đen đó, Tầm thấy nó không mất đi mà lại lan rộng ra, bồng bềnh như mái tóc, dưới mái tóc dần hiện lên một gươngmặt với nụ cười quá quen thuộc. Tầm thấy lạnh toát cả người, chị ấp cái cúc vào lòng bàn tay một lúc lâu mới mở ra nhìn lại. Cái cúc bây giờ chỉ là một mảnh vỏ trai nhỏ xíu lóng lánh màu xà cừ ngũ sắc. Tầm đứng dậy lấy cái áo cổ bẻ màu trứng sáo treo trên mắc xuống vuột phẳng. Chị đặt cái cúc vào chỗ của nó, tìm kim chỉ đơm lại cẩn thận. Cả bốn chiếc cúc y hệt như nhau. Hai người đàn bà ngồi đăm đắm trong im lặng. Bên ngoài, trời đã rạng sáng, những chú chim sâu lách chách chuyền cành. Có tiếng chân bước lập cập và tiếng gậy tre ngoài cửa. Hai người đàn bà cùng dứt mình ra khỏi ký ức. Bà cụ ngồi thụp xuống trước mặt hai người, thở hắt ra như vừa trút được gánh nặng. Tiếng bà cụ thều thào như tiếng gió: - Chẳng ai hiểu con bằng bu đầu Tầm ạ! Con đừng nghĩ dại. Con có làm sao thì bu biết sống với ai? Tầm cúi đầu. Chị khe khẽ trút một hơi thở thật dài. Bên hàng xóm, gà nhà ai bây giờ mới gáy. Tiếng chày thậm thịnh đâu đây. Thoảng trong không gian có hương thơm của cốm đầu mùa. Vừng đông ló rạng soi lên nền trời những tia nắng hình rẻ quạt. Hoàng Phương Nhâm.

<span class='text_page_counter'>(183)</span>

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×