TỔNG CỤC DẠY NGHỀ
VIỆN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC DẠY NGHỀ
____________________
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG CÔNG NGHỆ MỚI
KỸ THUẬT NUÔI GIUN QUẾ
(Dùng bồi dưỡng nâng cao năng lực cho GVDN)
Hà Nội, năm 2009
MỤC LỤC
TT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
NỘI DUNG
Bài 1 - 1: Khái quát về nghề ni giun quế
Bài 1 - 2: Đặc điểm hình thái, cấu tạo và sinh lý của
giun quế
Bài 1 – 3: Sự sinh trưởng, phát triển và sinh sản của
giun quế
Bài 2 – 1: Chuồng trại nuôi giun quế
Bài 2 – 2: Giống và công tác chọn giống
Bài 2 – 3: Thức ăn và chế biến thức ăn cho giun quế
Bài 2 – 4: Ni dưỡng chăm sóc giun quế
Bài 3 – 1: Các sản phẩm từ giun quế
Bài 3 – 2: Phân giun quế
TRANG
3
15
36
47
73
89
134
172
203
2
MÔ ĐUN 01
ĐẶC ĐIỂM CỦA GIUN QUẾ
3
M BI HC
BH 01-M 01
Tên bài học
Thời gian (giờ)
KHI QUT VỀ NGHỀ
LT
TH/TL
TS
NUÔI GIUN QUẾ
02
0
02
MỤC TIÊU
Sau khi học xong bài này, học viên có thể: Trình bày khái qt về lịch sử,
tình hình chăn ni giun và lợi ích của giun quế.
NỘI DUNG
1. Lịch sử nghề nuôi giun quế
Lịch sử của lồi người gắn liền với lịch sử đấu tranh khơng ngừng với
thiên nhiên. Con người luôn luôn phấn đấu vươn lên để chế ngự thiên nhiên. Tổ
tiên của chúng ta đã thuần hóa hàng loạt động vật hoang dã để biến chúng trở
thành những lồi vật ni trong gia đình như: trâu, bị, ngựa, dê, lợn, gà, chó,
mèo…. Con voi khổng lồ cũng đã được con người thuần dưỡng. Người ta băng
qua sa mạc khơ nóng trên lưng những con lạc đà. Thổ dân phương bắc đã dùng
tuần lộc hoặc các đàn chó để kéo xe trượt trên băng…
Con người đã nhìn thấy biết bao nguồn lợi từ các lồi động vật nên họ tìm
cách ni chúng. Rất nhiều lồi gia súc hiện nay đều xuất phát từ những loài
hoang dã. Qua hàng nghìn, hàng trăm năm, con người đã thuần dưỡng chúng
thành vật nuôi. Người dân Mông Cổ sống bằng nghề chăn nuôi cừu. Ở Úc người
ta nuôi đà điểu trong những trang trại lớn. Tại Việt Nam, có những nơi cả làng
nuôi rắn như ở xã Vĩnh Sơn, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc.
Hàng loạt các loài cá đã được con người thả nuôi. Nguồn lợi này vô cùng
to lớn. Phong trào nuôi tôm sú, tôm hùm, cá mú, cá sấu, sò, nghêu, ngao… ngày
càng phát triển.
Người đầu tiên nghĩ ra việc nuôi giun quế là một anh gù với một cái bướu
trên lưng. Mặc cảm với dị tật của mình, anh chỉ loanh quanh trong vườn nhà.
Anh nghĩ ra việc đào giun dế để bán cho người đi câu cá. Khơng ngờ việc đó lại
4
phát tài. Người tới mua giun rất đông, anh đào khơng kịp. Chính vì vậy, anh mới
nghĩ tới việc tổ chức ni giun. Nghề ni giun có lẽ được khởi sự từ đây.
Hugh Carter là người khai sinh và phát triển nghề nuôi giun đầu tiên. Vào
năm 1947, ông bắt đầu nuôi giun trong một quan tài cũ. Sau 25 năm, Carter đã
có thể cung cấp 15 triệu con giun cho các cửa hàng săn bắt và câu cá. Vào cuối
năm 1976, doanh thu của hoạt động kỳ lạ này vượt trên 4,5 tỷ quan Pháp chỉ ở
California.
Ở Mỹ, người tiên phong nuôi giun là các nhà kinh doanh, họ phát hiện ra
giun chính là mồi câu hiệu nghiệm nhất. Riêng ở Mỹ, từ năm 1973 đã có tới 33
triệu rưỡi người xin đăng ký cấp thẻ đi câu. Do đó, các nhà ni giun đã nhanh
chóng thu được nguồn lợi kếch xù.
Cùng với thời gian, người ta càng đánh giá cao về giun quế: công dụng
truyền thống là làm mồi câu tuyệt vời cho cá và là “người quét dọn thế giới”, sau
đó con người nhận thấy ngồi các cơng dụng trên thì chúng cịn được sử dụng
vào các công việc khác như: xử lý rác thải, làm thực phẩm, làm mỹ phẩm và làm
dược phẩm.
Tại Việt Nam, sự phát hiện thật là bất ngờ và may mắn. Do một lần đi
ngang qua khu chứa rác của Hà Nội, thấy cả một núi rác khổng lồ cứ ngày một
cao dần lên. Thời đó thơng tin chưa nhiều nên mọi người nghĩ phải có một con
vật nào đó có thể ngốn hết đống rác này. Kỳ vọng này được đặt vào con giun.
Cũng có nhiều nhóm chuyên gia đi sâu nghiên cứu về giun quế. Đứng đầu
là GS.TSKH. Thái Trần Bái, nhóm của ơng đã có cơng trình nghiên cứu rất sâu
về giun quế. Ông hiểu rất rõ về giun quế Việt Nam. Tuy nhiên, hướng nghiên
cứu của ông chủ yếu tập trung vào phân loại, hình thái và phân bố của các loài
giun quế. Thử nghiệm được tiến hành trên nhiều loại đất, các loại thùng nuôi
khác nhau nhưng chưa thành cơng. Sau đó, nhóm GS.TS Nguyễn Lân Hùng đã
nuôi thử nghiệm thành công và phổ biến khắp nơi. Cuốn sách “Kỹ thuật nuôi
giun quế” (Nhà xuất bản Giáo dục, 1986) đã kịp thời được xuất bản phục vụ
nhân dân. Tuy nhiên, do kinh tế nông hộ chưa được quan tâm đúng mức nên
việc ni giun quế cịn nhiều hạn chế. Tới nay, khi người dân hoàn toàn làm chủ
5
các hoạt động sản xuất của mình thì việc đưa giun quế vào cơ cấu sản xuất là
vấn đề nên làm. Luống nuôi giun sẽ là cái xưởng sản xuất ra đạm động vật để
phục vụ cho các loại vật ni trong gia đình.
2. Tình hình ni giun quế ở các nước trên thế giới và ở Việt Nam
2.1. Tình hình ni giun quế ở các nước trên thế giới
Việc nuôi giun quế đã được tiến hành ngay từ năm 1952 ở nhiều nước
như: Mỹ, Canada, Pháp, Nhật Bản, Hàn Quốc…. Rất nhiều hiệp hội ni giun
quế được hình thành tại các quốc gia này. Con giun còn là sự quan tâm của một
số chính phủ, thậm chí một số tổ chức liên quốc gia cũng ra đời để chuyên kinh
doanh con giun này.
Năm 1981, hội thảo quốc tế đầu tiên về giun đã được tiến hành ở Luân
Đôn. Hội thảo quốc tế lần 2 tiến hành ở Ý vào tháng 3/85 - 4/85 để trao đổi về
các kỹ thuật nuôi và sử dụng giun quế.
Ở các nước, người ta đã triển khai công nghiệp nuôi giun quế ở quy mơ
lớn và gia đình về kỹ thuật ni chủ yếu trong hộp gỗ kín và ni trong các ngăn
hở.
Nhật Bản là nước tiêu thụ giun hàng đầu thế giới: Họ dùng giun quế làm
một phần nguyên liệu chế biến mỹ phẩm, thức ăn cho thủy hải sản, gia súc, gia
cầm. Đặc biệt dùng thịt giun làm bánh bích quy dinh dưỡng cho người rất được
ưa chuộng.
Ở Philippin, sản lượng nuôi giun cả nước đạt 5 tấn/tháng.
2.2. Tình hình ni giun ở Việt Nam
Ở nước ta hiện nay nghề nuôi giun đang phổ biến rộng rãi trong nhân dân
vì nó mang lại nhiều lợi ích, phù hợp với mơ hình chăn ni nhỏ lẻ, vừa giải
quyết được tình trạng ơ nhiễm chất thải của vật nuôi, vừa giải quyết được nhu
cầu phân bón cho ngành nơng nghiệp.
Ở nước ta hiện nay mơ hình ni giun đã có sự chuyển biến đáng kể, từ
mơ hình ni đơn giản trên một diện tích nhỏ trước kia thì giờ đây trở thành
6
ngành chăn nuôi công nghiệp với quy mô rộng lớn và nhiều mơ hình kết hợp
(giun và thỏ, giun và bò, giun và lươn, giun và cá, heo và giun, giun và tơm…)
Tuy giun mới được thuần hóa và đưa vào sử dụng nhưng qua thực tế sinh
trưởng và phát triển đã tỏ ra rất thích ứng với mọi vùng khí hậu nước ta, nhất là
các tỉnh phía Nam, giun có thể sinh sản quanh năm.
Trên địa bàn TP.HCM nghề ni giun quế mới bắt đầu hình thành từ năm
1998 nhưng chỉ sau 1 năm đã phát triển nhanh với khoảng 60 hộ nuôi từ nhỏ lẻ
đến quy mô trang trại.
Có thể nói nghề ni giun đang phát triển nhanh vì rất có triển vọng trong
tương lai, vì đây khơng chỉ là một nghề đơn thuần mang lại thu nhập cao mà còn
gắn kết với nhiều vấn đề khác như xử lý chất thải trong chăn nuôi, rác hữu cơ
làm giảm thiểu ơ nhiễm mơi trường.
3. Lợi ích to lớn của giun quế
3.1. Giun mang lại thu nhập đáng kể cho người chăn nuôi
Lúc đầu, giun quế chỉ là mặt hàng mồi câu hấp dẫn. Khi người ta đã tổ
chức nuôi được với tốc độ tăng đàn rất nhanh và đem lại nguồn lợi không nhỏ
cho một số người nghèo ở Mỹ. Khởi sự họ chỉ bỏ ra 20 đô la. Sau vài năm,
doanh thu của họ đã lên tới 400-500.000 đơ la.
Với lợi nhuận thu được thì ngày càng có nhiều người tham gia vào chăn
ni giun. Nghể ni giun đã trở thành một nghề thu nhập chính của nhiều
người.
Theo nghiên cứu một số tác giả thì hiệu quả kinh tế trên 100m 2 trong 3
tháng như sau:
7
Bảng 1.1.1
Khoản mục
Đơn vị tính
Số lượng Đơn giá
Thành tiền
I. Chi phí
1000 đồng
-
-
23853,21
1. Chi phí cơ bản
-
-
-
289,21
2. Chi phí con giống
-
-
-
762,5
3. Thức ăn
-
-
-
1680
4. Công lao động
-
-
-
112,5
II. Doanh thu
-
-
-
26670
1. Giun thương phẩm
Kg
7.000
30
21000
2. Phân giun
Kg
6.300
0.9
5670
III. Thu nhập
1000 đồng
-
-
23861,79
IV. Lợi nhuận
Lần
-
-
8,35
V. Tỷ suất LN/CP
1000 đồng
-
-
23929,29
VI. Tỷ suất CP/LN
Lần
-
-
8,39
Nguồn: Phạm Ngọc Diệp và CTV, 2005.
Như vậy, trong 3 tháng ni với diện tích là 100m 2 thì doanh thu của chủ
đầu tư đạt được là hơn 26 triệu đồng, trong khi chi phí bỏ ra là 2,8 triệu, lợi
nhuận đạt được là hơn 23 triệu.
3.2. Giun làm thức ăn đạm cao, có chất lượng cao để ni gia súc, gia cầm và
thủy sản.
Giun có hàm lượng đạm 53,5%-65,1%, chất béo 4,4%-17,38%, chất
đường bột 11%-17%, chất khống 7,8%-23%, với 28-20 loại acid amin trong đó
có 8 loại acid amin cần thiết cho người và 12 loại acid amin cần thiết cho gia súc
gia cầm, hàm lượng dinh dưỡng, năng lượng hữu hiệu tương đương bột cá.
Trong giun có nhiều vitamin D và nhiều Ca, P. Vì vậy giun làm thức ăn đạm chất
8
lượng cao và giàu các chất dinh dưỡng khác, có thể thay thế bột cá, làm chất bổ
sung cho thức ăn nuôi gia cầm, gia súc và các loại thủy sản q.
Ngồi ra, trong cơ thể giun cịn có các loại kích thích tố tăng trưởng thiên
nhiên cần thiết cho động vật.
Sở dĩ dùng giun làm thức ăn cho chăn nuôi, nhất là nuôi trồng thủy sản tốt
như vậy là do trong thức ăn có giun khơng những giàu acid amin đầy đủ, hội đủ
10 loại acid amin cần thiết cho cá và thủy sản ăn khỏe, nâng cao hiệu suất sử
dụng thức ăn. Dùng giun thay bột cá không những giá rẻ, mà còn tăng chất
lượng thịt, thủy sản, ăn ngon.
3.3. Giun làm thực phẩm cho người và sản xuất mỹ phẩm
Giun có hàm lượng protein cao, giàu nguyên tố vi lượng tương tự thịt thỏ,
ít chất béo chứng tỏ giun có giá trị dinh dưỡng cao, tốt cho sức khỏe. Càng ngày
càng có nhiều nước trên thế giới dùng giun để chế biến thức ăn cho người. Thậm
chí đó là những món ăn phổ biến và cao cấp của họ.
- Ở Nhật, có tới 200 loại thực phẩm chế biến từ giun.
- Ở Đài Loan, có 20 món ăn làm từ giun.
- Ở Italia người ta dùng giun làm pate.
- Ở Mỹ có những quán đặc biệt chuyên bán các món ăn từ giun.
- Ở Hàn Quốc có món cháo giun rất phổ biến.
- Ở Úc giun làm bánh và tráng ốp - lết với trứng như ta chế biến món chả
rươi.
Nhiều nước khác cũng có nhiều cách chế biến giun thành các loại thức ăn
quý phái. Hiện nay, cũng có nhiều đồ hộp thực phẩm làm bằng giun bán ra thị
trường.
Giun còn được sử dụng rộng rãi làm nguyên liệu để sản xuất mỹ phẩm, là
mặt hàng ngày càng có nhu cầu lớn trên thị trường quốc tế.
3.4. Giun có tác dụng chữa bệnh
9
- Ở các nước Châu Á, giun được sử dụng làm thuốc từ rất sớm. Các dữ
liệu ghi chép về vấn đề này có từ năm 1340.
- Ở Ấn Độ dùng giun để chữa bệnh phong thấp của người dân Nanticoke.
- Ở Thái Lan, nhân dân dùng giun để chữa bệnh chảy mũi, chữa bệnh phụ
nữ suy nhược sau khi sinh.
- Ở Lào và Thái Lan người dân dùng giun để chữa bệnh đậu mùa.
- Ở Việt Nam, theo “Dược học cổ truyền” của Giáo sư Bác sỹ Trần Văn
Kỳ thì giun quế có thể chế biến bào chế để trị các bệnh như: viêm khớp cấp sưng
nóng đau, sốt co giật (ở trẻ em), sạn tiết niệu, hen suyễn, cao huyết áp, chứng mề
đây, bệnh tinh thần phân liệt, chứng động kinh do chấn thương, bệnh mất ngủ…
Trong giun có hàm lượng acid béo khơng no cao, acid béo no thấp đặc
biệt có hàm lượng rất cao vê acid linoleic có tác dụng kháng ung thư, giảm
huyết áp, phịng sơ vữa động mạch….
Trong giun có nhiều Selenium (Se) là một nguyên tố không thể thiếu của
cơ thể người. Se là chất duy trì sự sống, nếu thiếu sẽ phát sinh nhiều bệnh tật. Se
có tác dụng phịng trị 40 loại bệnh như ung thư, tim mạch, xơ vữa mạch máu,
viêm gan, loét dạ dày, viêm đường ruột, hen suyễn, thấp khớp, viêm họng, cao
huyết áp, tiểu đường, bất dục….Vì vậy, dùng giun làm thực phẩm hoặc thức ăn
chăn nuôi sẽ mang lại hiệu quả tốt đối với người và vật nuôi. Ở những vùng
thiếu Se, vận dụng khả năng làm giàu Se của giun, dùng giun, phân giun để ni
gia súc, trồng lương thực, rau, có thể là một hướng tốt để giải quyết tình trạng
thiếu Se đối với người và gia súc.
Trong giun có hàm lượng Zn rất cao, rất có lợi cho sức khỏe con người.
Zn là một trong những nguyên tố cần thiết quan trọng nhất của cơ thể, là thành
phần của 200 loại men trong cơ thể, có tác dụng cơng năng sinh lý, sinh hóa
quan trọng. Thiếu Zn, trẻ em biếng ăn, tóc thưa, chậm lớn, thị giác và thính giác
có biểu hiện khơng bình thường, sức đề kháng kém, trí nhớ kém, ngủ kém và
khứu giác bất thường.
10
Trong giun cịn có các men: EFE (Earthworm fibrinolytic enzyme) có tác
dụng trực tiếp hịa tan sợi huyết và cục máu đơng. Lumbrokinase có thể kích
hoạt plasmogen thành plasmin là loại thuốc chữa nghẽn mạch lý tưởng. Chất
Metallothionenin có tác dụng về dự trữ, vận chuyển, trao đổi chất của nguyên tố
vi lượng, kích thích bức xạ điện ly, khử gốc tự do và độc hại kim loại…
3.5. Phân giun làm thức ăn cho gia súc, gia cầm, thủy sản, cải tạo đất và làm
phân hữu cơ sạch, chất lượng cao
Phân giun có hàm lượng dinh dưỡng cao là thức ăn giàu khoáng cho gia
súc, gia cầm. Các chất dẫn xuất không đạm và protein cao tương ứng 13,96% và
6,23%.
Phân giun khơng có mùi hơi thối, khơng mốc, có thể giữ lâu ngày trong
túi nilông là loại phân sạch thiên nhiên q giá để bón cho hoa, cây cảnh, rau quả
theo công nghệ nông nghiệp sạch.
3.6. Giun bảo vệ môi trường sinh thái
3.6.1. Xử lý chất hữu cơ, làm sạch mơi trường
Nhờ vào bộ máy tiêu hóa phi thường, nên giun sống trong đất tiêu thụ một
lượng lớn nguồn thức ăn là chất thải hữu cơ và phân gia súc. Tác dụng phân giải
chất hữu cơ của giun chỉ đứng sau vi sinh vật. Giun là loại động vật siêng năng,
cần mẫn, ngày đêm hoạt động trong vịng tuần hồn vật chất của giới tự nhiên,
được coi là “vệ sĩ bảo vệ cân bằng hệ sinh thái”. Giun đào hang, xới xáo đất,
nuốt đất và chất hữu cơ, tạo điều kiện tốt cho hoạt động của vi sinh vật.
Giun có sức tiêu hóa lớn, một tấn giun có thể tiêu hủy được 70 - 80 tấn
rác hữu cơ, một tấn giun sử dụng được 50 tấn phân gia súc. Các nước trên thế
giới đã lợi dụng công năng đặc thù này của giun để xử lý chất thải sinh hoạt
hoặc rác thải hữu cơ. Sau khi xử lý rác thải, phân giun dùng để bón ruộng giảm
bớt sử dụng phân hóa học. Đồng ruộng nhờ tác dụng của giun, kết cấu đất được
cải thiện, cây phát triển tốt, chống sâu bệnh tốt hơn, giảm bớt dùng thuốc, nhờ
đó bảo vệ được môi trường.
11
Để xử lý tốt rác thải sinh hoạt, chỉ cần phân loại rác tốt, giữ nhiệt độ đống
rác 00C - 300C, có đủ độ ẩm cần thiết, giun hoạt động tốt, hiệu quả xử lý chất
thải khá cao.
Trong nước bị ô nhiễm, được nuôi giun nước, sau khi giun sinh đẻ nhiều
cũng làm sạch môi trường nước.
Nuôi giun trong gia đình vừa xử lý được rác thải, vừa có phân giun bón
hoa, cây cảnh.
Nhiều nước đã sử dụng giun để xử lý rác thải, làm sạch mơi trường có
hiệu quả tốt. Một công ty ở California ở Mỹ nuôi 500 triệu giun, hàng ngày xử
lý 2.000 tấn rác. Ở Nhật, những nhà máy hàng năm sản xuất 10.000 tấn giấy với
45.000 tấn phế thải, đã sử dụng giun để xử lý, sản xuất được 2.000 tấn giun khô,
15.000 tấn phân giun. Ở các vườn cây lâu năm nhiệt đới, hàng năm lượng cành
lá rụng 5,0 - 15 tấn/ha, sử dụng giun để phân hủy, đã cải tạo, nâng cao độ phì
của đất.
3.6.2. Ni giun góp phần phát triển nơng nghiệp sinh thái gia đình, nâng cao
hệ số sử dụng năng lượng thức ăn.
Tuần hồn nơng nghiệp sinh thái gia đình như trồng lương thực để nuôi
gà, dùng phân gà nuôi lợn, phân lợn sản xuất khí sinh học, bã khí sinh học nuôi
nấm, các phụ phế phẩm và bã của nấm lại dùng làm phân bón cho cây lương
thực. Tuy vậy, đó mới chỉ là chuỗi tuần hồn đơn giản của nơng nghiệp sinh thái
gia đình khi chưa ni giun. Nếu trong vịng tuần hồn đó, bổ sung thêm một
khâu mắt xích ni giun thì vịng tuần hồn đó đã tăng được giá trị (với 3 lần
năng lượng thức ăn được động vật ni sử dụng) lương thực
lợn
gia cầm
khí sinh học
bã nuôi nấm
nuôi giun
phân gia súc, gia cầm nuôi giun
nuôi gà, ni
ni gia súc, ni
phân giun bón cây lương
thực. Vịng tuần hoàn sinh thái đơn giản đã được phức tạp hóa, nâng cao được
tổng hiệu suất năng lượng, tạo ra giá trị gia tăng lớn hơn về kinh tế.
12
TUẦN HỒN NƠNG NGHIỆP SINH THÁI GIA ĐÌNH
Cây trồng
phân
Rơm, rạ,
phụ phẩm
phân
Lương thực,
thức ăn
phân
phân
Nhiên liệu
Ni bị,
dê
phân
Khí sinh
học
phân
bã
phân
Ni nấm ăn
bã
phân
Ni lợn
phân
Ni gia
cầm
bã
Ni giun
Nuôi thủy
đặc sản
3.7. Giun làm mồi câu cá
Câu cá là một loại hoạt động thể dục nhàn rỗi, được thế giới ưa chuộng.
Hàng năm, ở Nhật có 20% số người ưa đi câu, mỗi năm cần 300 tấn giun. Vào
mùa đơng, người ta cịn câu trong nhà, chứng tỏ hoạt động này rất hấp dẫn ở
Nhật. Ở Trung Quốc, hàng năm cũng tiêu tốn trên 1000 tấn giun để làm mồi câu.
Giun có hình dạng, màu sắc, cử động, mùi vị hấp dẫn khẩu vị cá nên được
sử dụng làm mồi câu cá rất tốt.
3.8. Là loài sinh vật chỉ thị môi trường
Việc nghiên cứu giun làm sinh vật chỉ thị môi trường đã được tiến hành
nghiên cứu từ thập kỷ 50 của thế kỷ 20. Trong hệ sinh thái nơng nghiệp, việc sử
dụng nhiều phân hóa học, thuốc hóa học trong thời gian dài cùng với rác thải và
nước thải đô thị - công nghiệp ngày càng nhiều, làm cho đất bị ô nhiễm ngày
13
càng nghiêm trọng. Sau thời gian nghiên cứu nhiều năm, các nhà khoa học đã
phát hiện giun là một loài sinh vật chỉ thị tốt về môi trường thổ nhưỡng.
Nghiên cứu độc lý của giun chứng minh rằng, kim loại nặng có tác dụng
ức chế hoạt lực izoenzyme của men peroxidase. Đất bị ô nhiễm kim loại nặng
làm cơ thể giun bị sưng tấy, nổi u, có thể làm cho niêm mạc của đường ruột xuất
huyết, đồng thời tế bào thượng bì của niêm mạc đường ruột co lại hoặc bị lở
loét. Dùng kính hiển vi điện tử quan sát tế bào thượng bì niêm mạc đường ruột
của giun sống trong đất bị ô nhiễm kim loại nặng cho thấy hàng loạt triệu chứng
phát bệnh, mức độ phát bệnh cao hay thấp tùy thuộc vào mức độ ô nhiễm kim
loại nặng hay thấp. Vì vậy, có thể dùng giun để đánh giá mức độ ô nhiễm của
kim loại.
3.9. Sử dụng để thực tập trong trường học
Sử dụng giun để thực tập trong nhà trường có lợi là:
- Khơng làm cạn kiệt nguồn thức ăn cho động vật có xương sống khác (vì
sử dụng nhiều giun cũng khơng làm mất cân bằng nguồi thức ăn trong tự nhiên).
- Dùng giun để thực tập không phụ thuộc vào thời tiết, đảm bảo quanh năm
có thể lấy mẫu.
- Cơ thể giun tương đối lớn, quan sát trực quan thuận lợi.
- Thu thập, bảo quản tiêu bản không gây hại cho thầy giáo, học sinh, thao
tác an tồn.
Ni giun hàng hóa có thể trở thành một nghề rất có triển vọng trong
nơng dân. Giun và phân giun có thị trường tiêu thụ với nhu cầu ổn định, trước
hết là nông dân nuôi giun để sử dụng làm thức ăn nuôi gia súc, gia cầm, thủy sản
và cũng có thể sử dụng giun để tự chế biến thành các món ăn giàu đạm ngay tại
gia đình, góp phần chống suy dinh dưỡng cho dân cư nông thôn. Vốn đầu tư
nuôi giun rất thấp. Đất nuôi giun có thể tận dụng trong vườn nhà. Thức ăn để
nuôi giun chủ yếu là phân và rác hữu cơ, rất dồi dào và rẻ tiền, vì vậy giá thành
sản xuất giun và phân giun rất thấp, nếu sản xuất hàng hóa để bán thì giá bán
giun tươi thương phẩm, phân giun sẽ thu được lợi nhuận đáng kể. Nuôi giun ít
14
bệnh, ít rủi ro, kỹ thuật đơn giản, dễ làm, sớm có thu nhập. Nghề ni giun sẽ là
một nghề góp phần thiết thực để xóa đói giảm nghèo trong nông thôn, kể cả
vùng sâu, vùng xa.
15
Tên bài học
Mã bài học
1-2
ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI,
CẤU TẠO VÀ SINH LÝ CỦA
GIUN QUẾ
Thời gian (giờ)
LT
TH/TL
TS
05
05
10
MỤC TIÊU
Sau khi học xong bài này, học viên có thể:
- Phân tích được những đặc điểm hình thái, cấu tạo và sinh lý của giun quế.
- Nhận biết được các cơ quan bên ngoài và bên trong cơ thể giun quế.
NỘI DUNG
A. Lý thuyết
1. Khái quát
Giun quế (một số tài liệu nước ngoài thường gọi la Blue Worm, Indian
Blue, Malaysian Blue) là động vật khơng xương sống, cơ thể phân đốt, phần đầu
thối hóa, có mang đai sinh dục (clitellum), các hệ cơ quan bên bên trong cơ thể
như hệ tuần hoàn, hệ thần kinh, hệ bài tiết… cũng sắp xếp theo đốt. Mỗi đốt
mang một đôi hạch thần kinh giúp cho giun ghi nhận cảm giác và phản ứng đáp
trả của cơ thể đối với mơi trường ngồi rất nhạy bén.
Giun thuộc nhóm giun ăn phân, thường sống trong mơi trường có nhiều
chất hữu cơ đang phân hủy, trong tự nhiên ít tồn tại với quần thể lớn và khơng
có khả năng cải tạo đất trực tiếp như một số loài giun địa phương như giun hổ
sống trong đất. Giun quế là một trong những giống giun đã được thuần hóa,
nhập nội và đưa vào ni cơng nghiệp. Là lồi giun mắn đẻ, xuất hiện rải rác ở
vùng nhiệt đới, dễ bắt bằng tay, dễ thu hoạch. Được sử dụng rộng rãi trong việc
xử lý chất thải ở Phillippines, Australia… và một số nước khác (Gurrero, 1983;
Edwards, 1995).
Chúng phân bố ở nhiều quốc gia như: Việt Nam, Ấn Độ, Indonesia, Úc,
Phillipines, Đài Loan, Hawaii, Madagascar, Samoa….
2. Phân loại
16
Giun rất phong phú về giống lồi, chúng có kích thước và màu sắc khác
nhau. Tùy nhóm, tùy kích thước của cơ thể có thể biến động từ 0.5 mm (hệ
Acoloso Matidae) đến 3m (Megascolides Autralis). Số đốt cũng có thay đổi
nhiều từ 7 - 8 đốt đến hàng trăm đốt…. Tuy nhiên, mọi lồi đều có đặc điểm cấu
tạo sinh học và sinh lý tương tự như nhau theo hướng thích nghi đặc biệt với đời
sống đào bới trong đất ẩm, trong phân gia súc cũ và hoạt động trong điều kiện
khơng có chiếu sáng, đó là đặc điểm để phân biệt từng loài. Màu sắc biểu hiện ra
bên ngồi là do sắc tố nằm trong biểu mơ, cịn màu đỏ là màu của Hemoglobin.
Hiện nay trên thế giới có khoảng 3.000 lồi đã được định loại. Chúng
được phân thành 3 nhóm chính chủ yếu dựa trên 2 yếu tố chính: Tập tính ăn và
tạo chất thải.
- Epeigeic (Eisenia foetida, Eudrilus eugenie nigerian), Perionyx
Excavatus etc.)
- Aneceic (Polypheretima elongata, Lampito maruti etc.)
- Endogeic (Pentoscolex sps. Eutopeius sps. Drawida sps etc.)
2.1. Nhóm Epeigeic
Cịn được gọi là giun đỏ hay giun ăn phân, tập tính ăn của chúng thường
là trên bề mặt đất với tất cả các loại chất hữu cơ, xác và chất thải động vật.
Chúng phân huỷ chất hữu cơ nhưng khơng có vai trị cải tạo đất.
Chính những tập tính ăn tạp như vậy nên nhóm giun này thường thì cung
cấp đạm rất cao, bên cạnh đó vì chúng thường sống trên bề mặt đất nên tiếp xúc
với rất nhiều kẻ thù, vì thế mà trong cơ thể giun chứa hàm lượng enzym rất cao.
Đây là nhóm giun dùng để làm thức ăn cho gia súc, gia cầm, thủy sản...
Bên cạnh đó, ngày nay ở các nước tiên tiến trên thế giới như Canada, Mỹ, Úc,
Nhật... người ta sử dụng nhóm giun này để xử lý chất thải nơng nghiệp và cơng
nghiệp nhằm tránh gây ơ nhiễm mơi trường.
Nhóm này bao gồm các loài Eisenia foetida, Eudrilus eugenie (nigerian),
Perionyx excavatus....
2.2. Nhóm Aneceic
17
Còn được gọi là giun đào đất và sống theo hàng thẳng đứng trong lịng
đất, có khi đào hang sâu trong lòng đất cả 3m. Chúng ăn cả chất hữu cơ và
khống chất trong đất, sau đó thải phân trên khắp hang chúng đi. Vào ban đêm
chúng lên trên mặt đất để ăn và bắt cặp, chúng có quai hàm rất lớn và nghiền nát
tất cả các chất thải hữu cơ. Vì thế chúng rất có lợi cho việc cải tạo đất, bên cạnh
đó, vì nhóm giun này rất lớn nên người ta cịn sử dụng làm mồi câu cá.
Nhóm này bao gồm các lồi Lumbricus, Polypheretima elongata, Lampito
maruti....
2.3. Nhóm Endogeic
Đây là giống giun có tập tính ăn các khống chất trong đất hơn là chất
hữu cơ, chúng di chuyển hàng ngang trong đất vì thế chúng khơng có tác dụng
trong phân hủy chất hữu cơ và thường xuyên di chuyển từ nơi này đến nơi khác.
Giống giun này cũng dùng để xử lý đất nhưng khơng tốt bằng Aneceic.
Nhóm này bao gồm các loài Pentoscolex sps. Eutopeius sps. Drawida
sps...
Trên thế giới tồn tại hàng ngàn giống giun, nhưng có ý nghĩa cho sản xuất
tập trung chỉ có 7 lồi.
Mỹ là nước nuôi giun sớm và mạnh nhất, hiện nay cũng chỉ có 4 lồi. Úc
chỉ có 2 lồi ni chính thức.
Theo các tác giả Thái Trần Bái và Đỗ Văn Nhượng (1985), ở Việt Nam có
6 họ giun. Họ Megascolecidae có tới 97 lồi trong số 110 lồi của các họ giun
đất. Trong họ này có giống Pheretima có 88 loài hiện sống ở nhiều vùng trong
nước ta. Trong số này có lồi Perionyx Excavatus thường sống trên mặt đất, nơi
ẩm ướt, có nhiều phân và rác mục và là đối tượng có thể ni nhốt sản xuất tập
trung.
18
Hình 1.2.1. Giun quế (Perionyx excavatus)
Phân loại:
- Ngành: Annelides (ngành giun đốt)
- Phân ngành: Clitellata (phân ngành có đai)
- Lớp: Olygochaeta (lớp giun ít tơ)
- Họ: Megascocidae (họ cự dẫn)
- Chi: Pheretima
- Lồi: Perionyx excavatus (giun Quế)
3. Hình thái bên ngồi của giun quế
Hình 1.2.2. Hình thái bên ngồi của giun quế
Cơ thể giun có hình trụ, dài hơi dẹp, phần đầu và đuôi hơi nhọn, cơ thể
thon dài phân thành nhiều đốt, bên trong cũng phân đốt tương ứng gọi là xoang
thân. Các lồi giun khác nhau có số lượng đốt khác nhau, thay đổi từ 110 - 180
19
đốt. Các đốt thường đồng nhất, một số có ít đốt phần phía trước khác các đốt cịn
lại về số lượng chùm tơ và hình dạng của tơ. Khi di chuyển, các đốt co duỗi kết
hợp các lơng tơ phía bên dưới các đốt bám vào cơ chất đẩy cơ thể di chuyển một
cách dễ dàng.
Đốt đầu tiên gọi là thùy trước miệng. Nó có tác dụng như một chiếc nêm
để đào bới hay bám chặt khi bò tới. Vành tơ xung quanh cơ thể, thùy trước
miệng, tuyến dưới da tiết chất nhầy bơi trơn… đều giúp giun thích nghi cuộc
sống đào bới và chui luồn trong đất.
Các bộ phận lồi cảm giác (anten, xúc biện, sợi quanh miệng...) trên đầu và
chi bên bị tiêu giảm.
Trên cơ thể giun đã trưởng thành về sinh dục thường thấy 1 cái vòng có
dạng như thiếc nhẫn, đây là đai sinh dục. Đai sinh dục thể hiện rất rõ ở giai đoạn
sinh sản, thường là ở khoảng ngày thứ 30 (trong chu kỳ đời sống).
Màu sắc: tùy theo tuổi, giun mới nở có màu trắng, giun con có màu hồng
nhạt, giun trưởng thành và già có màu đỏ đến mận chín đậm ở mặt lưng màu
nhạt dần về phía bụng, bên ngồi cơ thể có một lớp kitin mỏng chứa sắc tố do đó
khi ra ánh sáng cơ thể chúng thường phát dạ quang màu xanh tím, có đường kẻ
dưới bụng màu nhạt hoặc sáng ở gần vành miệng
Kích thước: giun nhỏ dài khoảng 3 cm, tiết diện thân 0,2 cm. Giun trung
bình dài khoảng 3 - 10 cm, tiết diện thân 0,2 - 0,5 cm. Giun lớn dài trên 10 cm,
tiết diện thân khoảng 0,5 cm. Chiều dài cơ thể dao động trung bình 100 - 180
mm, đường kính 5 - 6 mm
4. Cấu tạo cơ thể giun quế
20
Hình1.2.3. Hình thái cấu tạo giun quế (nhìn phía bụng)
Hình 1.2.4. Sơ đồ cắt ngang qua cơ thể giun quế
21
Cơ thể giun gồm 2 lớp: lớp ngoài là thành cơ thể, bên trong là ruột, giữa 2
lớp chứa dịch lỏng gọi là thể dịch xoang.
4.1. Thành cơ thể
Mơ bì tạo thành tầng cuticun trong suốt bao ngoài. Xen lẫn các tế bào mơ
bì có các tuyến và tế bào cảm giác. Tế bào tuyến tiết lớp nhầy bao quanh cơ thể,
có khi bám đầy vụn đất tạo thành vỏ tách khỏi tầng cutium hoặc hình thành đai
sinh dục. Ở vùng tạo đai có hai loại tế bào tuyến: tế bào hạt lớn hình thành lớp
vỏ ngồi của đai, sau này thành vỏ kén và tế bào hạt bé hình thành chất dinh
dưỡng cho phơi.
Tế bào cảm giác có lơng, có thể tập trung thành nhú cảm giác.
4.2. Bao cơ
Bao cơ của giun có lớp cơ vịng ở ngồi và lớp cơ dọc ở trong. Bao cơ
dồn dịch thể xoang về phía trước để ép các vụn đất nên các cơ rất phát triển. Tế
bào cơ có sợi cơ phân bố đều trong chất nguyên sinh hoặc chỉ phân bố ở vành
đai.
Các tế bào cơ trong mỗi lớp cũng có thể sắp xếp thành các bó cơ, đơn vị
có tổng hiệu suất hoạt động cao hơn. Q trình phân hóa bao cơ thành từng
chùm cơ rõ hơn ở giun quế. Phía trong bao cơ là thể xoang, được giới hạn bằng
mơ bì thể xoang. Trong thể xoang có dịch thể xoang chứa các thành phần tế bào,
trong đó có tế bào thực bào và tế bào thể xoang.
Dịch thể xoang có thể dồn từ đốt này sang đốt khác, hoặc dồn ra ngồi
qua lỗ lưng. Vách đốt có thể phát triển hoặc tiêu giảm ở từng phần của cơ thể.
Hiện tượng này liên quan tới cách di chuyển. Giun sống chui rúc trong đất sống
nhờ sự điều chỉnh áp suất từng phần của dịch thể xoang và sóng nhu động cơ
dọc cơ thể.
22
Hình 1.2.5. Sơ đồ di chuyển của giun bằng nhu động cơ vòng và cơ dọc, dồn
ép dịch thể xoang và tạo chỗ bám của tơ
(a) – (d) các giai đoạn liên tiếp
1. Phần đầu;
2. Tơ;
III, IX, XX: số đốt ghi theo thứ tự
Mũi tên chỉ hướng di chuyển
4.3. Hệ thống tiêu hóa
Thức ăn của giun quế là các chất hữu cơ mục nát, chất thải gia súc, do đó
bộ tiêu hóa có cấu tạo thích ứng. Ống tiêu hóa thẳng và phân hóa khá phức tạp.
23
Giun có ống tiêu hóa khỏe nhưng khơng có răng, khơng có tuyến acid mạnh như
ở các lồi động vật khác.
Gồm có: lỗ miệng - xoang miệng - hầu - thực quản - mề - dạ dày - ruột manh tràng - trực tràng và hậu môn.
- Giun nuốt thức ăn bằng lỗ miệng, lỗ miệng nằm ở đỉnh đầu và hơi lệch
về phía bụng. Xoang miệng: nằm ở đốt I và II, khơng có răng, vách xoang miệng
mỏng có tác dụng tiếp nhận, giữ thức ăn và là công cụ đào bới chủ yếu của giun.
- Hầu, vách hầu có tầng cơ dày kéo dài từ đốt thứ III cho đến đốt thứ V.
Khi bắt thức ăn hầu thò ra và đế cơ của hầu cặp thức ăn vào ống tiêu hóa. Động
tác thị ra của hầu tiến hành nhờ các cơ chằng từ hầu tới thành cơ thể. Thành
lưng ở phía sau của hầu có vùng tập trung tuyến tiêu hóa đơn bào tiết men
Proteas.
- Thực quản: nằm ở đốt thứ VI và đốt thứ VII, hai bên thực quản nhơ ra
một hoặc nhiều đơi có dạng hình túi, đó là tuyến Ca, có tác dụng điều tiết độ pH,
hỗ trợ các enzyme tiêu hoá hoạt động và hệ vi sinh vật hữu ích trong đường tiêu
hố tồn tại và hoạt động đồng thời cũng có tác dụng quan trọng trong việc thải
khí CO2 ra ngồi. Tuyến tiêu hóa ở giun quế là tuyến moren, chằng chịt mao
quản máu, nhận các ion CO3-- và Ca++ thừa trong máu và tiết vào thực quản để
trung hịa acid humic có trong thức ăn.
- Mề: là bộ phận phình to của ống tiêu hố có dạng hình túi trịn, thành mề
mỏng, năng ở đốt thứ VIII, IX, X. Nó có tác dụng chứa thức ăn tạm thời, làm
ướt và làm mềm thức ăn và cũng có tác dụng nhất định trong việc tiêu hoá một
phần protein của thức ăn.
- Dạ dày: là phần thu hẹp lại của ống tiêu hoá, nằm ở đốt thứ XI đến đốt
thứ XIV, thông với ruột non, là cơ quan nghiền thức ăn, có tác dụng tiết ra
enzyme tiêu hoá như enzyme protease, amylase, lipase, cellulase, kitinase…
- Ruột: mơ bì thể xoang bao quanh ruột chuyển thành tế bịa màu vàng
(chloragogen) tham gia vào q trình trao đổi glycogen và bài tiết. Ngồi ra cịn
có hiện tượng lõm thành lưng làm tăng diện tích tiêu hóa và hấp thụ thức ăn.
24
- Trực tràng: có thành mỏng và hẹp, khơng có tác dụng tiêu hoá thức ăn
mà chỉ là nơi chứa các chất thải sau khi tiêu hoá và đẩy ra ngồi qua hậu mơn
Cả cơ thể giun là một ống tiêu hóa. Trong ống tiêu hóa này chứa đầy vi
sinh vật. Bản thân con giun khơng đủ sức chuyển hóa trực tiếp các chất hữu cơ
thành năng lượng mà chính những vi sinh vật có trong ống tiêu hóa đảm nhận
vai trò này.
Lượng thức ăn mỗi ngày được ghi nhận là tương đương với trọng lượng cơ
thể nó. Những vi sinh vật cộng sinh có ích trong hệ tiêu hóa theo phân ra khỏi
cơ thể giun nhưng vẫn còn hoạt động ở màng dinh dưỡng trong một thời gian
dài. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho phân giun có hàm lượng
dinh dưỡng cao và có hiệu quả cải tạo đất tốt hơn dạng phân hữu cơ phân hủy
bình thường trong tự nhiên.
25