Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.22 MB, 54 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span>VẤN ĐỀ 1 TÔN GIÁO TRONG ĐỜI SỐNG CÁC VUA TRIỀU NGUYỄN 1- KHÁI QUÁT TRIỀU ĐẠI NHÀ NGUYỄN Năm 1802 sau khi đánh bại triều Tây Sơn, làm chủ toàn bộ lãnh thổ Đàng Trong và Đàng Ngoài. Nguyễn Ánh tự đặt niên hiệu là Gia Long lập ra triều Nguyễn thành lập và thống trị trong thế kỉ XIX. Nhà Nguyễn thừa hưởng được những thành quả to lớn của phong trào nông dân Tây Sơn. Trong sự nghiệp thống nhất đất nước, nhà Nguyễn triều đại phong kiến cuối cùng của Viêt Nam trị vì trong suốt 143 năm (1802-1945) với 13 vị vua. Các vị vua Nguyễn kế tiếp nhau xây dựng và củng cố nền thống trị, ra sức bảo vệ chế độ Phong Kiến trong bối cảnh khủng hoảng và suy vong. Tuy nhiên, trong hơn nửa thế kỉ tồn tại nhà Nguyễn chỉ giữ được chủ quyền dưới thời những vị vua đầu tiên. Còn giai đoạn sau từ thời vua Dục Đức thì nhà Nguyễn phải chịu lệ thuộc vào Pháp. Nhà Nguyễn ra đời trong bối cảnh đặc biệt của đất nước, tình hình thế giới có nhiều biến chuyển. Thắng lợi của chủ nghĩa Tư Bản Tây Âu đã kéo theo sự phát triển của chủ nghĩa tư bản và sự giao lưu buôn bán quốc tế. Quá trình xâm lược của thực dân phương Tây, trong hoàn cảnh đó triều Nguyễn đã phải chịu tác động mạnh mẽ, ảnh hưởng sâu sắc. Lịch sử nhà nguyễn trải qua hai thời kì: tự chủ và chịu lệ thuộc vào Pháp A. Thời kì nhà nguyễn độc lập.. Thời kì nhà Nguyễn độc lập nằm dưới sự trị vì của các vị vua Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu Trị, Tự Đức. Dưới thời các vị vua này nhà nguyễn đạt được thành tựu to lớn. 1.Vua Gia Long (1802-1819). Vua Gia Long tên là Nguyễn Phúc Ánh (Anh). Ngoài ra còn có tên là Chủng và Noãn con thứ 3 của Nguyễn Phúc Côn Luân và bà Nguyễn Thị.
<span class='text_page_counter'>(2)</span> Hoàn. Nguyến Phúc Ánh sinh ngày 15 tháng giêng năm Nhâm Ngọ (8-02-1762). Năm 1775 lợi dụng sự suy sụp của triều đình chúa Nguyễn do cuộc khởi nghỉa quân Tây Sơn. Quân Trịnh vào chiếm Phú. Gia Long(1802-1819). Xuân khiến Nguyễn Phúc Nguyên phải trốn vào Nam, từ đó ông bôn tẩu gian nan tìm đủ mọi cách để triệu tập mọi lực lượng để giành lại vương quyền cho họ Nguyễn. Năm 1792 vua Quang Trung mất quân Tây Sơn ngày càng yếu và quân nhà nguyễn ngày càng mạnh. Năm 1801 quân nguyễn do Nguyễn Phúc Anh chỉ huy đánh chiếm Quy Nhơn và Thuận Hóa. Ngày 1-2-1802 Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi hoàng đế ở Phú Xuân, lấy niên hiệu là Gia Long chính thức lập ra nhà Nguyễn. Tháng 3-1804 vua Gia Long đổi quốc hiệu nước ta là Việt Nam. Gia Long làm vua được 18 năm (1802-1819) hưởng thọ 58 tuổi. Sau khi mất bài vị của vua Gia Long được đưa vào thờ trong Thế Miếu và có niên hiệu là Thế Tổ Cao Hoàng Đế. Vua có 31 người con (13 trai và 18 gái). 2. Vua Minh Mệnh (1820-1840). Vua Minh Mệnh tên là Nguyễn phúc Đảm còn có tên là Kiểu, con thứ 4 của vua Gia Long và bà Nguyễn Thị Đang (Thuận thiên cao hoàng hậu). Ông sinh ngày 23 tháng 4 năm Tân Hợi (25-51871) tại làng Tân Lộc tỉnh Gia Định. Vua Minh Mệnh lên ngôi vào tháng giêng năm Canh Thìn(1820) làm vua được 21 năm(1820-1840). Trong thời gian ở ngôi nhà vua. Minh Mạng ( 1820-1840). đã có nhiều cải cách quan trọng: Cho bỏ các dinh và trấn mà thành lập các tỉnh( cả nước dưới thời vua Minh Mệnh được chia làm 31 tỉnh); định lại quan chế, đặt mức lương bổng của các quan tùy theo nghạch trật, thống nhất việc.
<span class='text_page_counter'>(3)</span> đo lường và thống nhất y phục; khuyến khích dân khai hoang lập ấp, sửa sang hệ thống giao thông và lập nhà dưỡng tế ở các tỉnh để giúp đỡ những người nghèo khổ, tàn tật, già cả không nơi nương tựa. Đề cao nho học và khuyến khích nhân tài ra giúp nước là một trong những việc được vua rất chú trọng. Nhà vua cho lập Quốc Tử Giám, mở thêm kì thi hội và thi đình ( thời Gia Long chi có thi hương). Lãnh thổ Việt Nam dưới thời Minh Mệnh được mở rộng nhất trong lịch sử và Việt Nam thực sự trở thành một quốc gia hùng mạnh. Vì vậy năm 1838 vua Minh Mệnh cho đổi tên nước ta là Đại Nam. Vua Minh Mệnh mất ngày 28 tháng chạp năm canh tý (20-01-1841) hưởng thọ 58 tuổi. Sau khi mất bài vị vua Minh Mệnh được đưa vào thờ trong thế miếu với miếu hiệu Thánh Tổ Nhân Hoàng Đế. Vua có 142 người con ( 74 hoàng nam và 68 hoàng nữ). Ông là vị vua có nhiều vợ nhất trong số các vua Nguyễn. 3. Vua Thiệu Trị (1841-1847). Vua Thiệu Trị có tên là Nguyễn Phúc Miên Tông ngoài ra còn có tên là Tuyền và Dung. Ông là con trưởng của vua Minh Mệnh và bà Hồ Thị Hoa ( Tả Thiên Nhân hoàng hậu). Sinh ngáy 11 tháng 5 năm Đinh Mão (16-061807) tại ấp Xuân Lộc phía đông kinh thành Huế. Vua Thiệu Trị lên ngôi vào ngày 20 tháng giêng năm Tân Sửu (11-021844), làm vua được 7 năm (1841-1847). Đặt niên hiệu là Thiệu Trị vừa đúng 34 tuổi. Ông là người hiền hòa không hay bày việc, ông giữ nếp cũ và làm theo mọi sắp đặt mà vua cha đã thực hiện khà quy củ. Đồng thời giải quyết một số hậu quả để lại từ thời vua cha mình. Do Thiệu Trị bị bệnh mất ngày 27 tháng 9 năm Đinh Mùi (04-10-1847) hưởng thọ 41 tuổi. Sau khi mất bài vị nhà vua được đư vào thờ trong thế miếu và có miếu hiệu là Hiến Tổ Chương hoàng đế. Vua có 54 người con (29 hoàng tử và 25 hoàng nữ)..
<span class='text_page_counter'>(4)</span> 4. Vua Tự Đức (1848 - 1883). Vua Tự Đức tên thật là Nguyễn Phúc Hồng Bảo ngoài ra còn có tên là Thì ông là con thứ hai của vua Thiệu Trị và bà Phạm Thị Hằng (hoàng hậu Từ Dụ). Vua Tự Đức sinh ngày 25 tháng 8 năm Kỷ Sửu. Vua Tự Đức lên ngôi tháng 10 năm Đinh Mùi (1847) làm vua được 36 năm(1847 – 1883),mất ngày 16 tháng 6 năm Quý Mùi (19-07-1883) hưởng thọ 55 tuổi. Sau khi mất bài vị nhà vua được đưa vào thờ trong Thế Miếu và có niên hiệu Dực Tông Anh hoàng đế. Vua Tự Đức không có con ông nhận 3 người cháu gọi bằng chú làm con nuôi là Nguyễn Phúc Ưng Chân(sau này là vua Tự Đức). Nguyễn Phúc Ưng Đường (sau này là vua Đồng Khánh).Nguyễn Phúc Ưng Đăng ( sau này là vua Kiến Phúc). Ông có 103 bà vợ. B.Thời kỳ bắt đầu thuộc Pháp Thời kỳ này chủ quyền của đất nước rơi dần vào tay Pháp, được bắt đầu từ giai đoạn trị vì của vua Dục Đức, Hiệp Hòa... đến vua Bảo Đại (vị vua cuối cùng của triều Nguyễn ). 5.Vua Dục Đức (1883, 3 ngày). Vua Dục Đức tên thật là Nguyễn Phúc Ưng Ái, là con thứ 2 của Thụy Thái vương Nguyễn Phúc Hồng Y và bà Trần Thị Nga. Ông sinh ngày 4 tháng 1 năm Quý Sửu (11-2-1853).Năm 1869 lúc 17 tuổi được vua Tự Đức chọn làm con nuôi và đổi tên là Ưng Chân, cho xây Dục Đức đường để ở và giao cho Hoàng Quý Phi Vũ Thị Duyên (sau này là Lệ Thiên Anh hoàng hậu) trông coi, dạy bảo. Vua Tự Đức mất đi chiếu truyền ngôi cho Ưng Chân. Nhưng trong di chiếu có đoạn viết: “…Nhưng vì có tật ở mắt nên hành vi mờ ám sợ sau này thiếu sáng suốt tính lại hiếu dâm cũng là điều chẳng tốt chưa chắc đã đảm đương được việc lớn.Nước có vua lớn tuổi là điều may cho xã tắc nếu bỏ đi thì biết làm sao đây”..
<span class='text_page_counter'>(5)</span> Lúc làm lễ lên ngôi Ưng Chân đã đọc lướt đoạn này nên 3 ngày sau hai phụ chính đại thần là Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường đã phế bỏ Dục Đức theo lệnh Từ Dụ Thái Hoàng Thái Hậu (mẹ của vua Tự Đức) và bà Lệ Thiên Anh Hoàng Hậu (vợ vua Tự Đức). Làm vua được 3 ngày chưa kịp đặt niên hiệu(Dục Đức chỉ là tên gọi nơi ở) thì Ưng Chân đã bị phế bỏ và giam vào ngục cho đến khi mất.Ông mất ngày 6 tháng 9 năm Giáp Thân (24-10-1884) thọ 32 tuổi. Đến thời vua Thành Thái(con vua Dục Đức) vào năm 1892 đã truy tôn cha mình là Cung Tôn Huệ Hoành đế.Vua Dục Đức có 19 con( 11 hoàng nam, 8 hoàng nữ) 6. Vua Hiệp Hòa (1883,4 tháng). Vua Hiệp Hòa tên là Nguyễn Phúc Hồng Dật còn có tên là Thăng, con thứ 29 của vua Thiệu Trị và bà Đoan Tần Trương Thị Thuận sinh ngầy 24 tháng 9 năm Đinh Mùi(1-1-1847).Khi vua Dục Đức bị phế bỏ Hồng Dật được đưa lên ngai vàng vào ngày 30 tháng 7 năm 1883 lấy niên hiệu là Hiệp Hòa lên ngôi chưa đươc bao lâu thì bị triều đình Huế phế bỏ và buộc uống thuốc độc tự vẫn, vào ngày 30 tháng 10 năm Quý Mùi (29-11-1883). Dưới thời Thành Thái vào năm 1891, ông được truy phong là Văn Lãng quận vương. vua Hiệp Hòa có 17 người con(11 trai,6 gái) 7. Vua Kiến Phúc(1883 – 1884). Vua Kiến Phúc tên là Nguyễn Phúc Ưng Đăng con thứ 3 của Kiên Thái vương Nguyễn Phúc Hông Cai và bà Bùi Thị Thanh.Ưng Đăng sinh ngày 2 tháng giêng năm Kỷ Tỵ(12-2-1869). Năm 1870 lúc được 2 tuổi, Ưng Đăng được vua Tự Đức nhận làm con nuôi và giao cho Học phi Nguyễn Thị Hương trông coi, dạy bảo. Sau khi vua Hiệp Hòa bị phế truất vào ngày( 02-12-1883). Ưng Đăng (15 tuổi) được đưa lên ngôi vua và đặt niên hiệu là Kiến Phúc, vua Kiến Phúc ở ngôi được 8 tháng thì mất vào ngày 10 tháng 6 năm Giáp Thân ( 3107-1884) lúc mới 16 tuổi..
<span class='text_page_counter'>(6)</span> Sau khi mất bài vị vua Kiến Phúc được đưa vào thờ trong thế miếu và có miếu hiệu la Giản Tông Hoàng Đế. 8. Vua Hàm Nghi ( 1884-1885). Vua Hàm Nghi là Nguyễn Phúc Ưng Lịch còn có tên là Minh. Ông là con thứ 5 của Kiên Thái Vương Nguyễn Phúc Hồng Cai và bà Phan thị Nhàn sinh ngày 17 tháng 6 năm Tân mùi(03-081871). Sau khi vua Kiến phúc mất ngày 12 tháng 6 năm Giáp Thân(02-08-1884). Ưng Lịch được đưa lên ngôi vua đặt niên hiệu là Hàm Nghi lúc mới 14 tuổi. Binh biến năm Ất Dậu(05-07-1885) xảy ra, vua Hàm Nghi cùng quần thần chạy ra Tân Sở( Quảng Trị ) phát hịch Cần Vương, phát động phong trào kháng pháp trên toàn quốc. Quân Pháp nhiều lần kêu gọi nhà vua quay về nhưng thất bại. Ngày 30 tháng 10 năm 1883 tên Trương Quang Ngọc ( người hầu của vua ) bị pháp mua chuộc nên đem người bắt vua Hàm Nghi dâng cho Pháp. Vua Hàm Nghi bị quân pháp bắt đi đày ở Angieri ( thuộc địa của pháp), vào ngày 1301-1889. Nhà vua sống ở đó cho đến lúc mất (04-01-1943) thọ 72 tuổi. Vua Hàm Nghi có 3 người con (1 trai 2 gái). 9. Vua Đồng khánh ( 1886-1888). Vua Đồng khánh là Nguyễn Phúc Ưng Thị còn có tên là Đường và Biện. Ông là con trưởng của Kiên Thái Vương Nguyễn Phúc Hồng Cai và bà Bùi Thị thanh. Ông sinh ngày 12 tháng giêng năm Giáp Tý(19-02-1864). Năm 1865 lúc được 2 tuổi Ưng thị được vua Tự Đức nhận làm con nuôi và giao cho bà Nguyễn Thị Cẩm chăm sóc, dạy bảo. Sau binh biến năm 1885 vua Hàm Nghi bỏ. Đồng Khánh (1886-1888). ngai vàng ra Tân Sở. Triều đình Huế thương lượng với pháp đưa Ưng.
<span class='text_page_counter'>(7)</span> Đường lên ngôi đặt niên hiệu là Đồng Khánh. Ở ngôi được 3 năm vua Đồng Khánh mất vào ngày 27 tháng 12 năm Mậu Tý(28-01-1889) lúc được 25 tuổi. Sau khi vua mất bài vị vua Đồng Khánh được đưa vào thờ trong thế miếu và có miếu hiệu là Cảnh Tông Thuần Hoàng Đế, vua Đồng Khành có 10 người con (6 trai 4 gái). 10. Vua Thành Thái (1889-1907). Vua Thành Thái tên là nguyễn Phúc Bửu Lân còn có tên là Chiêu con thứ 7 của vua Dục Đức và bà Từ Minh hoàng hậu( Phan Thị Điểu) sinh ngày 22 tháng 2 năm Kỷ Mão(14-03-1879). Vua Đồng Khánh mất triều đình Huế được sự đồng ý của pháp đã đưa Bửu Lân lên ngôi vào ngày 1 tháng 2 năm 1889. Vua Thành Thái ngay từ lúc nhỏ đã rất thông minh lên 4 tuổi khi vua cha bị truất đã phải sống ở ngoài thành cùng bà con lao động. Thành Thái (1889-1907). chia sẻ với những người nghèo khổ trong cảnh mất nước nhà tan. Vì thế làm vua khi mới 10 tuổi Thành Thái đã có ý thức về quốc sự và rất ham hiểu biết. Vua thích đọc các tân thư chữ hán của Trung quốc và Nhật bản nhờ đó Thành Thái có tinh thần tự cường và đầu óc cải cách. Song mọi dự định canh tân đất nước của vua đều bị thực dân pháp ngăn chặn. Vua Thành thái là người có tư tưởng tiến bộ ( cắt tóc ngắn, lái ô tô, xuồng máy) và có tư tưởng chóng pháp rất mạnh hơn nữa vua lại là người gần gũi dân, quý dân và yêu thương dân hết mực.Vì vậy sau 19 năm ở ngôi dưới áp lực của pháp triều đình Huế lấy cớ nhà vua mắc bệnh tâm thần và buộc ông phải thoái vị. Sau đó ông bị pháp đưa đi An Trí ở Huế. Năm 1916 ông bị pháp đem đi đày ở đảo Rêuynyông (Châu Phi) cùng với con là Duy Tân. Năm 1947 ông được trở về sống tại Sài Gòn cho đến khi mất. Ông mất ngày 9 tháng 3 năm 1955 thọ 77 tuổi. Vua Thành thái có 45 người con( 19 trai và 26 gái)..
<span class='text_page_counter'>(8)</span> 11.Vua Duy Tân ( 1907-1916 ). Vua Duy Tân tên là Nguyễn Phúc Vĩnh San còn có tên là Hoảng, con thứ 5 của vua Thành Thaí và bà Nguyễn Thị Định sinh ngày 26 tháng 8 năm Canh Tý( 19-09-1900). Năm 1907 vua Thành Thái thoái vị triều đình Huế đưa hoáng Tử Vĩnh San lên ngôi lấy niên hiệu là Duy Tân lúc mới được 8 tuổi. Vua Duy Tân là vị vua lên ngôi nhỏ tuổi nhất trong 13 vua Nguyễn tuy nhiên nhà vua lại là người trững chạc có khí phách của vị đế vương cũng như cha mình. Vua Duy Tân là người có tư tưởng chống pháp, nhà vua đã cùng với Thái Phiên, Trần Cao Vân vạch định cuộc nổi dậy chống pháp vào ngày 3 tháng 5 năm 1916 nhưng âm mưu bại lộ nhà vua cùng Thái Phiên, Trần Cao Vân trốn ra khỏi kinh thành. Ba ngày sau vua Duy Tân bị pháp bắt bị kết tội rồi đày sang đảo Rêuyniông. Nhà vua mất ngày 21 tháng 11 năm Ất Dậu ( 25-12-1945) trong một tai nạn máy bay đang trên đường về thăm Việt Nam, nhà vua được an táng tại nghĩa trang thiên chúa giáo M.BaKi thuộc cộng hòa Trung Phi. Ngày 6 tháng 4 năm 1987 nhà vua được cải táng trong khuôn viên của An Lăng ( Lăng Dục Đức).Vua có 5 người con (3 trai , 2 gái). 12. Vua Khải Định( 1916-1925). Vua Khải Định có tên là Nguyễn Phúc Bửu Đạo còn có tên là Tuấn con trưởng cua vua Đồng Khánh và bà Dương thị Thục. Ông sinh ngày 1 tháng 9 năm Ất Dậu(8-1-1885). Khi vua Đồng Khánh mất hoàng tử Bửu Đạo còn nhỏ tuổi nên không được chọn làm vua đến năm 1916 khi vua Duy Tân bị Pháp đưa đi đày ở đảo Rêuyniông. Triều đình Huế và người.
<span class='text_page_counter'>(9)</span> pháp mới lập Bửu Đạo lên ngôi vua vào ngày 18-05-1916 lấy niên hiệu là Khải Định. Vua Khải Định là một ông vua bù nhìn, mạt hạng nhân dân Huế đã truyền miệng câu ca phổ biến về Khải Định: “Tiếng đồn Khải Định nịnh Tây. Nghề này thì lấy ông này tiên sư”. Ngày 20-05-1922 Khải Định sang Pháp dự hội chợ thuộc địa Macxay, đây là lần đầu tiên một ông vua triều Nguyễn ra nước ngoài sự kiện này giúp thực dân Pháp tô vẽ cho công cuộc chinh phục và khai hóa của họ ở thuộc địa. Chuyến đi của Khải Định đã làm dấy lên nhiều hoạt động của những người Việt Nam yêu nước nhằm lật tẩy bộ mặt phàn dân hại nước của ông vua này. Tháng 9 năm 1924 Khải Định tổ chức lễ tứ tuần Đại Khánh (mừng thọ tuổi 40) rất lớn và tốn kém. Hầu hết các tỉnh Bắc Kỳ, Trung Kỳ đều phải gửi tặng phẩm về mừng nhà vua. Sau lễ mừng thượng thọ được 1 năm thì Khải Định qua đời vào ngày 6 tháng 11 năm 1925 lễ tang kéo dài đến Ngày 31 tháng 1 năm 1926. Khải Định có 12 vợ sau khi mất bài vị nhà vua được đưa vào thờ trong thế miếu và có miếu hiệu là Hoằng Tông Tuyên Hoàng đế. Vua chỉ có một người con trai là hoàng tử Vĩnh thụy( vua Bảo Đại). 13. Vua Bảo Đại ( 1926-1945). Vua Bảo Đại tên là Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy ngoài ra còn có tên là Thiền ông là con độc nhất của vua Khải Định và bà hoàng thị Cúc ( bà Từ Cung) sinh ngày 23 tháng 9 năm Quý Sửu (22-10-1913). Hoàng tử Vĩnh thụy đưa sang pháp học lúc 10 tuổi đến khi vua khải Định qua đời ông về Huế lên ngôi vua vào ngày 8 tháng 1 năm 1926 lấy niên hiệu là Bảo Đại đây là vị vua cuối cùng của triều Nguyễn sau đó ông lại tiếp tục sang pháp học cho.
<span class='text_page_counter'>(10)</span> đến 8-09-1932 mới trở về Huế. Vua Bảo Đại ở ngôi cho đến 30-08-1945 thì làm lễ thoái vị tại Ngọ Môn giao chính quyền cho chính phủ lâm thời cách mạng. Chế độ phong kiến kết thúc Bảo Đại sang Pháp sống hết cuộc đời của vị vua lưu vong ở đó. Ông mất ngày 1 tháng 8 năm 1997 tại pháp. Vua Bảo Đại có 5 người con( 2 trai 3 gái) Như vậy, triều Nguyễn trong suốt hơn một thế kỉ trị vì đất nước đã trải qua nhiều biến cố thăng trầm của lịch sử, mãi cho tới 1945 cách mạng tháng 8 thành công vị hoàng đế cuối cùng thoái vị chấm dứt thời kì phong kiến tập quyền lâu dài khép lại một thời kì lịch sử lu mờ, mở ra một thời kì mới cho dân tộc.. II. CÁC TÔN GIÁO TRONG ĐỜI SỐNG CÁC VUA TRIỀU NGUYỄN. 1- Nho giáo và sức lan tỏa của nó trong đời sống các vua triều Nguyễn. Triều Nguyễn trị vì trong suốt 143 năm cũng như các triều đại trước: Các tôn giáo như nho giáo, phật giáo, thiên chúa giáo cùng tác động vào sinh hoạt tinh thần, tâm linh của người dân Việt và ảnh hưởng mạnh mẽ tới đời sống và các hoạt động chính trị của các vua. Đặc biệt là nho giáo đã ăn sâu vào nếp sống và tầng lớp văn thân sĩ phu và chiếm một địa vị khá quan trọng trong đời sống các vua triều Nguyễn. Nho giáo được coi là quốc giáo, được sử dụng như một công cụ đắc lực để củng cố địa vị, duy trì bảo vệ chế độ phong kiến. Khổng tử được coi là người sáng lập ra nho giáo. Nho giáo còn được gọi là Khổng Giáo là một hệ thống triết lí và tôn giáo do Khổng Tử phát triển để xây dựng một xã hội thịnh trị, nho giáo rất phát triển ở các nước châu á, Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên và Việt Nam. Các sách kinh điển của nho giáo đều hình thành từ thời kì Nho. Khổng Tử dạy học trò. giáo nguyên thủy. Sách kinh điển gồm 2 bộ ngũ kinh và tứ thư. Hệ thống kinh.
<span class='text_page_counter'>(11)</span> điển đó viết về xã hội về những king nghiệm lịch sử Trunh Hoa, ít viết về tự nhiên điều này cho thấy xu hướng biện luận về xã hội về chính trị, đạo đức là tư tưởng cốt lõi của nho giáo. Nội dung cơ bản của Nho giáo: cốt lõi của Nho giáo là nho gia đó là một học thuyết chính trị nhằm tổ chức xã hội để tổ chức xã hội điều quan trọng nhất là phải đào tạo cho người cai trị kiểu mới, người lí tưởng này được gọi là quân tử (kẻ làm vua chỉ tầng lớp trên trong xã hội, phân biệt với kẻ tiểu nhân những người thấp kém địa vị trong xã hội). Sau quân tử còn chỉ cả phẩm chất đạo đạo đức những người cao thượng, phẩm chất tốt đẹp phân biệt với kẻ tiểu nhân là những người thiếu đạo đức hoặc đạo đức chư hoàn thiện. Đối tượng mà nho giáo hướng đến trước hết là những người cầm quyền. Để trở thành người quân tử con người ta trước hết phải tự dào tạo, phải tu thân, Sau khi tu thân xong người quân tư phải hành đạo (đạo không chỉ đơn giản là đạo lý, nho giáo hình dung cả vũ trụ được cấu thành từ các nhân tố đạo đức và đạo ở đây bao chứa cả nguyên lý vận hành chung của vũ trụ. Khổng Tử đặt ra một loạt tam cương ngũ thường mà nam giới phải theo, tam tòng tứ đức mà nữ giới phải theo. Nho giáo du nhập vào Việt Nam khá lâu có ảnh hưởng sâu sắc đến truyền thống giáo dục, tư tưởng nhân dân từ xưa đến nay. Nho giáo phong kiến trong xã hội phong kiến: Từ chỗ không được không yêu thích trong nhân dân Viêt Nam nho giáo dần dần chiếm vị trí cao trong xã hội, đề cao uy quyền nhà vua. Xây dựng hệ thống quan liêu từ trên xuống dưới đảm bảo mối quan hệ giữa nhà nước và nhân dân. Nho giáo đặt quan hệ vua tôi ở vị trí cao nhất. Nhà nguyễn từ ông vua đầu tiên đến ông vua cuối cùng, trải qua 13 đời vua, các ông vua đã ra sức củng cố và phục hồi hệ tư tưởng Nho giáo. Không ai phủ nhận trong học thuyết Nho giáo có chứa đựng rất nhiều nội dung tích cực nhất là giáo dục và xử thế, coi trọng học vấn, đề cao nhân cách, nhưng đứng về phương diện tư duy triết học vào thế kỷ XIX còn giúp con người nhận thức thế giới.. Nho giáo được sử dụng để xây dựng tổ chức xã hội quy củ chặt chẽ.
<span class='text_page_counter'>(12)</span> từ trên xuống đặc biệt trong đời sống chính trị của các vua, vua được coi là thiên tử con trời là người quân tử, có đặc quyền đặc lợi có địa vị tối cao phân biệt với những bề tôi kẻ dưới. Cùng với đó, tư tưởng của nho giáo còn ảnh hưởng mạnh mẽ tới pháp luật và giáo dục. Về giáo dục: Các vị vua nguyễn đều đề cao nho giáo, cho lập văn miếu ở các doanh các trấn để thờ các đức Khổng Tử, thờ các vị vua, những người có công với đất nước. Dưới thời vua Gia Long cho Lập Quốc Tử Giám(1803). Đề cao việc học hễ ai có học ra làm quan. Nội dung giáo dục mô phỏng học tập toàn diện chế độ chủ triều Thanh đẩy mạnh nho học. Vua Minh Mệnh và vua Tự Đức đều là những người trí thức uyên thâm về nho học. Nội dung dạy học đều đề cao nho giáo, mọi người đi học đều tâp trung vào những sách tứ thư ngũ kinh cùng những lời thề chú của tiền nho. Trong những sách ấy đều đề cao vua. Các vị vua đầu triều Nguyễn đều đề cao nho giáo và nho giáo có ảnh hưởng lớn tới tư tưởng chính trị cách xây dựng tổ chức quản lý xã hội của họ. Vua Gia Long (1762_1820) là vị hoàng đế đã thành lập nhà Nguyễn, vương triều cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Là một ông vua dựng nước bằng việc cầu cứu phương tây, chấp nhận ảnh hưởng của tư tưởng phương Tây nhưng lại chon Nho giáo làm công cụ để xây dựng vương quyền cho mình. Nho giáo chiếm một vị trí khá quan trong trong đời sống của vua. Để giữ vững hệ tư tưởng phong kiến, giáo dục dưới thời Gia Long thực hiện chủ trương an dân, chăm lo đến đời sống vật chắt của người dân bằng các biện pháp như giảm tô thuế, coi trọng việc tuyển chọn quan trọng lại từ trung ương đến địa phương. Cùng với đó nhà vua hết sức chăm lo đến đời sống tinh thần của người dân bằng việc coi trọng các nghi lễ cúng tế của Nho giáo trong đó có thờ cúng tổ tiên, thần linh,…. Nhờ những chủ trương trên, đã giúp nước ta thời bấy giờ đi dần ổn định quan trọng hơn là nhờ nó là Gia Long củng cố vương quyền của mình ..
<span class='text_page_counter'>(13)</span> Để chấn hưng Nho giáo việc ban hành đến cơ chế pháp luật được triều Nguyễn rất chú ý. Sau khi lên ngôi Gia Long đã ban hành hơn 100 điều lệ như : điều kiện chấn chỉnh tục ở hương đảng, làm sổ hộ tịch,….,và quan trọng nhất là cho ra đời bộ luật Gia Long - Hoàng Việt, các nội dung về trung, hiếu, tiết nghĩa được cụ thể hóa trong điều luật thông qua các điển chế và pháp luật, ra đời dưới thời Gia Long là cơ sở kế thừa tinh hoa đời trước và vận dụng trước đó thực sự là công cụ, phương tiện để truyền bá tư tưởng Nho giáo vào xã hội. Gia Long cho rằng: “ địa ngục thiên đường của truyền thuyết Thiên Chúa Giáo là sự dị đoan chỉ làm mê hoặc, quyến rũ những nguời thiếu hiểu biết”. Như vậy, ở ông vua đầu tiên của triều Nguyễn này đã có sự kế thừa những sản phẩm mà Nho giáo mà các triều đại trước đã làm được bên cạnh đó ông cũng đã mở rộng, xây dựng nhiều đền miếu, văn miếu để củng cố giáo lí, lấy Nho giáo làm hệ tư tưởng. Năm 1804 Gia Long cho xây dựng nhà Thái Miếu để thờ cúng tổ tiên dòng họ Nguyễn cũng năm đó, Gia Long sai lập danh sách các công thần gồm 1015 người, chế bài vị thờ ở đền Hiển trung (Gia Định), về sau chuyển đến kinh đô Huế. Thái Miếu có tên đầy đủ là Thái Tổ Miếu đây là Miếu thờ các vị chúa Nguyễn,từ Nguyễn Hoàng đến Nguyễn Phúc Thuần. Miếu nằm ở góc đông nam trong hoàng thành , đối xứng với Thế Miếu ở phía Tây Nam .Vị trí này nay thuộc phường Thuận Thành, thành phố Huế ,tỉnh Thừa Thiên Huế. Miếu được xây dựng từ năm Gia Long 3 (1804) và được tu sửa vào các đời vua Thành Thái, Khải Định. Trong chiến sự đầu 1947, khu vực Thái Miếu gần như bị thiêu hủy hoàn toàn, 1971_1972, hội đồng trị sự Nguyễn Phúc Tộc đẫ quyên góp và dựng lại 1 tòa nhà 5 gian trên nền cũ ngôi điện chính để làm nơi thờ tự các chúa Nguyễn. ê Quy mô và bố trí kiến trúc Thái Miếu gần tương tự như Thế Miếu. Tòa điện. Thái Miếu.
<span class='text_page_counter'>(14)</span> chính kiến trúc theo lối nhà kép trùng thiềm điệp ốc, chính đường 13 gian 2 chái kép, tiền đường 15 gian 2 chái đơn, bên trong chính đường đắt 9 án thờ các vị chúa Nguyễn. Gian chính giữa thờ Nguyễn hoàng và vợ , hai bên lần lượt là các chúa: Nguyễn Phúc Nguyên, Nguyễn Phúc Tần, Nguyễn Phúc Chu, Nguyễn Phúc Lan,Nguyễn Phúc Thụ, Nguyễn Phúc Thái,Nguyễn Phúc Thuần.Phía đông Thái Miếu có điện long đức, phía nam có điện chiêu kính , đối diện với điện ở phía tây là điện mục tư, phía bắc điện này có toà nhà vuông.Phía tả tường Thái Miếu có cửa Hiển thừa, phía hữu có cửa tức Tường, phía sau Thái Miếu có cửa Nguyên Trí và Trường Hựu . Trước sân Thái Miếu có gác Tuy Thành ( tên cũ là gác Mục Thanh), ba tầng hình thức tương tự như Hiển Lâm ở các Thế Miếu, hai bên gác tuy thành có tường ngắn, trên có lầu chuông, lầu trống ,dưới trổ cửa vòm. Phía nam gác Tuy Thành, hai bên có nhà Tả Vu, Hữu Vu. Toàn bộ khu vực Thái Miếu có tường gạch bao bọc, trổ năm cửa ra các phìa. Ngoài cùng là cửa chính cửa Thái Miếu . Lễ tế được tổ chức 1 năm 5 lần vào các tháng mạnh xuân, mạnh hạ , mạnh thu, mạnh đông và quý đông, ông đã rất coi trọng đén việc xây dựng lăng tẩm cho mình cũng như việc xây dựng đền miếu cho các anh hùng ở các triều đại trước. Cũng như những ông vua chuyên chế Gia long cũng đã xây dựng lăng cho mình nhằm tìm một nơi vĩnh hằng ở thế giới bên kia theo quan niêm “sinh kí tự quy”, “sống gửi thác về” . Công tác kiến trúc bât đầu từ ngày 11/5/1814 với 547 người lính lấy trong 3 đơn vị quân đội tại kinh đô Huế , và nhiều thợ giỏi ở các địa phương về làm..
<span class='text_page_counter'>(15)</span> Lăng Gia Long - còn gọi là Thiên Thọ Lăng , đây là một quần thể nhiều lăng tẩm trong hệ thống quần thể di tích ở Huế. Toàn bộ khu lăng này là một quần sơn với 42 đồi, núi lớn nhỏ, trong đó có Đại Thiên Thọ là ngọn núi lớn nhất được chọn làm tiền án của lăng và là tên gọi của cả quần sơn này. Tấm bia ‘Thánh đức thần công” ở bên trái lăng do vua Minh Mạng viết xong ngày 19/9/1820. Hai. hàng tượng. văn võ quan viên và voi ngựa bằng dá ở bái dình mãi đến tháng 4 /1883 mới hoàn tất. Lăng tẩm nhà vua nằm trên Lăng Gia Long. một quả đồi bằng phẳng, rộng lớn. Trước có ngọn Ðại Thiên. Thọ án ngữ, sau có 7 ngọn núi làm hậu án. Bên trái có 14 ngọn núi làm "tả thanh long" và bên phải có 14 ngọn làm “hữu bạch hổ”. Tổng thể lăng được chia làm 3 khu vực: - Chính giữa là lăng mộ vua và Thừa Thiên Cao Hoàng Hậu. Qua khỏi sân chầu có các hàng tượng đá uy nghiêm và bảy cấp sân tế là Bửu Thánh ở đỉnh đồi. Trong Bửu Thánh có 2 ngôi mộ đá được sáng tác theo quan niệm “Càn Khôn hiệp đức” biểu tượng cho hạnh phúc. - Bên phải là khu tẩm điện mà điện Minh Thành là trung tâm nơi thờ Hoàng đế và Hoàng hậu thứ nhất. Trước đây trong điện Minh Thành có thờ nhiều kỷ vật gắn bó với cuộc đời chinh chiến. - Bên trái khu lăng là Bi Đình, nay chỉ còn tấm bia lớn ghi bài “Thánh Ðức Thần Công” của vua Minh Mạng soạn, ca ngợi vua cha được chạm khắc tinh tế, sắc sảo. Ngoài ra còn có các lăng phụ cận trong khu vực này như lăng Quang Hưng (bà vợ thứ hai của chúa Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần), lăng Vĩnh Mậu (vợ.
<span class='text_page_counter'>(16)</span> chúa Ngãi vương Nguyễn Phúc Trăn); lăng Toại Thánh (vợ thứ hai của Nguyễn Phúc Luân và là thân mẫu của Gia Long),...lăng Thiên Thọ Hữu của bà Thuận Thiên Cao Hoàng Hậu, thân mẫu của vua Minh Mạng, bên cạnh có điện Gia Thành dùng để thờ. Như vậy, chứng tỏ kiến trúc chịu ảnh hưởng nhiều của nho giáo. Nho giáo trong đời sống của vua còn được thể hiện ở việc thờ cúng tổ tiên và các anh hùng. Vấn đề này còn được thể hiện rõ trong thái độ của Nguyễn Ánh(Gia Long) trong những lần ông bàn luận với Bá Đa Lộc về vấn đề tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Ông đã thẳng thắn phê phán thái độ thiếu khoan dung của đạo thiên chúa đối với tín ngưỡng của truyền thống Việt Nam. Nguyễn Ánh lấy làm ngạc nhiên khi thấy con ông là Hoàng Tử Cảnh sau khi từ Pháp trở về không làm lễ ở nhà thờ tổ tiên bản thân vua Gia Long có thể chưa hẳn đã tin vào sự tồn tại bất tử của linh hồn, song ông lại cho rằng việ thờ cúng những người đã khuất, nhất là thờ cúng tổ tiên ông bà cha mẹ lại là việc làm rất cần thiết: “Linh hồn không thể trở lại, rằng con cháu không được hưởng gì bằng thờ cúng, nhưng ông coi đó như một nghi lễ đẻ chứng thực sự tưởng nhớ mà con cháu cần phải giữ gìn về tổ tiên của mình” Gia Long đã nói rằng: “Khi tôi đến buổi cúng lễ này, tôi tự nhủ rằng :nếu tổ tiên tôi còn sống tôi muốn làm tât cả mọi bổn phận cần thiết đối với các Người. Để chứng tổ rằng nững tình cảm đó là chân thành và hiệu quả, tôi muốn làm y nư thể tổ tiên toi đang còn sống. Tôi biêt rằng họ không còn nữa và những gì tôi làm chăng có ích cho ai nhưng tôi muốn thể hiện cho mọi người thấy rằng tôi không thể quyên tổ tiên và đem lại cho thần dân của tôi một mẫu mực về lòng hiếu thảo”. Rõ ràng, những suy nghĩ và quan niệm trên đay của vua Gia Long về chữ hiếu, về sự thờ cúng tổ tiên là một tấm gương sáng cho thần dân noi theo, mà chữ “Hiếu” lại là nền tảng của chữ “Trung”. Vua tận hiều với ông bà tổ tiên là cơ sở để nhắc nhở thần dân trung thành với triều đình..
<span class='text_page_counter'>(17)</span> Khi nói đến vấn đề tín ngưỡng vua Gia Long không hề có lời nào bài bác Thien chúa giáo, song lập trường của ông đối với việc thờ cúng tổ tiên, y nghĩa thiêng liêng, tầm hơn thế nữa việc thờ cúng tổ tiên theo nghi lễ của bậc vua chúa còn mang lại uy quyền cho dòng họ nhà vua, đề cao uy quyền của vương triều. Việc quan trọng về mặt chính trị và xã hội của tín ngưỡng truyền thống này la rất kiên định. thờ cúng tổ tiên mà vua Gia Long làm, quan niệm một phần ông làm để nhân dân noi theo và cũng để cho các vua đời sau nhớ về tổ tiên mình. Thời vua Gia Long, là triều đại đầu tiên của nhà Nguyễn, nho giáo đến thời kì này đã đượ Gia Long áp dụng vào văn hoá xã hội, chính trị, tín ngưỡng, kiến trúc… Đến thời vua Minh Mạng Nho giáo ngày càng được củng cố và thể hiện khá rõ trong đời sống của ông vua này. Trong đời sống tinh thần cũng như vật chất, ông chăn lo đén đời sông của người dân. Là một triều đại phát triển, nhân dân được sống ấm no hạnh phúc là nhờ ơn đức lớn của vua dưới ý thức hệ Nho giáo. Đặc biệt, dưới thời ông vua này nền khoa cử có những bước phát triển, lấy Nho học làm nền tảng dùng nó để tuyển chọn hệ thống quan lại và tổ chức các kì thi nhằm tìm ra những nhân tài cho đất nước. Năm 1823, Minh Mệnh sai xây đền thờ Lịch Đại Đế Vương để thờ các vị vua có công với nước như Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, Lý Thái Tổ, … về sau có thêm các danh tướng khác như Trần Qu ốc Tuấn , Phạm Ngũ Lão . Nho giáo còn được thể hiện trong kíến trúc đặc biệt Lăng Minh Mạng - một tổng thể kiến trúc quy mô gồm khoảng 40 công trinh lớn nhỏ, nằm trên một khu đồi sông hồ thoáng mát. Thầy địa lý Lê Văn Đức thạt trí lý khi chon địa cuộc nay, vì vừa hợp với thuật phong thuỷ, vừa hợp vơi cảnh quan chung quanh. Toàn bộ lăng giống như cơ thể con người nằm gối đầu nên một ngọn đồi cao trong vùng, tứ chi xuôi duỗi ra phía ngã ba sông gần đó. Bên trong thành, các công trình kiến trúc được bố trí đối xứng nhau từng cặp qua trục chính xuyên tâm lăng. Tát cả được xếp đặt theo một trật tự chặt chẽ,.
<span class='text_page_counter'>(18)</span> có hệ thống, giống như tình trạng xã hội đương thời, một xã hội được tỏ chức theo chính sách trung ương tập quyền của chế độ quân chủ tôn sùng Nho học đến mức tối đa. Bố cục kiến trúc ấy cũng nói lên cá tính và phong cách của chính vua Minh Mạng. Bức thanh xây theo hình tròn biểu thị vua là mặt trời, là đấng trí tôn có quyền chi phối toàn bộ xã hội ấy. Ở phần trước lăng, mật độ kiến trúc thưa và thoáng, càng vào sâu mật độ kiến trúc càng dày. Các nhà kiến trúc thời ấy đã đưa 3 khu kiến trúc ở lăng Gia Long nằm theo chiều ngang nhập làm một, cho nằm theo chiều dọc trong một trục duy. Lăng Minh Mạng. nhất ở lăng Minh Mạng. Họ cũng đã khôn khéo lợi dụng được thế đất và các ngọn đồi để nâng chiều cao của các công trình kiến trúc lên, đồng thời những hồ đã được bàn ta con người tạo ra như những nốt nhạc tràm đẻ toàn bộ kiến trúc và thiên nhiên trong lăng trở thành một khúc nhạc rất phong phú về âm điệu và tiết tấu. Những cánh cửa gỗ ở Hiền Đức Môn, Hoàng Trạch Môn và ở Minh Lâu khi mở, tạo ra những bất ngờ thích thú cho người đến chiêm ngưỡng. Kiến trúc và phong cảnh với độ cao thấp của đường thầm đạo cứ thay đổi mãi bước chân đi. Ngoài tính đăng đối uy nghiêm đường bệ, lăng Minh Mạng còn có những nét quyến rũ của thiên nhiên đã được chỉnh trang lại để làm bối cảnh cho các công trình kiến trúc . Đến 1825, Minh Mệnh lạ ra lệnh cho bộ lễ lập danh sách những người có công lao ở các dinh, trấn và lập đền thờ họ ở các địa phương. Thờ thành hoàng ở đình làng là đặc trưng tín ngưỡng độc đáo của người Việt. Cùng với.
<span class='text_page_counter'>(19)</span> việc thờ cúng Thành hoàng, dân làng còn tổ chức lễ hội có những màu sắc khác nhau. Thành hoàng là anh hùng cứu nước thì lễ hội thường có diễn xướng đánh giặc, thành hoàng là thành nông ngiệp thì có hội diễn cầu mưa. Việc ban cấp sắc phong thành hoàng là biểu hiện sự cố gắng “thống nhất” tinh thần giữa triều đình và làng xã, giữa chính quuyền và thần quyền. Việc thờ cúng tổ tiên và các vị anh hùng dân tộc và những người có công với dân với nước của nhà Nguyễn, như PGS Nguyễn Văn Kiệm đã nhận xét, không chỉ là lễ tục đời thưòng mà nó còn hàm chứa một ý tươngr tôn giáo nhất định. Ví như khi nhận việc tu sửa đền thờ Mai Hắc Đế, vua Minh Mệnh nói với Nội các rằng: “nhà nước tôn thờ các thần sông, núi cốt đẻ cầu phúc cho dân. Vả lại đền ấy đã giúp nướ giúp dân có nhiều linh ứng:gần đây cả tinh Nghệ An giặc cươp im lặng, người và vật đều bình an, mưa hoà, nắng thuận, lúa tốt, dẫu là nhờ phúc trời thương mà cũng là do sưc thần phù hộ rộng khắp”. Cũng như 2 ông vua đầu tiên ( Gia Long, Minh Mạng), Thiệu Trị đã kế tục và phát triển Nho giáo trong bình diện ý thức hệ của mình. Việc sủ dụng Nho giáo trong các hệ thống tôn giáo làm tư tưởng cho việc xây dựng và củng cố vương quyền của mình. Ngoài việc áp dụng nho giáo vào xây dựng cuộc sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, cũng như trong chính trị và giáo dục thì Thiệu Trị còn sáng tác thơ văn với sự ảnh hưởng lớn của Nho giáo. Ông được gọi là một ông vua am hiểu sâu sắc về Nho học. Trong việc vận dụng Nho học vào cuộc sống của mình, quan lại cũng như nhân dân. Thiệu Trị đã chăn lo đến đời sống của nhân dân, giáo dục cho mọi người dân hiểu biết về tầm quan trọng của Nho giáo Trong việc xây dựng nơi an nghỉ cho mình, ông vua này cũng chú trọng đến nghệ thuật kiến trúc và lấy mô hình kiến trúc Trung Hoa làm hình mẫu với bản sắc của Nho giáo được thể hiện khá sâu sắc và rõ nét. Sau khi ở ngai vàng 7 năm, vua Thiệu Trị lâm bệnh mất 4/11/1847 lúc mới 41 tuổi. Trong khi hấp hối, nhà vua đã răn người con trai sắp lên nối ngôi rắng: “Chỗ đất làm sơn.
<span class='text_page_counter'>(20)</span> lăng lên chọn chỗ bãi cao chân núi cạn tiện , để dân binh rễ làm công việc.Con đường ngầm đưa quan tai đến huyệt, bắt đầu từ Hiếu Lăng, nên bắt trước mà làm còn điện vũ liệu lượng mà xây cất cho kiệm nước, không nên làm nhiều đền đài, lao phí đến tận lực của binh dân.” Nghe theo lời vua cha Tự Đức đã cho xây dựng lăng Thiệu Trị theo mô thức kiến trúc phương Đông theo mẫu hình Nho giáo. Trước thời điển khởi công xây dựng lăng này, ở huế chỉ mới có 2 lăng Gia Long và Minh Mạng mà thôi Về phương diện phong thuỷ, lăng Thiệu Trị ở vào vị thế “Sơn chỉ thuỷ dao”. Lăng quay mặt về hướng Tây bắc, một hướng chưa bao giờ đươc dùng trong các công trình kiến trúc lớn ở huế bấy giờ. Phía trước, cách lăng trừng một km bên phải có đồi Vọng cảnh, bên trái co núi Ngoc Trản trầu về trước lăng theo vị thế “ tả long hữu hổ”. Ngọn núi nằm cách độ khoảng 9km đứng làm “tiền án” cho khu vực lăng,trong khi động Bàu Hồ ổ gần hơn lại làm bình phong thiên nhiên cho khu vực tẩm. Ở đằng sau, ngoài ngọn núi Kim Ngọc ở xa xa, người xưa còn đấp một mô đất cao lớn để làm “hậu chẩm” cho lăng. Trong phạm vi lăng tẩm ấy, có 3 chiéc hồ bán nguyệt là Hồ điên, hồ Nhuận Trạch hồ ngung Thuý, cùng dồng khe thừ hồ Thuỷ Tiên chay ra bên phải, giao lưu với nhau bằng nhưng đường cống xây ngàm dưới các nối đi. Như vậy, chúng ta thấy rằng kiến trúc lăng Thiệu Trị có nhiều nét giống các bậc tiên tổ của mình nhưng cũng mang nhiều nét thần bí và thâm sơ, trầm măc mà thanh thoát, khiêm tốn ẩn mình giữa chốn núi đồi rộng lớn dưới bầu trời bao la. Ngoài ra Thiệu Trị còn được biết đến là một ông vua văn hay và uyên bác đạo nho, ông đã để lại nhiều tác phẩm có giá trị không chỉ về mặt nội dung mà còn mang đậm phong cách của một ông vua chuyên chế phương Đông đậm đà bản sắc. Vua Thiệu Trị từng sáng tác mười bài thơ mô tả hai mươi cảnh đẹp ở huế, gọi là ”Nhị Thập Thàn Kinh Thắng Cảnh”, trong tập “Thiệu Trị Ngự Tế Thi Tập “..
<span class='text_page_counter'>(21)</span> HƯƠNG GIANG HỮU PHIẾM Nhất phái nguyên uyên hộ đế thành Thanh lưu sấn tảo nhạ lương sinh Ba bình xuân thủy lung yên sắc Chu trục thần phong động lỗ thanh Thiên tửu vị can nhu ngạn thọ Sơn hoa do luyến kết vân anh Phiếm hồi vị yết Thương lang khúc Đông khuyết phương thăng thụy nhật minh. ĐỈNH NGỰ LÊN CAO Thành nam một ngọn đẹp vô ngần Nhớ tiết trùng dương chuyện đặt vần Lên viếng chuyến đầu xe một buổi Dân hô rượu múa tiếng ba lần Đất trời muôn cảnh thu đầy mắt Vũ trụ ngàn năm hưởng được ân Sông núi hai phần trăm vững giữ Mây bừng khí vượng quyện non xuân. Là một triều đại trọng dụng Nho giáo, lấy Nho giáo làm tư tưởng đôc tôn. Đứng trước sự hiện diện của tín ngưõng tôn giáo cổ truyến của dân tộc Việt Nam ở nửa đầu thế kỉ XIX, các vua triều Nguyễn đã có một thái độ ứng xử thích hợp, hài hoa. Một măt, nhà Nguyễn vẫn đề cao Nho giáo, lấy Nho giáo làm hệ tư tưởng chính thống của mình, song mặt khác các vua triều Nguyễn vẫn tôn trọng, duy chi tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên khéo kết hợp với những nội.
<span class='text_page_counter'>(22)</span> dung của Nho giáo với tín ngưỡng truyền thống, kết hợp sự thờ cúng ở cung đình như Tế giao, tế Văn Miếu và Thái Miếu với sự thơ cúng cha mẹ tổ tiên ở gia đình, thờ Thành Hoàng ở làng xã, thờ các vị anh hùng dân tộc có công với dân với nước và thờ các vị thần linh khác. Thái độ ứng xử của các vua triều Nguyễn đối với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên “giữa nhân dân và nhà nước thể hiện sự thống nhất gần như hoàn toàn giũa tín ngưỡng của Nhà nước với tín ngưỡng của nhân dân góp phần quan trọng vào sư gắn bó về mặt sinh hoạt văn hoá và tôn giáo nước”. Dưới thời Tự Đức nho giáo càng được đề cao, vua Tự Đức là một người chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của Nho học. Một bậc trí nhân uyên thâm về nho học, các yếu tố và tư tưởng của Nho giáo không chỉ ăn sâu vào con người của vua Tự Đức mà nho giáo còn ảnh hưởng mạnh ngay trong việc xây dựng kiến trúc lăng tẩm của ông. Vua Tự Đức cũng như các vị vua trước của triều Nguyễn mong muốn sử dụng Nho giáo để mưu tính thiết lập một hệ thống quyền hành tập trung theo kiểu Trung Hoa nhằm đưa quốc gia Việt Nam vào một khuôn khổ chính trị xã hội. Nho giáo được coi như là công cụ tốt nhất cho sự sát nhập này có nghĩa là Nho giáo chính là phương tiện để thuyết phục dân chúng, về đại thể người ta nhấn mạnh nhiều nhất giá trị đạo hiếu. Vua Tự Đức là một ông vua rất có hiếu với cha mẹ (đó là sự ảnh hưởng mạnh của nho giáo), vua rất thích nghiền ngẫm kinh điển nho giáo, văn thơ chữ Hán. Vua tự quy định ngày lẻ thì thiết triều, ngày chẵn vào chầu thăm mẹ. Tự Đức có dáng vẻ một nho sĩ không cao không thấp chạc người bậc trung hơi gầy, mặt hơi dài, cằm nhỏ trán rộng mà thẳng, mũi cao má tròn, hai con mắt tinh mà hiền, vua thường mặc quần áo màu vàng không ưu trang sức phù phiếm và cũng không muốn cung nữ đeo đồ nữ trang, chỉ lấy sự sạch sẽ làm đẹp, một con người tâm hồn thanh cao lãng mạn yêu thiên nhiên. Giũa nho giáo và hệ thống thi cử có mối quan hệ mạnh, vua không chỉ đề cao nho giáo trong việc tổ chức xã hội, cho cá nhân mà còn coi nho giáo là một nội dung học tập chính và quan trọng, là một phương tiện khái niệm học.
<span class='text_page_counter'>(23)</span> thuyết để tiến thân “ tu thân, trị quốc, bình thiên hạ”. được diễn tả rằng: Trở thành quan lại sẽ cho phép đem lại vinh hoa và quyền thế cho gia đình dòng tộc. “ Một người làm quan cả họ được nhờ” như vậy: Tự Đức sống giữa triều đình hoàn toàn tách khỏi thế giới thực tại và không có một sự hiểu biết nào về thể chế lịch sử của chính nước mình và chính sách của Tự Đức chỉ dựa duy nhất vào những thể chế lịch sử Trung Hoa và hệ tư tưởng Khổng Giáo. Tự Đức ảnh hưởng mạnh tư tưởng Khổng Giáo với một khung tư tưởng chật hẹp tiêu chuẩn đánh giá lạc lõng. Tự Đức không có một khả năng xác định chính xác hiệu quả để giải quyết những vần đề theo cách thức mà thực tế đã đặt ra. Vì vậy dưới thời Tự Đức tồn tại lớp văn thân sĩ phu trung thành với yếu tố hán học, bảo thủ lỗi thời. trong lúc hoàn cảnh đất nước có sự thay đổi đòi hỏi phải có sự thay đổi phù hợp. Những tư tưởng canh tân đất nước của Nguyễn Trường Tộ và một số người tiến bộ đã bị khước từ, không được vua chấp nhận. Điều đó cho ta thấy rằng: Tư tưởng Nho giáo bám dễ ăn sâu vào nếp nghĩ của nhà vua và tất cả các tầng lớp từ quan lại tới các văn thân sĩ phu. Chính tư tưởng Nho giáo đó đã hạn chế tầm nhìn của vua Tự Đức và một bộ phận lớn quan lại. Họ trung thành với tư tưởng học thuyết của Khổng Giáo , không thoát ra được và không tìm được chính sách phù hợp cho đất nước. Do đó dưới thời Tự Đức do tính bảo thủ hẹp hòi mà ta không tránh khỏi việc trở thành thuộc địa của pháp. Qua kiến trúc lăng tẩm vua Tự Đức chúng ta sẽ nhìn thấy khá rõ sự ảnh hưởng của Nho. Nhà Thủy Tạ - lăng Tự Đức.
<span class='text_page_counter'>(24)</span> giáo. Vua Tự Đức khi còn sống đã là người hấp thụ khá đầy đủ nền văn hóa và triết học Đông phương với một số mâu thuẫn nội tại của nó giữa cái tích cực lúc trẻ và tiêu cực lúc già, giữa sự sống và cái chết. Càng thất bại trước việc nước việc nhà khi càng luổng tuổi ông càng bi quan yếm thế nhà vua nghĩ đến cái chết tất nhiên sẽ đến với mình. Và để vơi bớt những dằn vặt khổ đau trong quắng đời còn lại. Cho nên ông đã cho xây khu lăng của mình làm nơi an nghỉ cuối đời. Mỗi khu lăng đều ảnh hưởng cá tính của chủ nhân và lăng Tự Đức cũng không ngoại lệ. Lăng Tự Đức ảnh hưởng cá tính của ông vua thâm nho. Toàn bộ kiến trúc khu lăng đều ảnh hưởng mạnh mẽ yếu tố nho học. Lăng Tự Đức xây dựng kéo dài trong 3 năm( 1864-1867). Lăng Tự Đức gồm 2 phần chính với khoảng 50 công trính được bố trí trên 2 trục dọc song song , lấy núi Giang Khiêm ở phía trước làm tiền án, lấy núi Dương Xuân làm hậu chẩm, hồ Lưu Khiêm làm Minh đường. các công trình kiến trúc là những đường nét uyển chuyển.Trong khuôn viên lăng có gần như đầy đủ các công trình được xây dựng giống như kinh thành chỉ khác đây là nơi thờ cúng. Khiêm Cung môn là nơi vua làm việc khi vua còn sống nay là nơi thờ hoàng hậu còn có nơi thờ mẹ vua tức bà Từ Dụ . Vua Tự Đức là người uyên thâm nho học ông đã để lại 600 bài văn và 4000 bài thơ chữ hán và khoảng 100 bài thơ nôm. Trong đó có bài thơ :"ngắm sự đời” thể hiện rõ quan niệm sống và ảnh hưởng của nho giáo, được dịch như sau: “ Sự đời ngẫm nghĩ , nghĩ mà ghê Sống gửi rồi ra thác lại về Khôn dại cùng chung ba thước đất Giàu sang chưa chín một nỗi kề Tranh giành trước mắt mây tan tác Đày đọa sau than núi nặng nề Thử đến hỏi tiên tiên chẳng biết Gượng làm chút nữa để mà ghê”..
<span class='text_page_counter'>(25)</span> Như vậy ta thấy rõ Nho giáo có sự ảnh hướng mạnh tới đời sống của vua Tự Đức. Yếu tố nho giáo được vua sử dụng như ngọn cờ tinh thần để thống trị toàn xã hội. Tự Đức vẫn coi nho giáo làm quốc giáo, làm chính đạo. Nho giáo được coi là nền tảng củng cố chế độ quân chủ chuyên chế địa vị nhà vua. Tuy nhiên càng về sau nho giáo không còn mang những yếu tố tiến bộ nữa nó trở thành vật cản trên bước đường phát triển của đất nước. Các vị vua kế tiếp theo lên ngôi trong hoàn cảnh đất nước bị ngoại xâm đô hộ do đó nói là vua nhưng không hề có chút quyền lực, hàng tháng phải ngửa tay xin tiền Pháp, bộ máy quan lại cùng nhà vua không còn là chỗ dựa cho nhân dân nữa, các phong trào đấu tranh chống pháp và triều đình phong kiến nổ ra mạnh mẽ. Bên cạnh đó thực dân pháp ngày càng tăng cường sử dụng Nho giáo làm công cụ để thống trị nhân dân nhằm nô dịch nhân dân ta. Và một đặc điểm lớn trong giai đoạn này là sự ảnh hưởng vô cùng mạnh mẽ của đạo thiên chúa vào đời sống của các vua đặc biệt là Khải Định và Bảo Đại.. 2- Thiên Chúa giáo và thái độ của các vua nguyễn trong việc nhìn nhận tính ảnh hưởng của nó trong đời sống. Cuối thế kỷ 16,đầu thế kỷ 17 việt Nam bắt đầu giao thương với các nước phương tây như Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Anh, Pháp…để trao đổi hàng hóa, vũ khí quân sự, cùng thời gian này Thiên chúa giáo cũng phát động công cuộc truyền giáo quy mô lớn di đến khắp nơi trên thế giới, trong đó có Châu Á, có thể kể đến các nhà thừa sai như.
<span class='text_page_counter'>(26)</span> phanxico xavie(1541),Matteo Ricci đến Ấn độ và Trung Hoa nhưng không đạt kết quả. Theo kinh mục Marcos Gispert, nhà sử học Dòng Anh em Thuyết Giáo đã sống tại Việt Nam 34 năm thì đã có một số nhà truyền giáo đến vùng viễn đông như: Linh mục Gaspardes.Cruz :năm 1550 từ Malaca đổ bộ lên Hà tiên sau đó từ cửa biển Bà Rịa đi quảng Đông Hai linh mục Lopez va Acevedo: năm 1558 đã tới giảng vùng cao Miên trong 10 năm. Hai linh mục Lusi de Fonseca(Bồ Đào Nha) và Gregoire de Lamotte (Pháp) cũng từ Malacca đi tới truyền đạo tại Quảng Nam trong 6 năm_thời chúa Nguyễn Hoàng (1580-1586). Tiếp tục công cuộc truyền giáo của các vị truyền giáo đầu tiên đã có rất nhiều vị truyền giáo thuộc dòng tu và hội thừa sai khác đến Việt Nam. Vì thế mà nhiều nhà sử học Thiên Chúa giáo Việt Nam đã chọn năm 1533 là năm khởi đầu cho Thiên Chúa giáo ở Việt Nam. Sử liệu Pháp ghi lại rằng vào năm 1516 có một nhà hàng hải Bồ đào Nha tên là Ferez de Andrade đã đến tận bờ biển Việt Nam. Năm 1596 thầy dòng Tây Ban Nha tên là Don Diegod Averte đã đặt chân tới Huế, nhưng bị đuổi đi ngay, hội Ái Hữu Thiên Chúa thành lập (1615) là một tổ chức truyền đạo tại miền Nam Việt Nam. Ngày 15/1/1615, linh mục Francesco Buzomi, Diego Cavalho và các trợ sĩ đến cửa Hàn (Đà Nẵng),tiếp theo là Francisco de Pina, nhất là Alexandre de Rhode(Đắc Lộ) đến cửa Bạng (Thanh Hóa). Và từ đó phát triển sự nghiệp truyền đạo không những bằng mục vụ thường xuyên, nhưng nhất là bằng cách hoàn thiện chữ quốc ngữ để phổ biến sự truyền bá đưc tin và tổ chức Nhà Thờ Đức Chúa Trời (1629). Ông đã tập trung khắp nơi những nhóm thanh thiếu niên thiện chí, sống đời độc thân và cùng với các linh mục trong giáo sứ tới.
<span class='text_page_counter'>(27)</span> tận các nơi xa xôi hẻo lánh chia sẻ việc truyền đạo, nhất là việc dạy giáo lý cho dân chúng. Việc truyền đạo được các vua chúa Việt Nam cho phép trong một số nơi với nhiều hạn chế của các quan lại địa phương, nên các tín đồ gặp nhiều khó khăn trong việc giữ đạo,truyền đạo có nơi còn bị giết chết. Như vậy, trước khi Nguyễn Ánh lên ngôi (1802), Thiên Chúa giáo đã du nhập vào Việt Nam. Đây không chỉ là vấn đề về tín ngưỡng, văn hóa mà còn là vấn đề chính trị - xã hội rất nhạy cảm qua các thời kỳ lịch sử có chế độ chính trị khác nhau.Tính độc tôn và tính kiêu hãnh của Thiên Chúa giáo cùng những nghi thức mang thính tương khắc với văn hóa truyền thống và sự lạm dụng chính trị của các thế lực bên ngoài đối với Thiên Chúa giáo là nguyên nhân dẫn đến các chính sách của nhà cầm quyền Việt Nam nói chung và triều Nguyễn nói riêng. Những người truyền giáo cho rằng Thiên Chúa giáo truyền vào Việt Nam là dòng chính thống trực thuộc tòa thánh La Mã, đại diện cho sự ưu việt và tính hoàn vũ nhất so với bất kỳ tôn giáo nào. Nên việc truyền giáo và bảo vệ đạo là nhiệm vụ thiêng của nhân loại văn minh, họ không những không muốn thỏa hiêp với bất kỳ tôn giáo nào mà phải xóa. Nhà thờ Lớn Hà Nội. sạch những tôn giáo bản địa để xây dưng một Thiên Chúa giáo độc tôn, một đức tin tuyệt đối về Thiên Chúa. Do vậy họ đưa ra các điều cấm kỵ như cấm lạy xác người chết, cấm dâng hương đốt nến cho người chết, cấm đọc văn tế, cấm mặc tang phục, những định hướng và giải pháp mang tính siêu hình và cưỡng chế nói trên đã chạm mạnh.
<span class='text_page_counter'>(28)</span> vào tư tưởng văn hóa truyền thống nên dễ gây ngộ nhận, kích động dẫn đến kỳ thị cấm đạo của triều đình nhà Nguyễn. Mặt khác việc truyền đạo của các giáo sĩ phương tây gắn liền với những hoạt động chuẩn bị xâm lược Việt Nam của tư bản Pháp, nhất là từ khi Hội Thừa Sai Pari được thành lập (1664) với tên tuổi của vị giáo sĩ Alexandre de Rhodes. Sau 20 năm truyền đao Thiên Chúa ở Việt Nam (1624-1645) ông ta đã mang về Pháp nhiều bản đồ Việt Nam do ông ta vẽ cùng với tập “Hồi ký truyền đạo” và cuốn “Lịch sử vương quốc Nam Kỳ”. Những tài liệu nói trên đã ghi lại chi tiết, cụ thể đầy hấp dẫn đất nước ta bấy giờ nhằm làm cho tư bản Pháp chú ý tới xứ sở này. De Rhodes rất sốt sắng đề nghị với chính phủ Pháp thực hiện cuộc viễn chinh xâm lược Việt Nam- “đây là một vị trí cần chiếm lấy; chiếm được vị trí này thì thương nhân Châu Âu sẽ tìm đươc một nguồn lợi nhuận và tài nguyên dồi dào”. Nhưng do cuôc cách mạng tư sản Pháp bùng nổ (1789) và tiếp đó là hơn 20 năm chiến tranh diễn ra trên lục địa Châu Âu (1792-1815) nên đã làm trì hoãn kế hoạch xâm lược vũ trang nước ta của thực dân Pháp trong một thời gian Năm 1802 Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế lấy hiệu là Gia Long. Ông cho phép tự do truyền đạo thiên chúa. Vì trước đây, khi bị Tây Sơn đuổi đánh Ông đã nhờ Bá Đa Lộc cùng hoàng tử Cảnh sang Pháp. Bá Đa Lộc đã thay mặt Nguyễn Ánh ký với Pháp hiệp ước Vecxay, theo đó người Pháp sẽ viện trợ cho Nguyễn Ánh đánh Tây sơn, nếu thắng thì Gia Long sẽ phải nhường cho Pháp Hội An, Côn Sơn và cho phép giáo sĩ Pháp tự do truyền đạo Thiên Chúa. Ông có thiện chí với Thiên Chúa giáo nhưng vẫn chủ trương bảo vệ Nho giáo và nghi lễ thờ cúng tổ tiên, ông cũng cho rằng địa ngục hay thiên đàng của luân lý Thiên Chúa giáo là sự dị đoan,chỉ làm mê hoặc,quyên rũ những người thiếu hiểu biết. Nhưng quan điểm của Gia Long cho rằng những người theo Thiên Chúa giáo cũng là công dân, nếu họ không tin tưởng vào thờ cúng tổ tiên và các thiên tinh thì cũng không nên cấm đoán họ.
<span class='text_page_counter'>(29)</span> Không một lệnh cấm đoán nào được đưa ra dưới thời Gia Long, các giáo sĩ cho rằng đây là giai đoạn thuận lợi cho việc truyền giáo ở Viêt Nam Tuy nhiên Gia Long vẫn nhìn thấy nguy cơ mất chủ quyền mỗi khi cơ hội đến với Phương Tây thông qua con đường bảo vệ đạo Thiên Chúa nên ông căn dặn người kế vị (Minh Mạng) không nên đối xử phân biệt giữa các đạo Nho giáo, Phật giáo và Thiên chúa giáo, việc khủng bố tôn giáo sẽ dẫn đến các biến động xã hội và gây thù oán trong nhân dân,đôi khi làm sụp đổ cả ngôi vua. Gia Long đã chọn Minh Mạng làm người kế vị vì Ông nhận ra khả năng quyết đoán của một con người cứng rắn có thể giải quyết các vấn đề phức tạp của triều đình, đặc biệt với Phương Tây trong đó có vấn đề tôn giáo luôn làm vua lo âu trăn trở. Phải khẳng định rằng đây là một ông vua có thái độ vô cùng cứng rắn với Thiên chúa giáo nhằm duy trì và củng cố hệ thống vương quyền của mình. Đến thời Minh Mạng (1820-1840. Năm 1824 chính phủ Pháp cử J.B.Chaigneau sang Huế để duy trì hoạt động ngoại giao có từ thời Gia Long. Năm đó có một tàu Pháp đến cửa biển Đà Nẵng mang thư và lễ vật của chính phủ Pháp gửi đến vua Minh Mạng nhưng bị Minh Mạng tư chối. Một số giáo sĩ nhân đó trốn lên bờ để truyền giáo Năm 1825 vua Minh Mạng ban dụ hành cấm đạo: “các tôn giáo sai trái của người Tây Dương làm hư hỏng lòng người. Đã từ lâu nhiều tàu Tây Dương đến đây buôn bán và đã để lại các đạo trưởng trong vương quốc này, các đạo trưởng đã lôi kéo làm hỏng nhân tâm, làm suy thoái thuần phong mỹ tục. Đó chẳng phải tai họa lớn cho đất nước. Vậy phải chống lại sự lạm dụng này để đưa dân chúng trở lại con đường chính…phải canh phòng nghiêm ngặt mặt hải cảng miền núi, tất cả mọi ngả đường thủy bộ để ngăn cản không cho các đạo trưởng Tây Phương xâm nhập, lén lút vào dân chung để gieo rắc bóng đen trên vương quốc”. Minh Mạng lệnh cho các giáo sĩ về kinh thành Huế lấy cớ là để dịch sách..
<span class='text_page_counter'>(30)</span> Năm 1831 chính phủ Pháp cử một tàu đến Huế đặt lại quan hệ ngoại giao nhưng bị vua Minh Mạng cự tuyệt.Những động thái đối ngoại kiêu kỳ này của Minh Mạng đã gây sự phản ứng cho nhiều giới chức Pháp. Năm 1832 Minh Mạng ra đạo dụ: “cái thuyết Thiên Đường, tóm lại chỉ là thứ hoang đường không có bằng chứng.hơn nữa,nếu không kính thần minh, không thờ tiên tổ thì rất trái với chính đạo.Nhưng việc hại luân lý hại phong hóa kể ra còn nhiều,đạo ấy hại đến pháp luật.Đạo ấy quy là tà đạo hơn đạo nào hết”. Năm 1832,nhân vụ giáo sĩ người Pháp có tên Phạm Văn Kinh ở họ đạo Dương Sơn, huyện Dương Trà tỉnh thừa Thiên Huế bí mật truyền đạo cầu kinh. Quan phủ Thừa Thiên nhiêu lần gọi lên quan phủ khuyến cáo , nhưng không một ai chịu bỏ đạo. Năm đó, Minh Mạng ra lệnh cho các quan tỉnh “ khuyến cáo bỏ đạo, ai thành thực bước qua cây Thập tự thì miễn tội, nhà thờ, nhà giảng cho hủy diệt đi, ai cố tình không tuân bị tội nặng”. Châu bản triều Nguyễn có ghi lại việc theo dõi giáo sĩ Phạm Văn Kinh qua bản tâu của Bộ Hình ngày 25 tháng 5 năm Minh Mạng 19 (1838) như sau: “Có tên Phạm Văn Kinh, người Tây Dương, tháng 5 năm Minh Mạng 13 (1832), can án về truyền đạo Gia Tô ở làng Cổ Lão, phủ Thừa Thiên bị kết án giảo giam hậu mong ơn phát làm kinh ở phủ Thừa Thiên nhưng vẫn không chừa, ngày đêm giảng đạo tà giáo, lại đày đi đồn phủ ở Ai Lao, sau lại cho trở về an trí ở huyện Cam Lộ. . . Bộ chúng tôi cho người lên Cam Lộ mật thám xem Phạm Văn Kinh có lén thông tin tức gì chăng. Biết rằng Phạm Văn Kinh ở trên ấy, ngày thường có nhiều người tới lui, tiền bạc ăn tiêu dư giả, và xem bộ kiêu căng không sợ gì cả. Vừa rồi dân Quảng Trị có người theo tà đạo, không chịu bước qua hình chữ thập, vậy xin giao Phạm Văn Kinh cho tỉnh Quảng Trị tra tấn cho ra việc”. Qua đó mới thấy sự cẩn trọng, khoan dung của triều đình Huế đối với các giáo sĩ nước ngoài và vấn đề cấm đạo không đơn giản như các tội phạm khác..
<span class='text_page_counter'>(31)</span> Năm 1834, Minh Mạng ban hành “Thập điều giáo huấn”, nhà vua chỉ ra rằng: Đạo Gia tô lại càng vô lý “Trai gái chung đụng hỗn tạp, việc làm này giống như cầm thú. . . Đó là làm cho bại hoại luân lý, hư hỏng giáo hóa, không thể tin được. Nếu người nào đó bị dỗ dành thì nên mau chóng bỏ đi. Phần các việc quan, hôn, tang, tế đều phải theo lễ tục nước nhà. . . ”. Năm 1835, Phan Bá Đạt, Phó đô ngự sử Viện Đô sát tâu: Cố đạo Mã Song (Marchand) ở Gia Định đồng lõa với Lê Văn Khôi khi bị bắt khai rằng “Thầy thuốc người Tây Dương khoét mắt người sắp chết để chế thuốc”, còn “Tà giáo Tây Dương cho một trai, một gái ở chung một nhà có tường gạch ngăn cách, khi động tình dục, rập cho chúng chết bẹp, ép lấy nước xác chết, hòa làm bánh cho người theo đạo ăn khiến cho họ mê đạo không bỏ được”; rồi nghe nói “Trai gái lấy vợ, lấy chồng, đạo trưởng đem người con gái vào nhà kín với danh nghĩa giảng đạo thực ra để dâm ô…”. Những chuyện này được phịa ra trong dân gian và quan Đô ngự sử Phan Bá Đạt đã khéo thêu dệt thành những mẩu chuyện ly kỳ, hấp dẫn nên dễ gây ấn tượng trong triều đình và tạo nên sự phẫn nộ trong công chúng. Việc giết đạo từ đó càng khốc liệt hơn. Từ năm 1825 – 1838 có 4 Giám mục, 9 Linh mục ngoại quốc, 20 Linh mục người Việt và hàng trăm giáo dân bị sát hại. Tháng 10 năm 1839, Minh Mạng ban hành dụ cấm đạo: Buộc tất cả những người theo đạo phải bỏ đạo trong vòng một năm, xây dựng chùa chiền vào những nơi trước đây xây dựng nhà thờ. Tất cả thần dân phải tích cực trông nom chùa chiền. Dụ cấm đạo mới này đã gây sự căm phẫn trong giáo đồ và giới chức Thiên chúa giáo, làm chấn động xã hội. Tuy nhiên, chính phủ Pháp và triều đình Huế cũng mong muốn có sự hiểu biết cần thiết và thiện chí từ cả hai phía để có thể xích lại gần và cải thiện tốt hơn tình thế gay cấn vốn có. Năm 1840, Minh Mạng cử Phan Thanh Giản cầm đầu một phái đoàn sang Pháp để tìm hiểu tình hình với mong muốn xây dựng quan hệ ngoại giao tốt hơn. Nhưng điều mà cả hai phía không muốn đã xảy ra là khi phái đoàn của triều đình Huế đến Pháp bị các giới chức trong giáo hội thừa sai Paris phản đối kịch liệt và.
<span class='text_page_counter'>(32)</span> vận động một cuộc tẩy chay trên báo chí, làm áp lực mạnh mẽ với nhà vua nên vua Pháp buộc phải từ chối tiếp phái đoàn của triều đình Huế. Tuy thế, số giáo dân dưới thời Minh Mạng vẫn được tiếp tục tăng, vào năm 1840, cả nước có 3 Giám mục, 2 Phó giám mục, 24 Linh mục ngoại quốc, 144 Linh mục người Việt và 420.000 giáo dân. Đến thời Thiệu Trị (1841-1847), nhà vua vẫn duy trì chính sách cấm đạo được ban hành từ thời Minh Mạng nhưng không tỏ ra tích cực như triều vua trước. Phần lớn các giáo sĩ bị bắt đều được Thiệu Trị cho lãnh án “trảm giam hậu” (tội chết nhưng giam đợi xét), rồi cuối cùng cũng được trả tự do. Đối với các quan theo đạo nhà vua kiên trì thuyết phục tạo cho họ có cơ hội bỏ đạo đó là trường hợp quan thủ ngự Hồ Văn Dường ở tỉnh Đồng Nai đã tự nguyện bỏ đạo bằng cách bước qua cây Thánh giá nhưng vẫn chưa chịu dự lễ tế thần ở miếu Kỳ, trình nhà vua xem xét. Năm 1841, các giáo sĩ Miche, Duclos, Galy, Berneux và Charries bị bắt và bị kết án tử hình nhưng Thiệu Trị không cho thi hành án. Năm 1843, tàu chiến Pháp Héroine tự tiện đến Đà Nẵng, thuyền trưởng Felix Favin Lévecque yêu cầu triều đình Huế thả các giáo sĩ trên. Thiệu Trị chấp thuận và trao các giáo sĩ cho viên thuyền trưởng nói trên; tàu Pháp rời cảng Đà Nẵng ngày 16-3-1843. Tháng 11 năm Thiệu Trị thứ 7 (4-1-1848), Bộ Hình dâng sớ phóng thích quan phạm, trong đó có trường hợp Nguyễn Văn Thiện ở tỉnh Phú Yên: “Thiện theo dạo Gia Tô, không chịu bỏ bị ghép tội giảo giam hậu (giam đợi ngày thắt cổ) qua đến tháng 6 năm thứ 6 (1846), y được tha chết, đày ra làm lính ở Hưng Hóa, quan tỉnh nhiều lần khuyên giải, y cũng không chịu bỏ đạo. Nay gặp dịp ân xá, y được tha về quê”. Chính sách mềm dẻo về cấm đạo thời Thiệu Trị đã làm cho số giáo dân được tăng thêm nhất là tại Trung và Nam Kỳ. Năm 1844, địa phận giáo hội được chia ra như sau:.
<span class='text_page_counter'>(33)</span> - Địa phận Huế gồm các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên do Pellerin làm Giám mục. - Địa phận Quy Nhơn gồm các tỉnh Trung Kỳ còn lại do Cuénot làm Giám mục. - Địa phận Sài Gòn gồm các tỉnh Nam Kỳ còn lại do Lefèbre làm Giám mục. Tuy nhiên, trong nhận thức Thiệu Trị vẫn cho Thiên chúa giáo luôn là nguy cơ của mất chủ quyền và đảo lộn phong hóa dân tộc. Nhà vua xem Thiên chúa giáo cũng là mầm gây tai họa không kém gì thuốc phiện và đều do người phương Tây mang lại. Năm 1847, nhân triều đình bàn về việc người phương Tây đến xin buôn bán và truyền giáo, nhà vua ra dụ: “ Người Tây Dương lòng vốn xảo trá, nếu bỏ cấm đạo thì Anh Cát Lợi nghe thấy cũng cầu xin bỏ cấm thuốc phiện. Nhưng địch là giống sài lang, không thể thỏa mãn được nó. . . Vả lại đạo Gia tô là tà giáo, cái hại rồi sẽ đến bởi chuyện ngoài biên, mở đường cho chinh chiến. Thuốc phiện là thứ thuốc mê, cái hại của nó rồi sẽ khuynh gia bại sản, hại đến tính mạng người ta. Hai việc ấy đều nghiêm cấm trong nước…”. Năm 1847, Đô đốc Cécille chỉ huy hải quân Pháp đến uy hiếp, 5 chiến thuyền của triều đình ở cửa biển Đà Nẵng bị tàu Pháp tấn công. Tức giận vì bị sỉ nhục, vua Thiệu Trị ra lệnh chém các quan đã không hoàn thành nhiệm vụ giữ cảng, rồi chỉ thị cho các quan địa phương nghiêm khắc thực hiện lệnh bắt đạo trên cả nước. Năm 1848 Tự Đức lên ngôi (1848-1883). Những áp lực quân sự và ngoại giao của Pháp đã đưa đến những sóng gió dưới triều đình Tự Đức đã gây ra nhiều biến cố trong giáo hội Thiên chúa giáo ở Việt Nam. Giai đoạn 1848 – 1862 là thời kỳ khốc liệt trong cuộc chiến Việt – Pháp không cân sức cũng là thời kỳ sát đạo gay gắt của triều đình Huế với các nhà truyền giáo và giáo dân. Năm 1848, lúc mới lên ngôi vua, Tự Đức đã phê duyệt lệnh cấm đạo: “Phàm những đạo trưởng Tây Dương đến nước ta thì cho quân dân mọi người ai có thể bắt được nộp quan, thưởng cho 300 lạng bạc. Còn người đạo trưởng Tây.
<span class='text_page_counter'>(34)</span> Dương ấy do quan sở tại xét hỏi rõ ràng lý lịch, lập tức đem việc dâng tâu, cho đem đích thân nạn nhân ấy ném xuống biển. Còn những đạo trưởng và bọn theo đạo là người nước ta, xin do các nha lại xét việc hình hai, ba lần mới báo cho biết tội, nếu họ biết hối cải bỏ đạo bước qua cây giá chữ thập thì thả ra ngay. Người nào không chịu nhảy qua cây giá chữ thập thì người đạo trưởng cũng nên xử tử, các con chiên theo đạo hãy tạm thích vào mặt, đuổi về cho vào sổ dân. Nếu họ biết hối cải thì cũng cho đến quan để trừ bỏ thích chữ ấy đi”. Giải pháp bắt bỏ đạo bằng cách bước qua cây Thánh giá đối với giáo sĩ và giáo dân trong buổi đầu của triều Tự Đức tuy không mới nhưng phương thức thực hiện mềm dẻo hơn và có tính phân biệt trong việc xét xử nhằm tạo cơ hội cho người Việt theo đạo có thể trở về quê quán làm ăn bình thường. Năm 1851, sau vụ Hồng Bảo, con trai trưởng của vua Thiệu Trị mưu lật đổ Tự Đức không thành, do nghi ngờ liên kết với Thiên chúa giáo nên Tự Đức ban hành dụ cấm đạo gay gắt hơn: “Để làm sáng tỏ chính đạo, cần phải bắt và ném xuống sông các đạo trưởng Tây Dương hoặc là người Việt Nam, dù chúng có chà đạp hay không chà đạp lên cây Thập tự giá, phải chặt chúng ra làm hai để cho mọi người cùng biết sự nghiêm ngặt của pháp luật nước ta”. Việc bắt đạo từ đó càng ráo riết và giết đạo càng khốc liệt hơn. Năm 1857, Tự Đức ra lệnh chém quan Tam phẩm Thái bộc Tự khanh Hồ Đình Hy vì viên quan theo Thiên chúa giáo nhưng không chịu bỏ đạo lại ngấm ngầm tiếp xúc với giặc, mưu phản quốc. Vụ án này có 29 giáo dân bị bắt, trong số đó có 17 người không chịu bỏ đạo nên bị lưu đày. Tiếp theo là sự xuất hiện một số giáo sĩ và giáo dân trong đội quân viễn chinh Pháp trong các cuộc tấn công vào Đà Nẵng, Gia Định năm 1858, 1859, 1861 làm cho triều đình Tự Đức có đủ chứng cứ về âm mưu sử dụng tôn giáo của giặc Pháp và phản bội của một số giáo dân 16 nên triều đình đã ban hành nhiều lệnh dụ cấm đạo bằng cách xử tử hình, đạp lên Thánh giá, bắt buộc bỏ đạo, thích chữ vào mặt, đi đày. . ..
<span class='text_page_counter'>(35)</span> Năm 1861, Tự Đức ra sắc lệnh “Phân tháp giáo dân” nhằm phân tán, cô lập, kiểm soát và tiêu diệt mầm chống đối của giáo dân. Chỉ dụ này được các cấp chính quyền chấp hành nghiêm chỉnh là một đòn chính trị, tâm lý đánh vào cân não và tình cảm của giáo dân và tổ chức của giáo hội Thiên chúa giáo; làm phá hủy các làng và các cơ sở Thiên chúa giáo, các gia đình theo Thiên chúa giáo buộc phải ly tán để tự tiêu vong, họ hàng, bà con xa lánh. Giáo dân không có cơ hội để làm lễ, sinh hoạt hội đoàn, cách ly với các giáo sĩ và các tổ chức tôn giáo; bản thân những người theo đạo thường xuyên bị giám sát, con cái bị cách ly khỏi môi trường tôn giáo và làm con tin. Với chính sách giết đạo oan nghiệt này, ngoài các giáo sĩ phương Tây bị sát hại, trong thời gian này có đến 115 linh mục người Việt bị giết, 50 tu viện bị phá hủy, 2600 nữ tu phải di tản, 100 nữ tu bị giết, khoảng 100 làng giáo dân bị san thành bình địa, 10. 000 chức sắc trong các họ đạo bị bắt giam, trong số đó hơn một nửa bị giết; 2000 xứ đạo bị triệt hạ, 300. 000 giáo dân bị phân tháp, trong số đó có 50. 000 người bị giết. Giai đoạn 1862-1874 là thời kỳ hiệp thương, nhân nhượng của triều đình nên Thiên chúa giáo được tự do truyền giảng. Khoản 2 của hiệp ước Nhâm Tuất (1862) quy định: “Công dân hai nước Pháp và Tây Ban Nha có thể hành đạo Gia Tô trong nước Việt Nam và công dân của nước này, bất luận ai, nếu muốn theo đạo Gia Tô thì theo và không bị ngăn trở; nhưng không được cưỡng bức ai trở thành tín đồ Gia Tô nếu người ấy không muốn”. Năm 1865, Tự Đức lại ra một chỉ dụ chính thức cho phép các giáo sĩ tự do truyền giáo và dân chúng được tự do theo đạo. Tuy nhiên, sự nhượng bộ của triều đình không những đã dẫn đến bức xúc, phản đối kịch liệt của các sĩ tử dự kỳ thi Hương ở Huế, Hà Nội, Nam Định năm 1864 làm triều đình Tự Đức mất uy thế mà cũng là cớ để Pháp leo thang đánh chiếm 3 tỉnh miền Tây Nam Kỳ năm 1868. Năm 1874, Pháp ép triều đình Huế ký hiệp ước công nhận chủ quyền của Pháp ở Nam Kỳ và được tự do truyền giáo. Theo hiệp ước Giáp Tuất (1874),.
<span class='text_page_counter'>(36)</span> người theo đạo Thiên chúa có quyền dự các kỳ thi do triều đình tổ chức và tham gia vào bộ máy nhà nước các cấp, tham dự vào các hoạt động chính trị, xã hội của đất nước như một công dân bình thường, bình đẳng như mọi công dân khác. Giai đoạn 1874-1883 là thời kỳ Thiên chúa giáo được hoạt động hợp pháp, nhiều nhà thờ được xây dựng trên cả nước, đất đai, tài sản của giáo hội được mở rộng, giáo dân cũng gia tăng. Hiệp ước Giáp Tuất tránh được các cuộc đổ máu từ triều đình, nhưng đây lại là thời kỳ đẫm máu do các phong trào văn thân phản đối nghị hòa của triều đình và phong trào “Bình Tây sát tả” diễn ra rất mạnh ở Trung và Bắc Kỳ, làm nhiều làng theo đạo bị tàn phá, nhiều linh mục và giáo dân bị giết, làm cho uy thế triều đình Tự Đức giảm sút nghiêm trọng, tình hình xã hội càng phức tạp hơn, tạo lợi thế cho Pháp và những tay sai nhanh chóng dùng vũ lực để chiếm đoạt đất nước ta. Như vậy: Tuy không thực hiện chính sách cấm đạo nhưng việc truyền giáo dưới thời Gia Long cũng không phải thuận lợi vì tính chất ý thức hệ giữa một triều đình chọn Nho giáo làm khuôn mẫu chính trị với đội ngũ quan chức từ các Nho giáo được đào tạo ngày càng đông đảo lên nắm quyền trở nên bảo thủ và một bên là Thiên chúa giáo và những người truyền đạo tự nhận là tôn giáo siêu việt của loài người mang tính độc tôn cần được truyền bá hệ tư tưởng và văn minh của nó đến toàn cầu. Cả hai đều muốn thu phục, cảm hóa người dân về phía mình bằng “đức tin” để có một hậu thuẫn xã hội, rộng rãi và vững chắc. Dưới triều Minh Mạng và Thiệu Trị khi vấn đề truyền giáo trở nên cấp bách đối với các nước phương Tây và kèm theo là áp lực quân sự, tôn giáo trở thành vấn đề chính trị bức thiết và sâu sắc đối với triều đình Huế. Lệnh cấm đạo được triều đình ban hành nhưng các giáo sĩ vẫn lén lút truyền giáo. Để ngăn chặn nguy cơ về chủ quyền sẽ bị mất, tình hình xã hội sẽ hỗn loạn và vấn đề văn hóa truyền thống bị xâm hại, triều đình Huế huy động cả hệ thống chính trị và xã hội để đương đầu. Đó là một hệ thống nhà nước và pháp luật từ.
<span class='text_page_counter'>(37)</span> trung ương đến địa phương cùng tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và thần linh trong toàn xã hội làm công cụ để ngăn chặn và chiến đấu, đã dẫn đến nhiều vụ tàn sát đẫm máu, dã man làm những người theo đạo vốn có khoảng cách nay bị đào sâu thêm hố chia cách, một nguy cơ mới của dân tộc sắp đến gần. Dưới triều Tự Đức lệnh cấm đạo vẫn được ban hành cùng những biến động trong cung đình và xã hội đã làm cho thế nước rã rời, suy yếu. Lấy cớ bảo vệ giáo sĩ và giáo dân bị sát hại, liên quân Pháp – Tây Ban Nha đem quân tấn công vào Đà Nẵng (1858) có một số giáo sĩ và giáo dân làm nội ứng, tình hình sát đạo trở nên phổ biến và khốc liệt hơn, nhất là sau khi triều đình cho thực hiện lệnh “phân tháp giáo dân” năm 1861. Một cuộc chiến tranh mang tính trả thù của người nắm quyền lực đối với những làng theo đạo và giáo dân không vũ khí tự vệ vô cùng dã man chưa từng thấy trong lịch sử nước ta. Triều đình Huế tưởng đó là giải pháp sáng suốt và hiệu quả nhằm tiêu diệt giáo dân và giáo xứ thì không ngờ sau đó thế nước lại rã rời hơn, Pháp cho quân đánh chiếm Gia Định buộc triều đình Huế ký hiệp ước năm 1862, chấp nhận cho các giáo sĩ được truyền giáo và quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân. Thấy rõ truyền giáo là mục tiêu quan trọng của Pháp nên triều đình Tự Đức bãi bỏ lệnh cấm đạo, xoa dịu các giáo sĩ và giáo dân bị hại, phê phán các cuộc khởi nghĩa chống Pháp, đặc biệt là các thủ lĩnh phong trào “Bình Tây sát Tả”. Sự tỉnh ngộ của Tự Đức đúng lúc nhưng triều đình Huế từ đó bị cô lập trước sức tấn công của quân Pháp và các cuộc khởi nghĩa chống Pháp của nhân dân, lại bị đại bộ phận nhân dân bỏ rơi kể cả những người theo đạo và những người chống đạo. Một triều đình cô thế, không còn được hậu thuẫn của nhân dân và thiếu quyết tâm đánh giặc là nguyên nhân dẫn đến những thất bại liên tiếp cho đến năm Tự Đức qua đời (1883), quân Pháp đánh vào cửa Thuận An, buộc triều đình Huế ký hiệp ước Hác-măng, chấp nhận sự đô hộ của thực dân Pháp đối với toàn cõi nước ta..
<span class='text_page_counter'>(38)</span> Chính sách cấm đạo của các vua Nguyễn là một trong những nguyên nhân để liên quân Pháp – Tây Ban Nha đánh vào Đà Nẵng (1858) và cũng là một trong những nguyên nhân đưa đến sự thất bại của triều đình Tự Đức trong cuộc chiến chống Pháp vào thế kỷ XIX. Chính sách đối với Thiên chúa giáo có liên quan trực tiếp đến chủ quyền và vận mệnh dân tộc là một sai lầm của triều Nguyễn để cả dân tộc phải trả giá bằng máu xương và là bài học muôn thuở để các thế hệ Việt Nam tìm cho mình một chính sách tôn giáo đúng đắn, phù hợp trong từng giai đoạn lịch sử và bối cảnh chính trị trong nước và quốc tế khác nhau. Vào năm 1883, Thiên Chúa giáo tách giáo phận Đông Đàng Ngoài thành: Đông (Hải Phòng) và Bắc (gồm các tỉnh ở phía Bắc như Bắc Ninh, Bắc Giang, Bắc Cạn, Cao Bằng, Lạng Sơn) do giám mục Colomer Lễ cai quản. Các giáo phận lúc này: ở Đàng Trong: Tây Đàng Trong (Sài Gòn), Đông Đàng Trong (Quy Nhơn), Bắc Đàng Trong (Huế), Nam Vang (Cần Thơ). Ở Đàng Ngoài: Tây Đàng Ngoài (Hà Nội), Nam Đàng Ngoài (Vinh), Đông Đàng Ngoài đình.Sau khi triều đình Huế ký Hiệp ước Pa-tơ-nốt 1884 với Pháp, công nhận sự đô hộ của Pháp thì Thiên Chúa giáo Việt Nam lúc đó mới thật sự được tự do, công khai hoạt động. Giáo dân tăng nhanh, cơ sở tôn giáo như: nhà thờ, tu viện, tòa giám mục, trường học, viện dưỡng lão, viện cô nhi... được xây dựng khắp nơi. Các giáo phận được chia nhỏ lại: miền Bắc: Hà Nội, Phát Diệm, Hưng Hoá, Vinh, Hải Phòng, Bùi Chu, Bắc Ninh và Phủ doãn Lạng Sơn. Ở miền Nam: Sài Gòn, Quy Nhơn, Huế, và một phần của giáo phận Nam Vang. Tổng cộng là 12 giáo phận. Năm 1925, Tòa Thánh lập Toà khâm sứ ở Đông Dương, đặt tại Phủ Cam (Huế). Ngày 10 tháng 01 năm 1933, Giáo hoàng Piô XI ra sắc lệnh bổ nhiệm Linh mục Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng làm Giám mục Hiệu tòa Sozopoli, giữ chức Giám mục phó với quyền kế vị giáo phận Phát Diệm. Ông là vị giám mục tiên khởi người Việt Nam..
<span class='text_page_counter'>(39)</span> Bên cạnh sự thăng trầm của thiên chúa giáo trong việc tồn tại và phát triển hay chịu khuất phục trước sức ép của các tôn giáo khác thì tôn giáo này cũng đã chứng tỏ sự ảnh hưởng mạnh mẽ của mình trong đời sống các vua Nguyễn đặc biệt là vua Khải Định. Trong khoảng thời gian trị vì của mình, ông đã chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của văn hóa phương Tây. Là một ông vua Tây hóa hiện đại, Khải Định luôn tự tìm cho mình những niềm vui riêng khi còn sống chỉ riêng nhìn qua cách ăn mặc của vị vua này chúng ta cũng thấy được nhà vua yêu thích sự độc đáo của nghệ thuật phương Tây như thê nào. Và nghệ thuật kiến trúc lăng Khải Định đã thể hiện khả rõ sự hòa hợp giữa yếu tố hiện đại và truyền thống, giữa kiến trúc Âu –Á. So với 6 khu lăng của các vua nhà Nguyễn, lăng Khải Định là lăng sau cùng, và mặt bằng kiến trúc nhỏ hẹp nhất, nhưng đây lại là công trình đòi hỏi nhiều nhất về thời gian, công sức và tiền của.. Sự ảnh hưởng của kiến trúc phương Tây – lăng Khải Định Nếu lăng Gia Long xây dựng trong 6 năm (1814-1820) lăng Minh Mạng trong trong 4 năm (1840-1843), lăng Tự Đức trong 3 năm (1864-1867) thì công việc kiến trúc của lăng Khải Định kéo dài đến 11 năm (1920-1931). Dưới thời Khải Định (1916-1925), chủ quyền Việt Nam đã lọt hẳn vào tay thực dân.
<span class='text_page_counter'>(40)</span> Pháp và văn hoá nghệ thuật phương Tây đang thâm nhập mạnh vào nước ta. Cho nên, ở lăng Khải Định, một số yấu tố hiện đại (éléments modernes) đã chen lấn vào dòng nghệ thuật kiến trúc cổ truyền của dân tộc. Thoạt nhìn, lăng Khải Định giống như một toà lâu đài ở châu Âu, vì được xây dựng bằng bê tông trên một sườn núi. Các vật liệu truyền thống của bản địa như gỗ, đá, gạch, vôi ở đây chỉ là một số lượng không đáng kể. Những cánh cửa sắt, gạch ca rô ngói ác-đoa, cột thu lôi (paratonnerre), hệ thống đèn điện những tháp nhọn stoupa cũng là những thứ ngoại lại. Sự loại bỏ màu xanh của lá cây cổ thụ, sự vắng bóng của mặt nước ao hồ và bể cạn trong lăng, làm cho tổng thể kiến trúc từ bậc cấp thứ nhất đến bậc cấp thứ 127 thiếu đi vẻ êm dịu, tưới mát. những con rồng to lớn, kệch cỡm tạo nên các thành bậc thềm của 5 tầng sân càng tăng vẻ mặt nặng nề cứng cỏi của toàn bộ công trình kiến trúc hình khối bằng bê tông. Tuy nhiên, tất cả núi đôi, khe suối của một vùng rộng lớn quanh lăng đều đã được dùng làm các yếu tố phong thủy địa lý: tiền án, hậu chẩm, hổ phục, rồng châu, minh đường, thủy tụ, tạo ra được cho lăng Khải Định một ngoại cảnh thiên nhiên hùng vĩ và tráng lệ. Nhưng giá trị nghệ thuật cao nhất của lăng này là ở phẩm trang trí nội thất cung Thiên Định, công trình kiến trúc chính của lăng. Về mặt hội hoạ, ở các mặt tường và trần của Tả, Hữu trực phòng, các nghệ nhân xưa đã dùng màu xanh sầm vẽ lên xi măng để giả đá cẩm thạch trông giống như thật. Những bức hoạ long vân với diện tích hàng chục mét vuông trên trần 3 phòng giữa của cung Thiên Định đang được các hoạ sĩ Việt Nam hiện đại công nhận là những bức hoạ hoành tráng có giá trị mỹ thuật cao nhất của nền hội hoạ nước ta. Về nghệ thuật ghép mảnh lên tường, những “”bàn tay vàng” của các ngệ nhân đầu thế kỷ XX đã dùng hàng vạn mẫu sành sứ thủy tinh đủ màu để đắp nổi thành hàng ngàn hình ảnh cung đình và dân gian sinh động, sống sít, vui mắt: các bộ tranh tứ thời, ngũ phúc, bát bửu, bộ khay trà, mâm ngủ quả, ngọn đèn dầu hoả, những chiếc đồng hồ, mấy cái mè đay, v..v.Mọi hình ảnh tuy được kết cấu bằng những vật liệu cứng, nhưng nhờ sự tạo hình khéo léo, nên trông vẫn trang nhã, mượt mà, óng.
<span class='text_page_counter'>(41)</span> ả, long lanh. Bằng những đường cong uốn lượn mềm mại của chiếc bửu tán che trên ngự toạ, các nghệ nhân bậc thầy thời ấy đã tạo ra được cho người xem cái ảo giác nó rất nhẹ nhàng, có thể lay động trước một cơn gió thoảng. Ở một số panô thể hiện cây cối hoa lá, khách tham quan có cảm tưởng như đang thấy gió thổi tre nghiêng, mưa rơi liễu rũ...Trong một số hộc khác, các thú vật như đang chạy nhảy trên núi đồi, đồng cỏ, những đôi chim như đang bay lượn, vùng vẫy giữa không gian. Ngoài những chữ “”phúc” ở đây còn tang trí hàng trăm chữ “thọ” và “vạn thọ” được cách điệu hoá bằng cả chục hình thức khác nhau: hình tròn, hình chữ nhật, hình vuông, hình thuẫn, hình cái lư, hình lồng đèn...Thọ nghĩa là sống lâu, sống mãi, nói lên quan niệm “sống gửi thác về” của các vua nhà Nguyễn. Triều đình đã đưa tất cả các thợ thủ công có tay nghề cao nhất trong “Nê ngoã tượng cuộc” lên dạy làm việc dài hạn. Trong số đó có một nghệ nhân nổi tiếng nhất về tài trang trí bằng cách vẽ những bức hoạ long vân trên trần và đáp nổi cảnh vật lên tường, là cụ Phan Văn Tánh, về sau được tặng hàm bát phẩm. Trong lăng Khải Định, hiện nay có hai pho tượng bằng đồng tạc hình nhà vua với tỉ lệ 1/1: một pho tượng ngồi trên ngai vàng và một pho tượng đứng. Sự có mặt của tượng vua trong lăng là một điều đặc biệt so với các lăng khác. Pho tuợng ngồi ttrên ngai vàng được thực hiện ở Paris vào năm 1920, do hai người Pháp là P.Ducuing tạc tượng và F.Barbedienne đúc tượng. Trong lòng tượng rỗng nên không nặng lắm, sau khi chở về đến Huế mới mạ vàng bên ngoài. Còn pho tượng đứng thì ngay tại Huế do một người lính thợ, quê ở Quảng Nam thực hiện. Làm xong, ông cũng được tặng hàm bát phẩm. Tượng này nguyên đặt trong ngôi nhà bát giác xinh xắn mang tên là Trung Lập Đình ở trong sân trước của cung An Định. Vào năm 1960, trong hoàn cảnh chính trị và xã hội thay đổi, pho tượng được đua lên đặt tại Bi đình ở lăng Khải Định. Kể từ năm 1975, nó bị dẹp vào cất trong một phòng kín tại lăng. Để thực hiện các công trình kiến trúc và trang trí tốn kém ở lăng Khải Định, nhà nước bấy giờ đã tăng thuế điền trên toàn quốc lên 30%. Kinh phí lớn nhất là phải mua vật liệu từ nước ngoài. Sắt.
<span class='text_page_counter'>(42)</span> Xi măng, ngoái á đoa phải mua từ Pháp. Sành ngang chở từ Hà Đông vào, nhưng sành kiểu, sứ tốt, vỏ chai, thủy tinh phải nhập từ Trung Quốc, Nhật Bản...Theo họ, lăng tẩm không phải chỉ là chỗ chôn người chết, mà còn là nơi họ tiếp tục sống muôn thuở ở thế giới bên kia. Sau lưng ngai vàng vua Khải Định ngồi, còn có mô hình mặt trời đang lặn. Vua cao cả như mặt trời. Mặt trời lặn biểu thị nhà vua băng hà. Với óc thông minh sáng tạo, người thợ thủ công Việt Nam thời Khải Định đã thổi một luồng sinh khí mới vào nền mỹ thuật của đất nước đương thời với nghệ thuật phù điêu bằng sành sứ cực kỳ tinh xảo, vô cùng độc đáo và hết sức hấp dẫn. Với tượng đồng bia đá, với cung Thiên Định giống như một viện bảo tàng, với ngoại cảnh thiên nhiên bao la hùng vĩ, lăng Khải Định là một tác phẩm mỹ thuật tổng hoà của nhiều dòng văn hoá, một điểm giao thoa giữa mỹ thuật kim cổ đông tây. Nó phản ánh rõ nét phong cách sống thích chưng diện của vua Khải Định lúc sinh thời và đánh dấu giai đoạn giao thời giữa hai nền văn hoá Á Âu của xã hội Việt Nam đầu thế kỷ. Trong quyển “L’art Vietnamien” (Mỹ thuật Việt Nam), L.Bezacier đã gọi mỹ thuật thời Khải Định là thời “tân cổ điển” trong lịch sử mỹ thuật nước ta. Tóm lại, bối cảnh lịch sử trong nước và quốc tế ở thế kỷ XVIII và XIX đã có ảnh hưởng, tác động trực tiếp mạnh mẽ đến chính sách tôn giáo của triều Nguyễn, đến cả những măt tích cực và hạn chế của chính sách đó. Nhìn một cách khái quát, đặt chính sách tôn giáo của triều Nguễn trong bối cảnh lịch sử cụ thể bấy giờ chúng ta thấy chính sách đó cũng có mặt tích cực đó là nhằm bảo toàn nền văn hóa truyền thống,bản sắc dân tộc, khoan dung tôn giáo Phật giáo,Đạo giáo,…nhằm ngăn chặn những thế lực lợi dụng tôn giáo để chống phá Nhà nước, xâm phạm an ninh chủ quyền quốc gia.Nhưng chính sách đó cũng có mặt hạn chế như đã thực thi những biện pháp quá cứng rắn va tàn bạo người theo đạo Thiên Chúa dưới các triều vua Minh Mạng, Thiệu Trị và nhưng thập kỷ đầu thời Tự Đức.Nhưng có lẽ hạn chế cơ bản nhất là nếu đặt nước ta trong bối cảnh thế giới và trong nước thế kỷ XIX với xu thế tư bản.
<span class='text_page_counter'>(43)</span> hóa,thưc dân hóa đang diễn ra mạnh mẽ mà các vua triều Nguyễn lại ra sức xây dựng củng cố chế độ quân chủ quan liêu chuyên chế, lấy Nho giáo làm hệ chính trị tư tưởng chủ đạo.Phải chăng điều này là không còn phù hơp với xu thế thời đại yêu cầu của đất nước bấy giờ mà còn đưa đến hậu quả làm cho đất nước trì trệ, Nhà nước bảo thủ, làm cho dân tộc không hòa nhập được với thế giới bên ngoài,nội bộ chia rẽ,đặt quốc gia dân tộc Việt Nam vào tình thế bất lợi trước cuộc xâm lược của thực dân Pháp nửa cuối thế kỷ XIX. Năm 1945 cách mạng tháng Tám thành công, Nhà Nguyễn - triều đại phong kiến cuối cùng của Việt Nam sụp đổ. Tuy nhiên, Thiên Chúa giáo vẫn tiếp tục phát triển và ngày càng thu hút sư quan tâm của nhiều người.Cho đến nay, Thiên Chúa giáo đã có lịch sử trên 400 năm ở Việt Nam, trải qua thời gian Thiên chúa giáo đã chiếm một chỗ đứng nhất định trong văn hóa Việt Nam có nhiều đóng góp tích cực cho sự phát triển đất nước.. 3- Phật giáo – yếu tố cổ truyền trong đời sống các vua triều Nguyễn Triều Nguyễn sau khi gây dựng được vương triều của mình rất chú tâm phát triển các tôn giáo truyền thống như Phật giáo, Ấn Độ giáo… trong đó nổi bật hơn cả là sự ảnh hưởng của phật giáo trong đời sống tâm linh các vua Nguyễn. Phật giáo là tôn giáo lớn, có sức lan toả rộng rãi, đặc biệt ở các nước Châu Á, trong đó có Việt Nam. Huế là một trong ba trung tâm Phật giáo lớn của cả nước, chịu ảnh hưởng sâu đậm về văn hoá, lối sống và đạo đức Phật giáo. Đạo Phật đã khơi dậy được những giá trị nhân văn trong con người hướng tới chân - thiện - mỹ, khơi dậy sự khát khao của con người muốn giải thoát trước những mâu thuẫn, bế tắc do chính con người tạo ra. Bởi vậy đạo Phật xét về mặt tích cực, thực sự là chỗ dựa tinh thần cho một bộ phận đông đảo quần chúng trong xã hội. Đặc biệt với một bộ phận cư dân đến sinh cơ lập nghiệp trên đất Thuận Hóa, trước những bỡ ngỡ cô đơn nơi vùng đất mới, dân cư, văn hóa, phong tục đều xa lạ, đầy sự huyền bí và sự đe doạ,.
<span class='text_page_counter'>(44)</span> những người dân lúc ấy đã phải giữ sự bình an của tâm hồn bằng chính những ngôi chùa Phật, những ngôi chùa làng vị tha, hướng thiện, từ bi của Đức Phật là nơi an ủi tâm hồn, giúp con người vượt khổ nạn. Học thuyết về nhân sinh quan của Phật giáo gắn bó chặt chẽ và là hệ quả trực tiếp của quan niệm muôn vật sinh ra, tồn tại rồi mất đi theo qui luật sinh diệt và sự tiếp thu tư tưởng luân hồi, nghiệp báo của Upanisad. Điều đó được thể hiện ở chỗ, Phật giáo quan niệm: cũng như các sự vật con người mất đi ở chỗ này nhưng lại sinh thành ở chỗ khác. Quá trình thác sinh luân hồi đó đều do “nghiệp” chi phối theo luật nhân duyên. Mục đích cuối cùng và cũng là tư tưởng chủ đạo có tính xuyên suốt toàn bộ thuyết nhân sinh là tư tưởng “giải thoát’ chúng sinh khỏi kiếp trầm luân đau khổ. Để đạt được sự giải thoát, Phật giáo nêu ra bốn chân lý mà mọi người phải thực hiện. Đó là “Tứ diệu đế” gồm: Khổ đế (đau khổ là tất yếu, là chân lý, là điều không thể tránh khỏi của con người), Tập đế (là tập hợp những nguyên nhân dẫn tới sự đau khổ, bất hạnh của con người), Diệt đế (cái khổ của con người có thể tiêu diệt được), Đạo đế (là con đường để tiêu diệt cái khổ). Thông qua “Tam học” Phật giáo đưa ra quan niệm về con đường giải thoát Nội dung. của. Tam. học. gồm:. Giới. -. Định. -. Tuệ.. Giới (gồm Chính ngữ, Chính nghiệp, Chính mệnh) là những điều răn cấm, những qui định giúp cho con người trên đường tu hành tránh được những lỗi lầm, trở nên trong sạch. Giới luật có những qui chế cụ thể cho từng đối tượng tu hành. Định (gồm Chính tịnh tiến, Chính niệm, Chính định) là phương pháp giúp cho người tu hành không tán loạn thâm tâm, nhờ đó mà loại trừ những ý nghĩ xấu, tạo điều kiện cho trí tuệ bừng sáng..
<span class='text_page_counter'>(45)</span> Tuệ (gồm Chính kiến, Chính tu duy): người có trí tuệ sáng suốt diệt trừ được vô minh, tham dục, chứng ngộ được chân lý lành điều thiện, mưu lợi ích cho chúng sinh. Đạo Phật đề cao vai trò của trí tuệ, xem đó là điều kiện không thể thiếu được để tiến tới giác ngộ giải thoát. Phật khẳng định rằng có trí tuệ mới có khả năng phân biệt đúng sai, thiện ác... mới có thể tự giải thoát khỏi những ràng buộc của dục vọng cá nhân. Phật giáo còn đề cập tới Bát chánhđạo (tám con đường chân chính để đạt đạo) và “lục độ” (6 phép tu) để chủ động thực hiện những điều tốt đem lại lợi ích cho người, cho chính mình. Mục đích của việc tu hành trong giáo lý của đạo Phật là nhằm đạt tới sự siêu thoát hướng con người tới cõi Niết bàn (Nirvana). Tứ diệu đế- Tam học - Bát chánh đạo - Ngũ giới - Lục độ - Niết bàn là nội dung cơ bản của giáo lý Phật, thể hiện quan điểm về nhân sinh và con đường giải thoát con người ra khỏi sự trầm luân của “bể khổ”. Những tư tưởng đó tuy mức độ khác nhau đều có ảnh hưởng đến lối sống. của. cộng. đồng. trong. xã. hội.. Chính quyền trung ương buổi đầu khi tiếp nhận Huế đã không còn mang tinh thần lấy Phật giáo làm quốc giáo, bởi vì từ Trần Anh Tông (1311) trở đi đến Hồ Quý Ly, Hậu Lê đều đề cao Nho giáo. Với luật Hồng Đức (1460) vua Lê Thánh Tông đã không còn coi trọng tăng ni và chùa chiền, coi Phật pháp là hư ảo viễn vông. Nhưng không vì thế mà Phật giáo bị mất đi ảnh hưởng của mình. Biết bao thế hệ lưu dân Việt trong các thế kỷ từ XIV đến XIX đã rời bỏ các vùng đồng bằng miền Bắc để tìm vào hội tụ ở đồng bằng sông Hương. Và đạo Phật ở Huế đã là người bảo hộ cho người dân nơi vùng đất mới. Trong chín đời chúa Nguyễn (1558-1777), nhờ sự mộ đạo của các chúa Nguyễn, sự tồn tại phái của thiền sư Hương Hải (ảnh hưởng của Phật giáo miền Bắc), hai phái thiền Lâm Tế, Tào Động từ Trung Quốc.
<span class='text_page_counter'>(46)</span> trực tiếp truyền sang và phái thiền Liễu Quán của người Việt Nam bằng sự kết hợp Lâm - Tào với truyền thống tư tưởng của người Đàng trong.Vì thế trong di sản văn hoá dân tộc ở Huế còn lại đến ngày nay, chùa là một bộ phận cấu thành quan trọng, nó không chỉ có giá trị vật chất. mà. còn. có. giá. trị. tinh. thần. đối. với. nhân. dân.. Dưới triều Nguyễn (1802-1945), Phật giáo được truyền bá rộng rãi, nhiều chùa ở Huế và cả nước được trùng tu, khởi tạo. Dù đề cao Nho giáo nhưng Phật giáo cũng được các vua Nguyễn quan tâm như là biện pháp để thu phục nhân tâm. Nói tới đạo phật thời Nguyễn, không thể không nhắc tới hệ thống chùa chiền đã được các vua chúa Nguyễn cho xây dựng mơí hoặc trung tu cải tạo: chùa Diệu Đế, chùa Từ Đàm, chùa Tư Hiếu … Đặc biệt là chùa Thiên Mụ, ngôi chùa đã trở thành biểu tượng của kinh thành Huế. Chùa Thiên Mụ ( còn gọi là chùa Linh Mụ ) được chúa Nguyễn Hoàng xây dựng vào năm 1661. Năm 1665 chúa Nguyễn Phúc Tần cho trùng tu. Năm 1710, chúa Nguyễn Phúc Chu cho đúc quả đại hồng chung cao 2,5m nặng 3285 kg, và năm 1715, chúa lại cho xây dựng tấm bia cao 2,58m đặt trên lưng con rùa bằng cẩm thạch. Vào thời Nguyễn, các vua Gia Long, Minh. Tháp Phước Duyên. Mạng, Thiệu Trị, Thành Thái đều cho trùng tu chùa. Tháp Phước Duyên (ban đầu được đặt tên là tháp Từ Nhân) được vua Thiệu Trị cho xây vào năm 1844. Tháp hình bát giác cao 7 tầng (21 m). Ðiện Ðại Hùng là ngôi chính điện trong chùa, một công trình kiến trúc đồ sộ nguy nga. Trong điện, ngoài những.
<span class='text_page_counter'>(47)</span> tượng phật bằng đồng sáng chói còn treo một khánh đồng được đúc năm 1677 và một bức hoành phi bằng gỗ sơn son thếp vàng do tự tay chúa Nguyễn Phúc Chu đề tặng năm 1714. Hai bên chùa có nhà trai, nơi các sư tĩnh dưỡng và nhà khách để đón khách đến vãn cảnh chùa. Diệu Ðế là ngôi quốc tự thứ ba, được vua Thiệu Trị coi là một trong hai mươi thắng cảnh của đất kinh đô thiêng liêng. Chùa được vua Thiệu Trị truyền lệnh xây dựng với qui mô lớn vào các năm 1842 - 1844 khi mới lên ngôi vài năm, trên vùng đất nhà vua đã ra đời. Kiến trúc ban đầu của chùa rất qui mô. Tuy không đẹp bằng chùa Thiên Mụ, nhưng chùa Diệu Ðế có vẻ độc đáo riêng, có bốn lầu (hai lầu chuông, một lầu trống và một lầu bia). Chính điện là đại giác, tả hữu chính điện là Thiền đường, phía trước điện dựng gác Ðạo Nguyên hai tầng ba gian, sau gác Ðạo Nguyên có hai lầu chuông trống xây cân đối ở hai bên, chính giữa là lầu Hộ pháp, sân trong có La thành, sân trước có hai nhà lục giác, nhà bên tả đặt hồng chung, nhà bên hữu dựng bia lớn khắc bài văn do vua Thiệu Trị soạn. Hệ thống La thành ngoài chùa Diệu Ðế xây dựng kiên cố, bề thế, trước có Phượng môn ba cửa, hai bên có cổng nhỏ, ngoài bờ sông có xây bến thuyền khoảng mười bậc lên xuống. Ngày nay, do thời gian và sự tàn phá của chiến tranh nên chùa không còn vẻ nguy nga tráng lệ như trước nữa. Chùa Từ Hiếu là một am nhỏ đên năm 1843 được Hoà thượng Cương Kỷ xây dựng quy mô lớn. Chùa được xây theo kiểu chữ khẩu, chùa chính ba căn, hai chái. Chính điện phía trước thờ phật, phía sau thờ Tổ. Nhà hậu là Quảng Hiếu đường, ở giữa thờ đức thánh quan, bên trái thờ hương linh phật tử tại gia, bên phải thờ các vị Thái giám..., bên tả sân hậu là tả lạc thiên (nhà tăng) và bên hữu là Hữu ái Nhật (nhà khách).Cổng chùa xây theo kiểu vòm cuốn hai tầng, phía trên chính giữa thờ tượng Hộ pháp. Trong cổng tam quan có hồ bán nguyệt thả hoa sen, hoa súng và cá cảnh. Hai bên sân có hai lầu bia để ghi lịch sử xây dựng chùa..
<span class='text_page_counter'>(48)</span> Năm 1894 Hoà thượng Cương Kỷ tiếp tục trùng tu và kiến thiết toàn cảnh với sự giúp đỡ của vua Thành Thái, các giám quan và nhiều phật tử. Năm 1931 Hoà thượng Huệ Minh tiếp tục tùng tu và xây hồ bán nguyệt. Năm 1962 Hoà thượng Chơn Thiệt tiếp tục trùng tu chùa. Chùa được Thượng toạ Chí Niệm cho trùng tu cửa tam quan, hồ bán nguyệt và những nhà cửa bị hư hỏng. Chùa là một trong những ngôi cổ tự lớn ở cố đô Huế. Mặc dầu tuỳ từng thời, từng miền mà có những sự ảnh hưởng xã hội khác nhau nhưng tính chủ đạo thường là rất thống nhất. Tượng Phật giáo dưới thời nhà Nguyễn hiện còn lại ở Huế là một điển hình. Nhà Nguyễn đóng đô ở Phú Xuân, xây dựng kinh thành Huế và dựng chùa thờ Phật vỗ an dân chúng, nghệ thuật điêu khắc tượng Phật giáo cũng theo đó mà được nâng cao. Buổi đầu còn có vẽ đơn điệu về kiểu dáng và cứng nhắc về quy phạm. Nhưng kể từ khi Gia Long thống nhất đất nước lên ngôi vua vào năm 1802 ông đã cho trùng tu, xây dựng một loạt những ngôi chùa từ Nam chí Bắc đã bị quân Trịnh và Tây Sơn đập phá. Từ đó hàng chục hàng trăm pho tượng cũng được làm mới. Các đời vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức...nối tiếp, cải tiến về chất liệu nhưng nhìn chung vẫn thống nhất về hình mẫu. Từ kích thước gần nguyên mẫu rập khuôn có khi dẫn đến sự cảm nhận rất thiếu sinh khí, nhưng tính chủ đạo vẫn cho thấy một sự trung thành với đường lối vỗ an dân chúng theo chủ trương chính trị dân gian hoá “cư Nho mộ Thích”. Nếu so sánh với dòng tượng Phật giáo ở Việt Nam với các thời đại khác nhau trước và sau nhà Nguyễn thì tượng Phật giáo thời Nguyễn đã có một sự thống nhất về mặt hình thể, khuôn mặt và cách sử lý tượng đa chiều: tượng tròn chứ.
<span class='text_page_counter'>(49)</span> không phẳn dẹt, mặt bầu, thân hình thấp lùn, tay chân mũm mĩm...vì vậy nếu chúng ta ngắm kỷ và phân tích từ khâu tạo hình tượng, tỉ lệ, độ viễn cận, các rảnh tối sáng, bố cục…trên tổng thể mỗi pho tượng dường như thuần đặc chất giản phát, hồn nhiên đến ngô nghê. Những bức tượng đức Phật đều tập trung chủ yếu vào tính chất đặc tả theo chiều hướng dân gian gần gũi hơn là đức tin thuần tuý. Hầu hết các bức tượng Phật đều có thân hình, nét mặt và kiểu dáng rất “hồn nhiên”. Một sự cố ý mang tính triết lý hơn là điêu khắc, đồng thời kiểu tượng có nhiều nét hồn nhiên và ngây thơ của nét mặt trẻ em cũng cho thấy ý đồ của nghệ nhân và chủ nhân muốn nói lên một sự trong sáng, gân gũi trong mỗi bức tượng Phật mà không phải quá trang nghiêm. Những bức tượng Bồ Tát mà điển hình nhất là bồ tát Quán Thế Âm dưới thời Nguyễn hiện còn ở Huế cũng rất đặc trưng, đa số đều ở tư thế tượng ngồi thoải mái, nhẹ nhàng mềm mại trên đài sen và bệ bằng gỗ được chạm khắc và sơn son thếp vàng rất đẹp. Tượng thể hiện một sự an lạc và vô sự trong đời sống của con người. Rất đặc biệt, nhiều bức tượng Quán Thế Âm người ta con trang trí thêm bảo cái có rồng chầu phía sau tượng. Những bức tượng bồ tát Chuẩn Đề kiểu dáng mập, khuôn mặt đầy đặn tròn trịa và rất hiền, có nhiều nếp áo nhăn chạy từ trên xuống dưới trong tư thế ngồi kiết già nên càng tăng thêm phềm mềm mại cho bức tượng..
<span class='text_page_counter'>(50)</span> Những bức tượng Thánh Tăng dưới thời Nguyễn còn lại rất ít tại Huế, đặc biệt đôi tượng Thánh Tăng A Nan-Ca Diếp tại một ngôi chùa ở huyện Quảng Điền mà chúng tôi có quan sát được rất lạ. Tượng nhỏ, lùn và rất đơn giản, ít đường nét, ở tư thế đứng trên một bệ có chạm khắc hoa văn thô, trong y phục dài, hai tay chấp hình búp sen. Tỷ lệ tượng không cân đối nhưng nhìn thì lại rất “dễ thương” và an lạc. Bộ tượng La Hán đang thờ ở Quốc tự Thánh Duyên cũng có đường nét lạ, tượng ở tư thế ngồi thoải mái, nét mặt hồn nhiên vô tư mà không “đăm chiêu” như thường thấy..
<span class='text_page_counter'>(51)</span> Ngoài tượng Phật, Bồ Tát và Thánh Tăng ra ở Huế còn có nhiều bức tượng khác như Thập Điện Minh Vương, tượng Hộ Pháp...dưới thời Nguyễn cũng rất đặc trưng. Tượng Thập Điện là độc đáo hơn cả, tính chất dân gian trong thể loại tượng nầy là rất cao. Cả bộ (10 pho) nên sự cộng hưởng, nét tương quan đắp đổi qua lại giữa các pho tượng đã làm nên sự phong phú trong kiểu dáng, đường nét và hình tượng. Một điều đặc biệt là hầu hết các pho tượng Phật giáo thời Nguyễn thường ít có nét đặc tả chủ đạo vào tính chất tôn nghiêm nặng tính tôn giáo kinh điển đồng thời cũng rất ít pho tượng mà người ta ghi lại niên đại, tên tuổi người chú hoặc nghệ nhân điêu khắc pho tượng..
<span class='text_page_counter'>(52)</span> Trên thực tế và những tài liệu sách vở còn lại, tượng Phật giáo thời nhà Nguyễn còn lại ở Huế không thể không khiến chúng ta liên tưởng đến lòng tin (niềm tin tôn giáo) và trình độ dân trí dưới thời nhà Nguyễn là ở mức độ phổ thông, dân gian hoá gần gũi với đại chúng làm nông nghiệp thời bấy giờ. Tượng thì to, nhưng vẻ sinh động nghệ thuật thì rất hạn chế, đó là dấu hiệu cuối cùng của một giai đoạn nghệ thuật điêu khắc tượng Phật giáo cổ nhưng đang được bảo quản rải rác ở Huế không phải là nhiều và đang có dấu hiệu mất dần.... III KẾT LUẬN. Như vậy trong đời sống tín ngưỡng của mình, tôn giáo chiếm một địa vị khá lớn trong đời sống của các vua trều nguyễn. Tôn giáo không chỉ mang lại sự uy nghiêm, độc tôn của các vị vua mà còn là công cụ cho các vua cai trị vương quyền của mình, do đó các tôn giáo tồn tại dưới vương triều cuối cùng của lịch sử dân tộc này đã có những thăng trầm và biến đổi nhưng dù sao với sự hiện hữu của mình nó cũng để lại nhiều dấu ấn của chế độ phong kiến Việt Nam trong lịch sử phát triển không ngừng của dân tộc. Do điều kiện thời gian có hạn và nguồn tài liệu thu thập được chưa nhiều nên trong phạm vi nghiên cứu vấn đề chúng tôi chú trọng vào làm rõ sức ảnh hưởng của ba tôn giáo lớn là nho giáo, thiên chúa giáo và phật giáo vào đời sống của các vua trong vương triều nguyễn.. TÀI LIỆU THAM KHẢO . Đào Duy Anh (2002), Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến Thế kỷ XIX, Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin... Trần Trọng Kim (1971), Việt Nam sử lược, 2, Sài Gòn: Trung tâm Học liệu Xuất bản thuộc Bộ Giáo dục, Phan Khoang (2001), Việt sử xứ Đàng Trong, Nhà xuất bản Văn Học...
<span class='text_page_counter'>(53)</span> Dương Quảng Hàm (1968), Việt Nam văn học sử yếu, Sài Gòn: Trung tâm Học liệu Xuất bản thuộc Bộ Giáo dục, Đặng Việt Thủy; Đặng Thành Trung (2008), 54 vị Hoàng đế Việt Nam, Hà Nội: Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân.. Trương Hữu Quýnh (2005), Đại cương Lịch sử Việt Nam-tập I, Nhà xuất bản Giáo Dục. . Trương Hữu Quýnh (2004), Lịch sử Việt Nam từ thế kỷ X đến 1858, Nhà xuất bản ĐH Sư phạm.. . Đinh Xuân Lâm (2007), Đại cương Lịch sử Việt Nam-tập II, Nhà xuất bản Giáo Dục.. . Trần Đức Anh Sơn (2004), HUẾ Triều Nguyễn một cái nhìn, Nhà xuất bản Thuận Hóa... Nguyễn Thị Thạnh (2008), The French conquest of Cochin-China, 1858-1862, [Ph.D. Thesis], Cornell University 1982.. Uỷ ban Khoa học Xã hội Việt Nam (1971), Lịch sử Việt Nam, tập I, NXB KHXH,Hà Nội.. Nguyễn Khắc Thuần (2005), Đại cương lịch sử cổ trung đại Việt Nam, Nhà xuất bản Giáo Dục.. Nhiều tác giả (2007), Những vấn đề lịch sử triều Nguyễn, TP Hồ Chí Minh: NXB Văn hoá Sài Gòn.. Lê Nguyễn (2009), Nhà Nguyễn và những vấn đề lịch sử, Hà Nội: NXB Công an nhân dân. “Về hội thảo chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn, GS Phan Huy Lê: Một nhu cầu lịch sử cấp thiết và chính đáng”. Báo Tuổi Trẻ (số 15 tháng 10 năm 2008). Những vấn đề Lịch sử triều Nguyễn-Tạp chí Xưa và Nay & NXB Văn Hóa Sài Gòn tr 333.
<span class='text_page_counter'>(54)</span> “Từ sự thành lập vương triều Nguyễn đến sự đảo lộn nhận thức về triều đại này trong giai đoạn vừa qua”. Hoisuhoc.vn. “Nghệ thuật kiến trúc - Cung đình Huế”. Vn.net. Các tạp chí nghiên cứu lịch sử.
<span class='text_page_counter'>(55)</span>