Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Tìm hiểu về nhóm các nước brics

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (206.46 KB, 9 trang )

NHĨM CÁC NƯỚC BRIC
I. Sự hình thành của nhóm nước BRICS
1. Tiềm năng sức mạnh

.c
om

BRICS (Brasil, Russia, India, China, South Africa) có những tiềm năng thật ấn tượng. Nhóm này
sở hữu những nguồn quan trọng nhất cho sự tăng trưởng, như chiếm hơn 1/4 diện tích đất đai,
41% dân số, gần 25% GDP, 15% thương mại và gần 50% tổng dự trữ ngoại tệ và vàng của thế
giới. Dự trữ ngoại tệ của BRICS hiện tới trên 4.100 tỉ USD, trong đó của Trung Quốc trên 3.200
tỉ USD, của Brazil 200 tỉ USD, của Nga 404 tỉ USD, của Ấn Độ 254 tỉ USD.
2. Chính sách phát triển của từng nước
B: Brasil – câu chuyện về tăng trưởng đều

ng

Chính sách kinh tế của Tổng thống Rousseff được kế thừa từ ông Luca da Silva (trái)

co

Trong mười năm qua, Brazil đã trải qua những chuyển đổi sâu rộng.

th

an

Nguồn gốc của quá trình này bắt nguồn từ kế hoạch hiện đại hóa đất nước trong những năm
1990, bao gồm một chương trình tư nhân hóa thành cơng, ổn định được kinh tế và củng cố của
hệ thống ngân hàng.


du
o

ng

Về kinh tế, chính quyền của ông Luiz Inácio Lula da Silva (vốn thuộc phe đối lập với chính phủ
của người tiền nhiệm, Fernando Henrique Cardoso) đã triển khai các chính sách kinh tế chính
bao gồm thắt chặt tài chính, giữ lạm phát theo chỉ tiêu và duy trì tỷ giá hối đối linh hoạt.

cu

u

Kết quả là, rủi ro của đầu tư vào Brazil giảm đáng kể, tỷ lệ tăng trưởng tăng lên, mức lạm phát
giảm và dịng vốn đầu tư nước ngồi chỉ đứng thứ hai sau Trung Quốc và dự trữ ngoại hối của
Brazil vượt quá 350 tỷ đôla.
Ngoại thương của Brazil tăng mạnh và đạt 500 tỷ đôla vào năm 2011, với Trung Quốc trở thành
đối tác kinh tế chính của Brazil, vượt qua Hoa Kỳ.
Q trình quốc tế hóa nền kinh tế Brazil đã và đang tăng tốc, và các công ty đa quốc gia của
Brazil (như ngân hàng và các công ty xây dựng, sản xuất thịt, máy bay, thép, vận tải và dệt may)
đã có sự hiện diện nổi bật ở nước ngoài.
Ngày nay, Brazil đứng thứ 7 trên thế giới về GDP, và dự kiến sẽ vượt qua Anh Quốc vào năm
2011 để leo lên vị trí thứ 6.

CuuDuongThanCong.com

/>

Chương trình xã hội
Trong lĩnh vực xã hội, Brazil đã đầu tư rất nhiều vào các chương trình hỗ trợ cho dân nghèo chủ yếu thông qua các dự án Bolsa Familia theo đó cấp tiền cho các hộ gia đình để đầu tư vào

giáo dục.
Phân nửa dân số Brazil thuộc tầng lớp trung lưu.
Cùng với việc tăng lương trên mức lạm phát và kinh tế tổng thể đạt tăng trưởng, có tới 40 triệu
người Brazil đã gia nhập tầng lớp trung lưu.

.c
om

Tức là nay có tới phân nửa người dân Brazil (trong đất nước 190 triệu dân) thuộc tầng lớp trung
lưu.
Thị trường nội địa đã mở rộng đáng kể, với các chương trình khuyến mại tín dụng cho người tiêu
dùng.

co

ng

Với sự ổn định kinh tế và đạt được niềm tin từ cộng đồng thế giới, Brazil đã đạt được vị thế đáng
kể hơn trên trường quốc tế.

an

Sự hiện diện tại nước ngoài tăng lên đáng kể, với việc mở cửa hơn 40 đại sứ quán, chủ yếu là ở
châu Phi, châu Á, Trung Mỹ và Caribbean.

th

Tham gia năng động

du

o

ng

Brazil là một trong những nước đóng vai trị lớn trong các cơ quan quốc tế đối với các vấn đề
toàn cầu, chẳng hạn như mơi trường, biến đổi khí hậu, năng lượng (hóa thạch và tái tạo), ngoại
thương, nguồn nước và nhân quyền.

cu

u

Là ứng cử viên cho một ghế thường trực tại Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (một khi có cải
cách), Brazil là một thành viên của nhóm G20 quyết định, diễn đàn có nhiều ảnh hưởng cho các
chủ đề kinh tế tồn cầu.
Brazil là quốc gia có thể được hưởng lợi nhiều nhất từ các nhóm mà kể như phải mất nhiều năm
mới đạt được những tiến bộ như đã có được.
Theo đề xuất của Brazil, nhóm BRIC sẽ chính thức khn khổ hoạt động và sẽ nhóm họp thường
xuyên, tạo ra lực đẩy quốc tế quan trọng với các ảnh hưởng về chính trị và kinh tế của bốn nước
và nay có thêm thành viên mới là Nam Phi.
Sự hiện diện của Brazil không bị giới hạn bởi Nam Mỹ - mà quốc gia này đang chủ động hội
nhập tại châu Phi và Trung Đông, chủ yếu vì "quyền lực mềm" của nước này.

CuuDuongThanCong.com

/>

Thách thức phía trước
Brazil có tiếng nói có ảnh hưởng nhiều hơn trên trường quốc tế.
Hiện có một số thách thức cho Brazil trong những năm tới.

Về kinh tế, để đảm bảo tính liên tục của các chính sách kinh tế hiện nay, Quốc hội cần phải phê
duyệt một số cải cách cơ cấu, liên quan đến thuế, an sinh xã hội, quan hệ lao động và chính trị.

.c
om

Một vấn đề cấp bách là giảm chi phí đầu tư cao trong nước - chi phí tăng do thực trạng thiếu hiệu
quả của bộ máy Nhà nước, lãi suất cao, giá trị đồng tiền tệ, t cơ sở hạ tầng còn yếu và giá năng
lượng cao.
Nếu những vấn đề này được giải quyết thành cơng, nó sẽ làm tăng khả năng cạnh tranh của nền
kinh tế khoảng trên 35%.

ng

Brazil sẽ phải nhận trách nhiệm lãnh đạo và trợ giúp các nước nghèo hơn và sẽ đóng một vai trị
lớn hơn trong các nhiệm vụ hịa bình của Liên Hợp Quốc.

an

co

Brazil đã khơng cịn là một quốc gia ngồi chờ phản ứng và đã tỏ ra là nước chủ động trong quan
hệ song phương và có lập trường kiên định tại các cơ quan quốc tế.

th

2. R: Russia từ khủng hoảng lên kinh tế thị trường

du
o


ng

Từ 1989-1998, nước Nga trải qua giai đoạn khủng hoảng trầm trọng. Khủng hoảng về chuyển
đổi, gắn liền với sự sụp đổ của hệ thống Xô-viết và hàng loạt các cải cách khác. Kết cục là nước
Nga trở thành quốc gia có nền kinh tế thị trường.
Từ 1995-1997, các thể chế của nền kinh tế mới vẫn cịn ở dạng phơi thai. Nhưng những vấn đề
của chế độ xã hội chủ nghĩa trước như thiếu hàng hóa đã chấm dứt.

cu

u

Giờ đây, đồng tiền đã mang giá trị thật của nó, và cơ cấu của nền kinh tế mới đã bắt đầu hình
thành. Lần đầu tiên trong nhiều thập kỷ, kinh tế Nga hoạt động theo quy luật cung cầu.
Mặc dù vẫn còn nhiều người cho rằng kinh tế Nga phụ thuộc vào xuất khẩu dầu mỏ và các
nguyên vật liệu thô nhưng chuyện này đã diễn ra trước đó nhiều thập kỷ. Vào cuối những năm
1960, các quặng dầu mỏ và khí đã được tìm thấy ở phía Tây Siberia. Việc giá dầu thế giới tăng
vào những năm 1970 đã củng cố thêm sự phụ thuộc của Nga vào xuất khẩu dầu thô.
Trong giai đoạn khủng hoảng chuyển đổi từ năm 1989 đến 1998, tăng trưởng GDP của Nga giảm
40%, sản xuất công nghiệp giảm 55%. Tốc độ sụt giảm với biên độ như vậy là vô tiền khống
hậu, ít nhất là trong thời bình.
Giọt nước làm vỡ bờ chính là cơn khủng hoảng tài chính năm 1998. Sự kiện này cũng đã dẫn đến
những thay đổi chính trị: chính phủ của những người chủ trương cải tổ đã bị buộc phải từ nhiệm.
Nước Nga giờ đây phải đối mặt với sự thay đổi tổng thống lần đầu tiên trong lịch sử hậu Xô-viết.

CuuDuongThanCong.com

/>


Nga là một trong những quốc gia xuất khẩu dầu lớn nhất trên thế giới
Nhưng sau cơn khủng hoảng năm 1998 khiến giá dầu xuống còn 12$/thùng - mức thấp nhất kể từ
năm 1973, mọi thứ bắt đầu phục hồi.
Kinh tế Nga tăng trưởng rất nhanh trong giai đoạn 1999-2008. Trên thực tế, tốc độ tăng trưởng
nhanh đến mức nhiều người bắt đầu tin rằng nước Nga đã sẵn sàng tham gia câu lạc bộ các nước
phát triển với tốc độ tăng trưởng cao.
GDP của Nga trong các năm trên tăng 185% so với thời kỳ 1998, nghĩa là tốc độ tăng trưởng
trung bình hàng năm đạt 7.3%.

.c
om

Đó là lý do tại sao Nga có tên trong danh sách các nước BRIC (viết tắt tên bốn nước là Brazil,
Nga, Ấn Độ và Trung Quốc bằng tiếng Anh). Các nước này được Goldman Sachs đánh giá là
đầu tàu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thế giới đầu thế kỷ 21.

co

Lạm phát năm 2008 ở mức 108% so với năm 1989.

ng

Tuy nhiên, ta nên nhớ rằng sự tăng trưởng này theo sau thời kỳ khủng hoảng rất khó khăn; và
những kiểu so sánh như trên đều có xuất phát điểm từ những ngày khó khăn nhất đó.

th

an

Trong cùng thời điểm đó, người dân Nga bắt đầu chi tiêu nhiều hơn và tiết kiệm ít đi. Mức tiết

kiệm giảm từ 31% xuống cịn 19% GDP.

ng

3. I – India: chính sách ngoại thương với Mỹ và Trung Quốc

du
o

Trong vòng 15 năm qua, thương mại giữa Ấn Độ với Mỹ và Nhật hầu như bị đình trệ, tuy nhiên
với Trung Quốc thì cứ mỗi bốn năm thì giao dịch ngoại thương giữa Ấn và Trung lại tăng gần
gắp đôi và dự kiến đến năm 2013 sẽ đạt mức $100 tỉ đơ-la.

cu

u

Trong vịng năm năm tới, Ấn Độ phải sản xuất ra 100.000 MW điện và 20% các thiết bị sản xuất
điện phải mua từ Trung Quốc.
Nhưng làm thế nào để các nước Brics tránh khỏi căng thẳng chính trị với nhau?
Dĩ nhiên là có căng thẳng vì việc nhóm các nước này lại với nhau không nằm trong chủ trương
của các nước liên quan mà chỉ là do hoạt động của các thế lực thị trường và tiến trình tồn cầu
hóa.
Ấn Độ và Trung Quốc sẽ là hai nền kinh tế đối đầu nhiều với nhau trong khu vực nhưng đồng
thời hai nước này buộc phải hợp tác với nhau trên nhiều diễn đàn.
Hai nước này phải hợp tác với nhau tại các diễn đàn quốc tế như Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO) và trên các vấn đề liên quan đến thay đổi khí hậu.

CuuDuongThanCong.com


/>

Ấn Độ và Trung Quốc cũng đối mặt với ít nhiều thách thức kinh tế xã hội giống nhau, nên hai
nước cũng có khuynh hướng cùng nhau thương thảo các điều khoản với thế giới các nước phát

"Ấn Độ và Trung Quốc sẽ là hai nền kinh tế đối đầu nhiều với nhau trong khu vực nhưng đồng
thời hai nước này buộc phải hợp tác với nhau trên nhiều diễn đàn."
MK Venu, Giám đốc điều hành Financial Express, New Delhi.
triển.

.c
om

"Ấn Độ và Trung Quốc sẽ là hai nền kinh tế đối đầu nhiều với nhau trong khu vực nhưng đồng
thời hai nước này buộc phải hợp tác với nhau trên nhiều diễn đàn."
Đó là lý do tại sao mối quan hệ của hai nước thường được đặc trưng bởi tính vừa cạnh tranh vừa
hợp tác.

ng

Suy cho cùng, chính khu vực này là nơi có nhiều con đường thương mại quan trọng nhất cho
ngoại thương năng lượng và nhập khẩu các loại hàng hóa giao dịch khác.

co

C – China: Cơng xưởng của thế giới

ng

th


an

Những năm gần đây, kinh tế Trung Quốc đã đóng góp lớn cho tăng trưởng kinh tế thế giới, mức
độ đóng góp đã vượt qua hơn 10%, đối với tăng trưởng mậu dịch quốc tế vượt hơn 12%. Trung
Quốc tập trung sức lực giải quyết tốt vấn đề phát triển của nền kinh tế xã hội, sự phát triển của
Trung Quốc là một bộ phận cấu thành quan trọng của sự phát triển thế giới, Trung Quốc càng
phát triển, càng có thể mang lại lợi ích cho thế giới.

cu

u

du
o

Ngày 14-2, Văn phịng Nội các Nhật Bản cơng bố các số liệu thống kê cho thấy GDP của nước
này đã giảm trong quý IV năm 2010 do nhu cầu tiêu dùng giảm mạnh và tính cả năm 2010, GDP
của Nhật Bản tăng trưởng 3,9%, đạt 5.474 tỷ USD, song vẫn kém Trung Quốc (GDP đạt 5.879,9
tỷ USD). Như vậy, sau hơn 40 năm giữ ngôi vị “á quân” Nhât Bản đã lùi xuống hàng thứ ba, để
Trung Quốc chính thức trở thành nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới sau Mỹ.
Sự vươn lên ngoạn mục
Năm 1949, khi mới thống nhất đất nước, Trung Quốc là một trong những quốc gia nghèo và kém
phát triển nhất thế giới. Vào thời điểm này 90% dân số sống tại nông thơn và phần lớn là nghèo
khó.
Năm 1956, 99% nền kính tế Trung Quốc thuộc sở hữu nhà nước. Phần lớn dân số tiếp tục sống
tại nông thôn và tham gia sản xuất nông nghiệp. Bất chấp những nỗ lực công nghiệp hóa của
Chính phủ, kết quả đạt được rất khiêm tốn. Kinh tế Trung Quốc chỉ bắt đầu vươn lên sau cuộc
cải cách tồn diện 1978. Khi đó, vai trị của Trung Quốc khơng ngừng lớn mạnh, chiếm vị trí
quan trọng trong thương mại tồn cầu. Đồng thời, chính sách khuyến khích nơng nghiệp của

Chính phủ Trung Quốc cũng bắt đầu phát huy hiệu quả, giúp tăng sản lượng và giải phóng một

CuuDuongThanCong.com

/>

lượng lao động khỏi khu vực này. Nguồn nhân lực này trở thành một lực lượng bổ sung dồi dào
cho các nhà máy và xưởng sản xuất. Chính phủ Trung Quốc cũng đã tiến hành xây dựng các đặc
khu công nghiệp nhằm khuyến khích hoạt động sản xuất hàng hóa. Thâm Quyến được coi là hình
mẫu thành cơng nhất của chính sách này. Từ một thị trấn ngư nghiệp nhỏ với 30.000 dân năm
1984, Thâm Quyến trở thành một thành phố hiện đại với 8 triệu dân vào năm 2007.

ng

.c
om

Sự tăng trưởng của Trung Quốc được coi phần lớn là nhờ vào việc ngành sản xuất được đầu tư
và việc các ngành công nghiệp trong nước cũng như các cơ sở hạ tầng được mở rộng. Điều này
khiến mảng xuất khẩu tăng mạnh sau khi Trung Quốc trở thành một trung tâm sản xuất cho các
thương hiệu đa quốc gia muốn hưởng lợi từ nhân công giá rẻ và từ việc các tuyến đường bộ,
đường sắt được mở rộng. Mặc dù kinh tế Trung Quốc chỉ có quy mơ bằng 1/3 so với nền kinh tế
Mỹ, nhưng Trung Quốc lại là thị trường lớn nhất của nhiều mặt hàng công nghiệp. Năm 2009,
Trung Quốc vượt Mỹ để trở thành thị trường ôtô lớn nhất thế giới và vượt Đức để trở thành nhà
xuất khẩu hàng đầu thế giới. Hơn thế nữa, trong năm 2009 nền kinh tế đang nổi Trung Quốc đã
trở thành động lực chính giúp cho nền kinh tế tồn cầu qua khỏi cơn suy thối. Trong khi Mỹ và
Liên minh châu Âu (EU) vẫn phải vật lộn để tăng trưởng thời hậu khủng hoảng thì Trung Quốc
lại ung dung với mức tăng trưởng hai con số.

co


S – South Africa : Chính sách kinh tế ưu tiên sân nhà

du
o

ng

th

an

Hiện tại, Nam Phi có đại diện ngoại giao tại 46 trong tổng số 54 nước châu Phi. Về ngân sách,
trong những năm gần đây, Nam Phi luôn dành khoản kinh phí lớn nhất cho châu Phi (hơn 3.000
tỷ Rand, tương đương khoảng 380 tỷ USD mỗi năm), nhằm tăng cường cam kết đối với châu lục.
Với chính sách đầu tư phát triển kinh tế đó, Nam Phi đã trở thành nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất
(ngoại trừ các lĩnh vực khai khoáng và năng lượng) ở khu vực cận sa mạc Xahara châu Phi. Nam
Phi mở rộng các hoạt động hợp tác đầu tư trên các lĩnh vực thương mại, khoa học công nghệ,
thuế quan, hàng không, văn hóa, du lịch, viễn thơng, xây dựng, dịch vụ tài chính.

cu

u

Đầu tư của Nam Phi đã có những tác động không nhỏ đối với châu lục. Việc các công ty Nam
Phi thâm nhập vào thị trường châu Phi đã tạo ra thách thức đối với các nhà đầu tư ngoài khu vực,
phá vỡ thế độc quyền và giúp bình ổn giá cả. Các công ty Nam Phi thực hiện chuyển giao cơng
nghệ cho các doanh nghiệp bản địa, góp phần tăng doanh thu cho các nền kinh tế châu Phi. Bên
cạnh đó, sự có mặt của các nhà đầu tư Nam Phi đã giúp tăng cường độ tin cậy đầu tư tại châu
Phi. Ngoài ra, các hoạt động đầu tư của Nam Phi cũng có vai trị giúp phá vỡ vịng kiểm sốt

kinh tế của các cường quốc phương Tây tại châu lục.
Chỉ sau một thập kỷ kể từ khi thiết lập chế độ dân chủ, Nam Phi đã trở thành nhân tố giữ vai trò
nòng cốt về vốn, hàng hóa tại châu Phi. Tại khu vực miền Nam châu Phi, Nam Phi là một nhà
đầu tư hoạt động tích cực ở tất cả 13 nước khác thuộc Cộng đồng phát triển miền Nam châu Phi.
Một trong những chính sách của Nam Phi là khai thác các lợi thế về khoảng cách địa lý và mối
quan hệ thương mại gần gũi để tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư vào các nước lân cận. Năm
2003, Mơdămbích đã trở thành đối tác thương mại lớn nhất của Nam Phi tại khu vực và trao đổi
thương mại song phương tăng 860% trong 10 năm 1992-2002. Trong giai đoạn 1997-2002, Nam
Phi chiếm 49% tổng giá trị đầu tư vào Mơdămbích, trong khi Anh chỉ chiếm 30% và Bồ Đào
Nha chiếm 11%.

CuuDuongThanCong.com

/>

Nam Phi thể hiện cam kết mở rộng các quan hệ kinh tế với châu lục thông qua việc tăng cường
các hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa đến khu vực Tây Phi. Vào năm 2003, xuất khẩu của
Nam Phi đã tăng lên 2,8 tỷ Rand (350 triệu USD) và nhập khẩu đạt 1,7 tỷ Rand (213 triệu USD).
Nigiêria là đối tác lớn nhất của Nam Phi tại khu vực cả về xuất khẩu và nhập khẩu. Tây Phi đã
tạo cho Nam Phi nhiều cơ hội mới trong phát triển cơ sở hạ tầng, thông tin liên lạc, vận tải và
năng lượng. Tại Bắc Phi, Nam Phi tập trung vào các lĩnh vực vận tải, thương mại, khoáng sản,
năng lượng, khoa học cơng nghệ và quốc phịng. Quan hệ kinh tế của Nam Phi với khu vực Đông
Phi đã được tăng cường đáng kể sau khi Nam Phi mở các cơ quan đại diện tại Burunđi, Cômô,
Mađagaxca và Êritơria. Kim ngạch thương mại giữa Nam Phi với Kênia, Môrixơ, Uganđa và đầu
tư trực tiếp nước ngồi (FDI) của các cơng ty Nam Phi đã tăng lên đáng kể.

ng

th


an

co

ng

.c
om

Nam Phi là nước có ảnh hưởng nhiều nhất và là nền kinh tế lớn nhất tại châu Phi. Kinh tế Nam
Phi chiếm 40% GDP của khu vực cận sa mạc Xahara châu Phi và chiếm 25% GDP của tồn châu
lục. Chính phủ Nam Phi lựa chọn chiến lược khuyến khích đầu tư vào châu lục thơng qua việc tự
do hóa nguồn vốn theo giai đoạn. Nam Phi cũng có vai trị định hướng và đầu tư kỹ thuật phục
vụ quá trình thiết lập khuôn khổ hội nhập kinh tế vĩ mô trong khu vực. Chính phủ Nam Phi ủng
hộ chủ trương thúc đẩy đàm phán các thỏa thuận thương mại tự do giữa Cộng đồng phát triển
miền Nam châu Phi với khối MERCOSUR (gồm Áchentina, Braxin, Paragoay và Urugoay).
Hiện tại, Liên minh thuế quan các nước miền Nam châu Phi (SACU) đang dự định tiếp tục đàm
phán hiệp định thương mại tự do với Mỹ. Nam Phi cũng sẽ chuẩn bị đàm phán hiệp định khu vực
tự do thương mại giữa SACU với Trung Quốc.

cu

u

du
o

=>> Vào đầu thế kỷ này, nhóm 4 nước BRIC (chưa tính Nam Phi, gia nhập năm 2010) là những
nước tỏa sáng nhất của nền kinh tế thế giới, trong đó mức tăng trưởng kinh tế bình qn hàng
năm của Trung Quốc từ năm 2002 đến năm 2008 đã vượt qua con số 10%, năm 2007 lên tới

11,9%, Ấn Độ đạt 9,3% . Tổng GDP của nhóm BRICS (trước khi Nam Phi gia nhập vào cuối
năm 2010) đã tăng gấp bốn lần, với 12 nghìn tỷ USD năm 2010, 13.600 tỷ USD năm 2011, đóng
góp 45% vào tăng trưởng của kinh tế thế giới. Chỉ tính riêng năm 2001-2010, kim ngạch thương
mại giữa năm nước đã đạt 230 tỷ USD, tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm đạt 28%. Theo
một số nhà khoa học, nếu khơng có gì xảy ra ngồi dự tính, 50 năm nữa các nước BRICS sẽ là
những thế lực kinh tế rất lớn của thế giới. Trong vòng 40 năm tới, kể từ năm 2003, quy mô kinh
tế của các nước BRIC sẽ vượt qua các nước G6 (Anh, Đức, Ý, Mỹ, Nhật Bản, Pháp) về GDP.
Quy mô nền kinh tế của Ấn Độ sẽ vượt Nhật Bản vào năm 2032, còn của Trung Quốc sẽ vượt
Mỹ vào năm 2041. Năm 2050, sáu nền kinh tế lớn nhất thế giới sẽ lần lượt là Trung Quốc, Mỹ,
Ấn Độ, Nhật Bản, Braxin và Nga

II. Tầm quan trọng của các nhóm BRICS
1. Giải quyết khủng hoảng kinh tế thế giới

CuuDuongThanCong.com

/>

- Trong khi các nền kinh tế đầu tàu của thế giới đang lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế, tốc
độ tăng trưởng chậm, thậm chí một số nước cịn tăng trưởng âm thì nhóm các nước BRICS lại
giữ được những con số khả quan, duy trì những tín hiệu đáng mừng
Khi châu Âu đang lâm nguy trong căn bệnh nợ công, Mỹ liên tục phải tăng hạn mức nợ của
Chính phủ, nguồn vốn đầu tư nước ngồi (FDI) – chìa khóa vàng cho tăng trưởng thần kỳ của
Trung Quốc, đang ngày càng hạn hẹp thì có một thực tế khác đó là trong buổi họp của hội nghị
G20 thì các nước Châu Âu đã đưa ra đề xuất cấp tín dụng từ các Ấn Độ và Trung Quốc.

2. Đối trọng với các nước phương Tây và Mỹ

ng


Chất kết dính: Tiếng nói đối kháng với phương Tây

.c
om

Và Thủ tướng Anh Gordon Brown và Tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy phải thừa nhận khi
tuyên bố: “Nếu xa rời các cường quốc hưng thịnh này, bất kể các vấn đề quốc tế quan trọng
nào đều không thể giải quyết tốt được”.

an

co

Trong các diễn đàn chung, các cuộc gặp thượng đỉnh của nhóm, các nhà lãnh đạo BRICS đều
nhất trí đồn kết trong nhiều vấn đề quốc tế, thể hiện quyết tâm cùng phấn đấu chia sẻ nhiều lợi
ích quốc tế hơn nữa, tiếp tục củng cố khối liên minh năm nước, đồng thời cũng thể hiện cuộc đọ
sức mạnh mẽ giữa BRICS với các nước phương Tây trong một số các vấn đề.

du
o

ng

th

Thứ nhất là thúc đẩy đàm phán thương mại toàn cầu Doha. Mặc dù các vòng đàm phán Doha đều
là đàm phán đa phương nhưng nhân vật chính thực sự của các cuộc đàm phán là các nước trong
nhóm G20 bao gồm Mỹ, EU và các nước đang phát triển như Brazil, Ấn Độ, Trung
Quốc…BRICS đồng lòng kiến nghị xây dựng một hệ thống mậu dịch quốc tế tự do, công bằng
và hợp lý, phản đối bảo hộ dưới mọi hình thức, đồng thời tăng cường hệ thống thương mại đa

phương.

cu

u

Thứ hai là cải cách hệ thống tài chính quốc tế, cùng chống lại sự bá quyền của đồng USD và thúc
đẩy đa dạng hóa các loại tiền tệ dự trữ quốc tế. Sự bá quyền của đồng USD và nỗi khổ do nó
đem lại cho các nước khác là rất lớn. Nhìn tình trạng lúng túng xử lý vấn đề lạm phát ở các nước
đang phát triển và các nền kinh tế mới nổi có thể thấy rõ điều này. BRICS luôn cảnh báo viễn
cảnh dài hạn của đồng USD do thâm hụt thương mại và thâm hụt ngân sách của Mỹ, bày tỏ sự
bất mãn đối với đặc quyền dự trữ tiền tệ chủ yếu của toàn cầu mang lại cho Mỹ. Các nhà lãnh
đạo khối BRICS kêu gọi xây dựng một hệ thống dự trữ tiền tệ quốc tế có thể "cung cấp ổn định
và chắc chắn", đồng thời thiết lập một hệ thống dự trữ ngoại hối toàn diện và thảo luận về quyền
rút vốn đặc biệt (SDR) của IMF.
Thứ ba là bình đẳng trách nhiệm giải quyết vấn đề khí hậu và năng lượng. Trong khi các quốc
gia phương Tây không muốn chịu trách nhiệm cho lịch sử cơng nghiệp hóa của mình, lại ép buộc
các nước đang phát triển đi sau phải gánh vác nhiều trách nhiệm quốc tế hơn. Các nước BRICS
duy trì quan điểm các nước phát triển và các nước đang phát triển cần kiên trì nguyên tắc cùng
chịu trách nhiệm nhưng có phân định, hợp tác ứng phó với thách thức biến đổi khí hậu mang tính
tồn cầu này.

CuuDuongThanCong.com

/>

.c
om
ng
co

an
th
ng
du
o
u
cu
CuuDuongThanCong.com

/>


×