ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
Đề tài:
Bi kịch tình yêu trong
Tiếc thương những ngày đã mất
GVHD: TS. Trần Lê Hoa Tranh
HVTH: Đặng Ngọc Ngận
TP. Hồ Chí Minh, ngày 02 tháng 03 năm 2014
Bi kịch tình yêu của Tử Quân trong “Tiếc thương những ngày
đã mất” …
Trong nghiên cứu của mình, Phadeep đã
nhận định rằng “Lỗ Tấn là nhà văn Trung Quốc
trăm phần trăm. Ơng đã cống hiến cho nhân loại
những hình thức không thể bắt chước được” …
“Lỗ Tấn là nhà văn nước ngoài duy nhất mà
sáng tác đã làm cho các nhà văn Nga chúng tôi
cảm thấy thân thiết đến mức như thế”.1
Ở Việt Nam, theo lời nhà nghiên cứu Đặng
Thai Mai – người đầu tiên nghiên cứu về Lỗ Tấn
thì “ Lỗ Tấn vào Việt Nam tương đối chậm”2.
Lần gặp gỡ giữa Lỗ Tấn và Việt Nam là vào năm
1943 trên tờ Thanh Nghị với thiên “AQ chính truyện” do Đặng Thai Mai dịch. Rồi
tiếp theo sau đó là những bài dịch trong “Cỏ Dại”, đến năm 1944, sách của Lỗ Tấn bắt
đầu được xuất bản.
Cuộc đời Lỗ Tấn trải qua hai giai đoạn lịch sử, thời kỳ lịch sử cận đại (18401911) và lịch sử hiện đại (1919-1949). Ông sinh ra giữa thời kỳ mà người ta gọi là tám
mươi năm biến động, đau khổ và sỉ nhục của nhân dân Trung Quốc, đó chính là giai
đoạn của những cuộc chiến tranh, bắt đầu từ chiến tranh thuốc phiện rồi các nước đế
quốc tấn công Trung Hoa, là những năm nhà Thanh đê hèn cắt đất, bồi thường, ký
điều ước thua trận, cũng là những năm oanh liệt của hai cuộc khởi nghĩa bấy giờ là
1 Bàn về Lỗ Tấn – Nhân dân Nhật Báo 19/10/1949 – Phadeep.
2 Lỗ Tấn- thân thế - sự nghiệp – Đặng Thai Mai.
Trang 2
Thái Bình Thiên Quốc (1850-1856) do Hồng Tú Tồn và Nghĩa Hịa Đồn do Chu
Hồng Đăng lãnh đạo; là phong trào sôi nổi của hai cuộc vận động theo khuynh hướng
tư sản: Bách Nhật Duy Tân (chính biến Mậu Tuất 1989)- cuộc vận động cải lương
theo gương Duy Tân Nhật Bản do Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu khởi xướng, và
đặc biệt là cuộc cách mạng Tân Hợi (1911) do Tơn Trung Sơn chủ xướng đã có ảnh
hưởng vơ cùng to lớn đến nhà văn Lỗ Tấn.
Lỗ Tấn người họ Chu, có tên Thụ Nhân. Ơng sinh ngày 25 tháng 9 năm 1881
tại thành Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang trong một gia đình quan lại phong kiến sa sút.
Thân sinh Lỗ Tấn là Chu Bá Nghi, cha Lỗ Tấn từng đỗ tú tài nhưng khi Lỗ Tấn vừa
lớn lên thì ơng lâm bệnh nặng, về sau khơng thuốc chạy chữa nên mất sớm. Mẹ Lỗ
Tấn là Lỗ Thụy – một người đàn bà vùng nông thôn hiền lành, nhân hậu, dễ tiếp thu
tư tưởng mới và giàu nghị lực. Ông thương mẹ, lấy họ mẹ làm bút danh. Do từ bé đã
sống bên cạnh những người nông dân lam lũ, đoạn đời ấu thơ của mình, Lỗ Tấn gắn
bó với hai người phụ nữ là bà nội – người đã rót vào tâm hồn của nhà văn những câu
chuyện dân gian đặc sắc và mẹ ơng – người có ảnh hưởng to lớn trong văn nghiệp của
nhà văn.
Sinh ra vào giữa giai đoạn cận đại, nhưng quá trình hình thành và phát triển tư
tưởng của Lỗ Tấn lại vào thời kỳ hiện đại được đánh dấu bằng cuộc vận động Ngũ Tứ
(1919-1923), đó là cuộc vận động địi độc lập và dân chủ, chống đế quốc thực dân
phong kiến mạnh mẽ trên hai mặt trận chính trị và văn hóa. Thời cận đại, các cuộc vận
động và cải cách thường chỉ quanh quẩn ở nơi cung đình và các tầng lớp trên, mục
tiêu đề ra chỉ mang tính thỏa hiệp, chưa có cuộc vận động nào mạnh mẽ và triệt để
như Ngũ Tứ, đó là do ảnh hưởng của cuộc cách mạng Tháng Mười Nga. Thời kỳ Ngũ
Tứ là thời kỳ thức tỉnh, nhận đường. Cách mạng Tháng Mười đã đánh thức “những
con người đang ngủ mê trong nhà hộp bằng sắt, khơng có cửa sổ và cũng khơng làm
Trang 3
sao phá tung ra được”3. Đây là cuộc vận động ảnh hưởng to lớn đến tư tưởng nghệ
thuật của Lỗ Tấn.
Năm 18 tuổi, ông học tại Thủy Sư học đường ở Nam kinh, hai năm xong ông
đổi sang học ở Khống Lộ học đường. Ở đây, ơng tiếp thu những kiến thức khoa học
mới về khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, học được những cái mà ở những trường
Hán học lạc hậu, bảo thủ không bao giờ có được. Năm 1902, sau khi tốt nghiệp
Khống lộ học đường, Lỗ Tấn được du học tại Nhật. Năm 1904, Lỗ Tấn chuyển sang
học nghề y với hy vọng về nước chữa bệnh cho những người nghèo khổ. Nhưng
không lâu sau, ông đã nhận thấy rằng chữa bệnh thể xác không quan trọng và cấp
bách bằng chữa bệnh bằng tinh thần, thế là ông chuyển sang hoạt động văn nghệ.
Ngày 19 tháng 10 năm 1936, Lỗ Tấn lâm bệnh nặng và mất ở Thượng Hải. Sự
ra đi của ông đã làm cho nhân dân Trung Hoa và nhân dân thế giới khơng khỏi đau
lịng với niềm tiếc thương vơ hạn. Năm này (1936) nhân loại đã mất đi hai nhà văn vô
sản vĩ đại: M. Gorky và Lỗ Tấn. Hai đại văn hào văn chương như hai vì sao đã lặn,
nền văn học vô sản cũng kể từ ngày ấy đá mất đi hai “con chim báo bão” của cách
mạng.
Thật vậy, theo nhận định của Trương Chính thì Lỗ Tấn dù sống “…trong thời
đại ấy mà cách nhìn của ơng sâu sắc hơn nhiều. Ông là người đầu tiên trong văn học
Trung Quốc hiện đại thiết tha đến lớp người dưới đáy xã hội” [3, tr. 8]. Lỗ Tấn cũng
đã khẳng định rằng “Mỗi khi chọn đề tài, tôi đều chọn những người bất hạnh trong xã
hội bệnh tật, với mục đích lơi hết mọi bệnh tật của họ ra làm cho mọi người chú ý tìm
cách chạy chữa…” [3, tr. 8]. Trong những người “bất hạnh” mà Lỗ Tấn thường nói
đến, ngồi những người như AQ, Vương râu xồm, Nhuận Thổ, … thì chị Tư Thiền, cơ
Ái, …và những người phụ nữ luôn được nhà văn trân quý và đưa vào trang viết của
mình. Người đọc đã từng đau xót trước cảnh đời tréo ngoe của những người phụ nữ
3 Vì sao tơi viết tiểu thuyết – Nam Xoang Bắc Điệu.
Trang 4
“nhà quê” trong nhiều tác phẩm của nhà văn Lỗ Tấn, đó chị Tư Thiền góa bụa với tình
thương con vô bờ trong tác phẩm “Ngày Mai”, hay cái cảnh ghen tng nổi loạn trong
cuộc tình của chị Ái khi thấy chồng – người mà chị gọi là thằng chó “mê một con đàn
bà góa”, chị cũng nghĩ cách và hùng hổ để “làm thế nào cho chúng nó khuynh gia bại
sản” nhưng cuối cùng rồi “cô Ái cũng bị cái oai phong của họ áp đảo”… cũng lại
ngoan ngoãn “…cháu vẫn đến đây là vẫn nghe lời cụ dạy” trong tác phẩm “Ly hơn”.
Thì khi đến với “Tiếc thương những ngày đã mất” ta lại bắt gặp một người phụ nữ
mới, đại diện cho tầng lớp tri thức trong xã hội Trung Quốc bấy giờ, đó là nhân vật Tử
Quân với một mối tình mang đầy đau thương và bi kịch.
V.Hugo khi viết “Những người khốn khổ” với lời đề tựa: “Khi ba vấn đề lớn
của thời đại: sự sa ngã của đàn ơng vì phải bán sức lao động, sự trụy lạc của người
đàn bà vì đói khát, sự cằn cỗi của một đứa trẻ bị tối tăm chưa được giải quyết, thì
những cuốn sách như loại này cịn có ích”. Lỗ Tấn cũng đã cho rằng ơng viết để phơi
bày “sự trụy lạc”, cái giả dối và thối nát của “xã hội thượng lưu” mà trong đó đã
“dành” tất cả sự bất công cho người phụ nữ. Đọc Tiếc thương những ngày đã mất,
cái ấn tượng mà nhân vật Tử Quân mang lại cho người đọc ắt hẳn sẽ khó qn, nhân
vật gợi lên một tình thương sâu sắc trong độc giả. Tử Quân là một nhân vật mang nét
trẻ trung, năng động, thể hiện ở tiếng giày rộn rã, ở đôi mắt luôn mở to khao khát sự
hiểu biết (mang vẻ sang trọng, trí thức), dũng cảm đấu tranh cho tình u và hơn nhân.
Trong Tiếc thương những ngày đã mất, Tử Quân đã từng tuyên bố rất cá nhân, ích kỷ
“người em là của em, khơng ai có quyền can thiệp vào đời em cả” [3, tr. 336]. Tử
Quân đã đến với Quyên Sinh một cách tự nguyện, bất chấp mọi cản trở của gia đình,
xã hội. Tuy nhiên, trước cuộc sống vụn vặt, đời thường tình u của họ nhanh chóng
bị tan vỡ. Bởi lẽ, tình u và hơn nhân ấy được xây dựng trên cơ sở lãng mạn, thoát li
khỏi thực tế, do đó khơng có cơ sở để tồn tại. Họ muốn làm chủ đời mình và tự
nguyện đến với nhau, nhưng khơng có nền tảng vững chắc, khơng sự nghiệp, khơng
có chỗ đứng trong xã hội. Hạnh phúc của họ đơn độc giữa những thế lực của xã hội và
Trang 5
sự nghèo đói vây bủa xung quanh. Những
khó khăn từ cuộc sống đời thường phát sinh
mỗi ngày một nặng nề đã chiếm hết thời gian
và không gian của hạnh phúc lứa đơi. Tình
u từ chỗ rạn nứt đã tan vỡ sau những đợt
sóng gió dữ dội giữa hai người. Tử Quân đã
trở về với cái gia đình hà khắc mà nàng đã
một lần từ bỏ để chết âm thầm trong tuyệt
vọng. Bi kịch của cô Tử Quân là bi kịch
chung của cả một thế hệ thanh niên trí thức
tiểu tư sản trong thời đại đó. Họ liều lĩnh dấn
thân vào cuộc đời mà không được chuẩn bị từ trước. Sự thất bại trong tình yêu và
hạnh phúc là điều cảnh tỉnh đầu tiên cho họ. Lời khẳng định hùng hồn “khơng ai có
quyền can thiệp vào đời em cả” câu nói của nàng cũng như những lời tuyên bố hùng
hồn của những người phụ nữ tiến bộ mà Lỗ Tấn đã ca ngợi trong Thư Bắc Kinh “Bản
thân tơi, thì tơi khơng sợ gì hết, sinh mệnh tơi là của tôi, cho nên tôi không ngại mạnh
dạn bước tới, theo con đường tơi cho là có thể đi được, dù trước mặt là vực sâu, là
gai góc là hang chật, là hầm lửa, tôi chịu trách nhiệm cả”. Nhưng khi hạnh phúc
tưởng chừng đã trọn vẹn, Tử Quân và Quyên Sinh cơ hồ như quên đi mất lý tưởng ban
đầu gắn bó họ lại với nhau, đó là lý tưởng tiến bộ cao cả, là những mong muốn cải
cách xã hội đầy rộng mở. Đặc biệt là người phụ nữ thường hay trở nên nhỏ bé, bình
thường đi. Tử Quân hồn tồn bận bịu với cuộc sống gia đình, thiếu một phương
hướng cụ thể và đặc biệt là cô không cịn dũng khí và lịng quyết tâm thốt khỏi hiện
thực đó. Hơn nữa, vai trị người phụ nữ trong xã hội thời này chưa phải đã được giải
phóng hồn tồn, đặc biệt là về kinh tế.
Có thể nói đây là một trong những câu chuyện tình yêu duy nhất của Lỗ Tấn,
chứng tỏ sự nhạy cảm, tình thương man mác cũng như vốn hiểu biết sâu sắc của nhà
Trang 6
văn. Cái hay trong Tiếc thương những ngày đã mất là lồng một bi kịch tình yêu riêng
tư vào một vấn đề chung của xã hội mà không thấy thô thiển, gượng ép. Tử Quân là
một cô gái mới lớn bước vào tình yêu, lý tưởng sống và tình yêu của nàng là một.
Tình yêu tiếp sức được cho nàng có được những tư tưởng mới, lịng ham hiểu biết
vươn xa tới tiến bộ và xây dựng nơi nàng nhiệt huyết muốn thay đổi “Hồi đó, sở dĩ
nàng dũng cảm được, bất chấp được tất cả là vì u tơi”. Tình u chân chính đã biến
đổi con người nàng, như Peter Abraham đã nói “Tình u giúp con người ta sống. Nó
làm cho người ta hiểu và đấu tranh”, nhưng rồi khi tình yêu giúp nàng tìm được một
hạnh phúc chật hẹp thì nàng lại quên mất rằng “tình yêu phải được đổi mới luôn, lớn
dần lên và phải sáng tạo”. Điều ấy đã khiến cho Qun Sinh khơng cịn u nàng
nữa, từ cảm giác “…hồi đó cịn có sự mong chờ, mong chờ nàng đến. Ngồi mong chờ
mãi, sốt ruột cứ nghe tiếng giầy cao gót nhẹ nhàng đi trên con đường lát gạch là tôi
bỗng lại vui hẳn lên” [3, tr. 334] đã dần chuyển sang trạng thái, nghĩ suy rằng“chúng
tơi có lìa nhau ra thì mới có thể có một nguồn hy vọng mới được. Nàng phải cương
quyết bỏ tay ra… tơi bỗng nghĩ nàng có thể chết đi cho rảnh…” [3, tr. 350].
Bởi lẽ, trước kia khi hai người yêu nhau thì “cùng nhìn về một hướng”, nhưng
giờ đây, khi lấy nhau rồi, Tử Quân không nhìn về hướng của Quyên Sinh nữa. Trong
khi Quyên Sinh khao khát được bay nhảy, được tiến lên thêm thì Tử Quân lại hài lòng,
thỏa mãn thành quả này rồi và cô chỉ là người theo sau Quyên Sinh, nắm lấy vạt áo
Quyên Sinh, dựa vào Quyên Sinh. “Nàng quên rằng mục đích thứ nhất của đời người
là mưu sống. và trên con đường mưu sống đó thì cần phải hoặc nắm tay cùng đi, hoặc
một mình can đảm tiến lên. Còn như chỉ biết cầm lấy vạt áo người ta mà đi theo thì
dù người kia là chiến sĩ đi nữa, cũng khó mà chiến đấu cho được. Rút cục cả hai
người sẽ bị tiêu diệt” [3, tr. 350]. Và một khi một trong hai người trở thành gánh nặng
của người kia thì lúc đó tình u sẽ biến mất…
Nhận thức của Quyên Sinh về hiện thực này nhạy bén, sâu sắc hơn Tử Quân,
do đó chàng cảnh giác hơn. Chàng nhận thấy rằng phải nhân lúc đôi cánh chưa quên
Trang 7
cách bay thì phải tìm cho ra một chân trời mới. Chính vì vậy, tình u và sự ràng buộc
khơng còn là quan trọng đối với Quyên Sinh và trong bi kịch của hai người thì Tử
Quân càng nặng nề, thảm thiết hơn, cô là người nhạy cảm, nhưng lại không nhận thức
được sự thay đổi của cả hai người, nhận thức ra được lẽ tất yếu, muốn cho tình u
bền vững thì phải biến đổi tình u. Cuộc hơn nhân lãng mạn, tình yêu biến mất,
những lời lẽ tiến bộ và chắc nịch trước kia biến mất. Giờ đây chỉ cịn lại mình cơ đối
diện với bản thân- một kẻ thất bại trên con đường tình ái và trên con đường tự khẳng
định cá nhân mình, buộc cơ phải bắt đầu lại cuộc hành trình. Nhưng nàng cịn có thể
làm được gì? Thất bại, xã hội, cha mẹ và bạn bè không dung, ai cũng buộc nàng trở về
cuộc đời cũ thì lối thốt của nàng chỉ là quay về nhà trong sự tủi nhục ê chề. “Bây giờ
nàng biết rằng từ nay về sau, nàng chỉ còn là việc chịu đựng cái uy nghiêm gay gắt
như mặt trời của bố…và cái khinh bỉ lạnh lùng, lạnh lùng hơn cả băng giá, của người
xung quanh. Ngồi ra cịn là hư không tất cả. Mang cái gánh hư không nặng trĩu đó
trên vai mà bước đi trên cái gọi là đường đời, trước cái uy nghiêm của ông bố và sự
khinh bỉ của người xung quanh, hỏi cịn gì ái ngại hơn!”[ 3, tr. 354]. Ước mơ “xây
dựng một gia đình nhỏ chứa chan hy vọng” của Tử Quân đã biến mất, mọi chuyện lại
vẫn như cũ, khơng có gì thay đổi khi hai người bỏ nhau, Quyên Sinh trở về cái hội
quán, nơi mà trước đây phát sinh và nảy nở tình u: “Khi tơi trở về đây, lại chỉ có
cái gian phịng này là cịn bỏ trống, chưa ai ở. Vẫn cái cửa sổ hư hỏng ấy, vẫn cây
hịe gần chết khơ và cây tử đằng già cỗi ngoài cửa sổ…” [3, tr. 334].
Mỗi tác phẩm văn học nói riêng, tác phẩm nghệ thuật nói chung, một khi đã
đi cùng năm tháng như thế, thì chúng đã mang trong mình một sức sống vượt
khơng gian và vượt cả thời gian. Những tác phẩm ấy đều là những tác phẩm chất
chứa những tư tưởng, những nỗi niềm và mang cả hơi thở của thời đại. Tiếc
thương những ngày đã mất cũng thế, trong cơn biến động xã hội lúc bấy giờ, trí
thức đóng vai trị quan trọng trên vũ đài chính trị và lịch sử. Qua tác phẩm này, ta thấy
Lỗ Tấn đã phân tích những đặc điểm của người trí thức Trung Quốc lúc bấy giờ là ơm
Trang 8
ấp nhiều mộng đẹp, có lý tưởng, cầu tiến nhưng khi gặp thất bại thì dễ bị bi quan,
chán nản, dao động và cuối cùng trở nên cô độc, phản lại lý tưởng của mình rồi chết
dần chết mịn một cách thảm hại. Tử Quân trong Tiếc thương những ngày đã mất là
một nhân vật nữ trí thức mang đầy đủ những đặc điểm trên. Có thể nói Tử Quân của
chúng ta đã có thể nhìn thẳng, dám nghĩ, dám phát ngôn, dám hành động theo những
điều mà nàng cho là đúng. Cùng với sự thay đổi của xã hội là sự thay đổi về vai trò
của người phụ nữ. Không như thời trước, hôn nhân là việc “Cha mẹ đặt đâu con ngồi
đấy”, Tử Quân cũng không cần nhờ vào ơng mai bà mối, cơ cho mình cái quyền tự do
u đương …có lẽ vì cơ là một nữ sinh tươi trẻ sống trong khơng khí sơi nổi và đổi
thay, của thời đại sau phong trào Ngũ Tứ, lúc này “Khổng giáo bị liệng qua cửa sổ”,
với sự phóng khống trong lối sống mới nàng đã sống khơng phụ thuộc vào người
khác. Qua sự tan vỡ của cuộc hôn nhân, phải chăng Lỗ Tấn ngầm nêu ra một vấn đề
mang ý nghĩa thời đại sâu sắc: yêu cầu giải phóng cá tính mà tự do hơn nhân khơng
thể giải quyết đơn độc tách rời yêu cầu giải phóng xã hội. Dù vậy, khi bày tỏ sự đồng
ý với việc theo đuổi hạnh phúc cá nhân của Tử Quân, Lỗ Tấn vẫn chưa chỉ ra được
đâu là lối thoát chân chính cho những thanh niên trí thức tiểu tư sản này. Trong hành
động thực tế và trong tư tưởng, Lỗ Tấn chưa có câu trả lời đích xác ở giai đương thời.
Vì vậy mà Tử Quân đã rơi vào bi kịch tình u khơng lối thốt. Khi khơng cịn tình
u, người ta có thể sống để hy vọng một tình yêu khác hoàn thiện và tốt đẹp hơn sẽ
đến, để mình ngày hơm nay khác hẳn ngày hơm qua theo nghĩa tích cực của nó.
Nhưng trong Tiếc thương những ngày đã mất, khi tình u khơng cịn, lại bị
xã hội đè nén, Lỗ Tấn chưa chỉ đường cho nàng tự bước về phía trước mà lại buộc
nàng phải trở về với khuôn khổ cũ, mà cái khuôn khổ ngày xưa vốn nàng khơng hịa
hợp được thì cái chết của nàng là tất yếu trong quy luật của cuộc đời, của số phận và
“Số phận nàng đã định cho nàng phải chết trong cái cõi người khơng có tình u” [3,
tr. 356], nàng cứ loay hoay trong cái số phận nghiệt ngã ấy rồi nằm im trong cái bi
kịch tìm đường.
Trang 9
Tác phẩm kết thúc bằng bi kịch cái chết của nàng, khiến người đọc khơng khỏi
xót xa cho một kiếp người trót mang thân phận nữ nhi. Tuy nhiên, như những điều mà
người viết đã đề cập phần trên, thì bởi vì theo Lỗ Tấn hình dung, xã hội Trung Quốc
bấy giờ “là một ngơi nhà bằng sắt, khơng có cửa… trong đó có nhiều người đang ngủ
say và khơng bao lâu sẽ chết ngạt” với cách viết chắc tay, nhà văn vĩ đại này đã “lôi
hết bệnh tật” của những người bất hạnh ra, “làm cho mọi người chú ý tìm cách chạy
chữa” [3, tr.8]. Như vậy, qua ngịi bút của Lỗ Tấn trong Tiếc thương những ngày đã
mất ta thấy rằng, âm hưởng bi kịch tình yêu của nữ nhân vật mang tên Tử Quân và
người con trai tên Quyên Sinh vẫn còn đọng lại trong lòng độc giả, dẫu nhà văn đã để
cho Quyên Sinh thốt lên rằng “tơi cần phải qn, chỉ nghĩ đến mình tơi nữa thôi, và
cần phải quên cả việc tiễn đưa Tử Quân vào trong quên lãng” [3, tr.358]; dẫu rằng tất
cả đã là quá khứ, thì qua tác phẩm này, chúng ta có thể có được cái nhìn cảm thơng
hơn, cảm thông với quá khứ để hiểu rõ hiện tại và cùng nhau hướng đến một sự phát
triển nhân bản hơn cho con người. Và chúng ta cũng có thể nói rằng nhân vật Tử
Quân trong tác phẩm Tiếc thương những ngày đã mất đã góp một phần khơng nhỏ
trong chuỗi mắt xích viết tác phẩm viết về người phụ nữ của nhà văn Lỗ Tấn.
Lỗ Tấn thường phàn nàn “Trung Quốc rất khó thay đổi” và từng ước mơ có
“một cây roi to tướng” quất vào làm cho nó thay đổi. Ở ngưỡng cửa của thời hiện đại,
Tiếc thương những ngày đã mất dù chưa làm cho số phận của nhân vật nữ, cũng như
tình yêu của họ ra khỏi kết thúc bi kịch. Dù vậy, chúng ta vẫn có thể chấp nhận với
nhau rằng Tiếc thương những ngày đã mất của ông cũng là một trong những cây roi
quất vào xã hội trì trệ của Trung Quốc lúc bấy giờ, góp phần làm cho nó chuyển
mình về phía trước [5, tr. 84].
Trang 10
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
Vũ Xuân Định (2003), Nhân vật bất hạnh trong truyện ngắn của Lỗ Tấn.
Trần Lê Hoa Tranh (2009), Từ Ngôi nhà búp bê của H.Ibsen đến Tiếc thương
những ngày đã mất của Lỗ Tấn theo
3.
4.
nguồn avanhoc-
ngonngu.edu.vn.
Truyện ngắn Lỗ Tấn (2010), Nxb Văn hóa Thơng tin, Hà Nội.
Hồ Thị Anh Thư (2009), Hệ thống hình tượng người phụ nữ trong truyện ngắn
Lỗ Tấn.
5. Nguyễn Khắc Phi – Trương Chính (1987), Văn học Trung Quốc tập 1, Nxb
Giáo dục Hà Nội.
Trang 11