Tải bản đầy đủ (.pdf) (58 trang)

Nghiên cứu đặc điểm sinh học khả năng sinh trưởng sinh sản ở gà nhiều cựa của đồng bào dao thị trấn trại cau huyện đồng hỷ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.28 MB, 58 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

LÊ THỊ HƯƠNG
Tên đề tài:
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC, KHẢ NĂNG SINH TRƯỞNG,
SINH SẢN Ở GÀ NHIỀU CỰA CỦA ĐỒNG BÀO DAO
THỊ TRẤN TRẠI CAU, HUYỆN ĐỒNG HỶ

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Hệ đào tạo:

Chính quy

Chun ngành:

Dược Thú Y

Khoa:

Chăn ni Thú Y

Khóa học:

2016 - 2020

Thái Nguyên – năm 2020


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN


TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

LÊ THỊ HƯƠNG
Tên đề tài:
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC, KHẢ NĂNG SINH TRƯỞNG,
SINH SẢN Ở GÀ NHIỀU CỰA CỦA ĐỒNG BÀO DAO
THỊ TRẤN TRẠI CAU, HUYỆN ĐỒNG HỶ

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Hệ đào tạo:

Chính quy

Chuyên ngành:

Dược Thú Y

Lớp:

K48 - Dược Thú Y

Khoa:

Chăn ni Thú Y

Khóa học:

2016 - 2020


Giảng viên hướng dẫn:

PGS. TS. Nguyễn Thị Ngân

Thái Nguyên – năm 2020


i

LỜI CẢM ƠN
Trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu tại giảng đường trường Đại học Nông
lâm Thái Nguyên và quá trình thực tập tốt nghiệp tại cơ sở, em đã nhận được rất nhiều
sự giúp đỡ của các cơ quan, các cấp lãnh đạo và các cá nhân.
Với lòng biết ơn sâu sắc nhất, em xin bày tỏ lòng biết ơn, sự kính trọng sâu sắc
nhất tới: Ban giám hiệu Nhà trường, Ban chủ nhiệm khoa Chăn nuôi thú y, các thầy
cô giáo cùng ban lãnh đạo xã Quyết Thắng – TP. Thái Nguyên.
Đặc biệt, em xin chân thành cảm ơn sự quan tâm, giúp đỡ nhiệt tình của Cô
giáo GS.TS. Nguyễn Thị Kim Lan và PGS.TS. Nguyễn Thị Ngân, đã trực tiếp
chỉ bảo, động viên và hướng dẫn em trong suốt thời gian thực tập tốt nghiệp. Tất cả
những bài học đó sẽ giúp em vững tin hơn trong cuộc sống cũng như công tác sau
này. Một lần nữa em xin kính chúc thầy cơ giáo sức khỏe, hạnh phúc và thành công
hơn nữa trong sự nghiệp trồng người.
Cuối cùng em xin trân trọng gửi tới các Thầy giáo, Cô giáo trong hội đồng
chấm báo cáo lời cảm ơn chân thành và lời chúc tốt đẹp nhất.
Em xin chân thành cảm ơn !
Thái Nguyên, ngày 23 tháng 12 năm 2020
Sinh viên

Lê Thị Hương



ii

LỜI NÓI ĐẦU
Học tập trên giảng đường là thời gian sinh viên tiếp thu cơ sở lý thuyết, tìm hiểu
những cái hay, cái mới, những tiến bộ của khoa học kỹ thuật hiện đại.
Với phương châm “Học đi đôi với hành”, “Lý thuyết gắn liền với thực tiễn”, thực
tập tốt nghiệp là giai đoạn cuối cùng trong chương trình đào tạo của các trường đại học
nói chung và Trường Đại Học Nơng Lâm, Đại học Thái Ngun nói riêng.
Thực tập tốt nghiệp là quá trình học hỏi, nghiên cứu, ứng dụng những kiến
thức đã học vào thực tế sản xuất. Qua đó, giúp sinh viên nâng cao trình độ, củng cố
tay nghề, để trở thành một kỹ sư, bác sĩ thú y giỏi, đáp ứng yêu cầu của xã hội.
Xuất phát từ thực tế chăn nuôi, được sự đồng ý của Ban chủ nhiệm khoa Chăn
nuôi - Thú y, trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, cùng sự giúp đỡ của giảng
viên hướng dẫn PGS.TS. Nguyễn Thị Ngân, em tiến hành thực hiện đề tài:
“Nghiên cứu đặc điểm sinh học, khả năng sinh trưởng, sinh sản ở gà nhiều
cựa của đồng bào Dao thị trấn Trại Cau, huyện Đồng Hỷ”. Được sự hướng dẫn
của thầy cô cùng với sự nỗ lực của bản thân em đã hồn thành khóa luận này.
Do thời gian và trình độ có hạn, bước đầu làm quen với công tác nghiên cứu
khoa học nên bản khóa luận này khơng tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế. Vì
vậy, em rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô giáo và các bạn đồng nghiệp
để bản khóa luận này được hồn thiện hơn.


iii

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 4.1. Số lượng và sự phân bố gà nhiều cựa tại các địa phương .............. 31
Bảng 4.2. Nguồn gốc nhân đàn gà nhiều cựa tại các xã điều tra .................... 33

Bảng 4.3. Đặc điểm màu sắc lông của gà nhiều cựa ....................................... 34
Bảng 4.4. Kiểu mào của gà nhiều cựa............................................................. 35
Bảng 4.5. Màu da chân của gà nhiều cựa........................................................ 36
Bảng 4.6. Số cựa hai bên chân của gà nhiều cựa ............................................ 36
Bảng 4.7. Tập tính sống của gà nhiều cựa ...................................................... 38
Bảng 4.8. Kích thước các chiều đo của gà nhiều cựa (cm) ............................. 39
Bảng 4.9. Khối lượng cơ thể gà nhiều cựa ở các tuần tuổi ............................. 40
Bảng 4.10. Một số chỉ tiêu về khả năng sinh sản của gà nhiều cựa ................ 42


iv

MỤC LỤC

LỜI CẢM ƠN ................................................................................................... i
LỜI NÓI ĐẦU ................................................................................................. ii
DANH MỤC CÁC BẢNG ............................................................................. iii
MỤC LỤC ....................................................................................................... iv
Phần 1. MỞ ĐẦU ............................................................................................ 1
1.1. Đặt vấn đề................................................................................................... 1
1.2. Mục tiêu và yêu cầu của đề tài ................................................................... 2
1.3. Ý nghĩa của đề tài ....................................................................................... 2
1.3.1. Ý nghĩa khoa học .................................................................................... 2
1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn ..................................................................................... 2
Phần 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU ................................................................. 3
2.1.Cơ sở khoa học của đề tài ........................................................................... 3
2.1.1. Ngoại hình của gia cầm ........................................................................... 3
2.1.2. Tập tính và sức đề kháng......................................................................... 4
2.2. Một số đặc điểm sinh trưởng và các yếu tố ảnh hưởng tới khả năng sinh
trưởng của gia cầm ............................................................................................ 5

2.2.1. Khái niệm về sinh trưởng và phát triển ................................................... 5
2.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình sinh trưởng của gia cầm ................ 6
2.2.4. Tiêu tốn thức ăn ở gia cầm .................................................................... 12
2.3. Một số đặc điểm sinh sản của gia cầm ..................................................... 13
2.3.1. Năng suất trứng của gia cầm ................................................................. 13
2.3.2. Cơ sở di truyền của năng suất trứng...................................................... 13
2.4. Một số yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng thịt gia cầm ............................. 19
2.4.1. Những yêu cầu đối với chất lượng thịt ................................................. 19
2.4.2. Các biện pháp cải thiện chất lượng thịt gia cầm. .................................. 20
2.5. Tình hình nghiên cứu trên thế giới và trong nước ................................... 23
2.5.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới ........................................................ 23
2.5.2. Tình hình nghiên cứu trong nước .......................................................... 24


v

Phần 3. ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU ............................................................................................... 28
3.1. Đối tượng nghiên cứu............................................................................... 28
3.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu. ........................................................... 28
3.3. Nội dung nghiên cứu ................................................................................ 28
3.3.1. Điều tra về số lượng và sự phân bố gà nhiều cựa của đồng bào Dao thị
trấn Trại Cau.................................................................................................... 28
3.4. Phương pháp nghiên cứu và các chỉ tiêu theo dõi ................................... 28
3.4.2. Các chỉ tiêu theo dõi .............................................................................. 29
3.4.3. Phương pháp đo kích thước các chiều đo của gà: ................................. 30
3.5. Phương pháp xử lý số liệu: ...................................................................... 30
Phần 4. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN......................................................... 31
4.1. Số lượng và sự phân bố gà nhiều cựa tại 15 xã điều tra .......................... 31
4.2. Nguồn gốc nhân đàn gà nhiều cựa tại các xã điều tra .............................. 33

4.3. Một số đặc điểm sinh học của gà nhiều cựa tại các xã điều tra ............... 34
4.3.1. Màu sắc lông của gà nhiều cựa ............................................................. 34
4.3.2. Kiểu mào của gà nhiều cựa ................................................................... 35
4.3.3. Màu da chân của gà nhiều cựa .............................................................. 36
4.3.4. Số cựa hai bên chân của gà nhiều cựa................................................... 36
4.3.5. Tập tính sống của gà nhiều cựa ............................................................. 37
4.4. Khả năng sinh trưởng và sinh sản của gà nhiều cựa ................................ 38
4.4.1. Khả năng sinh trưởng ............................................................................ 38
4.3.2. Khả năng sinh sản của gà nhiều cựa ..................................................... 41
Phần 5. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ ............................................................. 44
5.1. Kết luận .................................................................................................... 44
5.2. Đề nghị ..................................................................................................... 45
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 46


1

Phần 1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Trong những năm gần đây ngành chăn nuôi gia cầm ở nước ta ngày càng phát
triển với tốc độ phát triển bình quân của những năm qua là 5%/năm và chăn nuôi gà
chất lượng cao đang là vấn đề được nhiều người quan tâm. Chăn ni gà đã có
những chuyển biến tích cực, đạt được những thành tựu khả quan: tổng đàn tăng lên
về số lượng và chất lượng được cải thiện. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thì
nhu cầu tiêu dùng thực phẩm có chất lượng cao của người dân lại càng tăng lên.
Hiện nay, xu thế chung của ngành chăn nuôi trên thế giới, đặc biệt là các nước
đang phát triển, bên cạnh việc phát triển thâm canh chăn nuôi cần đẩy mạnh cơng
tác bảo tồn, gìn giữ các giống vật nuôi địa phương nhằm bảo tồn và khai thác hợp lý
tài nguyên đa dạng sinh học mang lại tính ổn định bền vững cho phát triển lâu dài.

Đây là vấn đề cấp bách, khó khăn, phức tạp mang tính tồn cầu, cần được nhiều
ngành quan tâm.
Ở Việt Nam có rất nhiều giống vật ni truyền thống có giá trị kinh tế thấp
nên đang bị thu hẹp về không gian phân bố, giảm dần về số lượng và có nguy cơ bị
tuyệt chủng ví dụ như: lợn Ỉ, lợn Thanh Hóa, gà Hồ, gà Đơng Tảo, vịt Kỳ Lừa…
Gà nhiều cựa của đồng bào Dao thị trấn Trại Cau, huyện Đồng Hỷ là một
trong những giống vật nuôi cần được bảo tồn. Đây là giống gà được cộng đồng
người dân tộc Dao ni từ ngàn đời nay, nó gắn liền với tập quán văn hóa và đời
sống tinh thần của người Dao.
Qua điều tra sơ bộ, chúng tôi thấy giống gà nhiều cựa của đồng bào Dao thị
trấn Trại Cau, huyện Đồng Hỷ không chỉ thấy ở thị trấn Trại Cau mà đã được ni
tại một số hộ gia đình ở các địa phương khác trong tỉnh (do mua – bán, do làm quà
cho nhau…). Tuy nhiên, hiện nay giống gà nhiều cựa của đồng bào Dao thị trấn
Trại Cau, huyện Đồng Hỷ chỉ cịn với số lượng rất ít, có xu hướng tạp giao và mất


2

dần những đặc tính q hiếm, có khả năng tuyệt chủng nếu khơng có kế hoạch bảo
tồn và phát triển.
Những phân tích trên cho thấy, việc nghiên cứu về đặc điểm sinh học, khả
năng sinh trưởng, sinh sản ở gà nhiều cựa của đồng bào Dao thị trấn Trại Cau,
huyện Đồng Hỷ để có chiến lược bảo tồn nguồn gen của giống gà này là vấn đề
cần thiết.
1.2. Mục tiêu và yêu cầu của đề tài
- Điều tra về số lượng, địa bàn phân bố, tình hình chăn ni gà nhiều cựa của
đồng bào Dao thị trấn Trại Cau tại một số xã của huyện Đồng Hỷ, Đại Từ, Võ Nhai.
- Xác định một số đặc tính sinh học (ngoại hình; tập tính sống) ở gà nhiều cựa
của đồng bào Dao thị trấn Trại Cau.
- Xác định khả năng sinh trưởng và sinh sản ở giống gà nhiều cựa của đồng

bào Dao thị trấn Trại Cau, huyện Đồng Hỷ.
1.3. Ý nghĩa của đề tài
1.3.1. Ý nghĩa khoa học
Kết quả của đề tài sẽ cung cấp các thông tin về giống gà nhiều cựa của đồng
bào Dao thị trấn Trại Cau trên địa bàn một số xã thuộc các huyện Đồng Hỷ, Đại Từ
và Võ Nhai.
1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Các số liệu thu được phục vụ cho công tác bảo tồn nguồn gen gà nhiều cựa,
đồng thời làm cơ sở cho định hướng công tác giống sau này. Mặt khác, kết quả của
đề tài là tài liệu tham khảo cho những nghiên cứu tiếp theo.


3

Phần 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1.Cơ sở khoa học của đề tài
2.1.1. Ngoại hình của gia cầm
Theo Đặng Hữu Lanh và cs (1999)[12] màu sắc da, lông là mã hiệu của
giống, một tín hiệu để nhận dạng con giống. Màu sắc và phối hợp màu sắc đã đi
vào khía cạnh thẩm mỹ của con người. Màu sắc da, lông là một chỉ tiêu cho chọn
lọc: thông thường màu sắc đồng nhất là giống thuần, trên cơ sở đồng nhất đó mà
loang là không thuần, đã bị pha tạp. Màu sắc do một số ít gen kiểm sốt nên có thể
sử dụng để phân tích di truyền dự đốn màu của đời sau trong chọn lọc.
Hầu như khơng có tính trạng bên ngồi nào của vật ni được những nhà
chăn ni chú ý bằng sắc lơng và đốm. Vì vậy, khơng lấy làm lạ khi thấy sắc lơng
là một tính trạng của phẩm giống và đặc tính của phần lớn phẩm giống đều có u
cầu nhất định về sắc lơng. Sắc tố da, lông của gà được xác định bằng hai loại sắc
tố là xantofin và melanin. Xantofin là sắc tố tinh thể màu vàng, chất này gà lấy
từ thức ăn, nó chỉ nằm ở da những con có sắc vàng ở da, mỏ và cổ chân đều đồng

hợp thể theo gen mà alen trội của nó (W) hạn chế sự tích luỹ cơ - xantofin trong
máu và mỡ (Hutt). Melanin có ở da và gốc lông, xuất hiện không phụ thuộc vào
lứa tuổi.
Ở những con hồn tồn có màu, da thường có melanin. Ngồi ra, trong một
vài trường hợp đặc biệt, chất này cũng có cả ở lớp da trong, da ngoài. Ở những con
đồng hợp thể hay nửa đồng hợp thể do gen lặn (id) liên kết với giới tính, chất
melanin không lan rộng được do lớp da trong hạn chế. Nếu lớp da ngồi cũng có
chất xantofin thì da có màu óng ánh thấy rõ qua các tế bào stratun corneum trong
vắt của cẳng chân. Nếu cũng trong lớp da ấy mà lại có xantofin thì màu trở thành
xanh. Ở các giống có màu sắc đen, màu vàng có thể do màu đen che lấp.
Giải thích di truyền màu sắc da của các loại gia cầm như vậy, còn về màu sắc
lơng thì phức tạp hơn. Sự thay đổi về màu sắc lông do các nguyên nhân: thứ nhất
là do màu sắc, hình thức và sự phân bố các hạt màu trong tế bào, thứ hai là số


4

lượng các lớp tế bào cấu trúc và khả năng thâu nhạy ánh sáng của các tế bào ấy
(Hutt). Vì vậy, loại màu sắc này phụ thuộc vào cấu trúc. Ví dụ: các màu xanh, đỏ
thường thấy ở gà đen. Ở phần lớn các giống gà, gà trống và gà mái được phân biệt
nhau qua bộ lơng, lơng gáy, vịng cung cánh, lơng seo ở gà trống thì nhọn, cong và
dài. Tính trạng màu sắc và kiểu lơng là tính trạng bị giới hạn bởi giới tính.
Mào là đặc điểm sinh dục thứ cấp nên có thể phân biệt trống, mái. Mào gà rất
đa dạng cả về hình dáng, kích thước, màu sắc, có thể đặc trưng cho từng giống.
Theo hình dạng mào người ta phân biệt các loại: mào cờ (mào đơn), mào hạt đậu,
mào hoa hồng, mào nụ.
Cổ, bàn và ngón chân gà thường có vẩy sừng bao kín, cơ tiêu giảm chỉ cịn gân
và da. Chân thường có vuốt và cựa. Cựa có vai trị cạnh tranh sinh sản và đấu tranh
sinh tồn của loài. Chân gia cầm có 4 ngón, hiếm khi 5 ngón, vì thế khi phát hiện
chân gà có 5 ngón trở lên là gà nhiều ngón (trong dân gian thường gọi là gà nhiều cựa).

2.1.2. Tập tính và sức đề kháng
Tập tính động vật là chuỗi những phản ứng lại các kích thích của mơi trường
(bên trong cũng như bên ngồi cơ thể) nhờ đó mà động vật tồn tại và phát triển.
Dựa vào các đặc điểm của tập tính động vật, có thể phân biệt thành 2 nhóm tập
tính chính là: tập tính bẩm sinh và tập tính thứ sinh.
Tập tính bẩm sinh (inborn): là những hoạt động cơ bản của cơ thể động vật
mà ngay từ khi sinh ra đã có, khơng cần qua học hỏi, rèn luyện, mang tính bản
năng, được di truyền từ bố mẹ, không thay đổi và khơng chịu ảnh hưởng của điều
kiện và hồn cảnh sống, chúng được quyết định bởi yếu tố di truyền.
Tập tính thứ sinh (acquired): là loại tập tính được hình thành trong q trình
sống do học tập hoặc do có sự bàn giao giữa các cá thể cùng lồi.
Ở những nhóm động vật càng cao, càng tiến hóa, loại tập tính đó học được
càng nhiều, do đó chúng càng dễ thích nghi với điều kiện và hồn cảnh sống. Ngồi
ra, có thể kể loại tập tính thứ ba là tập tính hỗn hợp (mixed).
Sức sống và khả năng kháng bệnh là một chỉ tiêu quan trọng ảnh hưởng trực
tiếp tới cơ thể. Hiệu quả chăn nuôi bị chi phối bởi các yếu tố bên trong cơ thể (yếu
tố di truyền) và mơi trường ngoại cảnh (như: dinh dưỡng, chăm sóc, mùa vụ, dịch


5

tễ, chuồng trại ...). Lê Viết Ly (1995)[16] cho biết, động vật thích nghi tốt thể hiện ở
sự giảm khối lượng cơ thể thấp nhất khi bị stress, có sức sinh sản tốt, sức kháng
bệnh cao, sống lâu và tỷ lệ chết thấp.
Sức sống được xác định bởi tính di truyền, đó là khả năng có thể chống lại
những ảnh hưởng bất lợi của môi trường cũng như ảnh hưởng của dịch bệnh
(Johanson, 1972)[6].
Sự giảm sức sống ở giai đoạn hậu phơi có thể do tác động của các gen nửa gây
chết, nhưng chủ yếu là do tác động của môi trường (Brandsch and cs, 1978)[32].
Các giống vật nuôi nhiệt đới có khả năng chống bệnh truyền nhiễm, bệnh ký sinh

trùng cao hơn so với các giống vật nuôi ở vùng ơn đới (Trần Đình Miên và cs,
1994)[19].
Trần Thị Mai Phương (2004)[21] cho biết, tỷ lệ nuôi sống của gà Ác từ 0 - 8
tuần tuổi đạt 93,6 - 96,9%. Tỷ lệ nuôi sống của gà Ri từ 0 - 9 tuần 92,11% (Nguyễn
Đăng Vang và cs, 1999)[31].
2.2. Một số đặc điểm sinh trưởng và các yếu tố ảnh hưởng tới khả năng sinh
trưởng của gia cầm
2.2.1. Khái niệm về sinh trưởng và phát triển
Về mặt sinh học, sự sinh trưởng được xem như quá trình tổng hợp protein, nên
người ta thường lấy việc tăng khối lượng làm chỉ tiêu đánh giá khả năng sinh
trưởng. Sinh trưởng là một quá trình sinh lý phức tạp và tuân theo những quy luật
nhất định. Trần Đình Miên và cs (1995)[20] cho biết: Mydedorpho A.F là người đầu
tiên phát hiện ra quy luật sinh trưởng theo giai đoạn của động vật. Tác giả cho rằng
gia động vật non phát triển mạnh nhất sau khi mới sinh, sau đó tăng khối lượng
giảm dần theo từng tháng tuổi.
* Khái niệm sinh trưởng:
Sinh trưởng là một q trình sinh lý, sinh hố phức tạp, duy trì từ khi phơi
được hình thành cho đến khi con vật đã trưởng thành.
Trần Đình Miên và cs (1995)[20] đã khái qt: Sinh trưởng là một q trình
tích luỹ các chất hữu cơ thông qua trao đổi chất, là sự tăng lên về chiều cao, chiều
dài, bề ngang, khối lượng của từng cơ quan, bộ phận cũng như toàn bộ cơ thể trên


6

cơ sở tính di truyền từ đời trước.
Mozan (1977) (dẫn theo Chamber, 1990)[33] đã định nghĩa: “Sinh trưởng là
tổng hợp sự sinh trưởng của các bộ phận như thịt, xương, da. Những bộ phận này
không những khác nhau về tốc độ sinh trưởng mà còn phụ thuộc vào chế độ dinh dưỡng”.
Khái quát hơn, Trần Đình Miên và cs (1992)[18] đã định nghĩa đầy đủ như

sau: “Sinh trưởng là một q trình tích luỹ các chất hữu cơ do đồng hoá và dị hoá,
là sự tăng chiều cao, chiều dài, bề ngang, khối lượng của các bộ phận và toàn cơ thể
của con vật trên cơ sở tính chất di truyền từ đời trước”.
Cùng với quá trình sinh trưởng, các tổ chức và cơ quan của cơ thể luôn luôn
phát triển hồn thiện chức năng sinh lý của mình dẫn đến phát dục. Về mặt sinh
học, sinh trưởng của gia cầm là quá trình tổng hợp protein thu nhận từ bên ngồi
chuyển hố thành protein đặc trưng cho từng cơ thể của từng giống, dòng làm cho
cơ thể tăng lên về khối lượng và kích thước.
Sự sinh trưởng ở động vật tuân theo những quy luật nhất định. Theo Trần
Đình Miên và cs (1994)[19], Midedorpho (1987) là người đầu tiên phát hiện ra quy
luật sinh trưởng theo giai đoạn của vật nuôi. Tác giả cho rằng ở con non phát triển
mạnh nhất sau khi mới sinh, sau đó sự tăng khối lượng giảm dần theo tuổi. Theo
Kislowsky (1930) (dẫn theo Nguyễn Ân 1984)[1] đã khẳng định: thời gian của các
giai đoạn dài hay ngắn, số lượng giai đoạn và sự đột biến trong sinh trưởng của từng
giống, từng cá thể có sự khác nhau. Sự sinh trưởng khơng đều cịn thể hiện ở từng
bộ phận cơ quan (mô, xương, cơ), có bộ phận ở thời kỳ này phát triển nhanh, nhưng
ở thời kỳ khác lại phát triển chậm.
2.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình sinh trưởng của gia cầm
Các tính trạng số lượng, trong đó tốc độ sinh trưởng và khối lượng cơ thể gà,
chịu ảnh rất lớn các tác động của môi trường (E) (Environment). Theo Đặng Vũ
Bình (2002)[2]; Nguyễn Văn Thiện và cs (1995)[23], quan hệ giữa kiểu hình P
(Phenotype), kiểu gen G (Genotype) và mơi trường E (Environment) được biểu thị
bằng công thức P = G + E. Đặng Hữu Lanh và cs (1999)[12]; Nguyễn Văn Thiện và
cs (1998)[24] cho rằng, căn cứ vào mức độ, tính chất ảnh hưởng lên cơ thể gia súc,
gia cầm, môi trường E được chia làm hai loại:


7

- Môi trường chung Eg (General environment) tác động thường xuyên, liên

tục đến tất cả các cá thể trong quần thể.

- Môi trường riêng ES (Special environment) tác động đến một số cá thể riêng
biệt nào đó của quần thể trong một thời gian ngắn.
Theo Lê Đình Lương và cs (1994)[15] các giống gia súc, gia cầm đều nhận
được từ tổ tiên, bố mẹ của chúng một số gen quyết định tính trạng, trong đó có các
tính trạng số lượng. Đó chính là những đặc điểm di truyền của giống hoặc dịng,
nhưng những khả năng đó có phát huy được hay khơng cịn phụ thuộc rất nhiều vào
mơi trường sống của chúng như thức ăn, điều kiện chăm sóc ni dưỡng và khí hậu.

a) Ảnh hưởng của dịng, giống:
Mỗi dịng hay mỗi giống gia cầm có nhiều điểm khác nhau về đặc điểm ngoại
hình, sức sản xuất, khả năng kháng bệnh…từ đó ảnh hưởng rất lớn đến sự sinh
trưởng. Nhiều nghiên cứu đã khẳng định sự sinh trưởng của từng cá thể, giữa dịng,
giống có sự sai khác.
Sự di truyền về khối lượng cơ thể do 15 cặp gen tham gia, trong đó có ít nhất
một gen sinh trưởng liên kết với giới tính nằm trên nhiễm sắc thể X, vì vậy có sự
khác nhau về khối lượng cơ thể giữa con mái và con trống trong cùng một giống, gà
trống nặng hơn gà mái từ 24 - 32%. Ở gà, các giống gà hướng trứng nhẹ hơn các
giống gà hướng thịt 2 lần và giống gà kiêm dụng 1,3 - 1,7 lần.
Dẫn theo Đào Văn Khanh (2002)[11], Boshhlebao and cs (1972) cho rằng, sự
tồn tại của các gen hoặc các nhóm gen trong các dịng, giống gia súc, gia cầm rất
khác nhau nên dịng, giống khác nhau có tốc độ sinh trưởng không giống nhau,
Tốc độ sinh trưởng của các giống gà Leghorn trắng và Plymouth Rock tới 24 tuần
tuổi nhanh hơn gà Leghorn 3 - 6 tuần tuổi và sau đó khơng có sự khác nhau.
Nguyễn Mạnh Hùng và cs (1994)[9] cho biết, sự khác nhau về khối lượng
giữa các giống gia cầm rất lớn, giống gà kiêm dụng nặng hơn gà hướng trứng
khoảng 500 - 700g (13 - 30%).
Chọn lọc tính trạng sinh trưởng là do di truyền. Kết quả nghiên cứu của
Nguyễn Đức Hưng và cs (1997)[10] đã khẳng định, các giống gia cầm khác nhau

có năng suất khác nhau.


8

Như vậy khối lượng cơ thể, tốc độ sinh trưởng của các dòng, giống gia cầm
chịu ảnh hưởng lớn của các yếu tố di truyền. Trong thực tế sản xuất cũng như
trong nghiên cứu, để xác định mức độ ảnh hưởng của phần di truyền tới năng suất
của gia súc, gia cầm, người ta xác định hệ số di truyền của tính trạng đối với quần
thể gia cầm cụ thể để xây dựng chương trình cơng tác giống phù hợp. Theo
Nguyễn Ân (1983)[1], hệ số di truyền khối lượng cơ thể 3 tháng tuổi là 0,26 - 0,5.
Dẫn theo Chambers (1990)[33], Sigel và Kiney đã tổng kết tương đối hoàn chỉnh hệ
số di truyền tốc độ sinh trưởng là 0,4 - 0,5.
Tóm lại, ở các lứa tuổi khác nhau, các dịng gà khác nhau có hệ số di truyền
khác nhau và biến động trong khoảng 0,26 - 0,60. Ở các quần thể càng được chọn
lọc nhiều thì hệ số di truyền càng thấp và ngược lại.

b) Ảnh hưởng của chế độ dinh dưỡng đến khả năng sinh trưởng
Chamber (1990)[33] cho biết: Chế độ dinh dưỡng ảnh hưởng đến tốc độ sinh
trưởng, đến sự phát triển của từng mô khác nhau và gây nên sự biến đổi trong quá
trình phát triển của mô này đối với mô khác. Dinh dưỡng không chỉ ảnh hưởng tới
sự sinh trưởng mà còn ảnh hưởng đến sự di truyền về sinh trưởng.
Có nhiều nghiên cứu trong lĩnh vực sinh lý dinh dưỡng đã chứng minh để đạt
được năng suất cao nhất không những phải cung cấp đầy đủ các chất dinh dưỡng mà
còn phải chú ý đến tỷ lệ thích hợp nhất giữa chúng.
Gia cầm sử dụng thức ăn nhằm đảm bảo các hoạt động duy trì cơ thể và sản
xuất (sinh trưởng, sản xuất trứng). Năng lượng và protein là hai yếu tố dinh dưỡng
quan trọng nhất trong khẩu phần thức ăn của gà. Ngoài ra trong dinh dưỡng gia cầm
các thành phần như acid béo, khống, vitamin và nước cũng khơng thể thiếu được.
Khống vơ cơ là một thành phần trong khẩu phần ăn dưới dạng canxi (Ca), photpho

(P), natri (Na), kali (K), mangan (Mn) và clo (CL), những nguyên tố này có chức
năng khác nhau, đặc biệt là ba nguyên tố Ca, P và Na có vai trị trong việc hình
thành xương, vỏ trứng, điều khiển chức năng thẩm thấu của cơ thể và hoạt động như
những chất bổ trợ của Enzyme. Đồng (Cu), Iod (I), Sắt (Fe), Mangan (Mn), Selen (
Se) là những yếu tố vi lượng.
Vitamin là hợp chất hữu cơ được chia thành hai nhóm: nhóm hịa tan trong


9

nước và nhóm hịa tan trong dầu. Gia cầm chỉ cần một lượng nhỏ sinh tố trong khẩu
phần ăn là đủ.

c) Ảnh hưởng của các yếu tố môi trường đến sinh trưởng của gia cầm
Các yếu tố mơi trường có ảnh hưởng rất lớn tới sự sinh trưởng của gia cầm
như: nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng, độ thơng thống...Trong đó, nhiệt độ và ẩm độ là
hai yếu tố ln thay đổi theo mùa vụ và có ảnh hưởng rõ rệt đến tốc độ sinh trưởng
của gia cầm. Đã có rất nhiều nghiên cứu chứng minh được sự ảnh hưởng của hai
yếu tố này.
- Ảnh hưởng của yếu tố nhiệt độ:
Gà con ở giai đoạn còn nhỏ (30 ngày tuổi đầu) cơ quan điều khiển nhiệt chưa
hoàn chỉnh, nên yêu cầu về nhiệt độ tương đối cao. Gà rất nhạy cảm với tác động
của điều kiện khí hậu thay đổi. Những ngày đầu tiên thân nhiệt của gà con mới nở
không ổn định và phụ thuộc vào nhiệt độ chuồng ni. Vì thế nhiệt độ chuồng ni
trong giai đoạn đầu của gà cần phải quan tâm giữ ấm, nếu nhiệt độ quá thấp gà con
sẽ tụ đống lại, không ăn, gà sinh trưởng kém hoặc chết do tụ đống, dẫm đạp lên
nhau. Song ở các giai đoạn sau nếu nhiệt độ môi trường quá cao sẽ hạn chế việc sử
dụng thức ăn, gà uống nhiều nước, bài tiết phân lỏng, hạn chế khả năng sinh trưởng
và dễ mắc các bệnh về đường tiêu hoá.
Ảnh hưởng của yếu tố nhiệt độ là những tác động liên quan đến việc tiêu thụ

thức ăn, ngồi ra cịn làm tăng hoạt động sinh lý của hệ tuần hồn, hơ hấp, gây
stress mạnh. Nhiệt độ thích hợp nhất cho gà là 15oC đến 25oC. Những thay đổi
nhiệt độ trên và dưới ngưỡng này đều có thể gây stress và ảnh hưởng đến khả năng
sinh trưởng và phát triển của gà.
+ Ảnh hưởng của độ ẩm khơng khí:
Ẩm độ cũng là một tác nhân ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát triển của gia
cầm. Trong mọi điều kiện của thời tiết, nếu ẩm độ khơng khí cao đều bất lợi cho gia
súc, gia cầm, bởi vì nhiệt độ thấp mà ẩm độ cao làm tăng khả năng dẫn nhiệt, gà con
dễ mất nhiệt gây cảm lạnh. Ngược lại, khi nhiệt độ cao, ẩm độ cao làm cơ thể gia
cầm thải nhiệt khó khăn, dẫn đến cảm nóng. Nhiệt độ và ẩm độ là hai yếu tố luôn
thay đổi theo mùa vụ, nên ảnh hưởng của thời tiết, mùa vụ đến tốc độ sinh trưởng
của gia cầm là điều tất yếu.


10

Vai trị của ẩm độ khơng khí cùng với nhiệt độ môi trường luôn là những tác
nhân chủ yếu ảnh hưởng trực tiếp đến tiểu khí hậu chuồng ni, từ đó ảnh hưởng trực
tiếp đến hoạt động sống hàng ngày của cơ thể gia cầm, chúng không chỉ ảnh hưởng
khi gia cầm còn nhỏ, mà còn tác động khi chúng đã lớn, thậm chí cịn ở cả giai đoạn
phơi thai. Phisinhin (1985) (dẫn theo Đào Văn Khanh, 2002)[11] đã xác nhận: Gà con
nở vào mùa xuân, thường sinh trưởng kém trong 15 ngày đầu, sau đó tốc độ sinh
trưởng chậm kéo dài đến 3 tháng tuổi.
Gà con nở vào mùa xuân và mùa hè, thời gian đầu sinh trưởng kém, ngược lại
nở vào mùa thu thì gà sinh trưởng tốt ngay trong những ngày tuổi đầu. Như vậy trong
điều kiện khí hậu tối ưu, ẩm độ thấp, thời tiết mát mẻ sẽ ảnh hưởng tốt đến sinh
trưởng của gia cầm (dẫn theo Đào Văn Khanh (2002)[11]
+ Ảnh hưởng của yếu tố ánh sáng:
Gia cầm rất nhạy cảm với ánh sáng, đặc biệt là giai đoạn gà con và giai
đoạn gà đẻ. Thời gian và cường độ chiếu sáng phù hợp sẽ tạo điều kiện thuận lợi

cho gà ăn, uống, vận động, ảnh hưởng tốt đến khả năng sinh trưởng. Theo Bùi
Đức Lũng và cs (1993)[14], gà broiler cần được chiếu sáng 23 giờ/ngày khi ni
trong chuồng kín.

d) Ảnh hưởng của kỹ thuật ni dưỡng, chăm sóc
Chăn ni gia cầm hiện đang phát triển mạnh ở nước ta, song chăn nuôi nói
chung và chăn ni gà nói riêng là vấn đề nan giải đối với những nước có khí hậu
khơng thuận lợi. Khí hậu nước ta thuộc loại khí hậu nhiệt đới gió mùa. Trong q
trình chăn ni, rất nhiều yếu tố khí hậu đã có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả chăn
ni như nhiệt độ, ẩm độ khơng khí, ánh sáng... Vì vậy, ở nước ta, nhất là ở miền
Bắc phải có những biện pháp bảo vệ chuồng ni chu đáo. Những biện pháp như
che gió, thơng thống, sưởi ấm... nhằm tạo ra tiểu khí hậu chuồng ni tối ưu,
cũng như nuôi ở mật độ hợp lý, vận dụng một cách linh hoạt tuỳ thuộc vào sự
biến động của thời tiết là một việc làm cần thiết để triệt tiêu hoặc làm hạn chế
đến mức thấp nhất những ảnh hưởng bất lợi của môi trường, giúp chăn nuôi đạt
kết quả cao.
Sự biến đổi tiểu khí hậu trong chuồng ni (như: nhiệt độ, ẩm độ, gió, bụi, ánh
sáng...) và tính chất hóa học (khí oxy, nitơ, cacbonic, amoniac...) và vi sinh vật,


11

khác xa so với khơng khí ngồi tự nhiên.
Mật độ nuôi cũng là một vấn đề nhạy cảm, ảnh hưởng tới hiệu quả và năng
suất chăn nuôi gia cầm. Nuôi mật độ thưa thì lãng phí cơng lao động, lãng phí
chuồng trại và hiệu quả chăn ni thấp. Ni ở mật độ cao khơng hợp lý, ảnh
hưởng tới tiểu khí hậu chuồng nuôi.
Mật độ nuôi ảnh hưởng tới nhiều vấn đề:
+ Mật độ ni ảnh hưởng tới hàm lượng khí độc sinh ra trong chuồng ni.
Khí độc trong chuồng sinh ra từ phân bị phân huỷ, nước tiểu, nước thải, thức ăn

thừa... tạo thành các khí NH3, CO2, H2S, CH4... Khí NH3 khi đi vào cơ thể khiến
hàm lượng kiềm dự trữ trong máu tăng, làm cho gia cầm rơi vào trạng thái trúng
độc kiềm (Đỗ Ngọc Hoè, 1995)[7]. Khi hàm lượng NH3 trong chuồng là 25ppm sẽ
làm giảm lượng hemoglobin trong máu, giảm sự trao đổi khí, giảm hấp thu dinh
dưỡng và làm giảm tăng trọng của gà tới 4% (theo Coldhaft (1971), dẫn theo Đỗ
Ngọc Hoè, 1995[7]). Cũng giống như NH3, khí H2S cũng là khí độc ảnh hưởng
tới sinh trưởng, H2S kết hợp với Na+ trong dịch niêm mạc đường hô hấp tạo
thành Na2S, muối này đi vào máu, thuỷ phân thành H2S, tác động tới thần kinh,
gây trúng độc cho vật nuôi. Nếu nồng độ H2S lớn hơn 1mg/l gà sẽ chết vì bị liệt
trung khu hô hấp.
2.2.3. Một số chỉ tiêu sinh trưởng của gia cầm
Sinh trưởng tích luỹ: Là sự tăng khối lượng cơ thể, kích thước các chiều đo
trong một đơn vị thời gian nhất định. Khối lượng cơ thể ở tại một thời điểm nào đó
là chỉ tiêu được sử dụng quen thuộc nhất để chỉ khả năng sinh trưởng. Xác định
được khối lượng cơ thể sau các khoảng thời gian khác nhau như: 1 tuần tuổi, 2 tuần
tuổi... sẽ cho những số liệu về sinh trưởng tích luỹ. Đối với gà thịt, sinh trưởng tích
luỹ là chỉ số năng suất quan trọng nhất làm căn cứ để so sánh các cá thể, các dòng
hoặc giống với nhau.
Đối với gà đẻ trứng, sinh trưởng tích luỹ, đặc biệt trong giai đoạn hậu bị có
liên quan chặt chẽ đến khả năng sinh sản của gà ở giai đoạn đẻ trứng. Nếu khối
lượng cơ thể nhỏ thì khả năng sinh sản thấp, nếu khối lượng cơ thể lớn thì tiêu tốn


12

thức ăn tăng. Như vậy khối lượng cơ thể gà mái đẻ trứng có ảnh hưởng lớn đến hiệu
quả kinh tế.
Trần Long (1994)[13] đã nghiên cứu đường cong sinh trưởng của các dòng
gà V1, V3, V5 thuộc giống gà Hybro (HV 85), đường cong sinh trưởng của 3 dịng
gà có sự khác nhau, trong mỗi dòng giữa gà trống và mái cũng có sự khác nhau:

tốc độ sinh trưởng cao ở giai đoạn 7 - 8 tuần tuổi đối với gà trống và 6 - 7 tuần đối
với gà mái.
Sinh trưởng tuyệt đối: Là sự tăng lên về khối lượng, kích thước, thể tích cơ thể
trong khoảng thời gian giữa 2 lần khảo sát. Trong chăn nuôi thường sử dụng chỉ tiêu
(gram/con/ngày hoặc gram/con/tháng) để đánh giá sinh trưởng tuyệt đối. Đồ thị sinh
trưởng tuyệt đối có dạng parabon.
Sinh trưởng tương đối: Là tỷ lệ phần trăm (%) tăng lên của khối lượng, kích
thước và thể tích cơ thể lúc kết thúc khảo sát so với lúc bắt đầu khảo sát. Đồ thị sinh
trưởng tương đối có dạng hyperbon.
2.2.4. Tiêu tốn thức ăn ở gia cầm
Hệ số tương quan giữa khối lượng cơ thể và tăng trọng với tiêu tốn thức ăn
thường rất cao (r = 0,5 - 0,9). Tương quan giữa sinh trưởng và chuyển hoá thức ăn
là tương quan nghịch (r = -0,2 đến -0,8). Xác định hệ số tương quan giữa khả năng
tăng khối lượng cơ thể và hiệu quả chuyển hoá thức ăn ở gà từ 1 - 4 tuần tuổi, hệ số
này là r = 0,5.
Những giai đoạn đầu, tiêu tốn thức ăn thấp hơn so với các giai đoạn sau. Theo
Trần Công Xuân và cs (1995)[29], gà broiler Ross 208 - V35 được nuôi cùng chế
độ dinh dưỡng, tiêu tốn thức ăn/kg tăng trọng ở 4; 6 và 8 tuần tuổi tương ứng là
1,65; 1,83 và 2,02kg.
Đối với gia cầm sinh sản lấy trứng giống hoặc thương phẩm, tiêu tốn thức ăn
thường được tính cho 10 quả trứng hoặc 1 kg trứng.
Theo Nguyễn Đăng Vang và cs (1999)[31], tiêu tốn thức ăn/10 quả trứng của
gà Đông Tảo trong 36 tuần đẻ là 4,14kg. Trần Công Xuân và cs (1999)[30] cho


13

biết : Gà Tam Hồng Jiangcun có mức tiêu tốn thức ăn/10 quả trứng trong 66 tuần
đẻ đạt 2,94 - 2,99kg. Theo Phùng Đức Tiến và cs (1999)[26], gà kiêm dụng trứngthịt Ai Cập tiêu tốn 2,33 kg thức ăn/10 quả trứng trong 43 tuần.
Gà đẻ trứng tiêu chuẩn có mức tiêu tốn thức ăn cho sản xuất trứng thấp.

Nguyễn Huy Đạt và cs (1996)[5] cho biết, tiêu tốn thức ăn/10 quả trứng trung bình
trong 12 tháng đẻ ở gà Goldline - 54 thương phẩm là 1,65 - 1,84 kg, ở gà Moravia
thương phẩm đạt 1,86 kg.
Ngoài ra, tiêu tốn thức ăn của gia cầm còn phụ thuộc vào điều kiện khí hậu,
thời tiết, chế độ chăm sóc ni dưỡng và tình trạng sức khoẻ của gia cầm.
2.3. Một số đặc điểm sinh sản của gia cầm
2.3.1. Năng suất trứng của gia cầm
Các nhà phôi thai học cho rằng, trứng gia cầm nói chung và trứng gà nói riêng
là một tế bào sinh sản khổng lồ gồm lòng đỏ, lòng trắng, màng vỏ và vỏ. Buồng
trứng có chức năng tạo thành lòng đỏ, còn các thành phần khác như lòng trắng,
màng vỏ và vỏ do ống dẫn trứng tạo nên. Nhiều cơng trình nghiên cứu đã khẳng
định: ở gà mái, trong q trình phát triển phơi, hai bên phải và trái của gà mái đều
có buồng trứng, tuy nhiên sau khi nở thì buồng trứng bên phải tiêu biến, chỉ còn lại
buồng trứng bên trái.
Theo nhiều tác giả, số lượng tế bào trứng có sự khác nhau. Pearl and Schoppe
(1921) đếm được 1.906 trứng bằng mắt thường và 12.000 trứng bằng kính hiển vi.
Jull (1939 - 1948) cho rằng: ở gà mái thời kỳ đẻ trứng có thể đếm được 3.600
trứng, trong khi đó Hutt (1978) đã đếm và cho biết: số lượng tế bào trứng của gà
mái có thể lên tới hàng triệu tế bào. Frege (1978) cho rằng, tế bào trứng lúc bắt
đầu đẻ là 900 – 3.500 ở gà mái, 1.500 ở vịt mái, nhưng chỉ có một số lượng rất hạn
chế chín và rụng (dẫn theo Lê Thị Nga, 2004)[22].
2.3.2. Cơ sở di truyền của năng suất trứng
Sinh sản là một quá trình để tạo ra thế hệ sau, sự phát triển hay hủy diệt của
một loài, trước tiên phụ thuộc vào khả năng sinh sản của lồi đó.
Khả năng sinh sản của gia cầm được thể hiện qua các chỉ tiêu về năng suất
trứng, khối lượng, hình dạng, chất lượng trứng, khả năng thụ tinh và ấp nở. Đối


14


với các giống gia cầm khác nhau thì khả năng sinh sản của chúng cũng rất khác
nhau. Bởi vậy, các nhà khoa học trên thế giới đã tập trung nghiên cứu cơ sở di
truyền sức đẻ trứng của gia cầm và cho rằng, việc sản xuất trứng của gia cầm có
thể do 5 yếu tố ảnh hưởng mang tính di truyền. Các yếu tố đó là:
- Tuổi thành thục về sinh dục: người ta cho rằng, ít nhất cũng có hai cặp gen
chính tham gia vào yếu tố này: gen E (gen liên kết với giới tính) và gen e; còn cặp thứ
hai là gen E’ và e’ chịu trách nhiệm về tính thành thục sinh dục.
- Cường độ đẻ trứng của gia cầm: yếu tố này do hai cặp gen R và r, R’ và r’
phối hợp để điều hành.
- Bản năng ấp: do hai gen A và C điều khiển phối hợp với nhau.
- Thời gian nghỉ đẻ (đặc biệt là nghỉ đẻ vào mùa đông) do các gen M và m
điều khiển. Gia cầm có gen mm thì mùa đơng vẫn tiếp tục đẻ đều.
- Thời gian kéo dài của chu kỳ đẻ: do cặp gen P và p điều khiển.
Trong 5 yếu tố trên thì yếu tố thứ năm và yếu tố thứ nhất kết hợp với nhau,
cũng có nghĩa là các cặp gen Pp và Ee có phối hợp với nhau. Tuy nhiên, ngồi các
cặp gen chính tham gia vào việc điều khiển các yếu tố trên thì có thể cịn có nhiều
gen khác phụ trợ vào.
a. Tuổi đẻ quả trứng đầu
Nhiều tác giả khi nghiên cứu về tuổi đẻ quả trứng đầu cho rằng, đây là chỉ tiêu
đánh giá sự thành thục sinh dục, cũng được coi là một yếu tố cấu thành năng suất
trứng. Đối với từng cá thể, tuổi đẻ quả trứng đầu tiên là số ngày tuổi kể từ khi nở ra
đến khi đẻ quả trứng đầu. Trong thực tế, tuổi đẻ quả trứng đầu của một đàn (quần
thể) được xác định khi có 5% số cá thể trong đàn đã đẻ.
Theo Trần Đình Miên và cs (1995)[20], có ít nhất hai cặp gen cùng quy định
tuổi đẻ quả trứng đầu, cặp thứ nhất gen E và e liên kết với giới tính, cặp thứ hai là
E’ và e’. Tuổi đẻ và năng suất trứng có mối tương quan nghịch, giữa tuổi đẻ và khối
lượng trứng lại có tương quan thuận. Tuổi đẻ quả trứng đầu phụ thuộc vào bản chất
di truyền, chế độ nuôi dưỡng, các yếu tố môi trường. Đặc biệt là thời gian chiếu
sáng sẽ thúc đẩy gia cầm thành thục sinh dục, thời gian chiếu sáng dài sẽ thúc đẩy
gia cầm đẻ sớm.



15

Nicola và cs đã tính hệ số tương quan di truyền giữa tuổi thành thục với sản lượng
trứng là 0,11 (dẫn theo Trần Long, 1994)[13].
b. Năng suất trứng và tỷ lệ đẻ
Năng suất trứng là số lượng trứng đẻ ra của một gia cầm mái trong một đơn
vị thời gian. Đối với gia cầm đẻ trứng thì đây là chỉ tiêu năng suất quan trọng
nhất, nó phản ánh trạng thái sinh lý và khả năng hoạt động của hệ sinh dục. Năng
suất trứng là một tính trạng số lượng nên nó phụ thuộc nhiều vào điều kiện ngoại
cảnh và cũng phụ thuộc nhiều vào loài, giống, hướng sản xuất, mùa vụ, điều kiện
dinh dưỡng, chăm sóc và đặc điểm của cá thể.
Brandsch và cs (1978)[32] cho rằng, sản lượng trứng được tính đến 500 ngày
tuổi. Cũng theo tác giả trên thì sản lượng trứng cịn được tính theo năm (365 ngày),
kể từ khi đẻ quả trứng đầu tiên. Trong thời gian gần đây, sản lượng trứng được tính
theo tuần tuổi. Các hãng gia cẩm nổi tiếng trên thế giới như Shaver (Canada),
Lohmann (Đức)..., tính sản lượng trứng 70 và 80 tuần tuổi.
Năng suất trứng là một tính trạng số lượng có mối tương quan nghịch chặt chẽ
với tốc độ sinh trưởng sớm, do đó trong chăn ni gà sinh sản người ta thường quan
tâm đến việc cho gà ăn hạn chế trong các giai đoạn cuối gà con, giai đoạn gà dò hậu bị để đảm bảo cho năng suất trứng cao trong giai đoạn đẻ trứng. Năng suất
trứng có hệ số di truyền không cao, nhưng lại dao động lớn. Theo Nguyễn Văn
Thiện (1995)[23] hệ số di truyền năng suất trứng của gà là 0,12 - 0,3. Đối với tính
trạng năng suất trứng, để cải thiện năng suất cần áp dụng phương pháp lai, kết hợp
với chọn lọc cá thể, nếu chỉ áp dụng chọn lọc đơn thuần thì việc nâng cao năng suất
trứng ít có hiệu quả.
Tỷ lệ đẻ và năng suất trứng có liên quan chặt chẽ với nhau, tỷ lệ đẻ trứng được
tính theo tuần, tháng, năm, điều đó cũng thể hiện cường độ đẻ trứng là sức đẻ trứng
trong một thời gian nhất định. Cường độ đẻ trứng phụ thuộc và độ dài của chu kỳ đẻ
trứng, chu kỳ đẻ trứng chính là thời gian gia cầm đẻ liên tục khơng bỏ ngắt qng,

cịn được gọi là trật đẻ.
Cường độ đẻ trứng có tương quan dương và chặt chẽ với sản lượng trứng. Đây
chính là tính trạng có hệ số di truyền cao, thường được sử dụng để chọn lọc nâng


16

cao năng suất trứng.
Cường độ đẻ trứng có tương quan rất chặt chẽ với năng suất trứng của cả
năm, thường người ta dựa theo các số liệu đẻ trứng những tháng đầu tiên và
thường theo dõi sản lượng trứng từ lúc bắt đầu đẻ đến 36 hoặc 38 tuần tuổi để
đánh giá sức đẻ trứng của cả năm.
c. Khối lượng trứng gia cầm
Khối lượng trứng cũng là một tính trạng số lượng, tính trạng này do nhiều gen
có tác động cộng gộp quy định. Đến nay, người ta cũng chưa xác định được số
lượng gen quy định tính trạng này. Sau sản lượng trứng, khối lượng trứng là chỉ tiêu
quan trọng cấu thành năng suất của đàn bố mẹ. Khi cho lai hai dịng gia cầm có khối
lượng trứng lớn và khối lượng trứng nhỏ, trứng của con lai thường có khối lượng
trung bình nghiêng về một dịng.
Khối lượng trứng là một tính trạng có hệ số di truyền cao, có thể đạt được mục
đích nhanh chóng thơng qua con đường chọn lọc. Ngoài các yếu tố di truyền, khối
lượng trứng còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố ngoại cảnh như: chăm sóc, ni dưỡng,
mùa vụ, tuổi gia cầm. Khối lượng trứng mang tính đặc trưng của từng lồi và có
tính di truyền cao. Hệ số di truyền của tính trạng này là 0,48 - 0,8 (Brandsch and cs
(1978)[32].
Theo Nguyễn Văn Thiện (1995)[23], hệ số di truyền về khối lượng trứng của
gà là 0,6 - 0,74.
Kết quả nghiên cứu của Lê Hồng Mận và cs (1996)[17] cho thấy: Khối lượng
trứng có tương quan âm với sản lượng trứng, hệ số tương quan (r) nằm trong
khoảng từ -0,33 đến - 0,36, tuy nhiên giữa khối lượng trứng và khối lượng cơ thể có

tương quan dương (r = 0,31).
d. Chất lượng trứng
Trứng gia cầm gồm 3 phần cơ bản là: vỏ trứng, lòng đỏ và lòng trắng. Tỷ lệ
các phần so với khối lượng trứng như sau: vỏ chiếm 10 - 11,6%; lòng trắng 57 60%; lòng đỏ 30 - 32%. Thành phần hóa học của trứng khơng vỏ như sau: nước chiếm
73,5 - 74,4%; protein 12,5 - 13%; mỡ 11 - 12%; khoáng 0,8 - 1,0%.
Màu sắc vỏ trứng: Màu sắc vỏ trứng khơng có ý nghĩa lớn trong đánh giá chất
lượng trứng, nhưng có ý nghĩa trong kỹ thuật và thương mại. Màu sắc vỏ trứng là


17

tính trạng đa gen, ở gà khi lai dịng gà trứng vỏ trắng với dịng gà trứng vỏ nâu thì
gà lai sẽ có trứng màu trung gian. Brandsch và cs (1978)[32] cho biết, hệ số di
truyền tính trạng này là 0,55 - 0,75.
Bề mặt vỏ trứng: Thường trứng gia cầm đẻ có bề mặt trơn, đều, song cũng có
một số cá thể thường đẻ ra trứng có bề mặt xấu, xù xì, có vệt canxi hay đường gờ
lượn sóng, loại trứng này gia tăng khi tuổi đẻ của gia cầm mái cao, ảnh hưởng xấu
đến kết quả ấp nở cũng như thị hiếu người tiêu dùng, đồng thời cũng làm cho tỷ lệ
trứng dập vỡ cao hơn, gây thiệt hại kinh tế cho người chăn ni.
Chỉ số hình thái: Trứng gia cầm thường có hình ovan hoặc elip, một đầu lớn
và một đầu nhỏ. Người ta đã tính tốn được chỉ số hình thái trứng thơng qua
phương pháp tốn học. Chỉ số hình thái có thể tính bằng hai cách: tỷ số giữa
chiều dài và chiều rộng trứng hoặc tỷ lệ phần trăm giữa chiều rộng so với chiều
dài của trứng.
Trong chăn ni gia cầm sinh sản, chỉ số hình thái của trứng là một chỉ tiêu để
xem xét chất lượng của trứng, đặc biệt là trứng ấp, những quả trứng dài hoặc quá
tròn đều cho tỷ lệ ấp nở thấp. Trứng của mỗi giống gia cầm đều có chỉ số hình thái
riêng (Lê Hồng Mận và cs 1996)[17].
Độ dày và độ bền vỏ trứng: Độ dày, độ bền hay độ chịu lực của vỏ trứng là
một trong những chỉ tiêu quan trọng đối với gia cầm, có ảnh hưởng tới kết quả ấp

nở và bao gói vận chuyển. Độ dày và độ bền vỏ trứng phụ thuộc vào giống, tuổi,
điều kiện chăm sóc, ni dưỡng và nhiệt độ chuồng nuôi. Tuổi gà hay tác nhân
stress đều làm giảm độ dày và sức bền vỏ trứng.
Theo Nguyễn Văn Thiện (1995)[23] , hệ số di truyền của độ dày vỏ trứng là 0,3.
Độ dày vỏ trứng có tương quan dương với độ bền và ảnh hưởng đến kết quả ấp nở.
Thường trứng có vỏ quá dày hoặc quá mỏng đều có tỷ lệ nở kém. Vỏ trứng quá dày
làm hạn chế sự bốc hơi nước của trứng, cản trở quá trình phát triển của phơi, gia
cầm con khó đạp vỡ vỏ khi nở. Nếu vỏ trứng quá mỏng làm quá trình bay hơi nước
diễn ra nhanh, khối lượng trứng giảm nhanh, dễ chết phôi, sát vỏ, gia cầm con nở
ra yếu và tỷ lệ chết cao, độ dày lý tưởng của vỏ trứng là 0,26 - 0,34mm. Ngoài
ra, độ dày vỏ trứng cịn chịu ảnh hưởng của mơi trường như thức ăn, tuổi gà, nhiệt
độ xung quanh, stress và nhiều yếu tố khác.


18

Chỉ số lòng đỏ, lòng trắng và đơn vị Haugh: Khi đánh giá chất lượng trứng
giống cũng như trứng thương phẩm người ta đặc biệt quan tâm đến chỉ tiêu này, chỉ
tiêu này càng cao thì chất lượng trứng càng tốt và tỷ lệ nở càng cao.
- Chỉ số lòng đỏ: Chất lượng lòng đỏ được xác định bởi chỉ số lòng đỏ, mà chỉ
số này là tỷ số giữa chiều cao lịng đỏ với đường kính của nó. Chỉ số lòng đỏ của
trứng gà tươi nằm giữa 0,4 - 0,42. Trứng có chỉ số lịng đỏ càng lớn thì chất lượng
trứng càng tốt.
- Chỉ số lòng trắng: là chỉ tiêu đánh giá chất lượng lòng trắng, chỉ số này được
tính bằng tỷ lệ giữa chiều cao lịng trắng đặc so với trung bình cộng đường kính lớn và
đường kính nhỏ của nó, chỉ số này lớn thì chất lượng lòng trắng càng cao. Chỉ số lòng
trắng bị ảnh hưởng bởi giống, tuổi và chế độ nuôi dưỡng.
Hệ số di truyền của khối lượng lòng trắng h2 = 0,22 - 0,78. Chỉ số lịng trắng
trứng gà về mùa đơng cao hơn về mùa xuân và mùa hè, giống gà nhẹ cân chỉ số này
không dưới 0,09 và giống gà kiêm dụng khoảng 0,08. Nguyễn Huy Đạt và cs

(1996)[5] cho biết, trứng gà Lương Phượng hoa có chỉ số lịng trắng và lòng đỏ ở 38
tuần tuổi tương ứng là 0,14 và 0,53; ở 60 tuần tuổi tương ứng là 0,091 và 0,49.
Đơn vị Haugh được Haugh (1930) xây dựng, sử dụng để đánh giá chất lượng
trứng, phụ thuộc vào khối lượng và chiều cao của lòng trắng đặc. Đơn vị Haugh
càng cao thì chất lượng trứng càng tốt, đơn vị Haugh chịu ảnh hưởng bởi thời gian
bảo quản trứng, tuổi gia cầm mái (gà càng già, trứng có đơn vị Haugh càng thấp),
bệnh tật, nhiệt độ, thay lông (sau thay lông đơn vị Haugh cao hơn trước khi thay
lông) và giống gia cầm. Chất lượng trứng rất tốt có đơn vị Haugh 80 - 100, tốt là 65
- 79, trung bình là 55 - 64, xấu là dưới 55.
Nguyễn Huy Đạt và cs (1996)[5] đã nghiên cứu chất lượng trứng gà Mía lúc
38 tuần tuổi, thấy có chỉ số Haugh là 84,7. Gà Lương Phượng hoa ở 38 tuần tuổi chỉ
số Haugh đạt 94,4 và ở 60 tuần tuổi đạt 91,1.
e. Khả năng thụ tinh và ấp nở
Kết quả thụ tinh (tỷ lệ trứng có phơi ở gia cầm) là chỉ tiêu quan trọng để đánh
giá về khả năng sinh sản của con giống, phụ thuộc vào các yếu tố như tuổi, tỷ lệ
trống mái, thời vụ, dinh dưỡng, chọn đôi giao phối… Tỷ lệ nở là một chỉ tiêu đánh
giá sự phát triển của phôi, sự sống của gia cầm non. Khả năng ấp nở phụ thuộc vào


×