TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HỒ CHÍ MINH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
SỰ PHÁT TRIỂN CỦA TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO VÀ
ẢNH HƯỞNG CỦA TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO
TRONG XÃ HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY
Tiểu luận cuối kỳ
Môn học: Triết học Mác – Lê-nin.
MÃ SỐ LỚP HỌC PHẦN:
GVHD:
NHÓM THỰC HIỆN: CƠ ĐIỆN TỬ - K19
HỌC KỲ: 2 – NĂM HỌC: 2020 – 2021
TP. HỒ CHÍ MINH, THÁNG 6 NĂM 2021
DANH SÁCH NHĨM THAM GIA
VIẾT THUYẾT TRÌNH VÀ TIỂU LUẬN
HỌC KỲ II NĂM HỌC 2020 - 2021
Lớp thứ 4, tiết 13 - 15
Tên đề tài: Sự phát triển của Phật giáo và ảnh hưởng của Phật giáo trong xã hội
Việt Nam hiện nay.
ST
T
Họ và
tên
Mã số sinh
viên
1
2
3
4
Nhận xét của giảng viên:
.......................................................................................................................
.......................................................................................................................
.......................................................................................................................
.......................................................................................................................
.......................................................................................................................
.......................................................................................................................
.......................................................................................................................
.......................................................................................................................
.......................................................................................................................
Ngày … tháng … năm 2021
Giảng viên ký tên
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài...........................................................................................1
2. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài....................................................................2
2.1. Mục tiêu:.................................................................................................2
2.2. Nhiệm vụ:...............................................................................................2
3. Phương pháp nghiên cứu...............................................................................2
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TRIẾT HỌC PHẬT
GIÁO.................................................................................................................3
1. Nguồn gốc hình thành...............................................................................3
1.1. Nguồn gốc Ấn Độ...............................................................................3
1.2. Phân hóa của Phật giáo.......................................................................4
2. Nội dung tư tưởng triết học của Phật giáo.................................................6
2.1. Thế giới quan......................................................................................6
2.2. Nhận thức luận.................................................................................10
3. Quá trình du nhập Phật giáo ở Việt Nam.................................................13
3.1. Con đường du nhập..........................................................................13
3.2. Thời đại du nhập đầu tiên.................................................................13
3.3. Các môn phái du nhập......................................................................14
3.4. Phật giáo qua các thời kỳ ở nước ta.................................................14
Chương 2: ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO ĐẾN XÃ HỘI VIỆT NAM
NGÀY NAY....................................................................................................17
1. Ảnh hưởng tích cực của Phật giáo...........................................................17
1.1. Hình thành lịng từ bi, bác ái hịa nhập với tình u nước của người
Việt Nam..................................................................................................17
1.2. Ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo trong quan hệ ứng xử, giao tiếp 18
1.3. Lan toả tư tưởng bình đẳng, cơng bằng với mọi người, mọi tầng lớp
.................................................................................................................18
1.4. Răn dạy con người tính trung thực, góp phần tạo nên xã hội chân
thật, giảm dần sự lừa gạt, dối trá.............................................................19
1.5. Lan toả tình nghĩa, tình thương, sự lương thiện đến mọi người.......19
1.6. Ảnh hưởng trong tinh thần tự lực, tự chủ của mỗi người.................20
1.7. Phật giáo có ảnh hưởng tích cực đến các mối quan hệ gia đình,
xã hội.......................................................................................................20
2. Một số ảnh hưởng tiêu cực mà Phật giáo gián tiếp mang lại..................21
PHẦN KẾT LUẬN
PHỤ LỤC HÌNH ẢNH
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phật giáo hay đạo Phật, đạo Bụt là một trong các tôn giáo lớn của thế giới,
cũng là một tôn giáo phổ biến tại Việt Nam, đồng thời cũng là một hệ thống triết
học bao gồm các giáo lý, tư tưởng triết học cũng như tư duy về nhân sinh quan,
vũ trụ quan, thế giới quan, giải thích các hiện tượng tự nhiên, tâm linh, xã hội,
bản chất sự vật và sự việc.
Được cho rằng đã du nhập vào Việt Nam từ những năm đầu Cơng Ngun,
Phật giáo dần có tầm ảnh hưởng và lan tỏa sâu rộng đến mọi tầng lớp trong xã
hội ngày nay. Ảnh hưởng của Phật giáo không chỉ là đối với tư tưởng của con
người mà còn ảnh hưởng đến nhiều mặt của đời sống xã hội, thay đổi tích cực
suy nghĩ, hành động của mọi người, từ đó hình thành những tổ chức, trung tâm,
cộng đồng thiện nguyện vì lợi ích của mọi người…
Sự hình thành đạo Phật khơng chỉ là sự hình thành một hệ tư tưởng triết
học mới, riêng biệt, mà nó cịn đóng góp sâu rộng vào sự phát triển tư duy và
nhận thức của con người, tạo niềm tin, chỗ dựa tinh thần và khích lệ phát triển
những phẩm chất đạo đức tốt đẹp của mỗi người.
Thực sự không thể phủ nhận sự ảnh hưởng tích cực đến đời sống văn hóa
xã hội Việt Nam của Phật giáo, hình thành và bồi đắp tình yêu thương, lan tỏa
nếp sống “ở hiền gặp lành”, “ác giả ác báo”, hạn chế được đáng kể tệ nạn, tội
phạm… và những tư tưởng đó của Phật giáo cũng rất phù hợp với truyền thống
đạo đức của người Việt Nam. Do đó, việc tìm hiểu và biết được nguồn gốc, sự
phát triển của đạo Phật ở nước ta cũng là điều cần thiết. Nhận ra điều đó, nhóm
đã quyết định chọn đề tài: “Sự phát triển của triết học Phật giáo và ảnh
hưởng của Phật giáo trong xã hội Việt Nam hiện nay”.
1
2. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài
2.1. Mục tiêu:
Tìm hiểu sự phát triển của Triết học Phật giáo ở Việt Nam và những ảnh
hưởng của triết học Phật giáo trong xã hội Việt Nam ngày nay.
2.2. Nhiệm vụ:
Để đạt được mục tiêu nói trên, cần tập trung một số nhiệm vụ:
– Khái quát được quá trình hình thành Phật giáo, dẫn chứng bằng các sự
kiện lịch sử.
– Trình bày quá trình phát triển của triết học Phật giáo ở Việt Nam từ
khi được du nhập đến nay.
– Nêu lên thực trạng những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của triết học
Phật giáo đến đời sống văn hóa xã hội của Việt Nam.
3. Phương pháp nghiên cứu
– Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Tra cứu giáo trình chính thống kết
hợp một số sách tham khảo để tìm kiếm các thông tin cần thiết; dùng
thêm các tài liệu trên Internet để tham khảo và tra cứu.
– Sử dụng các kiến thức đã học trên lớp làm cơ sở để tra cứu và tìm
hiểu.
2
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA
TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO
1. Nguồn gốc hình thành
1.1.Nguồn gốc Ấn Độ
Theo các tài liệu khảo cổ học đã chứng minh, Đạo Phật ra đời khoảng thế
kỷ VI trước Công Nguyên ở vùng phía Tây Bắc Ấn do thái tử Siddhartha
Gautama (Tất-đạt-đa Cồ-đàm) sáng lập hiệu là Thích Ca Mâu Ni.
Đạo Phật mang tên người sáng lập là Phật Đà. Phật giáo chính là giáo lý mà
Phật Đà thuyết giảng.
Trước thời kỳ Đức Phật xuất thế, văn hóa Ấn Độ cũng đã phát triển tới một
trình độ khá cao, do tư tưởng sáng tạo của giống người Aryan. Nguyên thủy,
giống người Aryan cư trú tại miền Trung ương Á Tế Á, lấy nghề du mục để sinh
sống. Vào khoảng 3000 năm trước Công Nguyên, giống người này vượt qua dãy
núi Hindukush di cư xuống vùng Đông nam Á Tế Á; một phần của giống người
này di chuyển về phía Tây nam thuộc Ba Tư (Iran), một phần thì tiếp tục di
chuyển về phía Đơng nam, xâm nhập vào phía Tây bắc nước Ấn Độ, đánh đuổi
người bản xứ, chiếm lĩnh vùng Panjab (Ngũ hà địa phương), thuộc thượng lưu
sông Indus, và giống người này được gọi là dân tộc Aryan Ấn Độ.
Dân tộc này đã chế tác được bộ kinh điển đầu tiên, kinh điển Rg Veda (Lê
Câu Phệ Đà) 40 quyển, là nguồn tư tưởng văn hóa ở thời kỳ thứ nhất của Bà La
Môn giáo, trong khoảng 1500 -1000 năm trước Công Nguyên.
Nguồn tư tưởng ở thời kỳ thứ hai của Bà La Môn giáo là thời đại Bràhmana
(Phạm thư), khoảng 1000 - 800 năm trước Công Nguyên. Trong thời kỳ này, dân
tộc Aryan Ấn Độ tiến về phía Đông, chiếm cứ đồng bằng sông Gange (Hằng
Hà).
3
Về thời cổ đại, dân tộc Ấn Độ tổ chức guồng máy chính trị theo chính thể
Cộng hịa. Nhưng tới thời kỳ Đức Phật xuất thế, thì chế độ đó đã bị suy tàn, và
được thay thế bằng chính thể Quân chủ chuyên chế. Duy có hai nước là
Magadha (Ma Kiệt Đà) và Kosala (Kiều Tát La) là chế độ Cộng hịa vẫn cịn tồn
tại.
Nói thêm, thời cổ đại, dân tộc Ấn Độ rất tôn trọng nghi thức tế tự, kính
thần. Lúc đầu họ đặt ra người gia trưởng, hoặc tộc trưởng để giữ việc tế lễ, gọi là
chức Ty tế. Dần dần chức Ty tế này trở thành việc chuyên môn nên được thay
thế bằng các Tăng lữ. Mặt khác, vì theo đà tiến triển của xã hội, liền phát sinh ra
bốn chức nghiệp: Sĩ, nông, công, thương. Dần dần, nghề nghiệp này trở thành
giai cấp hóa. Giai cấp Tăng lữ coi việc tế tự chiếm địa vị tối cao; thứ đến giai
cấp vua chúa, nắm quyền thống trị; thứ dân thuộc hạng nông, công, thương ở địa
vị thứ ba; sau cùng là tiện dân ở địa vị thấp nhất.
Dịng họ Bà-la-mơn đã chế định ra bốn giai cấp, tự cho mình ở địa vị tối
cao, và chia sự tu hành làm bốn thời kỳ, sinh hoạt theo lý tưởng. Nhưng trái lại
còn ba giai cấp khác, nhất là giai cấp tiện dân bị xã hội khinh miệt, không được
pháp luật bảo hộ, cấm chế không cho dự phần tín ngưỡng tơn giáo và tán tụng
kinh điển Veda. Do đó mà gây thành sự tổ chức xã hội bất cơng, dân chúng khát
vọng có bậc thánh nhân xuất hiện cứu đời.
Để đáp lại lịng mong mỏi đó, đã phát sinh một tơn giáo tha thiết với mục
đích nhất vị bình đẳng cứu đời, chính là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sáng lập.
Đức Phật, Ngài khơng nương vào dịng họ cao thấp để định giá con người, mà
chỉ nương vào phần phẩm hạnh đạo đức. Đặc biệt, Ngài phủ nhận giai cấp bất
cơng, đem chế độ bình đẳng để đãi ngộ mọi hạng người trong xã hội. Cho nên,
Ngài chỉ căn cứ vào phần trí tuệ có nơng sâu, đức hạnh có hậu bạc để định thứ vị
con người.
1.2.Phân hóa của Phật giáo
4
Từ thế kỉ thứ 7 trở đi, đạo Phật đã có nhiều phân hố. Nhiều tơng phái đã
xuất hiện lại có đường lối dị biệt và nhiều lúc chia rẽ nhau. Thời gian đó, cũng là
lúc ra đời các tơng phái Mật tông. Các phái này đưa ra rất nhiều hình ảnh Bồ Tát
và có nhiều hoạt động về hình thức tương tự với việc thờ cúng thần linh của Ấn
giáo, do đó, ít nhiều đã làm lu mờ các điểm đặc thù của Phật giáo. Sự bao dung
và tự do của Phật giáo cũng là một tiền đề cho sự suy tàn. Các vua trong nước
Ấn mặc dù sẵn sàng nghe thuyết giảng Phật pháp nhưng vẫn không bỏ quên đạo
Bà La Môn và không ngừng phát huy đạo này thay vì Phật giáo.
Sau khi Siddhārtha Gautama nhập nibbāna (niết-bàn) thì Phật giáo bắt đầu
phân hóa ra thành nhiều nhánh và nhiều hệ tư tưởng khác nhau, mặc dù cùng
xuất phát từ tư tưởng Phật giáo nguyên thủy:
Phật giáo Nam tơng, cịn gọi là Phật giáo Thượng tọa, Phật giáo Tiểu thừa.
Đây là nhánh Phật giáo có hệ thống kinh điển được coi là gần nhất với triết lý
nguyên thủy của Phật giáo. Tơng phái này hình thành ngay trong thế kỷ đầu tiên
sau khi Thích Ca viên tịch.
Tiểu thừa khác với Thượng tọa bộ (Theravada - Phật giáo nguyên thủy hay
Trưởng lão bộ) vì Thượng tọa bộ được truyền tới Tích Lan và phát triển ở đó
vào thế kỉ thứ III trước Công Nguyên (thời vua Asoka) khi chưa hề có các khái
niệm Tiểu thừa và Đại thừa. Đến khi bộ phái Tiểu thừa hình thành ở Ấn Độ thì
Thượng tọa bộ đã phát triển hồn tồn độc lập ở Tích Lan.
Phật giáo Bắc tơng, cịn gọi là Phật giáo Đại chúng, Phật giáo Đại thừa. Từ
thế kỉ thứ I TCN các tư tưởng Đại thừa đã bắt đầu xuất hiện và thuật ngữ
Mahayana (Đại thừa), chỉ thực sự có khi nó được đề cập trong bộ kinh Diệu
Pháp Liên Hoa. Nói chung, tư tưởng Đại thừa có xu hướng rộng rãi và tự do hơn
các phép tắc ràng buộc của Tiểu thừa (Hinayana). Đến thế kỉ thứ III, khái niệm
Đại thừa mới được xác định rõ ràng qua các trước tác của bồ tát Long Thọ trong
Trung Luận (hay Trung Qn Luận), chứng minh tính khơng của vạn vật. Bên
5
trong Đại thừa, lại có các trường phái khác như là Trung qn tơng, Duy thức
tơng.
Phật giáo Mật tơng, cịn gọi là Phật giáo Chân ngôn, Phật giáo Kim cương
thừa. Mật tơng thường có khuynh hướng giữ bí mật các thơng tin nên khó xác
định được chính xác thời điểm ra đời của tông phái này. Mật tông xuất hiện vào
khoảng thế kỉ thứ VI, hay chắc chắn hơn là thế kỉ thứ VII. Mật tơng có rất nhiều
pháp mơn thực hành được gọi là các phương tiện thiện xảo, bao gồm Mạn đà la,
Chân ngôn, Ấn, Thần thể, Ngũ trí như lai (Dhyani-Buddha), Chủng tử, Đại thủ
ấn, Kim cương chử và Kiền trùy (Ghanta - chuông nhỏ).
2. Nội dung tư tưởng triết học của Phật giáo
2.1.Thế giới quan
*Vô thường – vô ngã
Vô thường mang ý nghĩa không chắc chắn, thay đổi, vận động biến đổi
không ngừng. Thật vậy, đạo Phật cho rằng “Vô thường” là không cố định, luôn
biến đổi. Các sự vật, hiện tượng trong vũ trụ không đứng yên mà luôn luôn biến
đổi không ngừng, không nghỉ theo chu trình bất tận là “sinh – trụ – dị – diệt”.
Nghĩa là sinh ra, tồn tại, biến dạng và mất đi.
Do đó, khơng có gì trường tồn, cố định, chỉ có sự vận động biến đổi khơng
ngừng. Với quan niệm này, Đức Phật dạy: “Tất cả những gì trong thế gian đó là
biến đổi, hư hoại, đều là vơ thường”1. Vì vậy mọi sự vật khơng mãi ở yên trong
một trạng thái nhất định, luôn luôn thay đổi hình dạng, đi từ trạng thái hình
thành đến biến dị rồi tan rã. Sinh và diệt là hai quá trình xảy ra đồng thời trong
một sự vât, hiện tượng cũng như trong toàn thể vũ trụ rộng lớn. Đức Phật cũng
dạy rằng không phải là sự vật, hiện tượng sinh ra mới gọi là sinh, mất (hay chết
đi) mới gọi là diệt, mà trong sự sống có sự chết, chết không phải là hết, không
phải là hết khổ mà chết là điều kiện của một sinh thành mới.
1 Hòa thượng Thích Thiện Hoa, Phật học phổ thơng quyển I, Bài thứ 3: Vô thường, NXB Tôn giáo.
6
Vơ ngã, nghĩa đen là “khơng có ta”, nghĩa bóng có nhiều nghĩa, theo Đại
thừa vơ ngã có nghĩa là “vơ tự tính”; theo Ngun thủy vơ ngã có nghĩa là
“không phải là ta, không phải là của ta”.
Trái với quan điểm của kinh Veda, đạo Bà La Môn và đa số các môn phái
triết học tôn giáo đương thời thừa nhận sự tồn tại của một thực thể siêu nhiên tối
cao, sáng tạo và chi phối vũ trụ, Phật giáo cho rằng thế giới xung quanh ta và cả
con người không phải do một vị thần nào sáng tạo ra mà được cấu thành bởi sự
kết hợp của 2 yếu tố là “Sắc” và “Danh”. Trong đó, Sắc là yếu tố vật chất, là cái
có thể cảm nhận được, nó bao gồm đất, nước, lửa và khơng khí; Danh là yếu tố
tinh thần, khơng có hình chất mà chỉ có tên gọi. Nó bao gồm: thụ (cảm thụ),
tưởng (suy nghĩ), hành (ý muốn để hành động) và thức (sự nhận thức).
Danh và sắc kết hợp lại tạo thành 5 yếu tố gọi là “Ngũ uẩn”. Ngũ uẩn bao
gồm sắc (vật chất), thụ (cảm giác), tưởng (ấn tượng), hành (suy lý) và thức (ý
thức), chúng tác động qua lại với nhau tạo nên vạn vật và con người. Nhưng sự
tồn tại của sự vật chỉ là tạm thời, thoáng qua, khơng có sự vật riêng biệt nào tồn
tại mãi mãi. Do đó, khơng có “bản ngã” hay “cái tơi” chân thực.
* Thập nhị nhân duyên
Duyên, điều kiện cho nguyên nhân trở thành kết quả. “Duyên là trợ duyên,
chỉ cho những vật gì có tánh cách trợ giúp trực tiếp hay gián tiếp cho vật khác
được thành. Như phân, nước, ánh sáng, nhân công...là trợ duyên giúp cho hạt
lúa được thành cây lúa. Vậy nhân duyên là chỉ cho các vật làm nhân cho nó mà
cũng vừa là trợ duyên cho tất cả vật chung quanh nó.”1
Phật giáo cho rằng, mọi sự vật, hiện tượng trong vũ trụ từ cái nhỏ nhất đến
cái lớn nhất đều chịu sự chi phối của luật nhân duyên. Trong đó duyên là điều
kiện giúp cho nguyên nhân trở thành kết quả. Kết quả ấy lại nhờ có duyên mà
trở thành nhân khác, nhân khác lại nhờ có duyên mà trở thành kết quả mới. Cứ
1 Hịa thượng Thích Thiện Hoa, Phật học phổ thơng quyển I, Bài thứ 4: Quán nhân duyên, NXB Tôn giáo.
7
như vậy mà tạo nên sự biến đổi không ngừng của các sự vật, tuân theo quy luật
“Nhân – Quả”, nhân là cái hạt, quả là cái trái, cái trái do mầm ấy phát sinh.
Nhân và quả là hai trạng thái nối tiếp nhau, nương vào nhau mà có. Nếu khơng
có nhân thì khơng thể có quả, nếu khơng có quả thì khơng thể có nhân, nhân thế
nào thì quả thế ấy.
Mười hai nhân dun sinh ra lồi hữu tình gồm: vô minh, hành, thức, danh
sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử.
Vô minh - không sáng, tối tăm, mờ ám, si mê... Theo Đại thừa giải thích:
“Khơng tỏ ngộ chân tâm gọi là vơ minh” (Bất giác đệ nhất nghĩa đế, vị chi vô
minh). Thông cả Đại thừa và Tiểu thừa giải thích: “Hiểu biết các pháp không
đúng như thật (hiểu sai lầm), nên gọi là vô minh” (Bất như thật tri chư đế lý, vị
chi vô minh); như vô ngã mà chấp thật ngã, vô pháp mà chấp thật pháp… Vơ
minh, lại có khi để chỉ các phiền não như tham, sân, si.
Hành - hành động, tạo tác. Do vô minh phiền não nổi lên, làm cho thân,
khẩu, ý, tạo tác ra các nghiệp lành hay dữ nên gọi là "hành".
Thức - thần thức, tinh thần. Do thân, khẩu, ý, ba nghiệp tạo tác những
nghiệp lành hay dữ nên khi chết rồi, các nghiệp dẫn dắt thần thức đi lãnh thọ quả
báo (thân) khổ hay vui ở đời sau.
Danh sắc - thân thể. Thân thể người có hai phần: phần tinh thần (tâm) chỉ
có tên kêu gọi, chứ khơng có hình sắc nên gọi là "danh"; phần thể chất có hình
sắc, nên gọi là "sắc".
Lục nhập, nơm na là sáu chỗ vào. Khi đã có thân thể rồi, cố nhiên phải có
sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý) là chỗ của sáu trần (sắc, thinh, hương, vị,
xúc và pháp) phản ảnh vào.
8
Xúc - tiếp xúc. Trong sáu căn, sáu trần, thường gặp gỡ tiếp xúc với nhau,
như mắt tiếp xúc với sắc, tai tiếp xúc với tiếng, mũi tiếp xúc với mùi, lưỡi tiếp
xúc với vị, thân tiếp xúc với ấm lạnh, trơn nhám, ý tiếp xúc với pháp trần.
Thọ - lãnh thọ. Khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần, rồi lãnh thọ những cảnh
vui hay buồn, sướng hay khổ, hay cảnh bình thường.
Ái - ưa muốn. Khi lãnh thọ cảnh vui thì sinh lịng tham, muốn làm sao cho
được; khi gặp cảnh khổ thì sanh tâm sân hận, muốn xa lìa; gặp cảnh bình thường
thời si mê.
Thủ - giữ lấy, tìm cầu; nói rộng ra là các hành động tạo tác. Do gặp cảnh
thuận thì tham cầu, gặp cảnh nghịch lại sân, si muốn xa lìa; mục đích là muốn
tìm phương này kế nọ để bảo thủ cho được bản ngã của mình.
Hữu - có. Vì đời này đã có nhân lành hay dữ do mình tạo ra, thì đời sau
quyết định phải "có" quả khổ hay vui mà mình phải thọ nhận.
Sanh - sanh ra. Do "ái, thủ, hữu" làm nhân hiện tại tạo ra các nghiệp, cho
nên qua đời sau, phải sanh ra đời để thọ quả báo.
Lão tử - già, chết. Đã có sanh ra, tất nhiên phải chịu các khổ già và chết.
*Tứ diệu đế
Nội dung triết lý nhân sinh của Phật giáo được thể hiện tập trung trong
thuyết “Tứ diệu đế” (Tứ thánh đế) tức là 4 chân lý tuyệt diệu đòi hỏi mọi người
phải nhận thức được.
Khổ đế, chân lí về sự khổ, cho rằng mọi dạng tồn tại đều mang tính chất
khổ não, không trọn vẹn, cuộc đời con người là một bể khổ.
Phật xác nhận đặc tướng của cuộc đời là vơ thường, vơ ngã và vì vậy mà
con người phải chịu khổ. Có 8 nỗi khổ là: sinh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ,
thụ biệt khổ (yêu thương nhau phải xa nhau), oán tăng hội (ghét nhau phải gần
9
nhau), sở cầu bất đắc (mong muốn mà không đạt được) và ngũ thụ uẩn (do 5 yếu
tố tạo nên con người).
Như vây, cái khổ về mặt hiện tượng là cảm giác khổ về thân, sự bức xúc
của hoàn cảnh, sự không toại nguyện của tâm lý về bản chất. Về phương diện
triết học, khổ đau là một thực tại như thực đối với con người. Khổ đế là một
chân lý khách quan hiện thực, khổ hay hình thái bất an là kết quả hàng loạt nhân
duyên được tạo tác từ tâm thức.
Đạo Phật cho rằng đời là bể khổ, nỗi đau khổ là vô tận, là tuyệt đối. Cuộc
đời là đau khổ khơng cịn tồn tại nào khác. Ngay cả cái chết cũng không chấm
dứt sự khổ mà là tiếp tục sự khổ mới. Phật ví sự khổ của con người bằng hình
ảnh: “Nước mắt của chúng sinh nhiều hơn nước biển”.
Tứ diệu đế gồm:
Nhân đế (hay Tập đế), triết lý về sự phát sinh, nguyên nhân gây ra sự khổ.
“Tập” là chứa nhóm, dồn thêm mỗi ngày mỗi nhiều hơn lên. “Đế” là sự thật
vững chắc, đúng đắn hơn cả. “Tập đế” là sự thật đúng đắn, vững chắc về nguyên
nhân của những nỗi khổ đã chứa nhóm, tích trữ lâu đời, lâu kiếp trong mỗi
chúng sinh.
Diệt - tiêu diệt, trừ diệt. “Diệt” ở đây tức là diệt dục vọng mê mờ, phiền
não. “Đế” là lý lẽ chắc thật, đúng đắn do trí tuệ sáng suốt soi thấu và thuyết
minh. Diệt đế, chữ Pali gọi là "Nirodha dukkha" tức là sự thật đúng đắn, mà đức
Phật đã thuyết minh về hồn cảnh tốt đẹp mà mọi người có thể đạt được khi đã
diệt hết mọi phiền não, mê mờ.
Đạo đế, muốn thực chứng, thể nhập Niết-bàn thì phải tu theo phương pháp
mà Phật đã dạy. Phương pháp chân chính, có hiệu quả chắc thật để thành Phật.
2.2.Nhận thức luận
*Lý tám thức
10
Phật giáo cho rằng, sự nhận thức của con người được hình thành từ sự kết
hợp giữa chủ thể nhận thức và đối tượng nhận thức, thiếu một trong hai thứ này
thì sự nhận thức khơng thể có được. Trong đó, Phật giáo cho rằng con người có
sáu năng lực nhận biết về đối tượng, gọi là lục căn: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý.
Tương ứng với lục căn là đối tượng trong khách thể nhận thức (gọi là cảnh) gồm
lục trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Khi “lục căn” gặp “lục trần” trong quá
trình nhận biết thì Phật giáo gọi là “lục nhập”. Sự gặp gỡ của lục căn và lục trần
trong quá trình nhận biết sinh ra cái biết, gọi là “thức”, mà trước hết gồm có lục
thức: nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức.
Nhãn căn lấy sắc trần làm đối tượng, có thể phát sinh ra Nhãn thức.
Nhĩ căn lấy thính trần làm đối tượng, có thể phát sinh ra Nhĩ thức.
Tỷ căn lấy hương trần làm đối tượng, có thể phát sinh ra Tỷ thức.
Thiệt căn lấy vị trần làm đối tượng, có thể phát sinh ra Thiệt thức.
Thân căn lấy xúc trần làm đối tượng, có thể phát sinh ra Thân thức.
*Tam cảnh
Đề cập đến nhận thức luận, triết học Phật giáo cho rằng khách thể nhận
thức được chia thành ba nhóm, gọi là “tam cảnh” gồm: tánh cảnh, đới chất cảnh
và độc ảnh cảnh. Ba cảnh này còn được gọi là “tướng phần”, trong tương quan
với chủ thể nhận thức thì được gọi là kiến phần.
Về tánh cảnh, kinh Bộ lượng - Du già của Phật giáo cho rằng, thực tại là
một dòng biến chuyển, vận động không ngừng, là sự thống nhất của vận động và
đứng im. Các thời điểm đứng im đó diễn ra trong thời khắc rất ngắn, và ngay
trong thời điểm ngắn ngủi như vậy, thực tại cũng đã có sinh, có diệt, có đủ bốn
tướng sinh, trụ, dị, diệt. Mặc dù có tương tục tiếp nối, song sự vật ở những sát na
khác nhau được coi là những hiện tượng khác nhau. Mỗi sát na cũng có tính tách
biệt với những sát na khác.
11
Về đới chất cảnh, loại thực tại thứ hai là thực tại gián tiếp. Đây là thực tại
vay mượn, thực tại có dự phần của tưởng tượng, dự phần của tư duy kiến tạo,
tức là có phần tham dự và tạo dựng của con người. Nói theo ngơn ngữ ngày nay,
nó là thực tại nhận được trong hình ảnh chủ quan, trong khái niệm, trong các bản
sao tinh thần. Nhưng thực tại này khơng thuần là thực, nghĩa là nó chỉ là bản
sao, là thực tại gián tiếp hóa. Loại hiện thực này cũng có thể gọi là bán hiện
thực, bởi vì dù sao, nó cũng có sơ sở ở hiện thực khách quan.
Về độc ảnh cảnh, đây là thế giới ảnh tượng do ý thức tái thiết lại khi vắng
mặt cảm giác trực tiếp, nghĩa là khi nó hoạt động vượt qua ảnh hưởng cộng tác
của năm thức đầu. Đây cũng là những hình ảnh, biểu tượng, khái niệm, ngơn từ
có tính thuần túy đã vượt qua sự chi phối trực tiếp của hiện thực khách quan
đứng sau chúng, là thực tại có trong tâm thức của con người, do con người tạo
dựng nên, là sản phẩm thuần túy của tư duy con người.
*Tam lượng
Lượng là lượng tính, tính toán và so lường và cũng là sự phân biệt, cân
nhắc vạn pháp của Tâm thức để hiểu biết. Nói cách khác, lượng ở đây là chỉ cho
tâm thức thuộc về chủ thể, có khả năng phân biệt vạn pháp và Tâm thức phân
biệt có tính cách so lường thiệt hơn, cân nhắc lợi hại, phân tích đúng sai để chọn
lựa tinh tường, sâu sắc cho sự hiểu biết.
Trong triết học Phật giáo hiện lượng được xem là hình thái đầu tiên của quá
trình nhận thức. Hiện lượng nghĩa là hiểu biết trực tiếp những cảnh vật, đối
tượng đã được hiện bày đầu tiên và sự hiểu biết hiện lượng hồn tồn khơng có
ý niệm diễn dịch và suy luận.
Tỷ lượng - xét đốn, tính tốn theo sự so sánh đúng sai, cân nhắc lợi hại,
phân biệt phải quấy, lựa chọn hơn kém... của tâm thức để hiểu biết. Đây là sự
hiểu biết của ý thức (thức thứ sáu).
12
Nhận thức theo tỷ lượng có hai loại, đó là chân tỷ lượng và tợ tỷ lượng,
hình thái nhận thức thứ ba gọi là phi lượng.
Chân tỷ lượng - ý thức hiểu biết chính xác về tính chất, giá trị và ý nghĩa
của vạn pháp hiện có mặt trong thế gian bằng sự suy luận và diễn giải. Những
hiện tượng ảnh tử do năm thức đầu cung cấp đều phát sinh từ nơi những sự vật
có thực chất trong thế gian nên gọi là chân và ý thức hiểu biết đúng những hiện
tượng ảnh tử đó bằng sự suy luận và diễn giải nên gọi là chân tỷ lượng.
Tợ tỷ lượng là việc ý thức hồi tưởng và so sánh những q trình nghiệm
sống của mình để hiểu biết tính chất, ý nghĩa và giá trị từng loại trong cuộc đời.
Phi lượng, thực ra, đây khơng phải là một hình thái nhận thức độc lập với
hai hình thái nhận thức trước. Hiện lượng và Tỷ lượng có khi đúng và cũng có
khi sai, mà mỗi khi sai thì đều là Phi lượng.
3. Quá trình du nhập Phật giáo ở Việt Nam
3.1.Con đường du nhập
Phật giáo du nhập vào Việt Nam qua hai con đường: đường biển từ phía
Nam lên và đường bộ từ phía Bắc xuống.
Trong số bốn nhà truyền giáo đầu tiên đặt chân lên Việt Nam, thì hết ba nhà
sư là người Ấn Ðộ, đi đường thủy sang Trung Hoa truyền đạo và đã ghé tại Việt
Nam là các ngài: Ma-Ha-Kỳ-Vực, Khương Tăng Hội và Chi-Cương-Lương.
Nhà truyền giáo thứ tư là người Trung Hoa, ngài Mâu Bác, đã đi đường bộ
từ phía Bắc xuống. Ðó là điều chứng minh rằng Phật giáo vào Việt Nam do cả
đường thủy và đường bộ cả từ phía Nam lên và phía Bắc xuống. Nhưng vì nước
ta bị Trung Hoa đơ hộ hơn ngàn năm và sau đó vẫn cịn lệ thuộc vào văn hóa và
chính trị nên về sau con đường truyền giáo từ Trung Hoa sang là con đường
chính.
3.2.Thời đại du nhập đầu tiên
13
Nhà truyền giáo đầu tiên đến Việt nam (lúc bấy giờ là đất Giao Châu) là
ngài Mâu Bác, người quận Thương Ngô tức là Ngô Châu (Trung Hoa bây giờ).
Sau khi vua Hán Linh Ðế mất (189) nước Tàu thường loạn lạc, ông theo mẹ qua
ở Giao Châu và truyền bá đạo Phật.
Nhà truyền giáo thứ hai đặt chân lên đất Giao Châu là ngài Khương Tăng
Hội, ông gốc Khương Cư (Soadiane, Ấn Ðộ). Mục đích của ơng là sang Trung
Hoa, nhưng ông thân của ông sang Giao Châu buôn bán nên ông cũng theo
đường Giao Châu để sang Trung Hoa. Trung Hoa lúc ấy về đời Tam Quốc, ông
đến nước Ðông Ngô và được Ngô Tôn Quyền sùng mộ, xin quy y với ông (229 252). Như thế là Ngài Khương Tăng Hội ghé lại Giao Châu vào khoảng đầu thế
kỷ thứ III, sau Tây lịch. Vào khoảng giữa thế kỷ thứ III đến cuối thế kỷ thứ III,
đất Giao Châu lại đón tiếp hai nhà sư Ấn Ðộ nữa là Ngài Ma Ha Kỳ Vực và Chi
Cương Lương, trên bước đường sang Trung Hoa truyền giáo của các ngài, vào
đời nhà Tần (265-306). Như thế, có thể nói rằng: Ðạo Phật du nhập đầu tiên
sang Việt Nam trong khoảng cuối thế kỷ thứ II đến thế kỷ thứ III, sau Tây lịch.
3.3.Các môn phái du nhập
Trong thời kỳ đầu tiên du nhập Việt Nam, đạo Phật chỉ phớt qua trên đất
nước, chưa có màu sắc riêng biệt và 6 dân chúng chỉ mới tiếp xúc với Ðạo Phật
trong phương tiện thờ cúng lễ bái mà thôi. Phải đợi đến vài ba năm sau, đạo Phật
mới thâm nhập dần vào dân chúng và do ảnh hưởng của Phật Giáo Trung Hoa.
Có một đều chúng ta ngạc nhiên là, mặc dù Phật Giáo Trung Hoa gồm mười tôn
phái, mà chỉ có Thiền Tơn là được truyền đi sang Việt Nam trước nhất và mạnh
mẽ nhất. Ðến đời Dường (820) lại có ngài Vơ Ngơn Thơng ở Trung Hoa sang
truyền giáo, lập thành phái Thiền Tơn thứ hai; kế đó là các phái Thảo Ðường,
Tào động, Lâm tế v.v.. lần lượt truyền sang Việt Nam. Tóm lại, đạo Phật du nhập
vào Việt Nam, chỉ có Thiền Tơn là gây ảnh hưởng mạnh mẽ hơn cả.
3.4.Phật giáo qua các thời kỳ ở nước ta
14
*Phật giáo dưới thời Hậu Lý Nam Ðế (571-602) Và Bắc thuộc lần thứ ba
(603 - 939).
Trong khoảng thời gian gần bốn trăm năm, từ đời Hậu Lý Nam Ðế (571 602) cho đến hết thời kỳ Bắc thuộc lần thứ ba (603 - 939), sự truyền giáo ở Việt
Nam có thể chia làm ba giai đoạn:
Giai đoạn thứ nhất, do công đức của phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi.
Giai đoạn thứ hai, do các đoàn truyền giáo Trung Hoa vào Việt Nam, và sự
khuyến khích ủng hộ của các đời vua Tùy và Ðường.
Giai đoạn thứ ba, do phái Vô Ngôn Thông.
*Phật giáo dưới thời Đinh và Tiền Lê (968 - 1009).
Phật Giáo đời Ðinh Tiên Hoàng và Tiền Lê, được ưu đãi và giữ địa vị độc
tôn, bởi: các vị tăng sĩ phần nhiều là những vị bác học thâm Nho. Chữ Nho mặc
dù trước đó đã được đem dạy ở đất Việt, nhưng vì chưa có khoa thi cử, nên ít
người theo học. Chỉ có các vị thiền sư, vì cần nghiên cứu Phật Giáo qua kinh
điển bằng chữ Hán, nên phải học Nho nhiều. Những vị sư lúc bấy giờ, vừa túc
Nho, vừa hiểu đạo lý mà vừa có đức hạnh, thì lẽ dĩ nhiên trong triều được vua
trọng vọng, ngồi dân chúng được kính nể.
*Phật giáo dưới thời nhà Lý (1010 - 1225).
Nếu ở Trung Hoa, đời Ðường là đời Phật giáo thịnh hành nhất, thì ở Việt
Nam đời Lý là đời Phật giáo được thịnh hành nhất. Trong hơn hai trăm năm,
Ðạo Phật giữ địa vị độc tôn về mọi phương diện: đạo đức, văn học, chính trị,
ngoại giao. Tám đời vua nhà Lý đều sùng một đạo Phật và có nhiều vị đã xuất
gia đắc đạo. Các vị tăng thời đó đã tận tụy đem cái sở học, sở đắc của mình nhập
thế cứu đời, gây uy tín rất lớn cho Ðạo Phật.
*Phật giáo dưới thời nhà Trần (1225 - 1400).
15
Nhà Trần nối nghiệp nhà Lý, thừa hưởng về mọi phương diện, một di sản
quý báu mà nhà Lý đã xây dựng trên hai thế kỷ. Riêng về Phật giáo, mặc dù về
cuối đời nhà Lý, triều đình gặp nhiều vụ nội biến và trong phái thiền mơn, ít có
được những vị cao tăng đại đức như ở đầu đời Lý, nhưng trong dân chúng, đạo
Phật đã thấm nhuần sâu xa, đâu đâu củng có chùa, có tượng Phật để tín đồ sùng
bái. Bước sang đầu đời nhà Trần, có nhiều lý do khiến chúng ta tin tưởng rằng
Ðạo Phật sẽ được phát triển mạnh thêm, nhất là các vị vua đầu nhà Trần là
những vị vua thông hiểu và sùng mộ Phật Giáo còn hơn cả những vị vua đầu nhà
Lý.
*Phật giáo dưới đời nhà Hồ (1400 - 1407) và dưới đời Hậu Lê (1428 1527).
Phật Giáo dần dần suy sụp từ dưới đời các vua cuối nhà Trần, sang nhà Hồ
và kéo dài cho đến cuối đời Hậu Lê. Trên gần hai ngàn năm Phật Giáo có mặt
trên đất nước này, có thể nói giai đoạn này là giai đoạn tối tăm nhất của Phật
Giáo.
*Phật giáo trong thời Nam Bắc phân tranh (1528 - 1802).
Trong giai đoạn này, ở Trung Quốc thường có loạn lạc, Phật giáo thường bị
chèn ép bởi Lạt Ma giáo, nên một số vị cao tăng đã rời quê hương, sang Việt
Nam truyền giáo, người thì vào ở đất Bắc, người thì vào Nam. Nhờ thế, nước ta
Có nhiều tơn phái mới và nhiều vị sư Trung Hoa danh tiếng mà ảnh hưởng còn
truyền đến bây giờ.
*Phật giáo dưới đời các vị vua đầu triều Nguyễn (1802 – 1945).
Trong giai đoạn này, nước ta sống trong cảnh chiến tranh thường trực, ít ai
có thì giờ nghĩ đến chuyện chấn hưng đạo đức tôn giáo. Một số chùa chiền bị tàn
phá, kinh điển thất lạc, cảnh hoang tàn thật tiêu điều buồn bã.
16
Chương 2: ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO ĐẾN XÃ HỘI VIỆT
NAM NGÀY NAY
1. Ảnh hưởng tích cực của Phật giáo
1.1.Hình thành lịng từ bi, bác ái hịa nhập với tình yêu nước của người
Việt Nam
“Đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam là hệ thống giá trị truyền
thống yêu nước, cần cù, thương người, vì nghĩa, anh hùng, sáng tạo và lạc
quan, trong đó chủ nghĩa yêu nước là giá trị đạo đức tinh thần đứng đầu bảng
trong giá trị truyền thống Việt Nam, truyền thống đó được hình thành trong quá
trình hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước. Trong bối cảnh lịch sử ấy và
những giá trị đặc trưng truyền thống ấy, Phật giáo muốn tồn tại và phát triển
được ở Việt Nam tất nhiên phải có sự thích ứng hịa hợp.”1
Sự hịa nhập của Phật giáo được thể hiện trong suốt chiều dài lịch sử dựng
nước và giữ nước của dân tộc ta. Đã có rất nhiều vị cao tăng là quốc sư, giúp
vua trị nước, an dân thời phong kiến. Thời kỳ đầu của chế độ phong kiến, chùa
chiền cũng là nơi đào tạo giới trí thức, dạy dân cách tổ chức đời sống.
Từ xưa đến nay, với tinh thần “lợi đạo, ích đời”, “[…] Phật giáo Việt Nam
đã tập hợp được lực lượng tín đồ đông đảo để xiển dương cho các giá trị đạo
đức, nhân văn vì hạnh phúc của chúng sinh, vì sự an bình của đất nước. Mang
tư tưởng “từ bi, hỷ xả, vô ngã, vị tha”, Phật giáo Việt Nam đã thực sự góp phần
trong việc hình thành nền tư tưởng, văn hóa dân tộc Việt Nam, trong đó tư
tưởng yêu nước là chủ yếu, […]. Phật giáo khi được truyền vào Việt Nam ln
hịa mình vào văn hóa dân tộc, khơi dậy và phát huy tinh thần khoan dung, yêu
nước, thương nòi, cùng chung tay xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, sự
đồng thuận xã hội qua phương châm “sống tốt đời, đẹp đạo.”2
1.2.Ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo trong quan hệ ứng xử, giao tiếp
1 Trần Văn Giàu (1980), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, tr.145.
2 Thượng tọa Thích Thọ Lạc, Phật giáo với phát triển văn hóa và con người Việt Nam, Tạp chí Xây dựng Đảng
2/2015.
17
Đạo đức Phật giáo hòa nhập với các giá trị đạo đức của dân tộc trở thành
phương tiện diễn đạt quan niệm đạo đức truyền thống của người Việt Nam. Các
thuật ngữ như “từ bi, hỷ xả”, “vô ngã, vị tha”, “cứu nhân độ thế”, “tu nhân tích
đức”, “sống nhân từ để phúc cho đời sau”… đã khơng cịn ngun nghĩa của
riêng Phật giáo, mà trở thành một phần trong lẽ sống của người Việt, trở thành
ngôn ngữ của đời sống thường ngày.
Nét phổ biến trong quan hệ ứng xử và giao tiếp của Phật giáo là cái thật, cái
thiện ở cả thân, khẩu, ý. Trong bát chính đạo của Phật giáo, có chính ngữ (giữ
cho lời nói được đúng mực), đó chính là một trong các điều kiện để mỗi con
người có những ứng xử phù hợp với mọi người trong xã hội. Về ứng xử, giao
tiếp trong gia đình, Phật giáo đề cao sự hịa thuận và trách nhiệm của các bậc
cha mẹ, anh em, vợ chồng… đề cao sự hiếu thuận thông qua thực hiện Tứ ân.
Điều này được thể hiện rất nhiều trong ca dao, tục ngữ Việt Nam: “Công cha
như núi Thái Sơn - Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra - Một lòng thờ mẹ,
kính cha - Cho trịn chữ hiếu mới là đạo con”, hay như: “Đi khắp thế gian,
không ai tốt bằng mẹ - Gánh nặng cuộc đời, không ai khổ bằng cha” đã trở
thành đạo lý, lẽ sống của người Việt.
1.3.Lan toả tư tưởng bình đẳng, cơng bằng với mọi người, mọi tầng lớp
Tư tưởng bình đẳng, cơng bằng của Phật giáo khi du nhập và phát triển ở
Việt Nam đã hịa nhập với tư tưởng, cơng bằng, bình đẳng của người Việt Nam.
Cơ sở của sự ảnh hưởng hòa nhập này dường như bắt nguồn từ tư tưởng nguyên
thủy của nền văn minh làng xã. Phật giáo chủ trương thiết lập quan hệ bình đẳng
giữa mọi người và cho rằng mọi người đều bình đẳng như nhau, trong mỗi
người đều có phật tính; trong quan hệ với người khác, mỗi cá nhân khơng được
cầu lợi cho mình… có ảnh hưởng rất lớn đối với quan niệm sống của người Việt.
18
Như thực tế đã cho thấy, ngày nay, tư tưởng trọng nam khinh nữ gần như đã
khơng cịn; tất cả mọi tầng lớp giàu, nghèo, mọi lứa tuổi, giới tính… đều được
học tập, làm việc, giải trí, được chăm sóc…
1.4.Răn dạy con người tính trung thực, góp phần tạo nên xã hội chân thật,
giảm dần sự lừa gạt, dối trá
Trong giáo lý của nhà Phật, tính trung thực thuộc vào giới “khơng nói dối”
của ngũ giới. Thập thiện bao gồm: thực ở cả “thân, khẩu, ý”.
Trung thực ở ý là trung tâm điều chỉnh hành vi theo luật nhân quả, nhân
nào quả ấy. Theo đó, sự dối trá sẽ bị nghiệp báo. Thuyết nhân quả, nghiệp báo
của Phật giáo gặp gỡ với tín ngưỡng của người Việt Nam đã lan tỏa thành nếp
sống, nếp nghĩ “ở hiền gặp lành”, “ác giả ác báo”…
Có thể thấy, rất nhiều người phạm tội vẫn biết quay đầu để nhận lỗi, khơng
ít trường hợp phạm pháp vẫn tự nguyện đầu thú; nhặt được của rơi trả lại cho cố
chủ… Điều này cũng phù hợp với quan niệm của nhân dân Việt Nam: “cây ngay
không sợ chết đứng”, …
1.5.Lan toả tình nghĩa, tình thương, sự lương thiện đến mọi người
Tính thiện, tình nghĩa và tình thương mang bản sắc Việt Nam được con
người Việt Nam hun đúc trong quá trình dựng nước và giữ nước. Cái thiện của
con người Việt Nam mang tinh thần bình đẳng, vị tha, tôn trọng, yêu thương con
người. Phật giáo đã hòa đồng với tư tưởng truyền thống Việt Nam để xây dựng
tính thiện, tình nghĩa và tình thương. Đó là, tình “thương người như thể thương
thân”, “lá lành đùm lá rách”… Tình thương, tình nghĩa, tính thiện khơng chỉ thể
hiện trong quan hệ với hiện tại mà còn được thể hiện trong quan hệ với quá khứ
như: “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”…
19
Sự lan toả những tình cảm, tình nghĩa này thực sự đã được biểu hiện thông
qua những hành động thiết thực: xây dựng nhà tình thương, qun góp ủng hộ
đồng bào miền lũ, hỗ trợ chắp cánh ước mơ, tiếp sức đến trường…
Đặc biệt, qua diễn biến dịch Covid-19, những tình cảm đó lại càng được
thấy rõ thơng qua những hành động: sáng chế ra ATM gạo, phát cơm, nước, nhu
yếu phẩm, khẩu trang miễn phí, …
1.6.Ảnh hưởng trong tinh thần tự lực, tự chủ của mỗi người
Phật giáo khẳng định mỗi cá nhân là chủ nhân của chính mình, không phải
làm nô lệ của người khác kể cả nô lệ cho đức Phật, hãy “tự đốt đuốc mà đi”. Tư
tưởng này của Phật giáo khiến con người được giải phóng khỏi sự trói buộc của
thần quyền, nhờ đó mà được tự do. Chính con người phải tự quyết định số phận
và tiền đồ của chính mình. Quan điểm tự lực, tự chủ của Phật giáo đã góp phần
xác định thêm cho tinh thần tự lực, tự chủ của mỗi người Việt Nam.
1.7.Phật giáo có ảnh hưởng tích cực đến các mối quan hệ gia đình, xã hội
Những mối quan hệ trong gia đình và xã hội như cha mẹ, anh em, vợ
chồng, con cái bạn bè họ hàng láng giềng... Phật giáo xem là thiêng liêng đáng
được tơn kính và tôn thờ.
Trước tiên, cha mẹ là thiêng liêng đối với con cái, nhắc đến công lao dưỡng
dục của cha mẹ, Phật dạy: “Mn việc ở thế gian, khơng gì hơn công ơn nuôi
dưỡng lớn lao của cha mẹ” (Kinh Thai Cốt). Phật dạy: con cái phải quan tâm
chăm sóc bố mẹ của mình ở tuổi xế chiều; bố mẹ, ngược lại, phải có một số
trách nhiệm đối với con cái của mình: phải giáo dục con cái tránh xa những việc
làm xấu xa, cho con ăn học đến nơi đến chốn,...
Thứ hai mối quan hệ giữa thầy và trò, học trị phải cung kính và vâng lời
thầy, siêng năng học tập và ngược lại thầy phải rèn luyện và dạy dỗ học trò trò
nên người tốt.
20
Thứ ba, vợ và chồng, tình yêu giữa vợ và chồng được xem là rất thiêng
liêng, vợ chồng phải tin tưởng lẫn nhau, tơn trọng và hết mình vì nhau.
Thứ tư, mối quan hệ giữa bạn bè, họ hàng quyến thuộc và hàng xóm, phải
hiếu khách nhân từ đối với nhau, vui vẻ, dễ chịu, đối xử bình đẳng với nhau,
giúp đỡ nhau những lúc cần thiết
2. Một số ảnh hưởng tiêu cực mà Phật giáo gián tiếp mang lại
Bên cạnh những ảnh hưởng tích cực thì Phật giáo cũng có những hạn chế
trong tiến trình chung của sự phát triển xã hội. Nhưng cần phải nhận thức một
điều là những ảnh hưởng tiêu cực này không phải xuất phát từ bản chất, lý luận
của đạo Phật mà do những người thừa hành. Có thể Kinh Phật qua nhiều nước,
nhiều xã hội với nhiều nền văn hoá khác nhau khiển có nhiều cách giải thích và
cách hiểu khác nhau về đạo Phật. Hơn nữa, từng cá nhân tiếp thu đạo Phật cũng
theo nhiều cách và theo những trình độ khác nhau, có thể làm thay đổi ý nghĩa
tốt đẹp của đạo Phật.
Thời đại tồn cầu hóa ngày nay. Nước ta vừa trải qua mấy chục năm chiến
tranh và hàng chục năm sống dưới chế độ bao cấp, đời sống còn nghèo nàn, lạc
hậu rất cần đến sự phát triển đột phá. Phát triển có nghĩa là tăng trưởng nhanh
chóng về kinh tế, đời sống vật chất và văn hoá. Đảng và nhà nước đã chỉ ra
nhiệm vụ trước mắt là làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh. Để đạt mục tiêu đó, nước ta cần có những người có tham vọng lớn,
năng động lạc quan, tin tưởng, dũng cảm mở rộng sáng tạo... Những phẩm chất
này phần lớn trái với giáo lý nhà Phật, vì tham vọng trái với cấm dục, vơ dục, ly
dục của Nhà Phật …
Nhiều loại hình mê tín dị đoan sinh ra mang danh nghĩa Phật pháp, các
hoạt động bói toán, bắt vong, cầu khấn nhằm đạt mục tiêu, nguyện vọng… Ngày
nay, những người đi chùa hầu hết khơng có đủ tri thức về giáo lý nhà Phật cho
nên khó có thể giáo dục đạo Phật một cách tự giác, tích cực trong xã hội và gia
21