Tải bản đầy đủ (.docx) (3 trang)

BAC HO CHON CAO BANG LANH DAO CACH MANG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (243.98 KB, 3 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>KỶ NIỆM 70 NĂM NGÀY BÁC HỒ VỀ NƯỚC.</b>



<b>TẠI SAO BÁC LẠI CHỌN CAO BẰNG ĐỂ VỀ NƯỚC</b>


<b>SAU 30 NĂM BƠN BA TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC ?</b>



<i><b>Là người con của quê hương Cách mạng Cao Bằng các bạn</b></i>


<i><b>nên biết.</b></i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

đứng chân được. Tỉnh Hải Ninh liền với Quảng Yên có cơ sở cách mạng trong
cơng nhân, song dân số mỏ than Hịn Gai q đơng, nếu địch lùng sục cũng khó
thốt. Lạng Sơn có cửa ải lớn lại bị giặc Pháp bố trí cảnh sát và mật thám quá
ngặt nghèo đâu dễ qua lại, chỉ còn hai tỉnh Lào Cai và Cao Bằng.


Đầu tiên Bác định về nước theo hướng Lào Cai vì trên tuyến đường sắt từ Lào
Cai đi Côn Minh (Vân Nam-TQ) có nhiều cơng nhân hỏa xa người VN, có cơ sở
cách mạng trong công nhân. Bác đã từng đến đây xem xét tình hình, giữa lúc ấy
Phát xít Nhật ném bom phá gãy cầu Hà Khẩu nối liền Lào Cai với Hà Khẩu và
bóc cả đoạn đường sắt đi Cơn Minh, cơng nhân thất nghiệp cảnh sống nheo nhóc.
Ý định của Bác theo hướng này khơng cịn nữa. Chỉ cịn Cao Bằng?


Bác nhớ lại năm 1935, trong Đại hội Quốc tế cộng sản lần thứ 7 tại
Mát-Cơ-va có đồng chí Tú Hưu, Bí thư Tỉnh ủy Cao Bằng. Chắc rằng CB có phong
trào cách mạng nên mới được cử chọn như vậy. Bác nhận định “Căn cứ địa Cao
Bằng sẽ mở ra triển vọng lớn cho cách mạng nước ta. Cao Bằng có phong trào tốt
từ trước lại kề sát biên giới lấy đó làm cơ sở liên lạc quốc tế rất thuận lợi; nhưng
từ Cao Bằng còn phải phát triển về Thái Nguyên và thông xuống nữa mới có thể
tiếp xúc với tồn quốc được. Có nối được phong trào giữa Thái Ngun với tồn
quốc thì khi phát động đấu tranh vũ trang lúc thuận lợi có thể tiến cơng, lúc khó
khăn có thể giữ”, song cịn phải “ngọa ngoại chiêu hiền”. Tháng 12/1940 được
tin có một số cán bộ và thanh niên yêu nước người Cao Bằng lãnh nạn sang Trịnh
Tây, Bác đã chỉ đạo móc nối với họ thoát khỏi kiềm chế của bọn quốc dân Đảng


Trung Hoa, rồi cùng số anh em này bí mật đến bản Nặm Quang ở sát biên giới
mở lớp huấn luyện.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

sát biên giới, phịng khi có động rút được ngay, kín đáo ở được lâu dài”. Ơng Ba
lên đường ít ngày sau thì cùng đồng chí Vũ Anh quay lại Nặm Quang tìm Bác,
đ/c Vũ Anh trình bày “Chúng cháu đã tìm được chỗ ở trong thung lũng Cốc Bó,
lũng này ở sát biên giới, người từ bên ngoài muốn vào lũng phải qua làng Pác Bó.
Làng này có cơ sở từ năm 1937 mà bấy lâu nay qn giặc khơng hề biết’. Ơng
Ba nói thêm “Pác Bó là quê vợ cháu, từng người tốt xấu ra sao, từng mô đá gốc
cây cháu đều biết. Ban đầu về ở nhà một đ/c quần chúng cơ sở, nếu khơng tiện thì
ta tìm hang, vùng này tồn núi đá, chắc có nhiều hang”. Bác gật đầu, “tốt lắm!
các chú phải giữ bí mật việc này, lúc nào về Bác sẽ báo các chú sau”.


Lớp học mở được gần một tháng thì đến Têt Nguyên đán Tân Tỵ. Tuy sống trong
cảnh bí mật nhưng các học viên vẫn rạo rực nỗi nhớ nhà. Ngày 25 tháng Chạp
năm Canh Thìn, các học viên giả vờ vào núi kiếm củi, Bác giao nhiệm vụ và dặn
dò để các đồng chí về địa phương. Anh em đi rồi Bác quay trở lại Nặm Quang
phân công đ/c Lâm Bá Kiệt và Dương Hoài Nam trở lại Trịnh Tây làm một số
việc. Sáng mùng hai Tết Nguyên Đán Tân Tỵ (28/01/1941) Bác cùng các đồng
chí: Phùng Chí Kiên, Đặng Văn Cáp, Hồng Văn Lộc theo chân hai đồng chí Lê
Quảng Ba và Thế An từ giã bà con Nặm Quang lên đường về nước.


</div>

<!--links-->

×