Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Sang kien tap lam van lop 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (194.33 KB, 15 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b> A. MỞ ĐẦU</b>



I. ĐẶT VẤN ĐỀ.
<b>1. Cơ sở lí luận.</b>


Tiểu học là bậc học nền tảng trong hệ thống giáo dục quốc dân. Những kiến thức
mà các em được tiếp thu ở Tiểu học là cơ sở quan trọng để các em học lên các bậc
học cao hơn. Ở bậc Tiểu học, môn Tiếng Việt là môn học chủ đạo. Trường Tiểu
học là nơi đầu tiên trẻ em được học tập Tiếng Việt, chữ viết với phương pháp nhà
trường, phương pháp học tập tiếng mẹ đẻ thật sự khoa học. Học sinh Tiểu học chỉ
có thể học tập được các mơn học khác khi có kiến thức Tiếng Việt bởi đối với
người Việt, Tiếng Việt là phương tiện giao tiếp, là công cụ trao đổi thông tin và
chiếm lĩnh tri thức. Trong mơn Tiếng Việt có nhiều phân mơn, mỗi phân mơn
mang một kiến thức nhất định, chúng bổ trợ cho nhau giúp người học có thể học
tốt mơn Tiếng Việt. Bắt đầu khởi động bằng môn Học vần, tiếp theo là Tập viết,
Chính tả, Luyện từ và câu,… cuối cùng là Tập làm văn. Làm văn, viết văn là cái
đích cuối cùng cao nhất của việc học tập Tiếng Việt ở Tiểu học. Đối với học sinh
Tiểu học, biết nói cho đúng, cho đủ, cho rõ nghĩa là đã khó; để nói hay, nói có cảm
xúc và cảm nhận được cái đẹp trong cuộc sống mà viết thành những bài văn thì lại
càng khó khăn hơn nhiều. Cái khó ấy lại chính là cái đích cuối cùng mà phân mơn
Tập làm văn đòi hỏi người học cần đạt tới.


<b>2. Cơ sở thực tiễn.</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

giáo viên phải có nhiều sáng tạo cũng như sự nhạy bén, linh hoạt trong quá trình
lên lớp, chuẩn bị thật cơng phu các tình huống có thể gặp ở học sinh.


Chính vì những khó khăn này nên tơi mạnh dạn đưa ra một số giải pháp giúp học
sinh lớp 5 làm tốt bài văn tả cảnh, góp phần nâng cao chất lượng dạy và học ở phân
môn Tiếng Việt lớp 5.



II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU.


- Nhằm tìm hiểu nội dung, phương pháp dạy làm văn tả cảnh ở lớp 5.


- Tìm ra những khó khăn, sai sót mà giáo viên và học sinh thường mắc phải khi
dạy học kiểu bài tập làm văn tả cảnh. Qua đó đưa ra giải pháp khắc phục có
hiệu quả cho q trình dạy học kiểu bài này.


III. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU.
<b>1. Đối tượng nghiên cứu: </b>


Dạy - học nội dung bài tả cảnh ở lớp 5.
<b>2. Phạm vi nhiên cứu:</b>


Phương pháp hướng dẫn học sinh làm văn tả cảnh ở lớp 5.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.


1. <b>Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Đọc tài liệu, giáo trình liên quan đến</b>
dạy học văn tả cảnh ở Tiểu học.


2. <b>Phương pháp điều tra: Trao đổi với đồng nghiệp về những khó khăn sai sót</b>
khi dạy tả cảnh.


3. <b>Phương pháp thực nghiêm sư phạm: Xây dựng tiết học thử nghiệm và đối</b>
chứng và rút ra bài học về phương pháp.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<b>B. NỘI DUNG.</b>



<i><b>1. Tìm hiểu và phát hiện lỗi một số bài văn miêu tả của học sinh.</b></i>



Thử xem một số bài văn miêu tả của học sinh chúng ta sẽ bắt gặp khá nhiều lỗi:
lỗi về chính tả, lỗi về dấu câu, lỗi diễn đạt, lỗi đi lạc đề,…


Ví dụ: - Câu khơng đủ thành phần: Trên cánh đồng làng, chạy dọc theo con đường.
- Câu thừa thành phần, lặp lại thành phần một cách không cần thiết: Cánh đồng


đối với quê em là một cảnh đẹp của quê em.


- Lỗi sử dụng sai dấu câu: Dịng sơng q em. Vào mùa hè nước trong xanh, rất
mát.


- Lỗi các câu trong bài văn mâu thuẩn nhau về nghĩa: Từ nhà em đến trường
<b>không xa. Nhưng đó là cả một con đường xa đầy thơ mộng. </b>


- Lỗi lặp một từ quá nhiều lần trong câu: Những chiếc lá <b>dập dờn trên mặt nước</b>
<b>dập dờn trông như những con thuyền đang dập dờn trên sóng.</b>


- Lỗi do dùng thừa từ phụ như quan hệ từ: Ánh nắng của mặt trời của buổi sớm
nhảy nhót trên những lá bàng non.


Như vậy, chúng ta thấy khi làm bài tập làm văn, học sinh Tiểu học thường mắc rất
nhiều lỗi. Đọc bài văn của các em, chúng ta cịn thấy sự khơ khan, nghèo cảm xúc,
bài văn như một bảng liệt kê các chi tiết của đối tượng miêu tả, lủng củng, lộn
xộn, không lột tả được đối tường cần miêu tả, đơi khi cịn bịa đặt khơng có căn cứ.
Vì là học sinh lớp 5 nên cách làm bài văn của các em đã ít nhiều mang phong cách
nghệ thuật. Có nghĩa là các em đã phải biết sử dụng ngơn ngữ có hình ảnh, các
biện pháp nghệ thuật như tu từ, so sánh … song nhiều chi tiết thiếu tính chân thực,
ngơn từ chưa được gọt giũa, hình ảnh so sánh khập khiểng, dùng từ vụng về…
<i><b>2.</b></i> <i><b>Nguyên nhân của những lỗi sai và hạn chế của học sinh khi viết văn tả</b></i>



<i><b>cảnh.</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

- Khả năng quan sát của các em và sự lựa chọn chi tiết để quan sát và miêu tả
thiếu tinh tế.


- Vốn từ miêu tả còn nghèo nàn, hạn hẹp nên khơng lựa chọn được từ có hình
ảnh thích hợp để sử dụng.


- Kỉ năng lựa chọn từ ngữ, dùng từ đặt câu, viết đoạn; kỉ năng diễn đạt còn rất
hạn chế. Chưa biết cách sắp xếp ý khi viết bài, xây dựng bố cục thiếu rõ ràng,
không khoa học.


- Khơng có thói quen sử dụng các biện pháp tu từ, biện pháp nghệ thuật trong
viết văn; khả năng giao cảm với đối tượng miêu tả còn hạn chế, cảm xúc khơng
tự nhiên, tình cảm gượng ép và khơ cứng.


- Trong tiết trả bài, học sinh chưa được chữa lỗi và tự sửa lỗi kĩ càng, đầy đủ.
Để khắc phục tình trạng trên và để giúp học sinh làm được bài văn tả cảnh đạt
những yêu cầu như vừa mang tính chân thực, vừa mang tính nghệ thuật và mỗi bài
văn là một sản phẩm sáng tạo của mỗi học sinh thì tơi đã hướng dẫn học sinh như
sau:


2-1. Giúp học sinh hiểu rõ đặc điểm cơ bản của văn tả cảnh.


Đối tượng của bài văn tả cảnh là những cảnh vật quen thuộc xung quanh các
em: một cơn mưa, một ngày nắng đẹp, một đêm trăng đẹp, một dòng sơng, một
cánh đồng, một góc phố,… Bài văn tả cảnh là thể loại văn bản mang tính nghệ
thuật cao, mang tính sáng tạo, tính cá thể của người viết. Ngơn ngữ trong văn tả
cảnh là thứ ngôn ngữ giàu sức gợi cảm và là ngôn ngữ đã được gọt giũa một cách
công phu. Tả là mô phỏng, là vẽ lại, là so sánh ví von, nhân hóa đối tượng có hình


ảnh … chứ khơng thể là liệt kê các chi tiết.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

nhiên trong sáng: Trăng hồng như quả chín/ Lơ lửng mà khơng rơi… hay Trăng
trịn như quả bóng/ Bạn nào đá lên trời.


Cịn đối với nhà văn Nam Cao thì vành trăng và ánh sao lại được nhìn nhận,
được cảm theo một cách hồn toàn khác: “Trăng là cái liềm vàng giữa cánh đồng
đầy sao, là cái đĩa bạc trên cái thảm nhung da trời. Trăng tỏa rộng xuống trần gian.
Trăng tuôn suối mát để những tâm hồn khao khát ngụp lặn”.


Như vậy, để tả hay, tả đúng thì phải tả chân thật, giáo viên cần uốn nắn để học
sinh tránh thái độ giả tạo, giả dối; bệnh công thức sáo rỗng.


Mỗi cảnh đều nằm trong một khung không gian và thời gian, đố là cái nền cho
cảnh vật được miêu tả. Các em cần nêu được khung cảnh chung này, nhưng đặc
biệt cần tập trung tả nét tiêu biểu của cảnh, làm cho nó khác với cảnh khác. Khi tả
cảnh các em có thể lồng tả người, tả vật trong cảnh để cho bài văn thêm sinh động.
2-2. Hướng dẫn học sinh cách quan sát đối tượng miêu tả, cách chọn lựa hình
ảnh, nội dung miêu tả.


a. Trước hết phải tập cho học sinh quan sát, vì học sinh thường khơng có thói
quen quan sát. Phải có cơng quan sát để tìm ra những nét nổi bật, độc đáo của đối
tượng của quan sát.


+ Quan sát tổng thể đối tượng, ở cả trạng thái động và tĩnh, quan sát bằng tất cả
các giác quan: thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác, xúc giác…


+ Lựa chọn điểm đặc trưng, đặc biệt, tiêu biểu của đối tượng để quan sát thật kĩ.
+ Quan sát và so sánh điểm giống nhau và khác nhau với các đối tượng khác có ở
xung quanh bằng sự liên tưởng hay quan sát trước đó.



+ Quan sát hình ảnh, hoạt động và những tác động của đối tượng đến các sự vật
xung quanh.


+ Có thể ghi nhớ trong đầu, hoặc ghi chép cẩn thận, đầy đủ vào sổ sách.
+ Có thể quan sát trực tiếp hoặc hồi tưởng bằng trí nhớ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

+ Căn cứ vào hình ảnh lựa chọn khi quan sát.
+ Căn cứ vào nội dung ghi chép được.


+ Chọn lựa những hình ảnh, chi tiết, hoạt động đặc sắc, đặc trưng riêng, đẹp và
khác biệt của đối tượng để miêu tả.


Lựa chọn hình ảnh, hoạt động của đối tượng để tả khái quát, bổ trợ tạo nên hình
ảnh tổng thể về đối tượng có thể lồng ghép các hình ảnh, sự việc gắn bó mật thiết
với đối tượng.


c. Sắp xếp ý, đoạn.


- Căn cứ vào nội dung đã lựa chọn để sắp xếp từng ý (theo thứ tự nào đó: từ ngoài
vào trong, từ trước ra sau, từ gần đến xa, …)


- Sắp xếp các ý theo đoạn với thứ tự đã chọn cho phù hợp.


Cách làm này giúp các em khơng tả dài dịng mà các em nắm bắt được cái thần,
cái hồn, cái dáng vẻ đặc biệt của cảnh; bằng ngôn ngữ làm thể hiện lên trước mắt
người đọc một khung cảnh rất thực, sống động. Nói ít gợi nhiều khơng có nghĩa
làm các em chỉ viết vài câu rồi chấm hết một bài văn mà khi tả cảnh không nên lan
man, cái nào cũng tả. Cần phải biết chọn lọc những đặc điểm nổi bật của cảnh.
Khi tả cảnh các em cần chú ý:



+ Tả bao quát toàn cảnh, nêu khung cảnh chung của cảnh vật và nêu cảm tưởng,
cảm nhận chung của em về cảnh vật.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Hay cũng một ngày mùa, Nguyễn Thị Ngọc Tú đã ghi lại: “Nắng lên, nắng chan
mỡ gà trên những cánh đồng lúa chín. Rất đều, rất gọn nhẹ các xã viên cúi lưng
xuống, Một tay nắm khóm lúa, một tay cắt giật. Một nắm, hai nắm,…xoèn xoẹt …
xoèn xoẹt … lúa chất dồn thành từng đống. … ”.




Ở những nét nổi bật, tiêu biểu của cảnh người đọc dễ dàng nhận thấy một khơng
khí làm việc hăng say; một cảnh ngày mùa bội thu và cũng đầy vất vả của bà con
nơng dân.


<i><b>3. Giúp học sinh tích lũy vốn từ dùng cho tả cảnh, làm giàu trí tưởng tượng của</b></i>
<i><b>các em khi tả.</b></i>


a. Tích lũy vốn từ.


- Vốn từ được tích lũy từ nhiều nguồn: trong giao tiếp hàng ngày; qua đọc sách,
báo; qua xem, nghe truyền hình, truyền thanh; trao đổi với bạn bè; thầy cô giáo
cung cấp…


- Ghi chép lại dùng để miêu tả. Ví dụ như:


+ Các từ dùng để miêu tả cây cối: xanh mướt, xanh rì, xanh mơn mởn, xanh non,
xanh lá mạ, xanh biết, xanh lục, …. rung rinh, um tùm, sum suê, khẳng khiu, rực
rỡ, mỡ màng, vàng úa, xơ xác, trơ trụi, lác đác, xào xạc, lả tả,…



+ Các từ ngữ dùng để miêu tả âm thanh: vi vu, ầm ầm, đì đùng, xn xoẹt, lách
cách, cót két, phành phạch, râm ran, ríu rít, rào rào, tí tách, đồm độp, loong boong,
loảng xoảng,…


+ Các từ dùng để tả mùi vị: thơm thoang thoảng, ngòn ngọt, chan chát, nồng nồng,
cay xè, ngai ngái, hăng hắc, dìu dịu, ngào ngạt, sực nức, ngọt mát,…


b. Giúp học sinh làm giàu thêm trí tưởng tượng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

đối tượng khác. Từ tưởng tượng học sinh sẽ cảm nhận được đối tượng miêu tả
bằng tình cảm, tình u của chính mình đối với cảnh sẽ tả. Tưởng tượng làm cho
đối tượng được miêu tả hoàn thiện hơn, đẹp hơn, sống động hơn và gần gũi với
con người hơn.


- Tưởng tượng thế nào?


+ Không trực tiếp quan sát mà tập trung tất cả các giác quan vào đối tượng.


+ Nhắm mắt, hình dung về đối tượng: hình ảnh, hoạt động của đối tượng, những
ảnh hưởng tác động của đối tượng đến sự vật xung quanh.


+ So sánh đối tượng được miêu tả với các đối tượng khác tương đồng. Đây là một
trong những “bí quyết” để viết văn miêu tả nói chung, tả cảnh nói riêng được hay
hơn. Chẳng hạn, khi tả trăng ta có thể so sánh với những sự vật như con thuyền,
cánh diều, quả bóng, cái đĩa, … Tả chiếc lá bàng ta có thể so sánh với cái quạt,
chiếc bánh đa, … Hay khi tả những chùm hoa phượng ta có thể so sánh với những
đốm lửa hồng bập bùng; tả những quả bàng xanh tại sao ta lại không so sánh với
những chú rùa con bé xíu; tả cây cột đèn tín hiệu giao thơng sao lại khơng tưởng
tượng nó với cây kẹo mút khổng lồ…?



+ Phân tích đánh giá cái hay, cái đẹp có ở đối tượng.


+ Nhân hóa hay tự nhiên hóa một vài hình ảnh đặc sắc ở đối tượng.


Ví dụ: “Máy tuốt to lù lù đững giữa sân kho, kêu tành tạch. Người ta nhét những
ôm lúa vào miệng nó. Nó nhằn nhằn một thống rồi phì rơm ra”.(tả một ngày
mùa).


Hay tả nắng, Trần Mai Hạnh ghi lại: “Nắng rồi. Hàng tháng mưa tầm, mưa tả mới
có một ngày nắng đây. Chiếc áo choàng đục trắng mà bầu trời đang khoác dầm dề
cả tháng nay đã bị cuốn phăng đi…”.


Hay tả dịng sơng, Nguyễn Trọng Tạo viết:


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

Trưa về trời rộng bao la


Áo xanh sông mặc như là mới may.”


+ Ghi chép lại những gì mà mình đã tưởng tượng để lựa chọn, chắt lọc đưa vào bài
viết của mình.


Ngồi ra, cịn có những “bí quyết” khác dùng để viết văn tả cảnh hay nữa đó là
sử dụng từ đồng nghĩa để tả. Nó giúp ta miêu tả chính xác, cụ thể biểu hiện muôn
màu, muôn vẻ của sự vật, hiện tượng. Chúng ta hãy đọc bài văn “Quang cảnh
ngày mùa” (SGK TV5 tập 1 trang 10) của nhà văn Tơ Hồi để thấy rõ giá trị của
từ đồng nghĩa trong văn tả cảnh.


Dưới ngòi bút tài hoa của nhà văn, các sự vật, hiện tượng trở nên vô cùng sinh
động. Tác giả miêu tả một cảnh vật rất quen thuộc với mọi người; quang cảnh làng
mạc ngày mùa. Nhưng người đọc không hề thấy khô khan, tẻ nhạt. Vì sao vậy? Đó


là bởi tài quan sát và nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ, đặc biệt là sử dụng <i><b>từ đồng</b></i>
<i><b>nghĩa chỉ màu sắc</b></i> để tả. trong bài văn, chỉ riêng về màu vàng thơi đã có hơn
mười sắc độ khác nhau dành cho từng sự vật. Có màu vàng đậm của lúa đã chín
(vàng xuộm); có màu vàng nhạt, tươi, ánh lên của những ngày nắng đẹp giữa mùa
đơng (vàng hoe); có màu vàng của quả chín, giợi cảm giác ngọt ngào (vàng lịm);
có màu vàng đậm, trải trên mặt của lá mít, lá chuối (vàng ối). Như vậy, nhờ sử
dụng từ đồng nghĩa để miêu tả mà không cần nhiều câu chữ, nhà văn Tô Hoài đã
vẽ lên trước mắt người đọc một bức tranh phong cảnh thật đẹp, toàn màu vàng
-màu đặc trưng của mùa gặt.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

* Một mẹo nữa của làm văn tả cảnh đó là chuyển kể thành tả.


Làm văn miêu tả là phải quan sát như đã nói. Nhưng khi làm bài, các em thường
kể lại chứ không phải là tả, làm cho bài văn khô khan, nhạt nhẻo.


Ví dụ: - Quanh thân cây có rất nhiều quả.


- Trên cánh đồng, em trơng thấy rất nhiều người đang gặt lúa.
- Buổi sáng, em nghe thấy tiếng chích chịe trong vắt. v.v..


Những câu văn như trên nặng về kể. Vậy chúng ta có thể diễn đạt lại như sau:
+ Quanh thân cây, chi chít những quả là quả.


+ Trên cánh đồng, các bác xã viên cắt lúa nhanh thoăn thoắt.
+ Buổi sáng, tiếng chích chịe trong vắt.


Đây mới chính là những câu văn miêu tả.


Như vậy, khi viết các em chỉ cần bỏ bớt những cụm từ như: nó có, em trơng thấy,
nghe thấy, ngửi thấy, sờ thấy, nghĩ rằng, .v.v.. rồi thêm vào những từ láy, tính từ


gợi tả, câu văn sẽ nhẹ nhàng, sinh động; đối tượng được miêu tả sẽ trực tiếp hiện
ra.


<i><b>4. Hướng dẫn xây dựng đoạn văn mở bài, thân bài, kết bài và xây dựng bố cục</b></i>
<i><b>bài văn.</b></i>


* Bố cục bài văn gồm ba phần:


- Mở bài: Giới thiệu chung về cảnh vật (cảnh vật đó ở đâu? Em tả nó vào lúc nào?
Nét nổi bật nhất của cảnh vật đó là gì?)


- Thân bài: Dùng lời văn để tả, tái hiện, sao chụp chân dung của đối tượng miêu tả
ở những góc nhìn nhất định. Có thể sử dụng những biện pháp nghệ thuật để lột tả
hình ảnh một cách sinh động.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

- Đoạn mở bài: Mở bài cũng giống như lời chào, lời mời gọi người đọc đến với
bài viết của mình. Cũng như lời chào, lời mời gọi có thể viết rất giản dị, chân
thành, tự nhiên, ngắn gọn nhưng cũng có lúc cần dẫn dắt gợi mở khéo léo gây ấn
tượng, gây sự hấp dẫn cho người đọc.


Chẳng hạn cũng mở bài cho bài văn tả con đường có em mở bài trực tiếp:


“Từ nhà em đến trường có thể đi theo nhiều ngã đường. Nhưng con đường mà em
thích đi hơn cả là con đường Nguyễn Trường Tộ”.


Nhưng cũng có em vào bài gián tiếp: “Tuổi thơ em có biết bao kỉ niệm gắn bó
với cảnh vật của q hương. Đây là dịng sơng nhỏ đầy ắp tiếng cười của bọn trẻ
chúng em mỗi buổi chiều hè. Kia là triền đê rộn rã tiếng hát của thanh niên nam
nữ những đêm trăng sáng. Nhưng gần gũi, thân thiết nhất với em vẫn là con đường
từ nhà đến trường – con đường đẹp đẽ suốt những năm tháng học trò của em.”


Như vậy, cũng là giới thiệu con đường từ nhà đến trường mỗi người lại có một
cách giới thiệu riêng. Với học sinh, sản phẩm này ít nhiều in dấu ấn riêng của từng
em trong cách suy nghĩ, giới thiệu, diễn đạt. Tuy nhiên chúng ta khơng nhất thiết
phải gị bó học sinh làm mở bài theo một cách nào, mà chỉ dẫn cho học sinh cách
vào bài phải bám sát yêu cầu của đề, không lan man, xa đề, không rườm rà nhưng
cũng không thơ kệch vơ dun.


* Thân bài: Có thể gồm một số đoạn văn, là toàn bộ nội dung miêu tả được viết
theo từng phần, từng ý đã sắp xếp khi quan sát, khi chuẩn bị bài. Trong đó, thể
hiện được hình ảnh về đối tượng miêu tả với ngơn từ và các biện pháp nghệ thuật
mà người viết vận dụng để tả.


Khi liên kết câu văn, đoạn văn các em cần vận dụng các cách liên kết đã học ở
Luyện từ và câu như: liên kết bằng từ ngữ nối, thay thế từ ngữ, lặp từ,… Tuy
nhiên khi sử dụng những cách liên kết này các em cần lựa chọn từ tránh sử dụng
không đúng gây rườm rà.


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

Thực tế cho thấy học sinh thường hay liệt kê cảm xúc của mình làm phần kết luận
khơ cứng, gị bó, thiếu tính chân thực. Chủ yếu các em thường làm kết bài không
mở rộng. Kết bài như vậy không sai nhưng chưa hay, chưa hấp dẫn người đọc. Vì
vậy giáo viên cần phải gợi ý để học sinh biết cách làm phần kết bài mở rộng bằng
cảm xúc tự nhiên của mình.


<i><b>5. Thực hiện nghiêm túc tiết trả bài Tập làm văn.</b></i>


Tiết trả bài tập làm văn giúp các em sửa chữa lỗi, rút kinh nghiệm cho bài viết lần
sau và học tập các bạn những cách viết hay để vận dụng vào các bài văn. Tuy
nhiên, ở tiết học này một số giáo viên thường làm qua loa, không chữa kĩ càng,
bớt xén thời gian để dạy mơn khác.



Vậy, muốn có được tiết trả bài có hiệu quả giáo viên cần phải:


- Chấm bài cẩn thận, kĩ càng; chữa từng lỗi nho trong bài viết cho học sinh.
- Ghi lại các lỗi của học sinh theo từng loại như: lỗi về cách dùng từ, đặt câu; lỗi


diễn đạt; lỗi chính tả;… ghi lại các từ, các câu hay, đoạn văn hay.
- Nhận xét ưu điểm, nhược điểm; thống kê số điểm.


- Chữa lỗi cho học sinh theo từng loại như đã thống kê khi chấm bài.
- Đọc những câu văn hay, đoạn văn hay để học sinh học tập.


- Trả bài và tổ chức cho học sinh thảo luận theo nhóm để các em trao đổi với các
bạn về cách làm bài của mình, đọc cho nhau nghe các câu văn hay, giúp nhau
sửa lỗi trong bài.


- Cho học sinh tự sửa lỗi và viết lại một đoạn cho đạt yêu cầu.


<b>C. KẾT QUẢ</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

+ Hầu hết học sinh biết trình bày bài văn có bố cục rõ ràng.


+ Các em đã biết phối hợp miêu tả vừa đảm bảo tính chân thực, vừa mang tính
nghệ thuật. Bài viết của các em sinh động hơn và giàu hình ảnh hơn.


+ Đọc bài viết của các em, người đọc đã hình dung được một cảnh vật cụ thể, có
đường nét, màu sắc. Mỗi bài văn tả cảnh của các em đã thể hiện được một bức
tranh sinh động với cảm xúc riêng của mỗi em.


Tóm lại, chất lượng mơn Tập làm văn nói chung và kiểu bài văn tả cảnh nói
riêng đã được nâng lên rõ rệt. Xin được nêu ra một số đoạn văn tả cảnh mà các em


đã viết để các thầy, cô đọc và cùng nhận xét:


+ Khi tả về cảnh sắc mùa xuân tươi đẹp học sinh đã viết: “… Sau những ngày
đông giá rét, những cây bàng, cây phượng khẳng khiu, trơ trụi bắt đầu đâm chồi
nảy lộc. Những búp non từ mấy hôm trước còn lấm tấm đầu cành nay đã xòe bung
ra như những ngón tay nhỏ hứng từng giọt mưa phùn rơi nhè nhẹ. Cả đất trời bừng
dậy trong nắng xuân. Một màu xanh non phủ dần trên các cành cây khô mốc
thếch, tạo nên một khung cảnh tươi mới và ấm áp lạ thường. …”


+ Khi tả về cánh đồng lúa quê em, một học sinh đã viết:


“… Từ xa nhìn lại, cánh đồng như một tấm thảm màu xanh khổng lồ trải dài tới
tận chân mây. Một đợt gió lùa vào tạo thành sóng lúa đuổi nhau ra xa mãi. Lúa tốt
bời bời nên không thấy bờ ngăn cách. Ruộng này tiếp nối ruộng kia, lúa bằng đầu
nhau trải rộng. Đứng ngắm cánh đồng lúa q mình mà lịng em rộn lên niềm vui
chẳng thể nào tả xiết. …”


+ Khi tả về sông nước, một học sinh viết:


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

Qua những dẫn chứng trên, chúng ta có thể thấy rõ hơn kết quả thể hiên trong
bảng so sánh sau của học sinh lớp 5C:


Thời gian Số học sinh Số bài đạt điểm khá, giỏi Số bài đạt điểm trung
bình trở xuống.


Trước thử nghiệm 24 11 13


Sau thử nghiệm 24 19 5


<b>D. KẾT LUẬN</b>




- Với cách thức dạy Tập làm văn tả cảnh ở Tiểu học nói trên, giáo viên phải có kế
hoạch một cách có hệ thống, phải kiên trì, bền bỉ, lâu dài, khơng thể nóng vội. Khi
học sinh đã hiểu rõ đặc điểm củ văn tả cảnh, biết quan sát đối tượng, tích lũy được
vốn từ miêu tả, biết xây dựng bố cục bài văn; cách diễn đạt, biết tưởng tượng và
sử dụng biện pháp nghệ thuật trong viết văn, được sửa lỗi kĩ càng trong tiết trả bài
thì viết văn tả cảnh trở nên dễ dàng hơn; học sinh hứng thú học hơn rất nhiều, chất
lượng bài viết của học sinh được nâng cao.


- Dạy Tập làm văn, người dạy phải gửi cả tâm hồn mình vào trong bài dạy, giáo
viên và học sinh càng đắm mình vào đối tượng miêu tả theo một dịng cảm xúc,
cùng hịa chung tình cảm để cùng tìm hiểu và cùng cảm nhận đối tượng với niềm
say mê, thích thú. Muốn vậy, người giáo viên phải có sự chuẩn bị chu đáo trước
khi lên lớp; phải nổ lực sáng tạo trong suốt quá trình dạy học. Chỉ có nghiên cứu
và sáng tạo mới cho giáo viên được những giờ dạy văn tả cảnh mới mẻ, sâu sắc,
sinh động đem lại hiệu quả cao.


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

Xin chân thành cảm ơn!


………
………
………
………
………
………
………
………
2. Ban giám hiệu:



</div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×