Tải bản đầy đủ (.pdf) (130 trang)

VĂN HỌC KẾT CẤU TP HỒNG LÂU MỘNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (550.41 KB, 130 trang )

1
Bộ giáo dục và đào tạo
Trờng đại học vinh

Mục lục

Mở đầu
Trang
1.
Lý do chọn đề tài
3
2.
Lịch sử vấn đề
4
3.
Mục đích và đối tợng nghiên cứu
8
4.
Phơng pháp nghiên cứu
9
5.
Dự kiến đóng góp của đề tài
9
6.
Cấu trúc của luận văn
9
Chơng 1. Kết cấu văn bản trần thuật
của tác phẩm Hồng lâu mộng
1.1. Khái quát về khái niệm kết cấu tác phẩm văn học và đặc điểm 11
nổi bật của tiểu thuyết chơng hồi Trung Quốc
1.2. Kết cấu văn bản và t tởng kết cấu của Tào Tuyết Cần trong


21
tác phẩm Hồng lâu mộng
1.3. Hồng lâu mộng kết cấu theo lối liên kết các hồi theo một trật
26
tự nhất định
1.3.1. Cặp đối ngẫu làm đề mục hồi
30
1.3.2. Cặp đối ngẫu kết thúc hồi
33
1.4. Xác định bố cục và miêu tả tổng thể tác phẩm
35
1.5. Phân xuất các loại văn bản trong tác phẩm
42
1.5.1. Thơ
43
1.5.2. Câu đối
46
Chơng 2. Kết cấu hình tợng tác phẩm
Hồng Lâu Mộng
2.1. Giới thuyết chung về kết cấu hình tợng
50
2.1.1. Hệ thống sự kiện
50
2.1.2. Hệ thống hình tợng nhân vật
52
2.2. Hệ thống các câu chuyện và tình tiết nghệ thuật trong Hồng
53
lâu mộng
2.2.1. Kết cấu hệ thống sự kiện trong toàn bé t¸c phÈm
53

Vinh
- 2006
2.2.2. KÕt cÊu hƯ thèng sù kiƯn
nhãm
håi ®Çu
59


2

2.2.3. Tình tiết đối xứng "vòng quay cuộc sống" và tình tiết điềm
báo "nốt thắt đời ngời"
2.3. Tổ chức hệ thống nhân vật
2.3.1. Hệ thống nhân vật: Đối xứng và phi Đối xứng
2.3.2. Hệ thống nhân vật: "chính tà kiêm phu"
2.3.3. Nghệ thuật thể hiện nhân vật
Chơng 3. Tổ chức không - thời gian trong
tác phẩm Hồng Lâu Mộng
3.1. Mộng - Thực với kết cấu không gian thời gian
3.2. Đối ứng giữa không gian phủ Giả và hiện thực xà hội
3.2.1. Đối ứng với không gian sinh hoạt
3.2.2. Đối ứng với không gian tâm lý
3.3. Kết cấu vòng tròn của Mộng trong Hồng lâu mộng
Kết luận
Tài liệu tham khảo

63
69
70
80

87

103
110
110
114
118
125
131


3

Mở Đầu
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Tác phẩm vĩ đại, tập đại thành của tiểu thuyết cổ điển Trung Hoa
Hồng lâu mộng kể từ lúc xuất bản lần đầu tiên năm 1972 cho đến nay đà làm
tốn không biết bao giấy mực của các nhà nghiên cứu. Bản thân pho tuyệt thế
kỳ th này đà trở thành đối tợng chuyên biệt cho một nghành nghiên cứu độc
lập mà ngời ta quen gäi lµ “Hång häc” (Hång häc ngµy nay đà phát triển ở quy
mô học thuật quốc tế).
Ngay từ những năm ba mơi của thế kỷ trớc, Lỗ Tấn vợt lên phong khí
khảo cứu đang thịnh hành lúc bấy giờ, đà phát biểu một cách rõ ràng trong tác
phẩm của mình: Đến nh giá trị của Hồng lâu mộng, thì trong tiểu thuyết Trung
Quốc thực ra không mấy bộ đạt đến từ khi có Hồng lâu mộng, t tởng cũng nh
lối viết truyền thống đà bị đập tan[31,359]. Nghiên cứu Hồng lâu mộng từ đó
trở đi dờng nh là một sự cố gắng chứng minh cho nhận định của đại văn hào.
ở phơng Tây, trong cuốn Trung Quốc cổ tiểu thuyết luận cảo của tác giả
Hạ Chí Thanh. Học giả này đà nói không tác phẩm cổ điển nào có thể so sánh
với Hồng lâu mộng.

Những nhận định đó kích thích hứng thú của bất cứ nhà nghiên cứu nào
quan tâm đến Hồng lâu mộng. Lẽ đơng nhiên điều đó càng hấp dẫn chúng tôi những ngời chập chững bớc đầu tiên trong nhiệm vụ tập làm công việc tìm hiểu
văn chơng. Nói cách khác đây chính là lý do đầu tiên cho việc chọn đề tài này.
1.2. Hồng lâu mộng bắt đầu lu truyền rộng vào giữa đời Càn Long (khoảng
1765, bắt đầu là các bản chép tay, giá không dới vài chục lạng vàng). Bàn về
Hồng lâu mộng lúc đó đà trở thành thời thợng. Khai đàm bất thuyết Hồng lâu
mộng, độc tận thi th diệc uổng công (mở đầu câu chuyện mà không nói
chuyện Hồng lâu mộng thì đọc ngàn vạn cuốn sách cũng uổng công). Đó là câu
nói cửa miệng của các văn nhân trí thức đơng thời. Tự bấy đến giờ Hồng học


4

đà có trên một thế kỷ hình thành và phát triển. Bất kể một danh sách thống kê
đơn giản hoặc một tổng kết sơ lợc đến đâu các công trình nghiên cứu Hồng lâu
mộng đều tạo nên sức hấp dẫn đối với bất cứ ngời đọc nào có ý định tìm kiếm
vấn đề học thuật mới mẻ ở đề tài Hồng lâu mộng. Thế nhng một số vấn đề cơ
bản- đặc biệt là các phơng diện hình thức, trong đó có vấn đề bố cục tác phẩm.
Chúng tôi mạo muội cho rằng tập trung thảo luận một cách có hệ thống vấn đề
kết cấu tiểu thuyết này là một hớng đi cần thiết. Nó giúp ta phần nào giải thích,
chứng minh cho các nhận định về giá trị và vị trí của tác phẩm mà chúng tôi đÃ
đề cập đến ở trên. Đây là lý do thứ hai trong việc lựa chọn đề tài nghiên cứu.
1.3. Hồng lâu mộng đà đợc dịch và tái bản nhiều lần ở nớc ta. Tác phẩm có
mặt trong chơng trình văn khoa ở các trờng đại học, cao đẳng. Học sinh trung
học cũng có tiếp xúc bớc đầu với tác phẩm này. Đóng góp một phần nhỏ bé
trong công cuộc dạy và học tác phẩm Hồng lâu mộng là một kỳ vọng của chúng
tôi khi bắt tay vào thực hiện đề tài này.
2. Lịch sử vấn đề
Không phải ngẫu nhiên mà ngời ta cho rằng: Trung Quốc không những là
đất nớc của thơ ca (thi ca chi bang) mà còn là đất nớc của kinh truyện (kinh

truyện chi bang). Nền văn học Trung Quốc có lịch sử phát triển 3000 năm và
đạt đợc những thành tựu rực rỡ. Khi nói tới những thành tựu rực rỡ của văn học
Trung Quốc, ngời ta không thể không nói đến: tiểu thuyết Minh - Thanh. Tiểu
thuyết Minh - Thanh không những là thành tựu nổi bật của văn học cổ điển
Trung Quốc nói riêng mà nó còn là mốc son chói lọi, đóng vai trò rất quan
trọng trong quá trình hình thành và phát triển thể loại tiểu thuyết của nền văn
học thế giới nói chung. Từ tríc ®Õn nay tiĨu thut Minh - Thanh ®· thu hút sự
quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới trong đó có các nhà nghiên cứu
Việt Nam.
Hồng lâu mộng là tác phẩm đạt đợc những thành tựu nghệ thuật cao so với
các tác phẩm văn học cùng thời ë Trung Qc. Ngay tõ khi lóc míi ra ®êi nã ®·


5

thu hút sự quan tâm rất lớn của độc giả và giới nghiên cứu. Không có một bộ
tiểu thuyết nào cùng thời gây đợc sự hứng thú tìm tòi cho ngời đọc nhiều đến
nh vậy. Sự quan tâm của độc giả không chỉ có ở Trung Quốc mà còn lan rộng
trên thế giới trong đó có Việt Nam.
Có thể nói, nghiên cứu về Hồng lâu mộng là vô cùng phong phú nhng do
điều kiện tiếp xúc còn rất hạn chế và nguồn tài liệu hết sức hạn hẹp nên chúng
tôi không thể bao quát đợc toàn bộ vấn đề theo dự định. Chúng tôi sẽ hệ thống ý
kiến của các nhà lí luận nghiên cứu về Hồng lâu mộng nói chung và về kết cấu
nghệ thuật của tác phẩm nói riêng.
2.1. Nghiên cứu Hồng lâu mộng ở Trung Quốc
ở Trung Quốc, nghiên cứu về Hồng lâu mộng đà trở thành một vấn đề có
tính chất xà hội. Từ khi tác phẩm ra đời thì ở Trung Quốc cũng ra đời một
ngành học lấy Hồng lâu mộng làm đối tợng để nghiên cứu, đợc gọi là Hồng học
với nhiều trờng phái nghiên cứu khác nhau. Cho nên sự bàn luận về tác phẩm
này cũng rất sôi nổi.

Các lời bình trong Chi Nghiễn Trai trùng bình Thạch đầu ký các bản Giáp
Tuất(Càn Long19, 1754), Kỷ MÃo(Càn Long 24), Canh Thìn(Càn Long 25) viết
ngay khi Tào Tuyết Cần còn sống, thậm chí đà đợc Tuyết Cần tiếp thu phần
nào. Đó có lẽ là nh÷ng t liƯu Hång häc sím nhÊt ë Trung Qc.
Trong cuốn Trung Quốc văn học sử (tập ba) của hai tác giả Chơng Bồi
Hoàn và Lạc Ngọc Minh, đà có những ý kiến đánh giá về nội dung, về thành
tựu nghệ thuật mà tác phẩm đà đạt đợc nh: Nghệ thuật xây dựng hệ thống nhân
vật, nghệ thuật miêu tả, kết cấu và nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ. Các tác giả
khẳng định cuộc sống sinh hoạt đợc miêu tả trong tác phẩm là cái nền để tác giả
phản ánh hiện thực xà hội và đây cũng chính là nơi để tác giả bộc lộ vốn sống
cùng tài năng xuất sắc của mình.
Lỗ Tấn trong cuốn Trung Quốc văn học sử lợc (Sơ lợc lịch sử phát triển
văn học Trung Quốc) nghiên cứu tác phẩm ở góc độ loại hình. Tác giả đà đặt


6

Hồng lâu mộng vào hệ thống tiểu thuyết nhân tình thế thái đời Thanh và cho
rằng: "Đến nh giá trị của Hồng lâu mộng thì trong tiểu thuyết Trung Quốc thực
ra không mấy bộ đạt đến. Các điểm trọng yếu của nó là giám cứ thực mà miêu
tả, hoàn toàn không kiêng kỵ tô vẽ gì cả". Lỗ Tấn còn khẳng định của Hồng
lâu mộng so với các tác phẩm cùng thời và trớc đó về t tởng cũng nh lèi viÕt:
"Tõ khi cã Hång l©u méng vỊ sau, t tởng cũng nh lối viết truyền thống bị đập
tan" [31,359].
Trong cuốn: Mạn đàm về Hồng lâu mộng hai tác giả Trơng Khánh Thiện
và Lu Vĩnh Lơng đà bàn luận xung quanh các thủ pháp nghệ thuật của tác giả
trong việc miêu tả khắc hoạ tính cách nhân vật thông qua khai thác những chi
tiết, những sự kiện
Nh vậy, từ những tài liệu nghiên cứu của các học giả Trung Quốc chúng ta
có thể thấy: Các nhà lí luận học Trung Quèc ®· ®øng ë gãc ®é x· héi, giai cÊp

luËn ®Ĩ ®¸nh gi¸ vỊ néi dung nghƯ tht cđa Hång lâu mộng. Cũng từ những
quan niệm đó chỉ ra đợc những t tởng tiến bộ và hạn chế của nhà văn.
Chúng ta thấy trong các công trình nghiên cứu nêu trên về Hồng lâu mộng,
các tác giả đề cao vai trò nghệ thuật kết cấu đối với giá trị của tác phẩm. Tuy
nhiên hầu hết các tác giả khi nghiên cứu vấn đề này chỉ tập trung vào việc khái
quát một cách chung nhất về kết cấu của Hồng lâu mộng mà cha chỉ ra một
cách cụ thể vấn đề kết cấu bên trong cũng nh kết cấu bên ngoài (bố cục) của tác
phẩm.
2.2. Nghiên cứu Hồng lâu mộng ở Việt Nam
Từ lâu Hồng lâu mộng đà trở thành quen thuộc với độc giả Việt Nam qua
một số bản dịch và lời giới thiệu. Tài liệu nghiên cứu nổi tiếng về Hồng lâu
mộng ở Việt Nam khá phong phú
Khi nói đến tài liệu nghiên cứu về Hồng lâu mộng cuốn đầu tiên cần nhắc
đến là Lịch sử văn học Trung Quốc do Trần Xuân Đề biên soạn (2002). Tác giả
của cuốn tài liệu này đà đề cập đến tác phẩm Hồng lâu mộng dới góc độ xà hội


7

và giai cấp luận, dựa trên cơ sở đó các tác giả đà khái quát nội dung phản ánh
của tác phẩm là: Phê phán chế độ phong kiến Trung Quốc trong thời đại Tào
Tuyết Cần đồng thời nêu lên ý nghĩa rộng lớn của tác phẩm đối với xà hội hiện
thực.
Về nghệ thuật: Trớc hết đó là sự thành công trong việc xây dựng một hệ
thống nhân vật mà trong đó các nhân vật đều rất "sống động, có máu thịt, có cá
tính". Về nghệ thuật miêu tả tác giả cho rằng: "trong Hồng lâu mộng mọi thứ
đều sinh động, có sức sống dồi dào cuộc sống đợc tái hiện trong Hồng lâu
mộng dờng nh không hề qua tay nhà văn nào gọt giũa công phu, khắc hoạ tỉ mỉ
gì cả, mà chỉ là theo dáng dấp vốn có tràn lên mặt giấy một cách tự nhiên"
[11,676]. Về kết cấu nghệ thuật cũng rất tài tình, sự kết hợp giữa nhân vật, sự

kiện, tình tiết cũng nh sự thành công của tác phẩm trong lĩnh vực nàyCuộc
sống đợc phản ánh trong Hồng lâu mộng gắn bó thành một chỉnh thể không
tách rời đợc, y nh cuộc sống trong thực tế các tình tiết, các mẩu chuyện đều đợc biến thành những bộ phận phức tạp của một chỉnh thể, chúng đan cài vào
nhau ẩn hiện trong tác phẩm" [11,677]. Về ngôn ngữ thì đạt đến trình độ điêu
luyện, tự nhiên và giàu sức biểu hiện.
Trong cuốn Văn học cổ Trung Quốc hai tác giả Nguyễn Khắc Phi và Lơng
Duy Thứ đề cập đến Hồng lâu mộng . Tác phẩm này phê phán chế độ phong
kiến Trung Quốc. Còn về nghệ thuật các nhà nghiên cứu nói đến nghệ thuật
miêu tả, kết cấu và về ngôn ngữ.
Tiếp theo là cuốn Tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc của tác giả Trần Xuân
Đề, ở đây tác giả đà đi sâu phân tích để đánh giá cái hay, cái đẹp của năm bộ
tiểu thuyết cổ điển nổi tiếng mà trong đó có Hồng lâu mộng. Tác giả nhấn
mạnh "Trong Hồng lâu mộng - Tào Tuyết Cần cho nhân vật hoạt động trong làn
sóng đấu tranh và sự xung đột của xà hội để biểu hiƯn tinh thÇn cđa hä"
[11,166].


8

Nguyễn Khắc Phi trong cuốn Thơ văn cổ Trung Hoa mảnh đất quen mà
lạ đà viết về những thủ pháp nghệ thuật đợc sử dụng trong Hồng lâu mộng.
Theo tác giả thì thủ pháp "Song tề quản hạ" (cùng tiến hành một sự miêu tả
đồng thời hoặc trần thuật song song), là thủ pháp nghệ thuật đợc sử dụng khá
phổ biến trong tác phẩm đặc biệt là trong quá trình xây dựng nhân vật.
Trong chuyên đề Tiểu thuyết cổ điển Minh Thanh dành cho cao học và
nghiên cứu sinh - Trần Lê Bảo đà nói về một số đặc điểm thi pháp của tiểu
thuyết cổ điển Minh Thanh trong đó có vấn đề kết cấu. Tác giả nhấn mạnh đến
sự khác biệt của tiểu thuyết đời Thanh. Nếu nh không gian trong tiểu thuyết đời
Minh (Tam quốc, Thuỷ hử) là không gian công cộng, không gian rộng lớn
chiến trờng thì không gian trong tiểu thuyết đời Thanh là không gian sinh hoạt

nhỏ bé, chật hẹp. Trần Lê Bảo đặc biệt chú ý đến kết cấu hình tợng, hệ thống sự
kiện cđa t¸c phÈm víi mét sè thđ ph¸p nghƯ tht mà tác giả Hồng lâu mộng đÃ
sử dụng nh: "Mạch ngầm toả vạn dặm", "các tình tiết đối xứng", "tình tiết điềm
báo", hình tợng nhân vật "chính tà kiêm phu". Và chúng tôi xem đây là nhng
định hớng qúi báu để triển khai đề tài này.
Những ý kiến bàn về kết cấu nghệ thuật trong Hồng lâu mộng của tác giả
Việt Nam tuy cha có chuyên luận độc lập về nghiên cứu kết cấu tác phẩm, đặc
biệt là nghiên cứu kết cấu tác phẩm theo tinh thần của chủ nghĩa cấu trúc nhng
đà có tính chất định hớng, gợi mở và là cơ sở để chúng tôi mạnh dạn đi sâu
nghiên cứu đề tài này.
3. Mục đích và đối tợng nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu:
3.1.1. Mô tả đợc một cách nhất quán và trọn vẹn bố cục của tiểu thuyết
Hồng lâu mộng. Xác định bố cục tác phẩm này bằng cách phân xuất các phần
của văn bản tiểu thuyết.
3.1.2. Phân tích đợc hai phơng diện kết cấu của tác phẩm:
- Phơng diện kết cấu văn bản tiểu thuyết.


9

- Phơng diện kết cấu hình tợng tác phẩm.
3.1.3. Phân tích sự chuyển hoá hai phơng diện trên làm cơ sở cắt nghĩa
hình thức kết cấu tác phẩm, lý giải t tởng quan niệm nghệ thuật của tác giả,
cũng nh cố gắng làm sáng tỏ chủ đề tiểu thuyết.
3.2. Đối tợng nghiên cứu:
- Chúng tôi tập trung nghiên cứu hai phơng diện kết cấu của tác
phẩm Hồng lâu mộng. Với mét nh·n quan xem t¸c phÈm nh mét chØnh thĨ hữu
cơ tạo dựng lên một sự tiếp nhận (đọc hiểu) cụ thể chuyển hoá thành một thế
giới hình tợng.

4. Phơng pháp nghiên cứu
Căn cứ vào đối tợng nghiên cứu đà đợc xác định và để hoàn thành mục
đích nghiên cứu chúng tôi sử dụng một hệ thống phơng pháp bao gồm cụ thể
nh sau: Phơng pháp hệ thống, phơng pháp phân tích- tổng hợp, phơng pháp so
sánh- đối chiếu, phơng pháp khảo sát- thống kê.
5. Dự kiến đóng góp của đề tài
- Thông qua luận văn này tác phẩm Hồng lâu mộng đợc khảo sát một cách
có hệ thống.
- Kết quả của luận văn có thể dùng tham khảo cho việc tiếp cận tác phẩm
Hồng lâu mộng trong học tập và giảng dạy ở nhà trờng.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận văn đợc triển khai qua
ba chơng:
Chơng 1. Kết cấu văn bản trần thuật của tác phẩm Hồng lâu mộng.
Chơng 2. Kết cấu hình tợng tác phẩm Hồng lâu mộng.
Chơng 3. Tổ chức Không - Thời gian trong tác phẩm Hồng lâu méng.


10

Chơng 1
kết cấu văn bản trần thuật của tác phẩm
Hồng Lâu Mộng
1.1. Khái quát về khái niệm kết cấu tác phẩm văn học và đặc điểm nổi
bật của tiểu thuyết ch¬ng håi Trung Quèc


11

Kết cấu là một phơng tiện cơ bản của sáng tác nghệ thuật. Khi ngời ta nói

xây dựng tác phẩm, xây dựng cốt truyện, xây dựng tích cách, xây dựng cấu tứ
(trong thơ) thì đà xem tác phẩm nh một công trình kiến trúc - công trình kiến
trúc bằng chất liệu nghệ thuật đặc biệt - chất liệu ngôn từ.
L.I.Timôphiép - trong cuốn "Nguyên lý lý luận văn học" đà ®a ra ý kiÕn :
"KÕt cÊu lµ ®iỊu kiƯn tÊt yếu của việc phân tích, phản ánh cuộc sống trong tác
phẩm nghệ thuật. Bất kể một tác phẩm nào cũng có một kết cấu nhất định dựa
trên cơ sở tính chất phức tạp của hoàn cảnh sống thực tế đợc phản ánh trong đó
và sự nhận thức những mối quan hệ những nguyên nhân và kết quả của cuộc
sống. Những nhận thức này thuộc riêng nhà văn đó và nó quyết định những
nguyên tắc kết cấu của nhà văn đó" [33,125].
Lại Nguyên Ân cho rằng "kết cấu (tác phẩm văn học) là sự sắp xếp, phân
bố các thành phần hình thức nghệ thuật - tức là cấu tạo tác phẩm tuỳ theo nội
dung và thể tài. Kết cấu gắn kết các yếu tố của hình thức và phối hợp chúng víi
t tëng... kÕt cÊu cã tÝnh néi dung ®éc lËp. Các phơng thức và thủ pháp kết cấu sẽ
cải biến và đào sâu hàm nghĩa cái đợc mô tả " [1, 169].
Các tác giả: Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi cho rằng: Kết cấu
là "toàn bộ tổ chức phức tạp và sinh động của tác phẩm. Thuật ngữ kết cấu thể
hiện mặt nội dung rộng rÃi phức tạp. Tổ chức tác phẩm không chỉ giới hạn ở sự
tiếp nối bề mặt, ở những tơng quan bên ngoài giữa các bộ phận, chơng, đoạn mà
còn bao hàm sự liªn kÕt bªn trong nghƯ tht kiÕn tróc néi dung cơ thĨ cđa t¸c
phÈm" [12,131].
Nh vËy, kÕt cÊu t¸c phÈm văn học trớc hết là toàn bộ tổ chức nghệ thuật
sinh động của tác phẩm. Nhà văn là ngời có nhiệm vụ nhào nặn vốn sống để
xây dựng thành những sinh mệnh nghệ thuật tái hiện lại những bức tranh giàu
tính khái quát và tổ chức tác phẩm. Trong quan hệ giữa kết cấu và chủ đề t tởng
của tác phẩm thì chủ đề t tởng bao giờ cũng đóng vai trò chủ đạo và chi phối kết
cấu, thông qua ý thức của nhà văn mà quy định hình thức kÕt cÊu cđa t¸c phÈm.


12


Ngợc lại kết cấu cũng có tính độc lập tơng đối. Nhiệm vụ quan trọng nhất của
kết cấu là phải tổ chức tác phẩm sao cho chủ đề thống nhất và có nghệ thuật.
Chúng tôi nhìn nhận nh sau khi khảo sát vấn đề: xem tiểu thuyết là một
hoạt động cđa nghƯ tht tù sù ng«n tõ kÕt cÊu tiĨu thuyết phải đợc tìm hiểu
trên cơ sở quan sát cả ba bình diện: Sáng tác (viết), văn bản (tác phẩm tri giác
bằng sự đọc), tiếp nhận (đọc hiểu và giải mÃ). Mong muốn sẽ xác định đợc một
mô thức lý luận rõ ràng, cần thiết cho việc phân tích kết cấu tiểu thuyết.
Bản thân thuật ngữ kết cấu đợc mợn tõ héi häa vµ kiÕn tróc. KÕt cÊu chÝnh
lµ tỉ hợp những tài liệu khác nhau trong một không gian nhất định nhằm hoàn
thành công trình hợp lý tối đa về cấu trúc, thoả mÃn đến mức cao nhất mục đích
công trình. Trên đại thể, hoàn toàn có thể nhìn nhận kết cấu tác phẩm văn học
dới góc độ nh vậy. Thực tế công việc sáng tác tác phẩm văn học chính là nhào
trộn kinh nghiệm đời sống nhân sinh trong vật liệu ngôn từ để xây dựng thành
tác phẩm cụ thể. Kết cấu một sáng tác ngôn từ chính là mô thức chỉnh thể nghệ
thuật cá biệt, cụ thể.
Phân tích kết cấu văn học, chúng ta phải "phân tích kết cấu văn bản trần
thuật và kết cấu hình tợng tác phẩm" [27,101] và cũng cần chú ý tách bạch hai
quá trình khác biệt - quá trình sáng tác (viết tác phẩm) và quá trình tiếp nhận
(đọc tác phẩm). Cả hai phơng diện cần phải đợc đón nhận lần lợt trong cả hai
quá trình.
Trong quá trình sáng tác, tác giả tổ chức tài liệu sống và kinh nghiệm nhân
sinh, bỏ đi chỗ thừa và lấy vào chỗ thiếu dung hợp thành bức tranh nghệ
thuật đợc khái quát theo những quy luật thẩm mĩ nhất định. Việc tổ chức này
chính là quá trình xây dựng kết cấu hình tợng tác phẩm. Nói cụ thể đó chính là
nghệ thuật đem lại những nội dung khác biệt về không gian, thời gian thống
nhất lại với nhau, đem các nhân tố: Tinh thần và Vật chất ; Sống động, Luân
chuyển và Tĩnh tại ; Hữu hạn và vô hạn; Chủ quan và Khách quan... kết hợp
thành hình tợng tác phẩm thống nhất. Theo ý nghÜa nµy mµ nãi, kÕt cÊu chÝnh lµ



13

sáng tác, kết cấu hình tợng sản sinh đồng thời với ý đồ nghệ thuật và đợc cụ thể
hoá theo sự tiến triển của hình tợng. Sau cùng kết cấu hình tợng sẽ đợc xác định
bằng văn bản tác phẩm thể hiện ở sắp xếp bố cục và đem nội dung hình tợng
trong thực tế phân bố thành các phiến đoạn trần thuật mà truyền thống vẫn gọi
bằng các thuật ngữ: chơng, đoạn, khổ truyện. Đây chính là quá trình kết cấu văn
bản trần thuật. Nhà văn không phải là sáng tạo xong kết cấu hình tợng tác
phẩm rồi sau mới tiến hành kết cấu văn bản trần thuật. Trong thực tế hai việc
đó là đồng thời, kết cấu phản ánh quá trình nhằm biểu đạt một chân lý nghệ
thuật trong mét cÊu tróc chØnh thĨ ng«n tõ cơ thĨ mà hiến thân cho cuộc vật lộn
với các tài liệu kinh nghiệm nhân sinh. Kết cấu đơng nhiên cũng là thể hiện
chính quá trình vận động của t duy nghệ thuật nhà văn. T tởng sinh động của
nhà văn thể hiện ở kết cấu. Chọn một phơng án kết cấu nào, chung quy là nhằm
nâng cao sức tác động của tác phẩm.
Trong quá trình hoàn tất tác phẩm và trớc lúc đợc đọc, tác phẩm tồn tại dới
dạng chuỗi ngôn từ với trờng độ nhất định mà kết cấu của nó hÃy còn cha đợc
tái phát hiện. Chỉ lúc nào văn bản tác phẩm đợc tiếp nhận, kinh qua sự đọc tác
phẩm mới đợc tổ chức và xây dựng lại bởi một hoạt động t duy đọc - tiếp nhận
có tính chất tái kết cấu đối tợng. Trong quá trình tiếp nhận tác phẩm bằng việc
đọc tồn tại hoạt động tơng hỗ giữa kết cấu văn bản trần thuật và kết cấu hình tợng. Văn bản tác phẩm thông qua sự đọc trở thành văn bản kết cấu. Kết cấu
trong thực tế dờng nh là một thuật ngữ chỉ chung những hoạt động sinh thành
đa chiều chứ không thể là một từ với hàm nghĩa cứng đờ. Đặt tác phẩm trong
quá trình sáng tác/ viết tiếp nhận/ đọcđể tìm hiểu, chúng ta mới thấy đợc
kết cấu tác phẩm chính là một quá trình, quá trình mà trong đó nó đợc "tháo dỡ"
- "lắp ghép" liên tục. Độc giả luôn ®äc t¸c phÈm víi vèn nhËn thøc c¸ biƯt, cơ
thĨ. Đọc chính là trong phạm vi tri giác kết cấu văn bản làm tái hiện, sản sinh
nên một kết cấu hình tợng tác phẩm. Đây là một quá trình luôn luôn đổi mới.
Một bạn đọc bình thờng hoàn toàn có thể kiểm chứng điều đó chỉ dựa vào kinh



14

nghiệm đọc lại một lần tác phẩm nào đó. Một mặt, chính vốn hiểu biết riêng
phát huy lúc đọc làm cho sự đổi mới ấy diễn ra không ngừng. Mặt khác, chính
trong quá trình đọc sức lý giải đối với các nhân tố văn bản tác phẩm ngày một
tăng, điều đó cũng sẽ không ngừng tác động đến nhận thức độc giả. Và thế là
độc giả lại tiến vào một vòng tuần hoàn mới của sự kết cấu hoá tác phẩm. Giờ
đây thay thế về nói kết cấu - chính là sáng tác, ta lại nói đọc - chính là kết cấu.
Cả hai hành động đó đều là để tạo dựng tác phẩm. Nh vậy kết cấu không thể là
cố định hóa trên nguyên tắc. Kết cấu tồn tại trên cơ sở một văn bản cố định nhng sinh thành và tác dụng trong quá trình tiếp nhận. Theo cách hiểu nh vậy về
kết cấu, chúng ta thấy mọi đơn vị tổ chức tác phẩm từ một ký hiệu văn tự nhỏ
nhất cho đến cả hệ thống hình tợng, tất cả đều nằm trên phạm vi kết cấu.
Phê bình, giải thích và phân tích tác phẩm về mặt kết cấu chủ yếu là xác
định kết cấu văn bản trần thuật và quan sát sinh thành kết cấu hình tợng tác
phẩm trong tiếp nhận. Việc xác định kết cấu văn bản trần thuật tiến hành đợc là
nhờ căn cứ vào việc phân tích chuỗi ngôn từ văn bản tồn tại khách quan. Nhà
nghiên cứu trên cơ sở một nhận thức chung về phong cách thể loại, sẽ đặc biệt
chú ý đến những tín hiệu thông tin có tính cách đánh dấu hình thức để tìm hiểu
kết cấu văn bản tờng thuật. Những thông tin có tính chất đánh dấu nh ở trong
chuỗi ngôn từ trần thuật văn bản Hồng lâu mộng là: Các yếu tố câu đối đề mục,
đối ngẫu kết thóc håi, chun håi, thËm chÝ mét sè tõ, cơm từ nào đó... kết cấu
văn bản trần thuật này làm hình thành kết cấu hình tợng bao gồm trong đó hệ
thống hình tợng nhân vật, trật tự chuỗi sự kiện, hệ thống tình tiết trong một
khung không gian, thời gian nhất định... chúng nhập thành một chỉnh thể trong
ký ức ngời tiếp nhận nhờ vào việc đọc - hiểu tác phẩm.
Quan điểm thông thờng về kết cấu tác phẩm văn học thờng lẫn lộn hai bình
diện kết cấu. Chúng tôi cho rằng trong quá trình đọc hiểu đặc thù nghiên cứu
phê bình nhận thức về kết cấu tự sự phải lu tâm đến các điểm sau:



15

1) Cái gọi là kết cấu của nhà văn thờng lại đợc phán đoán dựa trên văn bản
kết cấu hoá mà nhà phê bình xác định cho mình sau khi đọc tác phẩm. Đọc tức
là chuyển một văn bản văn tự (nh ta thấy đại đa số tác phẩm tự sự ngày nay đều
in thành sách) thành một truyện trong tởng tợng, câu chuyện trong tởng tợng
này chính là cái mà chúng tôi gọi là văn bản kết cấu hoá vừa nói ở trên.
2) Nhà phê bình nhận diện và mô tả kết cấu văn bản trần thuật rồi phân
tích kết cấu hình tợng tác phẩm. Mục đích cao nhất là xác định một cái khung
nhận thức phù hợp với thực tế tác phẩm. Sự hình thành kết cấu hình tợng từ văn
bản diễn ra nhờ vào sự đọc và tiếp nhận của ngời đọc trong quá trình này khó
mà nói đến sự cố định. Thế nhng cái mà nhà phê bình theo đuổi chính là một
cách đọc, tiến dần tới cái dờng nh là cách đọc chung đối với tác phẩm cụ thể.
Nhà phê bình càng đặc biệt chú trọng quan sát văn bản, để tâm theo dõi và tìm
kiếm thông tin có tính cách đánh dấu hình thức trong văn bản tự sự. Nhà phê
bình càng xuất phát từ một lập trờng tiếp nhận đợc ý thức cao độ, chú ý đặc biệt
đến mối quan hệ chuyển hoá không ngừng giữa kết cấu văn bản trần thuật và
kết cấu hình tợng.
Nhìn theo quan điểm chủ nghĩa cấu trúc, kết cấu văn bản trần thuật và kết
cấu hình tợng tác phẩm đều thuộc kết cấu bề nổi, tức kết cấu của tổ chức hệ
thống lời nói sản sinh trên cơ sở của một cấu trúc tầng sâu ngôn ngữ cơ thĨ. Chđ
nghÜa cÊu tróc cã tham väng ph¸t hiƯn các quan hệ hữu hạn trong cấu trúc tầng
sâu đó, hy vọng dùng một số quan hệ ngôn ngữ để giải thích hiện tợng văn học
cụ thể. Không thể phủ nhận đợc những cống hiến của các nhà cấu trúc luận
trong việc phân tích kết cấu tầng sâu văn học (trừ truyện dân gian, tác phẩm tự
sự văn học viết kinh điển đến thơ trữ tình nói chung) thế nhng trong quá trình
tìm hiểu những nhân tố cấu trúc phổ quát, chủ nghĩa cấu trúc đà xem nhẹ biểu
hiện sinh động và vẻ đẹp cá biệt của kết cấu tác phÈm cơ thĨ. KÕt cÊu t¸c phÈm

cơ thĨ cã thĨ phản ánh những quan hệ nằm sâu trong lòng một cÊu tróc ng«n


16

ngữ, thậm chí là cấu trúc của cả một nền văn hóa, thế nhng kết cấu cụ thể đó
bao giờ cũng là một vẻ đẹp cá biệt không lặp lại t duy nghệ thuật.
Mặt khác với t cách là một phơng diện của hình tợng nghệ thuật, kết cấu
cũng không thể chỉ là hệ thống của các kỹ xảo và thủ pháp đợc tổng kết. Kết
cấu tác phẩm phục vụ cho nhiƯm vơ nghƯ tht cơ thĨ, nã kh«ng thĨ thoát khỏi
sự biểu đạt nội dung nhất định. Kết cấu tác phẩm là tổ chức ngôn ngữ thể hiện
một vẻ đẹp cá biệt bởi vì nó không chỉ tổ chức theo khuôn mẫu một truyền
thống thể tài. Chủ yếu nó là sản phẩm trực tiếp của sự phát hiện và tái tạo mô
hình thế giới bên trong bằng nghệ thuật. Giá trị thực sự của sự tồn tại kết cấu tác
phẩm cụ thể là ở chỗ kết cấu đó khác biệt với kết cấu của các tác phẩm khác.
Ngôn ngữ häc cÊu tróc ln ®· ®Ị xt sù ®èi lËp giữa ngôn ngữ và lời nói,
đó chính là sự đối lập giữa bình diện ngữ đoạn và bình diện ngữ nghĩa. Bình
diện ngữ đoạn chỉ quan hệ kết hợp tức là quan hệ giữa các yếu tố đặt trên trục
tuyến tính có tính chất hoán dụ. Còn bình diện ngữ nghĩa chỉ quan hệ liên tởng
tức là quan hệ giữa tất cả các yếu tố hiện diện trong văn bản với các yếu tố tơng
đồng hoặc tơng phản tồn tại trong văn cảnh - mỗi quan hệ có tính chất Èn dơ.
XÐt tõ gãc ®é ®ã, ta thÊy kÕt cÊu văn bản trần thuật của tác phẩm văn học
hiện diện trên bình diện ngữ đoạn, còn kết cấu hình tợng tác phẩm thì tồn tại
trên bình diện ngữ nghĩa. Vì vậy kết cấu văn bản trần thuật mang đặc trng của
quan hệ ngữ đoạn, nó là một chuỗi tổ hợp các ký hiệu mặc định với một độ dài
tuyến tính cụ thể, không đảo lộn trật tự trên dới, tồn tại một cách biểu hiện.
Phân tích kết cấu trần thuật chính là thao tác trên trục ngữ đoạn, mà việc đầu
tiên là mô tả đợc trên tổng thể bố cục văn bản tác phẩm Phân tích kết cấu hình
tợng tác phẩm lại diễn ra trên bình diện ngữ nghĩa. Kết cấu hình tợng có những
đặc trng mang quan hệ ngữ nghĩa, nó là một tập hợp ký hiệu tồn tại biểu hiện

nhờ liên tởng, nó phụ thuộc vào ngữ cảnh, ngữ thức của tiếp nhận đọc. Nói một
cách đơn giản, mỗi một tác phẩm chính là sự kết hợp giữa sáng tác và tiếp nhận,
kết hợp giữa viết và đọc, giữa chữ và nghĩa, giữa từ và vần.


17

Sự kết hợp đó ảnh xạ vào trong hai phía bên này cũng nh bên kia. Trong
quá trình sáng tác sự hình thành kết cấu trần thuật diễn ra trên trục ngữ đoạn
nhà văn sáng tác chính là kể/ viết hoặc nói, biến một câu chuyện thành truyện.
Công việc kết cấu hình tợng chính là xâm nhập đề tài, sắp xÕp, tỉ chøc kiÕn lËp
hƯ thèng nh©n vËt sù kiƯn. Cả kết cấu hình tợng lẫn kết cấu trần thuật đều đợc
tiến hành đồng thời không thể nào phân biệt đợc với nhau. Tác giả Hồng lâu
mộng chẳng hạn, xuất phát từ một góc nhìn riêng, một quan niệm nghệ thuật
riêng, tự khoanh lấy cho mình một vùng riêng trong khoảng bao la của hiện
thực nhân sinh. Ông tinh lọc, lựa chọn cho tác phẩm các tài liệu, chất liệu đời
sống cần thiết. Trên thực tế, tác giả đang tiến hành phân đoạn, khoanh vùng
các phơng tiện đời sống, tái cấu trúc chúng bằng ký hiệu ngôn từ, văn tự cụ thể,
kế đó rất có thể ông lại tiếp tục sắp xếp các nội dung, các mảng hình tợng theo
một trật tự nhất định, móc nối các câu chuyện, cơ cấu tất cả vào một khung văn
bản có các hồi nối kết với nhau. Hồng lâu mộng là một mô hình hữu hạn đợc
tạo nên từ một thế giới vô hạn. Trong mô hình đó, hồi đầu cũng nh hồi kết thúc,
xét về mặt công năng mô hình hoá văn bản là tơng tự nh khung của bức tranh
hay đờng viền sân khấu diễn kịch. Và nh thế chính chúng ta đà bớc vào quá
trình tiếp nhận đọc - lý giải tác phẩm rồi.
Trong quá trình tiếp nhận đọc - giải thích tác phẩm, sự phân tích của chúng
ta đối với kết cấu văn bản trần thuật cũng không biệt lập với nhau, chúng là
đồng thời tơng hỗ tơng thành. Về mối quan hệ hỗ trợ giữa hai phơng diện kết
cấu trong tiếp nhận đọc chúng tôi đà phân tích qua. Nếu nh tiến thêm một bớc
suy nghĩ đến sự phân biệt hai bình diện ngữ nghĩa và ngữ đoạn thì chúng ta có

thể nói thêm rằng - hành vi đọc và tiếp nhận tác phẩm khiến cho chuỗi ngôn từ
trần thuật tuyến tính chuyển hoá thành một bức tranh, nói đúng hơn là một cuộn
phim, một thế giới hình tợng. Kết cấu trần thuật mặt chữ trên giấy thông qua sự
đọc chuyển hoá thành kết cấu lập thể trong ký ức cá nhân. Chúng tôi cho rằng
mọi hành động phê bình - đọc tác phẩm tất thể đều đề cập đến nhận thức, phân


18

tích kết cấu tác phẩm. Mọi vấn đề của phê bình văn học hiện đại hay truyền
thống. Từ thuyết thi häc trun thèng ®Õn viƯc sư dơng ®iĨn tÝch, ®iĨn cố, từ
cách đọc văn bản tác phẩm cụ thể trong thế tơng giao với văn bản khác (đồng
đại hoặc lịch đại)... tất thảy đều tự giác hay bản năng bị cuốn hút vào trong quá
trình nhận thức và phân tích kết cấu. Thực ra sử dụng điển cố, mô típ hoặc cách
đọc liên văn bản đà đợc giải thích triệt để trong lý luận liên văn bản của
M.Bakhtin. V.Shkhlovsky từng nói rằng một loạt tác phẩm văn học khác cũng
nh năng lực liên tởng của độc giả mỗi thời đại tạo cho chúng ta một bối cảnh
văn hoá để đọc hiểu một tác phẩm văn học cụ thể.
Ngoài ra khi nói đến kết cấu hình tợng tác phẩm chúng ta cần phải đặc biệt
chú ý đến tính đặc thù của kết cấu văn học. Có thể nói, bất cứ một nghệ thuật
nào kiến lập trên cơ sở tổ hợp ký hiệu đều là sản phẩm của các quan hệ sự kết
hợp và liên tởng. Nhng văn học khác với các nghệ thuật khác ở chỗ là nó không
phải là hệ thống tợng trng cơ sở mà là một hệ thống tợng trng thứ cấp. Trên một
ý nghĩa nhất định mà nói, nghệ thuật văn học không giống với nghệ thuật trùc
tiÕp sư dơng ký hiƯu trùc quan, kh¶ c¶m nh hội hoạ, điêu khắc... Văn học sử
dụng ngôn từ phổ thông hay văn xuôi thực dụng. Trong văn học đặc biệt là
trong tiểu thuyết, không một phát ngôn nào, câu nói nào có thể đợc hiểu một
cách trực tiếp nh là một câu nói sinh hoạt thực tế. Điều này khiến cho tác phẩm
văn học khác với các tác phẩm nghệ thuật khác về bản chất và đặc trng kết cấu.
Việc kết hợp chuyển hoá giữa văn bản và hình tợng đà nói ở trên suy cho cùng

cũng đợc thực hiện thông qua sự đọc (phê bình nghiên cứu trên cũng là một sự
đặc thù).
Một số đặc điểm nổi bật cđa tiĨu tiĨu thut ch¬ng håi Trung Qc:
TiĨu thut cỉ điển Trung Quốc là một thể thuộc loại tác phẩm tự sự dài
hơi của Trung Quốc, thịnh hành vào thời Minh - Thanh. Minh - Thanh đợc xem
là thời đại hoµng kim cđa tiĨu thut "sù phån vinh cđa tiĨu thuyết thời đại này
bắt nguồn sâu xa từ quá trình phát triển có đến hàng chục thế kỷ của thể lo¹i,


19

nhng mảnh đất để nó đơm hoa kết trái là ®êi sèng x· héi hai triỊu ®¹i Minh
Thanh" [6,6] Cho nên, những bộ tiểu thuyết ra đời trong thời kỳ này có tên
chung là tiểu thuyết Minh- Thanh. Gọi tiểu thuyết Minh - Thanh là tiểu thuyết
chơng hồi vì loại tiểu thuyết đợc chia thành nhiều hồi nh: Tam quốc diƠn nghÜa
gåm 120 håi; Hång l©u méng gåm 120 håi ; ngoài ra còn phải kể đến: Thuỷ hử
120 hồi, Tây du ký 100 hồi. Tiểu thuyết chơng hồi Trung Quốc đà đạt đến trình
độ hoàn chỉnh, mẫu mực bởi vậy nó còn đợc gọi là tiểu thuyết cổ điển. Cái gọi
là tiểu thuyết cổ điển khẳng định thắng lợi của xu hớng dân chủ hoá nền văn
học, cũng khẳng định sự trỗi dậy mạnh mẽ dòng văn học bình dân. Tóm lại ba
tên gọi tiểu thuyết chơng hồi Trung Quốc, tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc và
tiểu thuyết Minh Thanh đều là một, không hề có sự khu biệt về bản chất.
Tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc có một dòng mạch phát triển riêng, có cội
nguồn hình thành và phát triển trong một thời gian khá dài. Thuật ngữ "tiĨu
thut" xt hiƯn ë Trung Qc tõ thÕ kû III trớc công nguyên. Nhng những tác
phẩm văn xuôi của thời đó không phải là tiểu thuyết theo đúng nghĩa của nó.
Tuy nhiên nó cũng góp phần quan trọng cho sự phát triển của tiểu thuyết Trung
Quốc về sau. Qua nghiên cøu ta thÊy nÕu tÝnh tõ Ngơy TÊn cho ®Õn Minh
Thanh thì tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc có bề dày khoảng 1800 năm. Tiểu
thuyết cổ điển Trung Quốc có một đời sống lịch sử riêng của mình và đạt đến

những thành tựu rực rỡ là những bộ tiểu thuyết chơng hồi thời kỳ Minh - Thanh
tiêu biểu là: Tam quốc diễn nghĩa (La Quán Trung) và Hồng lâu mộng (Tào
Tuyết Cần). Và ngay từ đầu tiểu thuyết Trung Quốc đà nhấn mạnh, chú trọng
vấn đề xây dựng nhân vật. Sù ph¸t triĨn cđa tiĨu thut Trung Qc cã thĨ nói
cũng chính là lịch sử của nghệ thuật xây dựng nhân vật bằng ngôn từ tự sự.
Thời kỳ Minh - Thanh có khoảng hơn ba trăm bộ tiểu thuyết. Nhìn một
cách khái quát, tiểu thuyết Minh - Thanh là thành tựu nổi bật của văn học cổ
điển Trung Quốc. Nó là sản phẩm của văn hoá Trung đại, nó là bớc phát triển
trung gian giữa chuyện kể sử thi và tiểu thuyết hiện đại. Kết cấu của tiểu thuyết


20

cổ điển là kết cấu theo trình tự thời gian, việc trớc nói trớc, việc sau nói sau, đôi
khi tạm ngừng kể việc này để kể sang một việc khác, để sau đó lại kế tiếp bằng
cách lại nói. Tính cách của nhân vật cũng thờng đợc hiện dần qua ngôn ngữ
và hành động của chính nhân vật, tác giả ít xen vào những đoạn giới thiệu, ít
chú trọng miêu tả tâm lý. Nhân vật hoạt động trong một địa bàn rộng lớn, trong
sự xung đột sâu sắc giữa các thế lực đối lập. Trong cách mô tả, lý giải thờng sử
dụng phổ biến các công thức và ớc lệ thờng thấy trong các tác phẩm cổ trung
đại. Cuối mỗi hồi có câu: "Hạ hồi phân giải", kết thúc vào những mâu thuẫn
phát triển đến cao trào. Mở đầu là kể khái quát từ những chuyện của thời xa xôi
rồi mới đi vào triều đại liên quan đến cốt truyện. Dẫn truyện bằng mấy câu thơ,
kết thúc bằng một vài bài vịnh.
Tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc thuộc thể loại tự sự văn xuôi nói chung, có
tác giả xác định (nghĩa là nó đợc hình thành bởi một ngòi bút, một văn phong
nhất quán, chịu sự phối hợp của một thế giới quan, nhân sinh quan nhất định, đợc thẩm thấu và gia công bởi trái tim, khối óc của một ngời nghệ sỹ), có cốt
truyện hoàn chỉnh với năm thành phần tự sự thờng thấy, đợc thể hiện bằng một
thứ ngôn ngữ kết hợp nhuần nhuyễn khẩu ngữ với văn viết.
Khi xác định đặc điểm thể loại của tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc cũng

cần phải phân biệt sự khác nhau giữa tiểu thuyết Minh và tiểu thuyết Thanh.
Tiểu thuyết Minh gần với văn học trung cổ đại, phần lớn là những sáng tác dân
gian đợc nhà văn học viết lại, có căn cứ sử sách và nhìn chung dÊu Ên chun kĨ
rÊt râ. TiĨu thut Thanh gÇn víi tiểu thuyết hiện đại hơn, phần lớn là sáng tác
cá nhân, ít bị sử sách ràng buộc. Có thể thấy tõ tiĨu thut Minh sang tiĨu
thut Thanh ®· cã mét bớc phát triển tiến bộ. Vì vậy mà nhà Hán học Xô Viết
V.I Semanôp gọi tiểu thuyết Minh là "tiểu thuyết anh hùng", tiểu thuyết Thanh
là "tiểu thuyết sinh hoạt".
1.2. Kết cấu văn bản và t tởng kết cấu của Tào Tuyết Cần trong Hồng
lâu mộng


21

"Kết cấu văn bản nghệ thuật của tác phẩm văn học là sự phân bố thế giới
hình tợng qua một văn bản ngôn từ nhằm đạt đợc hiệu quả t tởng thẩm mỹ. Văn
bản nào cũng có mở đầu và kết thúc đó là một trật tự cố định không thể thay
đổi" [1,7] chính sự kết hợp giữa hình tợng và văn bản đà làm cho kết cấu tác
phẩm có thêm những bình diện đặc thù. Để nghiên cứu kết cấu tác phẩm, ta
phải xem xét trên nhiều bình diện. Trớc tiên chúng ta phải nắm đợc bố cục tổng
thể, hình dung đợc hệ thống các thành phần trần thuật, cách tổ chức điểm nhìn
trần thuật của nhà tiểu thuyết. Trên thực tế kết cấu rất đa dạng. Khi nghiên cứu
phải kết hợp các đặc điểm kết cấu thể loại và phong cách nhà văn. Nhất là phải
xem xét theo chức năng biểu hiện nội dung của tác phẩm. Chỉ có vậy mới phát
hiện đợc nội dung sâu sắc của tác phẩm và nắm bắt đợc những hình thức kết cấu
có giá trị.
Khi nói tới kết cấu văn bản trớc hết phải đề cập đến bố cục và các thành
phần của trần thuật. Trần thuật chính là sự trình bày liên tục bằng lời văn các
chi tiết, sự kiện, tình tiết, quan hệ, biến đổi và xung đột nhân vật một cách cụ
thể, hấp dẫn theo một cách nhìn, cách cảm nhất định. Trần thuật hay cũng chính

là sự thể hiện hình tợng văn học, truyền đạt nó tới ngời thởng thức. Bố cục trần
thuật là sự sắp xếp, tổ chức, sự tơng ứng giữa các phơng diện khác nhau của
hình tợng và thành phần khác nhau của văn bản.
Văn bản tác phẩm tiểu thuyết là một chuỗi ngôn từ gồm nhiều chơng, tiết,
đoạn, hàng, câu. Mỗi đoạn nh vậy tơng ứng với một nội dung nhất định, vật chất
hoá những phần nhất định của thế giới hình tợng.
Tuy thành phần của trần thuật trớc hết là ứng với thành phần cốt truyện,
nhng chúng không phải là khớp nhau một cách máy móc. Nó bao gồm các sự
kiện, biến đổi, các đoạn văn ứng với các sự kiện đó.
Nhiệm vụ hàng đầu của bố cục là phải giải quyết mối quan hệ giữa thời
gian cốt truyện và thời gian trần thuật theo một trật tự sau trớc. Tuy nhiên trong
tác phẩm văn học điểm mở đầu và điểm kết thúc của trần thuật không phải bao


22

giờ cũng trùng hợp với điểm mở đầu và điểm kết thúc của cốt truyện. Việc xác
định đúng điểm mở đầu và điểm kết thúc của trần thuật sẽ có ý nghĩa lớn để làm
nổi bật chủ đề.
Ngoài tơng quan đầu- cuối, sự luân phiên của các thành phần còn có tơng
quan các tuyến của cốt truyện, mạch lạc của các chơng cũng đều là những vấn
đề khác nhau của bố cục trần thuật trong kết cấu văn bản.
Kết cấu văn bản còn đợc xem xét ở việc tổ chức điểm nhìn trần thuật. Ngời
nghệ sỹ không thể miêu tả, trần thuật các sự kiện đời sống nếu không xác định
cho mình một điểm nhìn sự vật, hiện tợng ở góc độ xa hay gần, từ bên trong hay
bên ngoài... vì thế điểm nhìn trần thuật là một trong những yếu tố hàng đầu của
sáng tạo nghệ thuật. Trong sáng tác, hai loại điểm nhìn (tác giả và nhân vật)
nhiều khi không tách rời nhau mà phối hợp luân phiên nhau trong một hệ thống
trần thuật phức tạp. ở phơng diện điểm nhìn tâm lý, chúng ta có thể phân biệt
điểm nhìn bên trong và điểm nhìn bên ngoài. Hệ thống điểm nhìn trần thuật

thức chất là tổ chức cách tiếp cận hình tợng cho ngời đọc. Nó quy định tính
chất, t tởng cảm xúc và quan hệ thẩm mỹ của hình tợng. Điểm nhìn trần thuật
cơ bản nhất, quán xuyến tất cả trong tác phẩm tự sự Hồng lâu mộng là điểm
nhìn từ quan niệm của hai vị S - Đạo.
T tởng kết cấu của Tào Tuyết Cần trong Hồng lâu mộng
Dới những ảnh hởng của t duy nghệ thuật Phơng Đông, Tào Tuyết Cần khi
viết Hồng lâu mộng đà dựa trên nguyên tắc lấy một câu chuyện kỳ ảo, kỳ lạ để
xây dựng nên tác phẩm. Vì thế cho nên cái lạ của Hồng lâu mộng là cái lạ đời
thờng nhuốm màu sắc tôn giáo luân hồi. Kỳ lạ, kỳ ảo là yếu tố mang đậm tính
dân tộc trong nghệ thuật, trong văn học nói chung và trong thể loại tiểu thuyết
nói riêng. Có thể nói rằng yếu tố kỳ lạ, kỳ ảo nhuốm màu sắc tôn giáo trong
Hồng lâu mộng là quan niệm nghệ thuật và cũng là phơng tiện nghệ thuật. Vậy
xét về góc độ kết cấu thì yếu tố kỳ lạ mang t tởng nghệ thuật và quan niệm nghệ
thuật đó đợc hiểu nh thế nµo?


23

HiĨu theo mét c¸ch chung nhÊt: Quan niƯm, t tëng nghệ thuật là cách nhìn,
cách đánh giá về con ngời và cuộc sống của nhà văn thông qua hình tợng nhân
vật, thông qua hệ thống tín hiệu nghệ thuật... T tởng nghệ thuật của nhà văn là
cả bầu tâm huyết với cuộc sống con ngời, là lý tởng thấm nhuần tình cảm thẩm
mỹ, là nhận thức đầy nhiệt huyết, nói nh Krapchenko: "t tởng nghệ thuật gắn
liền với cách nhìn cuộc sống bằng hình tợng với những biểu tợng về tÝnh chÊt
cđa con ngêi, vỊ nh÷ng mèi quan hƯ gi÷a họ. Và t tởng đó bắt nguồn từ những
hiện tợng của hiện thực, sau đó trở thành kim chỉ nam cho mọi sự tìm tòi sáng
tạo của nhà văn để xây dựng tác phẩm" [18,96]. Nh vậy rõ ràng rằng sự nghiệp
sáng tác của nhà văn chịu ảnh hởng từ t tëng nghÖ thuËt. T tëng nghÖ thuËt,
quan niÖm nghÖ thuật của Tào Tuyết Cần đợc thể hiện nh thế nào qua tiểu
thuyết Hồng lâu mộng? Và quan niệm đó đợc hình thành trên cơ sở nào?

Có thể nói t tởng nghệ thuật của Tào Tuyết Cần chịu ảnh hởng của ba yếu
tố: T duy nghệ thuật phơng Đông, hoàn cảnh xà hội và hoàn cảnh gia đình.
Tào Tuyết Cần trớc hết thuộc về thời đại ông đang sống, trong ông có
những cảm nhận về cuộc sống nh bao ngời Trung Quốc đơng thời. Nhng hơn ai
hết Tào Tuyết Cần còn có nhiều điều khiến ông có thể phát biểu ra bằng nghệ
thuật quan niệm về cuộc đời h ảo một cách đầy đủ và thuyết phục. Những tài
liệu ít ỏi về thân thế Tào Tuyết Cần cho thấy ông xuất thân trong một gia đình
quý tộc phong kiến, song sự hng thịnh của gia tộc chỉ tồn tại đến năm ông mời
ba tuổi. Trải qua nhiều cơn gia biến anh em họ Tào bị hạ xuống mức thấp nhất
trong xà hội. Cảnh túng quẫn bất đắc chí của Tào Tuyết Cần còn đợc ghi lại cho
đến những năm cuối đời. Cái chết của ông cũng rất thơng cảm... ông để lại ngời
vợ nghèo và tám mơi hồi Thạch đầu ký còn dang dở. Có thể nói tiểu sử Tào
Tuyết Cần đà đợc phản ánh trong Hồng lâu mộng một cách gián tiếp, phức tạp
và tinh tế. Nhiều nghiên cứu đà khẳng định rằng nếu bản thân không phải sinh
ra từ "Bách niên vọng tộc" thì chắc hẳn Tào Tuyết Cần không thể có đợc những
trang viết tinh tế đến nh vËy vỊ cc sèng xa hoa trong phđ Gi¶, tõ viƯc kh¸i


24

quát phong khí chung đến việc đi sâu vào những chi tiết nhỏ nhặt nhất, càng
không thể có những trình bày uyên thâm đến mức tạo nên một "Bách khoa toàn
th" về văn hoá truyền thống Trung Quốc trong tác phẩm. Điều này mỗi độc giả
đều nhận thấy khi so sánh tám mơi hồi đầu của tác phẩm do Tào Tuyết Cần viết
và bốn mơi hồi sau do Cao Ngạc viết - dù về kết cấu chung Cao Ngạc đợc đánh
giá là tỏ ra rất trung thành với ý đồ nghệ thuật ban đầu của Tào Tuyết Cần. Tất
nhiên điều quan trọng ở đây không chỉ là những trải nghiệm thực tế của Tào
Tuyết Cần đợc diễn tả một cách thức nào trên trang giấy mà còn là những chân
lý đợc tác giả rút ra từ những trải nghiệm đó. Và đây mới chính là nơi thể hiện
rõ nét nhất quan niệm riêng của tác giả, thứ quan niệm vừa mang tÝnh kinh

nghiƯm nh©n sinh, võa mang tÝnh triÕt lý, cũng là thứ quan niệm độc đáo không
thể bị trùng lặp bởi một tác giả nào, giống nh Hồng lâu mộng không thể bị
nhầm lẫn với bất cứ một tiểu thuyết nào.
Tiểu thuyết duy nhất của Tào Tuyết Cần để lại cho đời là tập Thạch đầu ký
với tám mơi hồi còn dang dở. Có thể khẳng định rằng Tào Tuyết Cần sáng tác
trớc hết là để giải toả lòng mình. Điều này hoàn toàn phù hợp với những tâm sự
về quá trình sáng tác: "Mời năm đọc bộ sách dới hiên Điện Hồng, thêm bớt năm
lần" [16,22]. Cũng nh câu thơ đề từ của tác giả trong tiểu thuyết cũng thể hiện
trực tiếp vấn đề đó:
Đầy trang những chuyện hoang đờng
Tràn trề nớc mắt bao dờng chua cay
Thậm chí cã ý kiÕn cho r»ng : "Cã lÏ trong lÞch sử Trung Quốc ngoại trừ T
Mà Thiên viết Sử ký, thì không còn ai giống Tào Tuyết Cần đà dốc hết tình sâu
xa vào việc trớc tác" [15,64]. Điều này có lý do riêng là khí chất con ngời Tào
Tuyết Cần thông minh, nhạy cảm. Những tơng truyền còn lại cho biết ngay cả
khi rơi vào hoàn cảnh túng quẫn Tào Tuyết Cần vẫn thờng uống rợu giải sầu và
nhìn bän ngêi dung tơc b»ng con m¾t khinh bØ. Trong xà hội có nhiều thăng
trầm, không ít gia tộc suy vong không ít những con ngời tài hoa mệnh bạc nhng


25

để lại cho đời thì chỉ có duy nhất một bộ Hồng lâu mộng mà thôi. Có thể nói
chính bản tính vừa thâm trầm, vừa nhạy cảm trong con ngời Tào Tuyết Cần đÃ
giúp ông khi đứng giữa những dòng xoáy thăng trầm, vinh nhục dễ dàng thấu đợc cái thực để đi sâu vào chiều mộng của cuộc sống. Đúng nh Lu Hiệp đÃ
từng nói: "Ngời ta do chỗ tình cảm và bản tính đào luyện, do giáo dục và ảnh hởng bên ngoài tích luỹ lại mà lời văn và sáng tác của mỗi ngời mỗi khác "
[13,25] .
Tào Tuyết Cần sáng tác Hồng lâu mộng bằng tâm huyết của cả cuộc đời
mình, qua Hồng lâu mộng ông đà gửi gắm cách nhìn, quan niệm của mình về
con ngời. Quan niệm của Tào Tuyết Cần về cuộc đời, về con ngời ảnh hởng đặc

biệt của quy luật âm dơng, sự chuyển đổi của quy luật âm dơng và Phật giáo.
Chính quan niệm đó đà chi phối t tởng kết cấu của tác phẩm mà t tởng kết cấu
chính là lấy hai mảnh hợp thành: Thái - Bỉ; Hng - Suy; Vinh - Nhục... Tào
Tuyết Cần đà sắp xếp hƯ thèng nh©n vËt, tỉ chøc chi tiÕt, sù kiƯn ... theo kiĨu
kÕt cÊu ®èi xøng - phi ®èi xøng ®Ĩ thĨ hiƯn ý ®å nghƯ tht cđa m×nh theo t tởng chủ đề của tác phẩm.
Tiểu thuyết chơng hồi Trung Quốc vốn bao hàm nhiều sự kiện, tình tiết.
Đây thậm chí còn đợc coi là một tiêu chí đánh giá tài năng của tác giả, sự kiện
lớn nhỏ càng đa dạng, tình tiết càng nhiều thì tài xử lý nh tạo hoá của ngời viết
càng có cơ hội bộc lộ. Kim Thánh Thán, một nhà phê bình văn học cổ điển
Trung Quốc đà từng so sánh ngời viết tiểu thuyết với thợ may, so sánh việc kết
kết cấu tác phẩm nh ngời ta sắp xếp những hạt ngọc to nhỏ vào mâm ngọc là vì
vậy.
1.3. Hồng lâu mộng kết cấu theo lối liên kết các hồi theo một trật tự
xác định
Hồng lâu mộng toàn sách bao gồm một trăm hai mơi hồi, đợc hợp thành
một bố cục chỉnh thể có thể chia thành : Phần đầu, phần chính văn và phần kết.
Bố cục này đem lại sự hoàn chỉnh cđa c©u chun Hång l©u méng. C©u chun


×