Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.33 KB, 11 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span>Mối quan hệ giữa văn hoá và phát triển Văn hoá và phát triển có mối quan hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ nhau. Để hiểu rõ thêm về mối quan hệ này, AJC xin giới thiệu với các bạn bài tham luận của TS. Nguyễn Thị Hồng - Giảng viên Khoa Văn hoá và Phát triển về vấn đề “Mối quan hệ giữa văn hoá phát triển” tại Hội thảo khoa học của Khoa Văn hoá và Phát triển vừa qua. Văn hoá là cơ sở, là nền tảng của sự phát triển. Văn hoá và phát triển là vấn đề có ý nghĩa rất lớn trong thời đại ngày nay, thời đại toàn cầu hoá. Toàn cầu hoá không đồng nghĩa với nhất thể hoá văn hoá, nhưng lại tạo ra những cơ hội mới để thúc đẩy quá trình giáo lưu tiếp biến văn hoá sâu rộng khắp toàn cầu. Bản sắc văn hoá của mỗi dân tộc là chứng minh thư tâm lý của dân tộc ấy, bây giờ có dịp được soi chiếu dưới nhiều toạ độ, sẽ được bổ sung bởi nhiều lớp phù sa văn hoá mới để phát triển cao hơn, đáp ứng với những yêu cầu ngày càng cao của lịch sử.. Quan họ - di sản Văn hoá Việt Nam Bối cảnh khách quan ấy khiến mỗi quốc gia, mỗi dân tộc đều phải nhận thức một cách sâu sắc và rõ ràng rằng muốn đạt được sự phát triển bền vững và ổn định thì phải có những điều kiện tiên quyết, đó là phải xây dựng văn hoá làm cơ sở, làm nền tảng, phải gắn kết tăng trưởng kinh tế với việc phát triển văn hoá và ổn định chính trị xã hội. Vai trò của văn hoá đối với sự phát triển đã được nhận thức từ rất lâu trong lịch sử tư tưởng loài người. Ban đầu người ta chỉ coi văn hoá được biểu hiện như là thế giới thứ hai - thế giới nhân tạo do con người tác động vào tự nhiên mà sinh thành. Sau này người ta bổ sung dần vào khái niệm đó bằng những góc tiếp cận khác nhau, văn hoá biểu đạt lối sống khác nhau của các cộng đồng người thông qua hệ thống quan niệm về giá trị, hệ thống hành vi ứng xử, hệ thống chuẩn mực đạo đức. Đó cũng là truyền thống của cộng đồng dân tộc được hình thành trong các điều kiện tự nhiên xã hội tương ứng. Nhưng mãi đến thế kỉ XX, nhận thức về bản chất và vai trò của văn hoá mới thực sự đầy đủ và khoa học. Tổ chức UNESCO đã phát động thập kỉ thế giới phát triển văn hoá (1988-1997). Tổng giám đốc UNESCO vào thời điểm quan trọng đó đã đưa ra nhận định mà ngày nay được nhiều nhà lí luận văn hoá lựa chọn làm định nghĩa: “Văn hoá là tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên một.
<span class='text_page_counter'>(2)</span> hệ thống các giá trị, các truyền thống và các thị hiếu - những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc”. Đưa ra định nghĩa về văn hoá, người đứng đầu tổ chức UNESCO vào thời điểm ấy cũng đồng thời nhấn mạnh tới mối quan hệ giữa văn hoá và phát triển: “Hễ nước nào tự đặt cho mình mục tiêu phát triển kinh tế mà tách rời môi trường văn hoá thì nhất định sẽ xảy ra những mất cân đối nghiêm trọng về cả mặt kinh tế lẫn văn hoá, và tiềm năng sáng tạo của các nước ấy sẽ bị suy yếu đi rất nhiều. Một sự phát triển chân chính đòi hỏi phải sử dụng một cách tối ưu nhân lực và vật lực của mỗi cộng đồng. Vì vậy, phân tích đến cùng, các trọng tâm, các động lực và các mục đích của phát triển phải được tìm trong văn hoá. Nhưng đó là điều cho đến nay vẫn thiếu. Từ nay trở đi văn hóa cần coi mình là một nguồn cổ suý trực tiếp cho phát triển và ngược lại phát triển cần thừa nhận văn hoá giữ một vị trí trung tâm, một vai trò điều tiết xã hội” (sách Thập kỷ thế giới phát triển văn hoá - Bộ Văn hoá thông tin và thể thao xuất bản – H.1992, tr23). Lời kêu gọi của tổ chức UNESCO đã đánh thức nhân loại, tạo nên một sự thay đổi lớn lao trong nhận thức của các quốc gia về vai trò của văn hoá đối với sự phát triển. Bởi trước đây người ta coi văn hoá nằm ngoài sự phát triển của kinh tế, người ta kỳ vọng vào sức mạnh của khoa học kỹ thuật và cho rằng văn hoá chỉ là sản phẩm của sự phát triển kinh tế, của khoa học kỹ thuật. Xuất phát từ bản chất và cấu trúc của văn hoá, UNESCO đã chỉ ra sức mạnh tự thân của văn hoá, chính sức mạnh ấy qui định vị trí và vai trò của văn hoá. Động lực của sự phát triển nằm chính ở tương quan giữa văn hoá và kinh tế. Nhận thức đúng này sẽ dẫn đường cho các quốc gia hành động đúng bởi văn hoá chính là cơ sở, là nền tảng, là yếu tố quyết định thành bại của sự phát triển kinh tế xã hội. Nó có thể thúc đẩy sự phát triển và đồng thời cũng có thề kìm hãm, cản trở quá trình phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia. Vấn đề là ở bản chất của sự phát triển: phát triển một cách ổn định và bền vững nghĩa là không phá vỡ cấu trúc xã hội, không làm lệch chuẩn các giá trị văn hoá, không làm mất bản sắc dân tộc. Trong lịch sử nhân loại, nhiều quốc gia ở từng giai đoạn đã có sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế nhưng lại dẫn đến rối loạn xã hội, suy thoái đạo đức, thậm chí dẫn đến khủng hoảng kinh tế bởi chính sự không đồng bộ trong phát triển, nghĩa là không chú ý tới mối quan hệ biện chứng, tương tác và quyết định lẫn nhau giữa ba yếu tố kinh tế - chính trị - văn hoá.. Đảng và nhà nước Việt Nam từ rất sớm cũng đã nhận thức rõ vai trò quan trọng của văn hoá. Không phải là đến nghị quyết TW V khoá VIII về “Xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc” thì vai trò to lớn của văn hoá đối với sự nghiệp cách mạnh của Việt Nam mới được đặt ra. Ngay từ khi mới ra đời, Đảng cộng sản Việt Nam đã rất chú ý tới mối quan hệ giữa văn hoá và phát triển. Vai trò của văn hoá được quy tụ ở bản lĩnh con người Việt Nam, sức mạnh của cách mạng Việt Nam là ở văn hoá Việt Nam, ở sức mạnh sáng tạo của nhân dân Việt Nam “để đất nước này là đất nước nhân dân - đất nước của nhân dân, của ca dao thần thoại”. Sức mạnh văn hoá Việt Nam với tư cách là động lực cho sự phát triển của xã hội được Đảng và nhà nước Việt Nam xác định rõ, gắn với nhiệm vụ chính trị của từng giai đoạn lịch sử,.
<span class='text_page_counter'>(3)</span> góp phần đưa đất nước tiến lên trên con đường đã được Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Việt Nam lựa chọn, hướng tới mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh. Đó là mục tiêu của chính trị, cũng là mục tiêu của văn hoá và là định hướng của phát triển theo đúng quy luật khách quan.. Văn hoá chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ thống tư tưởng Hồ Chi Minh. Người đã đưa ra một định nghĩa: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá” (Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H.1995, t. 3,tr. 431). Văn hoá với vai trò là cơ sở, là nền tảng tinh thần của sự phát triển được quy định bởi bản chất và cấu trúc tự thân của văn hoá. Trong định nghĩa trên của Hồ Chí Minh, văn hoá có vị trí đặc biệt, nằm trong cấu trúc chỉnh thể gồm bốn lĩnh vực phải được coi trọng ngang nhau, đó là kinh tế, chính trị, xã hội và văn hoá. Trong đó quan hệ kinh tế và cơ cấu kinh tế là nền tảng để phát triển văn hoá bởi đó là cơ sở hạ tầng của xã hội, trong khi văn hoá thuộc kiến trúc thượng tầng. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, kinh tế phải gắn liền với văn hoá, và văn hoá có tác động trở lại đối với sự phát triển kinh tế. Văn hoá là lĩnh vực của các giá trị nhân văn (ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, văn học, nghệ thuật...). Văn hoá cũng là sản phẩm thể hiện trình độ phát triển con người, vì văn hoá là sản phẩm do con người sáng tạo và phát minh ra. Các quan hệ văn hoá biến con người thành trung tâm của mọi vấn đề, cho nền Hồ Chí Minh căn dặn: “Vì sự nghiệp mười năm trồng cây, vì sự nghiệp trăm năm trồng người”. Con người là cốt lõi của văn hoá. Trong tư tưởng của Hồ Chí Minh, bản sắc dân tộc của văn hoá chính là cái gốc của văn hoá, đó là lí do vì sao văn hoá trở thành cơ sở và nền tảng của phát triển. Văn hoá sẽ thúc đẩy kinh tế phát triển, thúc đẩy các quá trình xã hội bởi cả kinh tế và văn hoá đều có tính định hướng: hướng tới sự phát triển bền vững và toàn diện, nhằm xây dựng một xã hội ổn định về chính trị, phồn thịnh về kinh tế, phong phú và tốt đẹp về văn hoá. Khi nói tới văn hoá là người ta nói tới hệ thống giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra thông qua hoạt động thực tiễn. Hệ thống giá trị ấy được cộng động thừa nhận, nó trở thành chuẩn mực điều chỉnh hành vi của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng, nó vận hành trong đời sống theo nguyên tắc kế thừa và giao lưu tiếp biến. Nó là sản phẩm do con người sáng tạo ra, được lưu truyền và tích luỹ trong chiều dài thời gian, chiều rộng không gian, nó trở thành thước đo trình độ phát triền và đặc tính riêng của mỗi dân tộc. Giá trị văn hoá là định hướng phát triển cơ bản của đời sống tinh thần trong một cộng đồng xã hội ở một giai đoạn lịch sử nhất định, đó là quan niệm.
<span class='text_page_counter'>(4)</span> về cái cao cả, cái tốt đẹp được chia sẻ bởi quan niệm của cộng đồng. Giá trị văn hoá là khái niệm chỉ những sản phẩm văn hoá kết tinh trí tuệ, năng lực sáng tạo, quan niệm thẩm mỹ, quan niệm tư tưởng của con người. Mà sáng tạo của con người mang phẩm chất người, năng lực người, thế giới văn hoá mà con người sáng tạo ra thể hiện phẩm chất nhân tính và trình độ văn hoá cao của con người. Cái giá trị nằm trong văn hoá đã mặc nhiên khẳng định vai trò của văn hoá là cơ sở, là nền tảng của sự phát triển. Bởi chính những giá trị đó là sản phẩm sáng tạo của con người sẽ phục vụ cho lợi ích chân chính của con người, phục vụ cho tiến bộ xã hội. Hoạt động sáng tạo của con người sẽ góp phần quan trọng vào sự phát triển xã hội bởi trong sản phẩm của văn hoá chứa đựng kinh nghiệm và tri thức sống của con người, chứa đựng những phẩm chất cao quý mang tính giá trị của xã hội. Giá trị văn hoá biểu thị sự phát triển về trí tuệ, tư tưởng tình cảm của con người, hướng tới chân thiện mỹ. Giá trị văn hoá tồn tại dưới hai hình thức: vật thể và phi vật thể. Hai hình thức tồn tại này không đối lập mà dung chứa lẫn nhau. Khi nói văn hoá là nền tảng, là cơ sở của xã hội là người ta nói tới nền tảng tinh thần của xã hội đó, nghĩa là xác định vị trí của văn hoá trong đời sống tinh thần của xã hội. Mà đời sống tinh thần lại chính là thước đo thể hiện trình độ văn hoá chung của cộng đồng xã hội thông qua hệ thống giá trị văn hoá tiêu biểu mà xã hội đó lựa chọn, tạo dựng thành bản sắc văn hoá dân tộc. Những giá trị văn hoá đó làm lành mạnh hoá đời sống xã hội, nâng cao chất lượng đời sống xã hội. Văn hoá có vai trò là nền tảng của sự phát triển bởi văn hoá tinh thần tác động một cách sâu sắc và toàn diện vào mỗi cá nhân và cả cộng đồng, tạo dựng nhân cách văn hoá, tạo nên diện mạo văn hoá chung. Văn hoá cá nhân vừa là biểu hiện của văn hoá xã hội, vừa quyết định sự phát triển của văn hoá xã hội, bởi con người vừa là chủ thể vừa là khách thể của văn hoá. Văn hoá Việt Nam là sản phẩm sáng tạo của nhân dân Việt Nam, văn hoá tinh thần làm lành mạnh hoá đời sống xã hội, nó chính là chất lượng sống của toàn bộ xã hội. Cho nên để xây dựng và phát triển một xã hội lành mạnh phải bắt đầu từ văn hoá. Đó không chỉ là máy móc, công nghệ, khoa học... mà chính là những sản phẩm thể hiện phẩm chất người đạt tới trình độ cao cả phương diện khoa học kĩ thuật, cả phương diện văn hoá tinh thần. Trong cấu trúc của văn hoá thì văn hoá tinh thần (phi vật thể) bao gồm những giá trị tinh thần được sáng tạo và tích luỹ trong tiến trình lịch sử thông qua hoạt động sản xuất của con người, được lưu giữ trong văn hoá vật chất (vật thể). Cái làm cho sản phẩm sáng tạo của con người trở thành sản phẩm văn hoá chính là giá trị văn hoá tinh thần, cho nên văn hoá tinh thần đóng vai trò quyết định nhất, vai trò nền tảng của sự phát triển xã hội. Khi đề cập tới vai trò của văn hoá là cơ sở, là nền tảng của sự phát triển là đề cập tới vấn đề cốt lõi, đó là hệ tư tưởng của một nền văn hoá. Hệ tư tưởng sẽ chi phối một cách sâu sắc và toàn diện sự phát triển của một xã hội mà trước hết là ở phương diện đời sống tinh thần. Cho nên hệ tư.
<span class='text_page_counter'>(5)</span> tưởng là cơ sở nền tảng của đời sống tinh thần xã hội, hoá thân vào các giá trị văn hoá, điều tiết các mối quan hệ xã hội. Trong đời sống văn hoá Việt Nam, ảnh hưởng hệ tư tưởng Nho giáo đã để lại dấu ấn sâu đậm. Nhưng kể từ khi Đảng cộng sản Việt Nam ra đời thì chủ nghĩa Mác-Lênin trở thành hệ tư tưởng hạt nhân. Nội dung cốt lõi của chủ nghĩa Mác-Lênin - tư tưởng Hồ Chí Minh là kiên định độc lập dân tộc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Những giá trị văn hoá mới được xác lập để xây dựng một nước Việt Nam tự do độc lập, nơi con người được hưởng thụ những giá trị văn hoá tốt đẹp nhất. Hệ tư tưởng Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đã khơi dậy tiềm năng tinh thần mạnh mẽ trong văn hoá Việt Nam, tạo nên một trục quy tâm của văn hoá Việt Nam trong thời đại mới. Đó là một nền văn hoá vừa tiên tiến vừa đậm đà bản sắc dân tộc. Cái tiên tiến là cái của hiện đại, là những tinh hoa giá trị văn hoá của nhân loại đựơc văn hoá Việt Nam sàng lọc và tiếp nhận cho phù hợp với chuẩn mực giá trị văn hoá dân tộc. Cái cơ sở nền tảng chính là truyền thống văn hoá đậm đà bản sắc, là hệ thống giá trị đã được cộng đồng chấp nhận thành chuẩn mực văn hoá, tạo nên diện mạo và linh hồn của văn hoá Việt Nam. Hệ thống giá trị ấy là cơ sở nền tảng của đời sống tinh thần xã hội, nó có sức mạnh đặc biệt để cố kết cộng đồng, sức mạnh thiêng liêng để hướng về nguồn cội, để văn hoá Việt Nam hội nhập và phát triển mà không bị hoà tan, không đánh mất chính bản thân mình. Hệ giá trị cơ bản trong văn hoá Việt Nam làm nên bản sắc dân tộc của văn hoá, nó chi phối nếp cảm nếp nghĩ và mọi hoạt động của mỗi cá nhân, cố kết họ thành một cộng đồng dân tộc bởi những chuẩn mực giá trị chung. Văn hoá gắn liền với sự phát triển và tiến bộ xã hội đã được Đảng ta xác định là vấn đề then chốt trong sự nghiệp phát triển đất nước. Đề cương văn hoá Việt Nam năm 1943 của Đảng được coi như là tuyên ngôn đổi mới nền văn hoá Việt Nam theo định hướng chủ nghĩa xã hội, theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ đó đến nay, quan điểm mới về vai trò của văn hoá đã được triển khai sâu rộng. Văn hoá và sự phát triển văn hoá với ba tính chất dân tộc - khoa học - đại chúng trở thành bộ phận hữu cơ của toàn bộ sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Năm 1986 trở thành một mốc son quan trọng trong quá trình phát triển đất nước. Bắt đầu quá trình đổi mới toàn diện và căn bản mà trước hết là đổi mới tư duy trên lĩnh vực văn hoá, hướng tới việc xây dựng các mối quan hệ văn hoá giữa con người với con người nhằm xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa. Nhưng vào thời điểm đó vai trò của văn hoá với tư cách là cơ sở, nền tảng của sự phát triển lâu bền trong toàn bộ đời sống xã hội vẫn chưa thực sự được nhận thức đầy đủ. Phải đến khi UNESCO kêu gọi cả thế giới phát triển văn hoá, hưởng ứng thập kỷ quốc tế phát triển văn hoá, nhiều cuộc hội thảo khoa học được tổ chức với chủ đề văn hoá và phát triển thì vấn đề mối quan hệ giữa văn hoá và phát triển và vai trò của văn hoá mới được xác định một cách đầy đủ và sâu sắc. Văn kiện hội nghị TW lần thứ IV khoá VII năm 1993 đã khẳng định: “Văn hoá là nền tảng.
<span class='text_page_counter'>(6)</span> tinh thần của xã hội, thể hiện tầm cao và chiều sâu về trình độ phát triển của một dân tộc, là sự kết tinh những giá trị tốt đẹp nhất trong quan hệ giữa người với người, với xã hội và với thiên nhiên. Nó vừa là động lực phát triển kinh tế xã hội, vừa là mục tiêu của chúng ta”. Xác định rõ vai trò quan trọng ấy, hội nghị cũng đồng thời khẳng định: “nhiệm vụ trung tâm của văn hoá văn nghệ nước ta là góp phần xây dựng con người Việt Nam về trí tuệ, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống, có nhân cách cao đẹp, có bản lĩnh vững vàng ngang tầm sự nghiệp đổi mới vì dân giàu nước mạnh, xã hội văn minh” (Văn kiên hội nghị lần thứ IV ban chấp hành TW khoá VII, H.1993, tr45-51). Tư tưởng quan trọng này được khẳng định lại tại hội nghị lần thứ V Ban chấp hành TW khoá VIII. Hội nghị đã ra nghị quyết về “Xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”. Nghị quyết đã đề cập nội hàm văn hoá theo nghĩa đó là toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội, đồng thời xác định những vấn đề cơ bản mang tính cấp bách trong lĩnh vực phát triển văn hoá của Việt Nam hiện nay. Nghị quyết của hội nghị đã tập trung vào 6 lĩnh vực chủ yếu của văn hoá: - Tư tưởng đạo đức lối sống: lĩnh vực then chốt của văn hoá. - Giáo dục đào tạo khoa học công nghệ - Văn học nghệ thuật - Thông tin đại chúng - Giao lưu văn hoá với nước ngoài - Hệ thống thể chế và thiết chế văn hoá Nghị quyết đồng thời khẳng định năm quan điểm chỉ đạo cơ bản mà quan điểm quan trọng nhất cần nắm vững, đó là: văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội. Sự khẳng định này cho thấy giá trị văn hoá thực sự được nhận định là nguồn lực phi vật thể của sự phát triển kinh tế, của định hướng xã hội chủ nghĩa. Văn hoá tạo ra các giá trị văn hoá thông qua các sản phẩm văn hoá, nó không chỉ làm phong phú thêm cho cuộc sống con người, nó còn giáo dục cho con người về mọi phương diện, giúp con người hoàn thiện chính mình. Rõ ràng văn hoá đóng vai trò là nền tảng tinh thần của xã hội bắt nguồn trước hết từ chức năng tư tưởng của giá trị văn hoá được biểu hiện như nguồn lực gián tiếp nhưng lại có tác động rất lớn vào sự phát triển của xã hội. Đồng thời, vai trò đó cũng xuất phát từ chức năng kinh tế của giá trị văn hoá được xác định là nguồn lực trực tiếp tác động vào sự phát triển kinh tế của đất nước thông qua các di sản văn hoá. Mối quan hệ giữa văn hoá và kinh tế là mối quan hệ biện chứng, nhưng văn hoá và kinh tế đều hướng tới một mục tiêu là xây dựng xã hội ổn định và phát triển..
<span class='text_page_counter'>(7)</span> Văn hoá vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển Phát triển được hiểu là biến đổi hoặc làm cho biến đổi theo chiều hướng tăng lên và tốt đẹp hơn. Trái với phát triển là khái niệm suy thoái. Cho nên nói văn hoá là động lực và mục tiêu của sự phát triển kinh tế xã hội là nói đến sự thay đổi về chất của một nền kinh tế, một xã hội theo xu hướng hoàn thiện và tốt đẹp hơn. Phải coi mục tiêu phát triển là nâng cao chất lượng cuộc sống con người, là để đạt được độc lập tự do hạnh phúc, là để con người có đời sống vật chất đầy đủ và tinh thần tốt đẹp, là để nâng cao trình độ phát triển về trí tuệ, đạo đức, thẩm mỹ, nâng cao năng lực sáng tạo của con người. Mục tiêu của sự phát triển kinh tế xã hội là hướng tới phục vụ lợi ích của cộng đồng, là tạo điều kiện để nhân dân có cuộc sống ấm no hạnh phúc, được hưởng thụ một nền văn hoá phát triển trong một môi trường xã hội lành mạnh, văn minh. Nhìn lại sự phát triển của kinh tế xã hội các nước phương Tây, người ta thấy sự thiên lệch về sự phát triển kinh tế, về kỹ thuật và công nghệ mà chưa chú trọng đến tính đồng bộ trong phát triển kinh tế - xã hội - văn hoá. Mức sống của con người về vật chất được tăng lên nhưng cuộc sống tinh thần thì lại rơi vào khủng hoảng, xã hội có nhiều rối loạn nghiêm trọng. Cho nên khi xác định văn hoá là mục tiêu và là động lực của sự phát triển kinh tế xã hội thì phải xác định rõ mục tiêu đó là hướng tới sự hài hoà giữa văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần, giữa mức sống cao với lối sống đẹp, giữa tăng trưởng kinh tế và ổn định xã hội. Nghị quyết hội nghị lần thứ V Ban chấp hành TW Đảng khoá VIII đã khẳng định: “Chăm lo văn hoá là chăm lo củng cố nền tảng tinh thần của xã hội. Thiếu nền tảng tinh thần tiến bộ và lành mạnh, không quan tâm giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và tiến bộ và công bằng xã hội thì không thể có sự phát triển kinh tế xã hội bền vững. Xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hoá, vì xã hội công bằng văn minh, con người phát triển toàn diện”. Đây là quan điểm thứ nhất trong năm quan điểm cơ bản mà Đảng ta đã xác định nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và phát triển nền văn hoá theo đúng cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Xác định văn hoá là mục tiêu của sự phát triển xuất phát từ nhận thức đúng bản chất của văn hoá và quan niệm đúng về sự phát triển, bởi mục tiêu cuối cùng của một xã hội có một nền văn hoá tiên tiến chính là phát triển con người, đó cũng chính là quy luật phát triển của lịch sử. Con người đó phải là con người thật sự có hạnh phúc, đó là con người toàn diện theo chuẩn mực giá trị văn hoá. Con người là yếu tố quyết định nhất của sự phát triển kinh tế xã hội, mà nguồn lực này lại nằm trong văn hoá bởi văn hoá là sản phẩm sáng tạo của con người. Cho nên xây dựng nền văn hoá Việt Nam cũng chính là xây dựng và phát huy nguồn lực con người, đó là nguồn lực quan trọng nhất của sự phát triển. Tiềm năng sáng tạo của con người chính là tiềm lực văn hoá xã hội, nên khi xây dựng đường lối chiến lược phát triển kinh tế xã hội, phải lấy việc phục vụ con người.
<span class='text_page_counter'>(8)</span> là mục đích, lấy văn hoá làm mục tiêu và động lực. Con người đã sáng tạo văn hoá thông qua hoạt động thực tiễn có ý thức của chính mình, khi đó con người là chủ thể của văn hoá. Nhưng đồng thời những giá trị văn hoá lại phục vụ cho mục đích nâng cao giá trị cuộc sống của con người, khi đó con người là khách thể của văn hoá. Phát triển kinh tế phải gắn liền với giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, gắn liền với bảo vệ môi trường tự nhiên, hoàn thiện môi trường xã hội nhằm giữ vững ổn định chính trị. Bản sắc văn hoá của Việt Nam là tổng hợp bản sắc văn hoá của 54 dân tộc anh em sống trên lãnh thổ Việt Nam, thể hiện qua những biểu hiện ở phương thức sinh hoạt vật chất, ở những giá trị văn hoá tinh thần, qua thế ứng xử trong quan hệ với tự nhiên và xã hội. Cái chung của văn hoá Việt Nam để làm nên bản sắc dân tộc, làm nên tính thống nhất của văn hoá chính là các dân tộc cùng một cội nguồn từ nền văn hoá bản địa, có mẫu số chung là nền văn hoá lúa nước. Cùng sinh tụ lâu đời trên một khu vực địa lý, cùng chịu sự tác động của những điều kiện tự nhiên, nhưng với sự phát triển trong những không gian văn hoá khác nhau, văn hoá dân tộc vừa có sự tiếp thu các yếu tố văn hoá của các dân tộc khác vừa lưu giữ yếu tố văn hoá nội sinh đã trở thành truyền thống, thành bản sắc. Văn hoá hinh thành trong môi trường tự nhiên và xã hội, mang dấu ấn của môi trường và đồng thời là thước đo của sự phát triển. Môi trường nào thì văn hoá nấy, không gian sống của văn hoá đặt ra cho con người trách nhiệm gìn giữ và bảo vệ sự ổn định của môi trường - tiền đề quan trọng cho sự ổn định và phát triển của kinh tế và xã hội. Thế giới đang chứng kiến sự thay đổi mạnh mẽ của môi trường theo chiều hướng xấu, trái đất đang nóng lên, khí hậu đang thay đổi, môi trường sinh thái đang đe doạ sự phát triển văn hoá, làm rối loạn ổn định xã hội: lũ lụt hoành hành ở Pakixtan, Trung Quốc, bão tố tràn qua nước Mỹ, cháy rừng do nhiệt độ tăng cao ở Nga... Các quốc gia đã ý thức rất rõ về việc phải liên kết lại để nghiên cứu sự biến đổi của môi trường, để có những giải pháp mang tính khả thi bảo vệ môi trường sống của con người. Có vậy mới ổn định được xã hội và phát triển kinh tế, xây dựng văn hoá vì hạnh phúc của con người. Văn hoá không chỉ là mục tiêu và động lực của sự phát triển, văn hoá còn là tiềm lực sáng tạo, là nội lực trong mọi lĩnh vực hoạt động sáng tạo của con người. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò đó thể hiện rõ trong câu nói: “Văn hoá soi đường cho quốc dân đi” (Hồ Chí Minh Về công tác văn hoá văn nghệ, Nxb Sự thật, H.1977, tr.90). Văn hoá được hiểu theo nghĩa rộng là hệ thống giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra, nên nó không chỉ dừng lại ở thượng tầng kiến trúc mà còn thâm nhập vào hạ tầng cơ sở. Văn hoá kể từ khởi đầu đã là cội nguồn, là động lực cho sự phát triển của các dân tộc, vì đó là sản phẩm do con người sáng tạo ra thông qua hoạt.
<span class='text_page_counter'>(9)</span> động thực tiễn của chính con người. Hoạt động này vừa tác động vào tự nhiên để cải tạo thế giới vừa làm thay đổi chính bản thân con người. Chính con người cũng là sản phẩm của văn hoá bởi văn hoá phát huy tiềm năng sáng tạo của mỗi cá nhân, văn hoá hoàn thiện con người với tư cách là một chủ thể mang giá trị xã hội. Văn hoá nằm trong cả kinh tế và chính trị, để phát triển kinh tế thì nguồn lực cơ bản nhất vẫn là con người mà đã là con người thì phải nói đến ý thức chính trị, khả năng sáng tạo văn hoá. Điều đó khẳng định vai trò và động lực của văn hoá đối với kinh tế, phải biến văn hoá thành mục tiêu của sự phát triển kinh tế. Nói khác đi, đối với nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì phát triển kinh tế phải gắn liền với tiến bộ xã hội, phải đảm bảo điều kiện để con người được phát triển một cách toàn diện. Con người phải được hưởng thụ các giá trị văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần, sản phẩm kinh tế cũng đồng thời là sản phẩm văn hoá. Con người không chỉ ăn, ở, mặc, đi lại vì mục đích sinh tồn, con người cần nâng cao cái đời thường thành tinh hoa văn hoá: văn hoá ẩm thực, văn hoá trang phục, văn hoá kiến trúc, văn hoá giao thông. Những lĩnh vực văn hoá này là mối quan tâm của toàn xã hội, đòi hỏi sức sáng tạo từ sự đồng thuận của cả cộng đồng. Có vậy văn hoá mới thực hiện được hai chức năng cơ bản của mình để thực sự thành mục tiêu và động lực của sự phát triển, đó là nhập thân văn hoá và xã hội hoá cá nhân. Để văn hoá thực sự là cơ sở, là nền tảng, là mục tiêu và là động lực của sự phát triển, Đảng và nhà nước ta đã luôn xác định: xây dựng văn hoá là nhiệm vụ trọng tâm. Nghị quyết hội nghị lần thứ V Ban chấp hành TW Đảng khoá VIII chỉ rõ: “Văn hoá là một mặt trận, xây dựng và phát triển văn hoá là một sự nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, cẩn trọng. Sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hoá là sự nghiệp của toàn dân, do Đảng lãnh đạo, tầng lớp trí thức là nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc và cũng là nền tảng của sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hoá”. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng cộng sản Việt Nam diễn ra vào tháng 4 năm 2006 cũng xác định: “Về văn hoá, chúng ta chủ trương tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế - xã hội, làm cho văn hoá thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống; xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Ba lĩnh vực cần tập trung thực hiện bằng được là: xây dựng môi trường, lối sống và đời sống văn hoá của mọi người dân ở cơ sở, phát huy tinh thần tự nguyện, tính tự quản và năng lực làm chủ của nhân dân; khuyến khích sáng tạo văn học, nghệ thuật, tạo ra những tác phẩm, công trình có.
<span class='text_page_counter'>(10)</span> giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật; xây dựng và nâng cấp đồng bộ hệ thống thiết chế văn hoá, chú trọng các công trình văn hoá lớn, tiêu biểu. Theo phương hướng ấy, cần tiếp tục đầu tư cho việc bảo tồn và tôn tạo các di tích lịch sử và di sản văn hoá; tạo điều kiện cho các lĩnh vực xuất bản, thông tin đại chúng phát triển; đảm bảo tự do dân chủ cho mọi hoạt động sáng tạo văn hoá, văn học, nghệ thuật đi đôi với phát huy trách nhiệm công dân của văn nghệ sĩ, chăm sóc các tài năng văn hoá, nghệ thuật; đổi mới nội dung và phương thức quản lí của nhà nước về văn hoá” (Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, H.2006, tr.33). Đại hội cũng xác dịnh phương hướng nhiệm vụ phát triển của kinh tế xã hội trong thời gian tới: “Phát triển văn hoá, nền tảng tinh thần của xã hội. Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế xã hội, làm cho văn hoá thấm sâu vào mọi lĩnh vực đời sống xã hội... Làm cho văn hoá thấm sâu vào từng khu dân cư, từng gia đình, từng người, hoàn thiện hệ giá trị mới của con người Việt Nam, kế thừa các giá trị truyền thống của dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hoá của loài người, tăng sức đề kháng chống văn hoá đồi truỵ, độc hại. Nâng cao tính văn hoá trong mọi hoạt động kinh tế, chính trị xã hội, sinh hoạt của nhân dân. Xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội và con người trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế. Đảm bảo sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt với phát triển văn hoá - nền tảng tinh thần xã hội. Đặc biệt coi trọng nâng cao văn hoá lãnh đạo và quản lý, văn hoá trong kinh doanh và văn hoá trong nhân cách của thanh niên, thiếu niên; chống những hiện tượng phản văn hoá, phi văn hoá” (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, H.2006, tr.213). Hiện nay, chúng ta đang bước vào cuộc hội nhập lần thứ ba, hướng tới mục tiêu xây dựng một nền văn hóa "tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc". Cách mạng tháng Tám - 1945 thành công và đặc biệt sau chiến thắng năm 1975, đất nước thống nhất quy về một mối, giao lưu và tiếp biến văn hóa có sự thay đổi về chất so với các thời kỳ lịch sử trước đó. Trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay, vấn đề giao lưu kinh tế, văn hóa là vấn đề sống còn của dân tộc. Văn kiện Đại hội IX của Đảng khẳng định: Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển. Về văn hóa, Đảng ta thực hiện mở rộng giao lưu văn hóa với nước ngoài dưới nhiều hình thức: giới thiệu rộng rãi những giá trị văn hóa của dân tộc Việt Nam với thế giới, đồng thời cũng lựa chọn đưa vào nước ta các giá trị văn hóa tiến bộ của các nước, mở rộng hoạt động văn hóa quốc tế dưới nhiều hình thức hợp tác, trao đổi,.
<span class='text_page_counter'>(11)</span> học tập lẫn nhau. Tuy nhiên, cần có quy định và những biện pháp hữu hiệu để bảo vệ giá trị văn hóa dân tộc, chống nạn chảy máu văn hóa, nhất là đối với các cổ vật, bảo vật quốc gia, cũng như chống sự thâm nhập vào nước ta những văn hóa phẩm độc hại, đồi trụy ... Những biến đổi của hoàn cảnh lịch sử hôm nay đã khiến cho giao lưu tiếp biến ở Việt Nam thay đổi về nhiều phương diện. Giao lưu và tiếp biến văn hóa hôm nay là giao lưu và tiếp biến trong thời đại tin học. S ự xuất hiện của kinh tế tri thức và sự bùng nổ của công nghệ thông tin khiến cho văn hóa, các sản phẩm văn hóa trở nên vô cùng phong phú và đa dạng. Thời đại ngày nay có những hình thức, sản phẩm giao lưu mà trước kia chưa hề có, phương tiện giao lưu rất đa dạng, nội dung giao lưu hết sức phong phú và cũng rất phức tạp. Thế giới hôm nay là thế giới phẳng, thế giới của toàn cầu hóa, của đối thoại và tiếp biến giao lưu cho nên quá trình đối thoại giữa các nền văn hóa là yếu tố then chốt tạo nên sự hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau giữa các quốc gia, các dân tộc trên thế giới. Công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam khiến cho giao lưu và tiếp biến của Việt Nam hôm nay được đặt trong thế chủ động, tự nguyện, không bị áp đặt hay cưỡng chế. Đảng cộng sản Việt Nam chủ trương hóa giải các mối quan hệ đối đầu thành đối thoại, lấy văn hóa ngoại giao thành phương thức đối thoại chính, coi văn hóa là động lực của sự phát triển, giữ gìn bản sắc dân tộc nhưng đồng thời không chối bỏ những yếu tố văn hóa ngoại sinh mà chủ động tiếp nhận để biến đổi cho phù hợp với văn hóa dân tộc. Giao lưu và tiếp biến văn hóa ở Việt Nam hiện nay đã tạo sự chuyển biến văn hóa trên tất cả các lĩnh vực của đời sống văn hóa, đặc biệt là lĩnh vực khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, du lịch và phát triển kinh tế… Là bởi chúng ta đang xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc theo định hướng phát triển ổn định và bền vững. Văn hoá thực sự đã trở thành một nội dung quan trọng trong hoạt động xã hội, các giá trị văn hoá thể hiện rõ vai trò tích cực và sức mạnh đặc biệt cũng như khả năng tác động vào các lĩnh vực đời sống. Tính chủ động và tích cực của nhân dân trên các lĩnh vực của đời sống xã hội đã cho thấy vai trò của văn hoá với tư cách là nền tảng tinh thần, là động lực, là mục tiêu của sự phát triển kinh tế xã hội. Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” đã thực sự tạo chyển biến quan trọng để văn hoá Việt Nam phát triển theo đúng định hướng và cương lĩnh, đó là một nền văn hoá vừa tiên tiến vừa đậm đà bản sắc dân tộc như tinh thần của nghị quyết hội nghị lần thứ V Ban chấp hành TW Đảng khoá VIII và kết luận của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X về văn hoá..
<span class='text_page_counter'>(12)</span>