Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.21 KB, 13 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>Câu 1: Tài phán hành chính, tài phán tư pháp, thực trạng giải quyết các vụ án hành chính ở nước ta hiện </b>
<b>nay.</b>
<b>1. Tài phán hành chính, tài phán tư pháp:</b>
<i>Tài phán theo đại từ điển tiếng Việt là: Phân xử phải trái, đúng sai; theo tiếng Latin (jurisdictio) là: Tổng thể</i>
những quyền hạn của tòa án hoặc cơ quan hành chính nhà nước về việc đánh giá khía cạnh pháp lý của những sự
kiện cụ thể trong đó có việc giải quyết những tranh chấp và áp dụng các chế tài luật định.
<i><b>* Tài phán tư pháp: hoạt động xét xử của các vụ án hình sự, dân sự, lao động, thương mại của tịa án để đưa</b></i>
ra những phán quyết cuối cùng (phân xử ai đúng ai sai).
<i><b>* Tài phán hành chính: là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền phán xét những khiếu kiện của cá</b></i>
nhân, tổ chức đối với cơ quan hành chính (hoặc những cơ quan nhà nước khác) đưa ra những quyết định hành
chính hoặc hành vi hành chính mà cá nhân tổ chức cho là trái pháp luật hoặc là xâm phạm đến quyền và lợi ích
hợp pháp của họ.
Hay nói cách khác, Tài phán hành chính (TPHC) là việc xem xét và ra phán quyết có giá trị pháp lý nhằm giải
quyết tranh chấp liên quan đến một hành vi, quyết định hành chính. Đó là tranh chấp giữa một bên là cơ quan
hành chính nhà nước với một bên là đối tượng tác động của hành vi, quyết định hành chính (cơng dân và các tổ
chức cụ thể). Như vậy, có thể hiểu TPHC là hoạt động giải quyết các tranh chấp hành chính hay các tranh chấp
nảy sinh trong quá trình điều hành, quản lý của các cơ quan hành chính nhà nước, trong đó chủ yếu là việc xem
xét, phán quyết về tính đúng đắn của các quyết định hay hành vi quản lý của cơ quan quản lý nhà nước.
Ở nước ta, trong cải cách nền hành chính, Đảng và Nhà nước ta khẳng định phải thiết lập các cơ quan tài phán
hành chính. Quan điểm này đã trở thành hiện thực từ nửa cuối năm 1996. Hiện tại, địa vị của tài phán hành chính
được xác định bởi địa vị chính trị - pháp lý của hoạt động Tịa hành chính trong hệ thống Tịa án nhân dân với tư
cách là Tịa chun trách.
Tịa hành chính có chức năng xét xử về hành chính, giải quyết các tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực quản lý
hành chính nhà nước giữa công dân, cơ quan, tổ chức với cơ quan hành chính nhà nước và các cơ quan khác khi
Trong khi xét xử, Tịa hành chính có quyền và nghĩa vụ kiểm tra tính hợp pháp của các quyết định hành chính,
hành vi hành chính bị khiếu kiện; xét xử các vụ kiện hành chính.
Việc thiết lập Tịa hành chính ở nước ta hiện nay đáp ứng nhu cầu cần thiết, khách quan cho bước đầu xây
dựng nhà nước pháp quyền Việt nam, một mặt bảo đảm pháp chế, kỷ cương pháp luật trong hoạt động hành chính
nhà nước; mặt khác bảo đảm được các quyền, tự do, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức, từ đó tạo sự
gắn kết chặt chẽ giữa nhà nước và công dân.
<i>Hoạt động TPHC ở nước ta bao gồm: </i>
- Hoạt động xem xét giải quyết khiếu nại hành chính của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền; hoạt động
thanh tra, kiểm tra trong hệ thống cơ quan hành chính. Thủ tục giải quyết theo quy định của Luật khiếu nại tố cáo
1998 (sửa đổi, bổ sung 2004, 2005).
- Hoạt động xét xử các tranh chấp hành chính do Tòa án nhân dân thực hiện. Thủ tục giải quyết theo Pháp
lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính 1996 (sửa đổi, bổ sung 1998, 2006).
<b>2. Thực trạng giải quyết các vụ án hành chính ở nước ta hiện nay.</b>
Nhà nước đã có nhiều cố gắng trong cơng tác lập quy, nhiều luật và các văn bản dưới luật được ban hành,
phần nào đáp ứng được yêu cầu của công tác quản lý nhà nước, bảo vệ các quyền dân chủ cơ bản của công dân.
Quốc hội cũng đã giao thêm thẩm quyền xét xử các vụ án hành chính cho tịa án nhằm đảm bảo mọi khiếu kiện
của nhân dân được giải quyết tại tòa án. Tuy nhiên, hoạt động giải quyết khiếu kiện của Tòa hành chính và các cơ
quan hành chính nhà nước vẫn cịn nhiều bất cập, kém hiệu quả và chưa đáp ứng được yêu cầu.
quả còn nhiều hạn chế. Bất cập là do cơ chế giải quyết khiếu nại hành chính hiện nay cịn mang tính khép kín,
chưa đảm bảo tính khách quan, dân chủ.
Quy định pháp luật hiện hành cho phép cơ quan hành chính cấp trên tiếp tục giải quyết các khiếu nại mà cơ
quan hành chính nhà nước cấp dưới đã giải quyết, nếu cơng dân cịn khiếu nại. Điều này dẫn đến tình trạng người
dân có tâm lý khơng tin tưởng vào việc giải quyết khiếu nại của các cơ quan hành chính nhà nước cấp trên đối với
các quyết định giải quyết khiếu nại của cơ quan hành chính cấp dưới, vì cho rằng cấp trên bênh vực cấp dưới.
Trên thực tế, đa số các quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu đều được cấp trên công nhận.
Một nguyên nhân khác, là hiện nay cơ chế giải quyết khiếu nại hành chính cũng chưa phân định và tách bạch
giữa hoạt động quản lý điều hành với hoạt động giải quyết khiếu nại của các cơ quan hành chính nhà nước. Các
cơ quan hành chính nhà nước phải mất nhiều thời gian, công sức vào việc giải quyết khiếu nại nhưng hiệu quả
vẫn khơng cao, thậm chí cịn làm ảnh hưởng khơng nhỏ đến hoạt động quản lý điều hành của các cơ quan này.
Để khắc phục tình trạng kém hiệu quả trong giải quyết khiếu kiện của các cơ quan hành chính nhà nước, Quốc
hội đã giao thẩm quyền xét xử các vụ án cho tòa án. Tuy nhiên, số vụ việc cơng dân khởi kiện ra tịa tính trên số
vụ việc khiếu nại cơ quan hành chính nhà nước đã giải quyết đạt tỷ lệ rất thấp, dưới 1%. Cụ thể, theo báo cáo kết
quả giám sát việc thi hành pháp luật về khiếu nại, tố cáo của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, số liệu thống kê từ 28
tỉnh, thành thì trong số 56.788 vụ việc đã giải quyết, chỉ có 310 vụ việc cơng dân khởi kiện ra tịa.
Tình trạng Tịa hành chính thụ lý ít, có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan. Trong đó, nguyên nhân
được lặp đi lặp lại từ nhiều năm nay, là hệ thống pháp luật của nước ta chưa hoàn chỉnh và đồng bộ. Qua các lần
sửa đổi Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính, số lượng vụ việc tịa án có thẩm quyền giải quyết ngày
càng tăng nhưng chỉ dừng lại ở một số loại việc nhất định. Điều này mâu thuẫn với cơ chế giải quyết khiếu nại
hiện nay, là một vụ việc khiếu nại được giải quyết tối đa ở 2 cấp hành chính và người khiếu nại có quyền khởi
kiện vụ án hành chính tại tịa án nhân dân trong các lần giải quyết khiếu nại của cơ quan hành chính. Như vậy
những loại việc khơng thuộc thẩm quyền của Tịa hành chính, người dân đương nhiên bị giới hạn quyền khởi kiện
ra tịa.
* Để khắc phục cơ bản tình trạng bất cập trong cơ chế giải quyết khiếu nại hành chính hiện nay, Quốc hội đã
thảo luận thơng qua Dự án Luật Tố tụng hành chính. Tuy nhiên, trong hướng tới cần nghiên cứu thành lập cơ
quan tài phán hành chính ở Việt Nam.
Xuất phát từ yêu cầu khách quan, từ tính đặc thù của việc giải quyết khiếu kiện hành chính thì cơ quan tài
phán hành chính phải được thành lập theo hệ thống dọc, thuộc hành pháp, trực thuộc Thủ tướng Chính phủ, độc
lập với cơ quan hành chính các cấp.
- Cơ quan tài phán hành chính có thẩm quyền giải quyết khiếu kiện của cơ quan, tổ chức, cá nhân đối với
quyết định hành chính, hành vi hành chính; có quyền phán quyết về tính hợp pháp, hợp lý của quyết định hành
chính, hành vi hành chính.
- Việc giải quyết khiếu kiện được tiến hành theo những thủ tục chặt chẽ. Cơ quan hành chính bình đẳng với
cơng dân trong q trình giải quyết khiếu kiện. Cơng dân có quyền nhờ luật sư thay mặt mình thực hiện việc
khiếu kiện.Việc giải quyết khiếu kiện được thực hiện thông qua hội đồng. Phán quyết của hội đồng bằng bỏ phiếu
kín và quyết định theo đa số .
- Hệ thống cơ quan tài phán hành chính bao gồm; Cơ quan tài phán hành chính Trung ương, cơ quan tài phán
hành chính vùng, cơ quan tài phán hành chính khu vực. Cơ quan này độc lập với cơ quan hành chính về tổ chức,
cơng tác, kinh phí vì vậy sẽ độc lập trong việc phán quyết đối vối quyết định hành chính, hành vi hành chính.
Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây dựng cơ quan Tài phán hành chính trong tổng thể cải cách nền hành
chính, cải cách tư pháp, đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước nhằm góp phần đưa hoạt động giải
quyết khiếu nại hành chính ở nước ta phù hợp với thơng lệ quốc tế, từ đó tạo cơ sở cho kinh tế nước ta hội nhập
ngày càng sâu rộng với các nước trong khu vực và trên thế giới.
<b>Câu 2: Công vụ - Công chức ?</b>
<b>Bài làm:</b>
<b>I- Công vụ, công chức và thực trạng công vụ, công chức ở VN hiện nay:</b>
<b>1-Khái niệm công vụ: Công vụ là một dạng lao động xã hộI, mang tính quyền lực nhà nước, tính pháp lý được</b>
thực thi bởI độI ngũ cán bộ, công chức để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước nhằm phục vụ lợi ích
<i><b>* Đặc trưng cơ bản của công vụ được thể hiện:</b></i>
- Mục tiêu hoạt động của công vụ: Phục vụ nhân dân, phục vụ nhà nước; duy trì an ninh, trật tự an tồn xã hộI;
khơng vì lợI nhuận, khơng có mục đích của riêng mình; tăng trưởng và phát triển.
- Nguồn lực: Quyền lực nhà nước trao cho, có tính pháp lý; sử dụng ngân sách nhà nước hay quỹ công để hoạt
động; do công chức thực hiện.
- Cách thức tiến hành: Có tính trật tự, thứ bậc hành chính, được sự phân cơng, phân cấp, thủ tục quy định trước,
cơng khai, minh bạch, bình đẳng, có sự tham gia của nhân dân.
- Nguyên tắc của hoạt động công vụ: Tuân thủ hiến pháp, pháp luật; bảo vệ lợI ích của nhà nước, quyền và lợI
ích hợp pháp của tổ chức, công dân; công khai, minh bạch, đúng thẩm quyền và có sự kiểm tra giám sát; bảo đảm
thứ bậc hành chính và sự phốI hợp chặt chẽ.
- Chế độ công vụ: Chế độ chức nghiệp, chế độ làm việc, mơ hình tập thể, chế độ thủ trưởng, chế độ tập thể lãnh
đạo, cá nhân phụ trách.
* Các loạI công vụ trong hệ thống cơ quan nhà nước: Trong hệ thống cơ quan hành chính nhà nước từ trung
ương đến địa phương, không bao gồm các hoạt động của cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương. Hoạt động
của cơ quan hành chính nhà nước là hoạt động mang tính chấp hành các văn bản luật của các cơ quan nhà nước.
Hoạt động của ngườI làm việc trong cơ quan hành chính nhà nước đuộc phân theo ngành và ngạch. Các hoạt
động hay nhiệm vụ mà họ phảI thực hiện theo quy định của pháp luật đều gọI là công vụ.
2- Khái niệm công chức: Công chức là một thuật ngữ để chỉ một nhóm ngườI đặc biệt làm việc cho nhà nước:
NgườI được bầu cử theo một nhiệm kỳ trong các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp. NgườI làm việc mang tính
chất thường xuyên trong ơ quan nhà nước.
<i><b>* Đặc trưng của công chức:</b></i>
- Được nhà nước tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc bầu cử vào làm việc trong biên chế chính thức của bộ máy nhà nước, tổ
chức chính trị- xã hội.
- Được nhà nước bảo đảm việc làm suốt đời.
- Được sắp xếp thang, bậc, ngạch lương.
<i><b>* Về phân loạI: Cán bộ, công chức, viên chức:</b></i>
- Phân loạI theo trình độ đào tạo: LoạI A (ĐH, sau ĐH), loạI B (cao đẳng)…
- Phân loạI theo ngạch công chức, ngạch bổ nhiệm.
- Phân loạI theo vị trí cơng tác: Cơng chức lãnh đạo, quản lý, công chức không giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý.
<b>3- Thực trạng công vụ và công chức Việt Nam hiện nay:</b>
quyền, các ngành chức năng, các tổ chức trong bộ máy nhà nước quan tâm thực hiện và đă có nhiều biến chuyển tích
cực. Các vấn đề về cơng chức, cơng vụ được đặt ra khá toàn diện từ khái niệm; quyền, nghĩa vụ; điều kiện phát sinh,
thay đổi, chấm dứt quan hệ công vụ; chế độ đăi ngộ; khen thưởng và kỷ luật; bộ máy quản lý công chức... làm cơ sở
thống nhất để xây dựng một nền công vụ hiệu quả, hiện đại, đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập của đất nước.
<i>Tuy nhiên bên cạnh những thành cơng đạt được trong những năm qua thì vẫn cịn nhiều tồn tại, yếu kém trong hoạt</i>
<i>động công vụ - công chức ở nước ta trong giai đoạn hiện nay</i>
- Cơ sở vật chất cũng như trang thiết bị, phương tiện kỹ thuật trong các cơng sở cịn nghèo nàn, lạc hậu chưa đáp ứng
được nhu cầu thực tế giải quyết công việc.
- Trong một thời gian dài chúng ta lúng túng chưa ban hành được luật công vụ, công chức trong khi đó pháp lệnh
cán bộ cơng chức năm 2003 chưa thật sự đáp ứng được yêu cầu hiện tại. Vừa qua luật cán bộ, công chức năm 2008 đã
có hiệu lực từ ngày 01/01/2010 đây là bước tiến dài cho việc thể chế hóa hoạt động cơng vụ - cơng chức.
- Kỹ năng hành chính cũng như trình độ chuyên môn nghiệp vụ của một số cán bộ cơng chức cịn yếu kém, một số
chưa đáp ứng được u cầu của vị trí đang cơng tác. Bên cạnh đó việc thiếu ý thức trách nhiệm trong cơng việc cũng
diễn ra thường xuyên do nhiều nguyên nhân trong đó chế độ tiền lương chưa thỏa đảng có thể xem là ngun nhân
chính. Ngồi ra đạo đức cơng chức, thái độ phục vụ, phương thức phục vụ chưa được văn minh, hiện đại cũng là vấn
đề cần xem xét trong q trình hồn thiện chế độ cơng vụ và nâng cao chất lượng đội ngũ công chức hiện nay.
- Cuối cùng, tham nhũng vẫn là vấn đề nóng bỏng nhất cần quan tâm hiện nay.
<b>* Trước những hạn chế, tồn tạI nêu trên yêu cầu đặt ra cần phảI hoàn thiện chế độ công vụ và nâng cao chất</b>
<b>lượng đội ngũ cơng chức: Hồn thiện chế độ cơng vụ là nội dung quan trọng của cải cách hành chính nhà nước, làm</b>
<i>cho chế độ cơng vụ ngày một hồn bị hơn. Qua đó, bảo đảm sự vận hành của bộ máy hành chính thơng suốt, nâng</i>
<i>cao ý thức trách nhiệm công vụ của cán bộ, công chức; giải quyết đúng đắn, kịp thời các yêu cầu hợp pháp của công</i>
<i>dân, cơ quan, tổ chức; bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của cơng dân.</i>
<b>II- Quan điểm hồn thiện chế độ cơng vụ </b>
<i><b>1 - Hồn thiện chế độ cơng vụ phải bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng về công tác cán bộ</b></i>
Điều 4, Hiến pháp nước ta khẳng định: "Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt
Nam..., là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội". Đảng lãnh đạo Nhà nước được thể hiện ở nhiều phương diện khác
nhau: lãnh đạo trong tổ chức và hoạt động của toàn bộ máy nhà nước, đưa ra các chủ trương, quan điểm xây dựng Nhà
nước, định hướng chính trị cho hoạt động của Nhà nước, thông qua công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, thông qua
công tác cán bộ. Xuất phát từ nhận thức chung đó, hồn thiện chế độ công vụ cần phải: Dựa trên cơ sở quan điểm,
đường lối chính trị, chủ trương, chính sách của Đảng về công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức. Kịp
thời thể chế hóa quan điểm của Đảng về công tác cán bộ thành pháp luật điều chỉnh quan hệ công vụ, công chức. Xây
dựng đội ngũ công chức ngày càng chính quy, hiện đại, có phẩm chất chính trị, trình độ chun mơn và phẩm chất đạo
đức trong công vụ. Tôn trọng sự kiểm tra, hướng dẫn, lãnh đạo của Đảng trong công tác cán bộ và tôn trọng sự giới
thiệu của các cơ quan, tổ chức đảng trong lựa chọn, đề bạt cán bộ. Xây dựng đạo đức cơng vụ theo những tiêu chí đạo
đức cách mạng.
<i><b>2 - Hồn thiện chế độ cơng vụ gắn với đổi mới hệ thống chính trị, đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà</b></i>
<i><b>nước</b></i>
Mối quan hệ, sự phối hợp giữa các bộ phận cấu thành hệ thống chính trị với Nhà nước thể hiện qua các mặt chủ yếu
sau: quan hệ trong thiết lập bộ máy nhà nước; trong xây dựng pháp luật; trong tổ chức thực thi pháp luật và trong kiểm
tra, giám sát việc thực hiện pháp luật.
Bên cạnh việc đổi mới hệ thống chính trị nói chung, việc hồn thiện chế độ cơng vụ gắn với đổi mới tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước, các cơ quan nhà nước. Đổi mới tổ chức bộ máy nhà nước phải gắn với đổi mới cơ cấu tổ
chức bên trong của từng cơ quan nhà nước, tới phân công chức năng nhiệm vụ, quyền hạn của từng bộ phận cơ quan
nhà nước. Yếu tố này ảnh hưởng có tính quyết định đến hoạt động công vụ của công chức trong các cơ quan nhà nước,
đến trách nhiệm cơng vụ của cơng chức. Chính vì vậy, khi hồn thiện chế độ cơng vụ cần phải chú ý tới việc định rõ
chức trách của từng chức vụ quản lý, từng vị trí, chức danh cơng chức.
<i><b>3 - Hồn thiện chế độ cơng vụ bảo đảm hội nhập kinh tế quốc tế</b></i>
Vì vậy, việc hồn thiện chế độ cơng vụ cần hướng tới việc đáp ứng các yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế, mở
cửa. Xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức có trình độ chun mơn cao ngang tầm với khu vực và quốc tế, có khả năng
đáp ứng linh hoạt yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế. Thể chế của chế độ cơng vụ được hồn thiện phải hướng tới
phục vụ cho hội nhập kinh tế quốc tế.
<i><b>4 - Hồn thiện chế độ cơng vụ nhằm xây dựng nền công vụ phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân </b></i>
Xuất phát từ bản chất Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, chế độ cơng vụ nước ta là chế độ công vụ
phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001) khẳng định: "Các
cơ quan nhà nước, cán bộ, viên chức nhà nước phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với
nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện quan liêu,
hách dịch, cửa quyền, tham nhũng." (Điều 8). Điều này địi hỏi việc hồn thiện chế độ công vụ phải đặc biệt quan tâm
đến các quy tắc, quy định trách nhiệm, bổn phận công vụ của cán bộ, cơng chức, viên chức nói chung, cơng chức trong
bộ máy nhà nước nói riêng. Đi đơi với q trình đó, phải thiết lập cơ chế để mọi hoạt động công vụ của cán bộ, công
chức đều chịu sự giám sát của nhân dân, thông qua các cơ quan quyền lực nhà nước do nhân dân trực tiếp bầu lên,
<i><b>5 - Hồn thiện chế độ cơng vụ gắn với tăng cường chuyên môn, nâng cao đạo đức công vụ, bảo đảm chế độ thủ</b></i>
<i><b>trưởng trong các cơ quan công quyền</b></i>
Hồng và chuyên là hai phẩm chất hàng đầu của cán bộ, công chức, và trở thành thuộc tính của cơng chức thời
kỳ xây dựng nhà nước pháp quyền và xã hội công dân. Rèn luyện đạo đức là một u cầu có tính nguyên tắc, là bắt
buộc trong điều kiện hiện nay. Vì vậy, hồn thiện chế độ cơng vụ ở nước ta hiện nay cần phải hướng tới xây dựng hệ
thống các chuẩn mực đạo đức công vụ của cán bộ, công chức.
Sự tập trung, thống nhất quyền lực là một nguyên tắc, thuộc tính của quản lý hành chính nhà nước, nếu không sẽ
không bảo đảm được sự thống nhất trong điều hành, chỉ huy hoạt động công vụ. Từ góc độ hành chính, người đứng
đầu cơ quan nhà nước là người chỉ huy, điều hành các cơng việc có tính hành chính trong cơ quan nhà nước, để thực
thi các nhiệm vụ, cơng vụ của cơ quan đó. Chính điều đó địi hỏi phải phân định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của tập thể và
cá nhân người đứng đầu cơ quan.
Trong điều hành cơng vụ, địi hỏi phải đề cao vai trò của người đứng đầu cơ quan, đồng thời cần phải xác định trách
nhiệm của người đứng đầu cơ quan nhà nước và người đứng đầu các bộ phận trong cơ quan đó. Việc hồn thiện chế
độ cơng vụ cần phải hướng tới xây dựng chế độ phân định rõ nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của tập thể và trách
nhiệm cá nhân của người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong cơ quan nhà nước.
<b>III - Nâng cao chất lượng đội ngũ công chức </b>
<i><b>1 - Đổi mới quy trình, chế độ tuyển dụng cơng chức</b></i>
Tuyển dụng cơng chức là khâu đầu tiên có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, có tính chất quyết định đến chất lượng công
chức sau này.
Tổ chức thi tuyển chung công chức ở các ngạch cho các cơ quan nhà nước ở trung ương, địa phương; không nên
<i><b>2 - Thi nâng ngạch công chức trên cơ sở cạnh tranh lành mạnh</b></i>
Cạnh tranh trong công vụ như là động lực thúc đẩy tính tích cực, sự phấn đấu của công chức, nhằm nâng cao năng
lực của công chức, khắc phục được tình trạng trì trệ "sống lâu lên lão làng". Ngạch công chức là cấp bậc về trình độ
chun mơn, nghiệp vụ, do đó, tương ứng với những cơng việc đảm nhiệm mà cần cơng chức có chun mơn, nghiệp
vụ tương ứng. Từ đó, thi nâng ngạch công chức chỉ được tiến hành theo yêu cầu công vụ, chỉ thi nâng ngạch khi có
chỗ trống chức vụ chuyên môn. Việc thi nâng ngạch công chức hiện nay mới chủ yếu là nhằm giải quyết chế độ cho
công chức về lương, về danh, mà chưa làm thay đổi về nghĩa vụ, chức phận công vụ của họ.
Tiến hành trả lương công chức theo chức vụ chuyên môn (ngạch, bậc chuyên môn) và chức vụ quản lý, người khơng
giữ chức vụ quản lý thì chuyển hưởng lương theo chức vụ chun mơn. Trân trọng tính chun nghiệp, chun môn
sâu của công chức.
Khi xem xét đào tạo và bồi dưỡng trong tổng thể quản lý và phát triển nguồn nhân lực trong công vụ, điều quan
trọng là cần xây dựng một chiến lược đào tạo để nhìn nhận và dự báo yêu cầu về kiến thức và kỹ năng cán bộ, công
chức cần thiết trong hiện tại và tương lai một cách chủ động, từ đó điều chỉnh các hoạt động đào tạo cho phù hợp với
yêu cầu mới. Các bộ phận liên quan tới bộ phận quan trọng này trong cải cách hành chính bao gồm:
1 - Đổi mới chương trình, nội dung đào tạo;
2 - Cải tiến giáo trình và tài liệu giảng dạy;
3 - Vận dụng phương pháp đào tạo mới, lấy người học làm trung tâm;
4 - tăng cường cơ sở vật chất hỗ trợ đào tạo.
Xét cho cùng, trước mắt cần tăng cường năng lực cho chính đội ngũ giảng viên để đảm đương được nhiệm vụ này.
Các chương trình đào tạo, bồi dưỡng thường nặng về kiến thức, tri thức mà chưa quan tâm nhiều đến cơng chức,
Thường xuyên thi sát hạch công chức để đánh giá năng lực công chức (5 năm một lần). Ấn định số lượng công chức
theo ngạch trong các cơng việc hành chính. Để nâng cao năng lực thực thi công vụ của các cơ quan nhà nước (xác định
cơ cấu công chức trong cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương). Quy định các loại văn kỹ năng xử lý tình
huống, thực hành bằng, chứng chỉ tương ứng với các chức vụ chun mơn và chức vụ quản lý.
<i><b>Tóm lại: Hồn thiện chế độ công vụ ở nước ta hiện nay là yêu cầu cần thiết khách quan, là nhiệm vụ vừa mang tính</b></i>
cấp thiết vừa mang tính lâu dài, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Hoàn thiện chế
độ công vụ nhằm khắc phục những hạn chế, nhược điểm của chế độ công vụ ở nước ta hiện nay, đặc biệt là yếu tố
thể chế của nền công vụ, đồng thời đáp ứng xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, xu hướng chuyển từ nền hành chính
điều hành sang nền hành chính phục vụ các khách hàng của nền hành chính: cá nhân, cơ quan, tổ chức.
<b>Câu 2b : Phân tích các quan điểm hồn thiện chế độ công vụ (CĐCV) và các giải pháp nâng cao chất</b>
<b>lượng đội ngũ cán bộ, công chức (CB,CC) ở Việt Nam hiện nay (5đ)</b>
<b>* Quan điểm hoàn thiện CĐCV (2,5đ)</b>
- Hoàn thiện CĐCV phải bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất of Đảng về công tác cán bộ. ; - Hồn thiện CĐCV gắn
với đổi mới hệ thống chính trị, đổi mới hệ thống tổ chức và hoạt động of Bộ máy NN ; - Hoàn thiện CĐCV bảo
đảm hội nhập kinh tế quốc tế ; - Hoàn thiện CĐCV nhằm xây dựng nền công vụ phục vụ nhân dân, chịu sự giám
sát of nhân dân. ; - Hoàn thiện CĐCV gắn với tăng cường chuyên môn, nâng cao đạo đức công vụ, bảo đảm chế
độ thủ trưởng trong các cơ quan công quyền.
* Các giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ công chức (2,5đ)
Công cuộc đổi mới, <sub></sub> KT-XH và hội nhập kinh tế quốc tế đang đặt ra ~ yêu cầu cấp bách về nâng cao chất
lượng đội ngũ CB,CC. CB,CC vẫn là khâu quyết định nhất trong việc xây dựng và thực hiện pháp luật, thực thi
- Xác định rõ vị trí, cơ cấu và tiêu chuẩn chức danh, công chức trong từng cơ quan of NN để làm căn cứ tuyển
dụng và bố trí sử dụng CB,CC.
- Làm tốt cơng tác quy hoạch và thực hiện quy hoạch CB,CC; thông qua việc đánh giá, phân loại CB,CC, xác
định rõ ~ người đủ và khơng đủ tiêu chuẩn. Có chính sách thích hợp đối với ~ người k0<sub> đủ tiêu chuẩn phải đưa ra</sub>
khỏi bộ máy.
- Đổi mới chế độ tuyển dụng và QL CB,CC. Tuyển dụng CB,CC phải căn cứ vào nhu cầu, vị trí, cơ cấu và tiêu
chuẩn chức danh CB,CC. Thơng qua việc thi tuyển, sát hạch, kiểm tra để tuyển dụng CB,CC đủ phẩm chất và
năng lực vào làm việc trong bộ máy. Khắc phục tình trạng vào cơ quan rồi mới đưa đi đào tạo và chủ yếu là đào
tạo tại chức.
- Việc đánh giá, phân loại CB,CC phải căn cứ vào kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao.
- Thực hiện việc thi tuyển đối với một số chức danh lãnh đạo gắn với chuyên môn nghiệp vụ trong bộ máy hành
chính NN và các đơn vị sự nghiệp.
- Đổi mới công tác QL biên chế. Đối với các cơ quan NN: trên cơ sở xây dựng chức danh, tiêu chuẩn, vị trí việc
làm và cơ cấu cơng chức, từng cơ quan NN rà soát lại đội ngũ cơng chức, đối chiếu với tiêu chuẩn để bố trí lại
cho phù hợp. Tiếp tục thực hiện mạnh chế độ hợp đồng để thực hiện một số loại việc trong cơ quan NN. Đối với
các đơn vị sự nghiệp dịch vụ công: căn cứ vào nhu cầu hoạt động thực tế để xác định số lượng các vị trí việc làm
trong từng đơn vị sự nghiệp dịch vụ công. Thực hiện chế độ hợp đồng làm việc trong các đơn vị sự nghiệp dịch
vụ công.
- Thực hiện cải cách tiền lương và các chế độ, chính sách khác đối với đội ngũ CB,CC. Nghiên cứu để có chính
sách, chế độ thích hợp về nhà ở cho CB,CC. NN có chính sách xây dựng và sử dụng nhà công vụ, quy định rõ chế
độ, tiêu chuẩn sử dụng nhà công vụ để áp dụng trong cả hệ thống chính trị. Xây dựng chế độ phụ cấp đối với
CB,CC hành chính, bao gồm cả CB,CC đảng, đồn thể trong hệ thống chính trị.
- Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng CB,CC. Đổi mới phương thức và nội dung các chương trình đào tạo, bồi
dưỡng CB,CC sát với thực tế, hướng vào các vấn đề thiết thực đặt ra từ quá trình thực thi cơng vụ, nhất là kỹ năng
hành chính. Thơng qua đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ và kỹ năng hành chính bảo đảm tính thống nhất
trong hoạt động of cơ quan hành chính, nhất là trong giải quyết các yêu cầu of dân, doanh nghiệp. Coi trọng cơng
tác giáo dục đạo đức và phẩm chất chính trị cho đội ngũ CB,CC để nâng cao lòng yêu nước, yêu chế độ, niềm tự
hào dân tộc và tinh thần trách nhiệm, thái độ phục vụ nhân dân of đội ngũ CB,CC.
<b>Câu hỏi 3: Khái niệm, vai trò và các giải pháp bảo đảm quản lý nhà nước về đô thị. Liên hệ thực tiễn.</b>
<b>I. Mở bài:</b>
Cùng với việc hội nhập kinh tế quốc tế và chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch tập trung sang nền kinh tế thị
trường theo định hướng XHCN, thực hiện công cuộc CNH, HĐH sẽ tạo đà thuận lợi cho đơ thị hóa nước ta phát
triển với quy mơ rộng và tốc độ nhanh trong những thập kỷ tới, sẽ có nhiều thành phần kinh tế ngồi Nhà nước
tham gia vào xây dựng và phát triển đô thị và cuộc sống đô thị sẽ trở nên sôi dộng và phức tạp hơn. Đó là một
thách thức lớn cho cơng tác quy hoạch xây dựng, phát triển đô thị và đặc biệt là công tác quản lý nhà nước ở các
đơ thị. Chỉ có Nhà nước mới có thể thúc đẩy và kiểm sóat được sự phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch xây
dựng, bảo vệ môi trường . . của các đô thị theo đúng chiến lược, mục tiêu và các định hướng đã đặt ra.
<b>II. Khái niệm, vai trò và các giải pháp bảo đảm quản lý nhà nước về đô thị:</b>
<b>1. Khái niệm về đô thị, quản lý nhà nước về đô thị.</b>
- Đô thị: là khu vực tập trung dân cư sinh sống có mật độ cao và chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực kinh tế phi
nơng nghiệp, là trung tâm chính trị, hành chính, kinh tế, văn hố hoặc chun ngành, có vai trò thúc đẩy sự phát
triển kinh tế - xã hội của quốc gia hoặc một vùng lãnh thổ, một địa phương, bao gồm nội thành, ngoại thành của
thành phố; nội thị, ngoại thị của thị xã; thị trấn.
- Quản lý nhà nước về đơ thị: là tồn bộ hoạt động của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm tác
động, tổ chức, điều chỉnh các lĩnh vực quy hoạch đô thị, hạ tầng kỹ thuật, nhà ở, đất ở, kiến trúc cảnh quan và trật
tự an toàn xã hội trên địa bàn đô thị nhằm thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội bảo đảm sự phát triển bền
<b>2. Vai trị quản lý nhà nước về đơ thị:</b>
- Phục vụ công tác hoạch định chiến lược phát triển và xây dựng quy hoạch hệ thống đô thị vùng, quốc gia.
- Tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về quy hoạch xây dựng đô thị và phát triển đô thị bền vững.
- Xác lập quy hoạch xây dựng và phát triển đô thị trên cơ sở định hướng phát triển hệ thống đô thị quốc gia,
vùng, địa phương.
- Quản lý các tổ chức, cá nhân trên địa bàn đô thị thực hiện pháp luật về xây dựng và phát triển đô thị.
- Kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm pháp luật về xây dựng và phát triển đô thị.
<b>3. Các giải pháp bảo đảm quản lý nhà nước về đô thị.</b>
- Xây dựng và hồn thiện pháp luật về đơ thị (quy hoạch xây dựng đô thị; quản lý hạ tầng kỹ thuật; quản lý nhà
ở, đất ở; quản lý kiến trúc cảnh quan; quản lý trật tự, an tòan xã hội trên địa bàn đơ thị)
Trong năm 2009, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Định hướng quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống đô thị
Việt Nam đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2050, đồng thời phê duyệt Chương trình nâng cấp đô thị quốc gia
giai đoạn từ 2009 - 2020. Đây là 2 văn bản có tính chiến lược, đề ra các định hướng, giải pháp tổng thể, toàn diện
phát triển hệ thống đô thị quốc gia, xác định các giai đoạn phát triển cũng như mục tiêu cụ thể và lộ trình thực
hiện phù hợp với giai đoạn hiện nay cũng như lâu dài. Đặc biệt, năm 2009, Quốc hội đã thông qua Luật Quy
hoạch đô thị. Cùng với các Luật Xây dựng, Nhà ở, Kinh doanh Bất động sản, Luật Quy hoạch đô thị là khung
pháp lý quan trọng, cần thiết, là cơ sở để huy động được nhiều nguồn lực xã hội cho việc đầu tư xây dựng phát
triển đô thị, cải thiện diện mạo đô thị và nâng cao chất lượng đô thị.
- Xây dựng bộ máy quản lý đô thị trên các lĩnh vực: Tăng cường hiệu lực của bộ máy quản lý đô thị, đổi mới
chính sách phát triển đơ thị, trên cơ sở nhiệm vụ quyền hạn của HĐND và UBND các cấp sử dụng 3 cơng cụ chủ
yếu đó là pháp luật, quy hoạch, kế hoạch để các đô thị phát triển có hiệu lực đồng thời nâng cao hiệu lực quản lý
đô thị các cấp theo chủ trương của Đảng, của Nhà nước, mặt khác xây dựng quy chế phân cấp quản lý đô thị.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức quản lý đơ thị bảo đảm tính chun nghiệp, chun mơn hóa cao, phẩm
chất đạo đức nghề nghiệp: Thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn về chuyên môn, nghiệp vụ cho các cán bộ làm
công tác quản lý đô thị ở các địa phương.
- Bảo đảm kinh phí, cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật: sử dụng vốn ngân sách Nhà nước 1 cách hiệu quả và
quản lý 1 cách chặt chẽ, ưu tiên sử dụng vốn cho công tác lập quy hoạch xây dựng, hạ tầng kỹ thuật, bảo vệ môi
trường và các cơng trình khơng trực tiếp thu hồi vốn hay khơng có khả năng thu hồi vốn; Tạo vốn phát triển đô
thị, huy động tối đa các nguồn vốn trong nước và nước ngồi thơng qua các biện pháp sau: xây dựng nhà để bán
và cho thuê, khuyến khích các tổ chức cá nhân đầu tư vốn để xây dựng công trình cơ bản và sản xuất kinh doanh;
Thực hiện thu phí xây dựng cơ sở hạ tầng, phát hành cổ phiếu, trái phiếu, khuyến khích mọi người tham gia giữ
tiết kiệm, tranh thủ sự viện trọ và vốn vay của nước ngoài sử dụng hợp lý nguồn vốn này, đồng thời khuyến khích
người nước ngồi đầu tư trực tiếp hoặc chuyển giao công nghệ vào nước ta.
- Tăng cường các hoạt động kiểm tra, thanh tra, xử lý nghiêm minh các vi phạm pháp luật về đô thị: Sắp xếp,
củng cố tổ chức, tăng cường cán bộ có đủ năng lực, phẩm chất đạo đức thực hiện công tác quản lý đô thị đặc biệt
là công tác cấp phép xây dựng, thanh tra xây dựng và đội ngũ quản lý trật tự xây dựng; trong đó phân định rõ
quyền hạn, trách nhiệm của cơ quan quản lý đô thị, cơ quan thanh tra và UBND các cấp trong việc kiểm tra, thanh
tra, xử lý vi phạm đối với các công trình xây dựng khơng phép, sai phép và vi phạm các quy định về an tồn, vệ
sinh, mơi trường, kể cả những cơng trình được miễn giấy phép xây dựng. Kiên quyết xử lý các vi phạm về xây
dựng thuộc thẩm quyền hoặc kiến nghị cấp có thẩm quyền xử lý khi phát hiện các vi phạm trong quá trình thanh
tra, kiểm tra.
<b>III. Liên hệ thực tiễn:</b>
<b>*Thành tựu:</b>
- Sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước đã đem lại những nguồn lực quan trọng cho việc xây dựng và cải
tạo chỉnh trang diện mạo của các đô thị. Kiến trúc và cảnh quan đô thị đã được các chính quyền quan tâm đầu tư
phát triển với sự xuất hiện ngày càng nhiều các quần thể kiến trúc, mảng đô thị hiện đại, ứng dụng công nghệ thiết
kế, xây dựng tiên tiến của thế giới. Tại nhiều đô thị đã và đang xuất hiện các cơng trình kiến trúc cao tầng là
cộng của các đô thị được đầu tư xây dựng, cải tạo và phát triển khá nhanh, tạo nên bộ khung cơ bản để các đô thị
phát triển.
- Hiện nay, nhiều địa phương đang tập trung nguồn vốn ODA để đầu tư xây dựng và phát triển giao thông công
cộng đô thị
- Trong thời gian qua, đáp ứng các yêu cầu của thực tiễn phát triển xã hội, Quốc hội, Chính phủ, Bộ Xây dựng
và các bộ, ngành đã và đang từng bước hoàn thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực xây dựng
và phát triển đơ thị, trong đó nhiều văn bản luật lần đầu tiên đã được nghiên cứu, xây dựng và ban hành như Luật
Xây dựng năm 2003, Luật Nhà ở năm 2005, Luật Kinh doanh bất động sản năm 2006 và đặc biệt là Luật Quy
hoạch đô thị vừa được Quốc hội thông qua tháng 6-2009. Các văn bản luật và hệ thống văn bản dưới luật đã
thường xuyên được rà soát, điều chỉnh để từng bước đi vào cuộc sống, góp phần quan trọng trong việc tạo hành
lang pháp lý đầy đủ, thơng thống, hướng tới sự phát triển bền vững hệ thống đô thị Việt Nam.
<b>* Những vấn đề hạn chế </b>
- Công tác lập quy hoạch xây dựng đơ thị nhìn chung đã được quan tâm triển khai. Tất cả các đô thị từ loại IV
trở lên đều đã có quy hoạch được phê duyệt. Tuy nhiên, tỷ lệ phủ kín quy hoạch chi tiết tại các đơ thị của cả nước
cịn thấp. Tỷ lệ trung bình trong cả nước hiện nay là khoảng 45%, không đồng đều giữa các đơ thị và vùng, miền.
Ðiều đó có ảnh hưởng lớn đến việc thu hút đầu tư, bố trí nguồn lực phát triển cũng như cơng tác quản lý xây dựng
đô thị theo quy hoạch.
- Mặt khác, tốc độ tăng trưởng và đơ thị hóa cao tại phần lớn các đô thị đã dẫn đến sự mất cân đối trong khả
năng đáp ứng của hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị. Mặc dù việc cấp nước sạch đã được cải thiện đáng kể
nhưng tỷ lệ thất thốt, thất thu nước bình qn vẫn cao từ 20 đến 30%, vừa gây thất thoát nguồn tài nguyên quan
trọng, vừa giảm nguồn thu cho ngân sách. Tình trạng úng ngập, tắc nghẽn giao thông tại đô thị cịn diễn ra phổ
- Những cán bộ đã qua đào tạo chuyên môn lĩnh vực xây dựng và phát triển đô thị mới chỉ chiếm từ 9 đến 11%
ở cấp xã, phường, chưa đáp ứng được mức độ địi hỏi của khối lượng cơng việc. Mặt khác, do lĩnh vực quản lý đô
thị và kinh tế đô thị còn là vấn đề khá mới mẻ, chúng ta vừa làm vừa rút kinh nghiệm để phù hợp đặc thù của
nước ta, do đó ở nhiều nơi, vai trị của chính quyền đơ thị trong việc điều phối các đối tượng và điều tiết nguồn
lực tham gia trong quá trình phát triển đơ thị cịn có nhiều hạn chế, dẫn đến thực tế vẫn cịn phổ biến tình trạng
thiếu thơng tin, chồng chéo giữa các lĩnh vực.
<b>* Giải pháp: Để nâng cao hiệu quả công tác quản lý đô thị đáp ứng các yêu cầu phát triển của các đô thị</b>
trong cả nước đáp ứng các yêu cầu phát triển bền vững, chính quyền đơ thị các cấp cần đặc biệt lưu ý một số vấn
đề sau:
- Xác định tầm quan trọng của công tác quy hoạch, không ngừng đẩy mạnh vai trị cơng tác lập quy hoạch
và nâng cao chất lượng quy hoạch.
- Trong quản lý đô thị công tác quy hoạch phải được ưu tiên đầu tư đi trước một bước, là tiền đề để định
hướng và bảo đảm tính đồng bộ trong q trình xây dựng phát triển cũng như cải tạo và chỉnh trang đô thị.
- Huy động các nguồn tài chính từ ngân sách, đặc biệt chú trọng việc đổi mới cơ chế, chính sách phát triển
đô thị trong các lĩnh vực quản lý nhà nước, quản lý quy hoạch, quản lý đất đai, nhà ở, quản lý khai thác sử dụng
cơng trình đơ thị, kết hợp với các chính sách phù hợp nhằm huy động sự tham gia của các thành phần kinh tế
trong xã hội, nội lực trong nhân dân, thực hiện chủ trương xã hội hóa đầu tư cho phát triển đơ thị để tập trung đầu
tư hồn chỉnh kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị, nâng cao chất lượng, tiện nghi, môi trường sống cho nhân dân. Đặc
biệt chú trọng đến các cơng trình hạ tầng về thốt nước và xử lý nước thải, rác thải, giao thông, hệ thống chiếu
sáng, cây xanh, các trường học, các trung tâm hoạt động văn hóa, thể dục thể thao, các khu thương mại…
- Làm tốt công tác tuyên truyền về xây dựng nếp sống văn hóa đơ thị và ý thức về trật tự đô thị, để người dân
thực hiện nếp sống văn hóa đơ thị trong mọi hoạt động như văn hóa trong xây dựng, cải tạo nhà cửa, văn hóa
trong kinh doanh, bn bán, bày bán hàng hố, văn hóa trong giữ gìn, bảo vệ mơi trường, cảnh quan, văn hóa
trong bảo đảm an tồn giao thơng, văn hóa trong tổ chức hiếu, hỷ. v.v.
tiêu cực, lạc hậu, đồng thời khen thưởng kịp thời những tổ chức, cá nhân có thành tích tốt trong việc xây dựng
nếp sống văn hóa đơ thị. Bên cạnh việc thực hiện tốt tuyên truyền giáo dục ý thức thực hiện nếp sống văn hóa đơ
thị thì cơng tác kiểm tra, phát hiện và xử lý nghiêm minh các vi phạm cũng góp phần tạo ra thói quen sống có văn
hóa và văn minh, tơn trọng người khác và cộng đồng.
- Cần đẩy mạnh hơn nữa việc đổi mới tư duy trong quản lý nhà nước về đô thị đi đôi với việc nâng cao
phẩm chất, năng lực và trình độ cán bộ quản lý đơ thị các cấp. Tăng cường phân cấp quản lý đô thị, nâng cao
quyền hạn, trách nhiệm của chính quyền địa phương, tổ chức bộ máy tinh giản, gọn nhẹ nâng cao tính hiệu quả,
hiệu lực quản lý.
<b>KẾT LUẬN:</b>
Quản lý nhà nước về đơ thị có tầm quan trọng đặc biệt để bảo đảm cho sự phát triển bền vững, đảm bảo và
giải quyết hài hịa các lợi ích trước mắt và lâu dài, bộ phận và toàn cục, cá thể và cộng đồng. Đó khơng chỉ là một
nhiệm vụ đơn thuần của cơ quan quản lý hành chính, mà là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, của nhiều cơ quan,
trong đó chính quyền với hệ thống cơ quan chức năng đóng vai trị chính bên cạnh cịn có vai trị và sự tham gia
trực tiếp, thường xuyên của chính người dân, nhất là ở khu vực cư trú thông qua các tổ chức cộng đồng dân cư cơ
sở.
<b>Câu 3b : Phân tích thực trạng </b><b> hệ thống đơ thị (ĐT) và thực trạng QL đô thị Việt nam hiện nay ? (5đ)</b>
<i>1. Thực trạng đô thị VN (3đ) :</i>
<i>*Ưu điểm :</i>
- Tốc độ <sub></sub> ĐT nước ta khá nhanh cả về số lượng và chất lượng, tạo nên 1 số lượng cơ sở hạ tầng bằng mấy chục
- ĐT đã đảm bảo được việc tăng ngân sách NN, đảm bảo vững nền QP-AN.
- Phương pháp QLNN về ĐT trong thời gian qua đã đổi mới 1 cách đáng kể thể hiện ở các văn bản pháp luật, QL
quy hoạch, đất đai xây dựng ĐT đã được soạn thảo và ban hành tương đối đầy đủ, đồng bộ góp phần tăng cường
QL ĐT trên cả lĩnh vực đặc biệt là trong việc đổi mới lập xét duyệt quy hoạch ĐT, tăng nguồn vốn thu tài chính.
- ĐT đã được cải tạo từ hình thức manh mún nhỏ lẻ sang xây dựng tập trung theo quy hoạch, dự án.
- Việc triển khai cải cách các thủ tục hành chính nhằm nâng cao hiệu lực QLNN về ĐT đã thu được 1 số kết quả
đáng quan tâm.
<i>* Hạn chế :</i>
- Cơ sở kinh tế kỹ thuật of ĐT còn yếu, tăng trưởng kinh tế chưa cân xứng với dân số, gây nên tình trạng thất
nghiệp ngày càng cao, số dân cư từ nông thôn di cư ra ĐT nhiều làm tăng tình trạng vơ gia cư gây bức xúc lớn.
- Tình trạng phân bố dân cư và sử dụng đất nơng nghiệp vào mục đích xây dựng ĐT đang là 1 nguy cơ lớn đối với
vấn đề an ninh lương thực, thực phẩm, hiện nay 70% số dân cư ĐT đang ở các vùng đòng bằng ven biển nơi tập
trung chủ yếu quỹ đất nông nghiệp of nước.
- Hệ thống các ĐT tại trung tâm vẫn chưa hình thành, đều khắp các vùng, khoảng 50% tập trung tại 2 ĐT lớn là
Hà Nội và HCM, các vùng sau, xa, núi hải đảo thiếu ĐT trung tâm, thiếu động lực <sub></sub>.
- Cơ sở hạ tầng nhìn chung cịn yếu kém, không đảm bảo được các điều kiện cho CNH, HĐH đất nước, hạ tầng
không đồng bộ, môi trường sống bị ô nhiễm, xuống cấp, mạng lưới giao thông chưa <sub></sub>, giao thơng cơng cộng chiếm
tỷ lệ thấp dẫn đến tình trạng ách tắc giao thơng.
- Vấn đề cấp thốt nước rất kém, chỉ có 47% dân cư được dùng nước sạch, cịn 45% bị thất thốt, mạng lưới cổng
thốt nước, vệ sinh ĐT chưa được giải quyết còn hiện tượng ngập úng, ô nhiễm.
<i>2. Thực trạng QL ĐT : (2đ)</i>
- Quản ký ĐT chưa làm chủ được tình hình <sub></sub> ĐT, cịn có nhiều bất cập, chưa đáp ứng được nhu cầu <sub></sub> of ĐT hiện
nay. Cụ thể, tình trạng <sub></sub> ĐT khá lộn xộn, chỉ <sub></sub> ở dọc các trục quốc lộ không theo quy định và pháp luật còn khả phổ
biến, mặc dù vậy vấn chưa có biện pháp để ngăn chặn, vai trị of các cấp chính quyền vấn chưa được phát huy đầy
đủ trong công việc tổ chức thực hiện pháp luật và các quy hoạch ĐT.
- Các quy hoạch ĐT chi tiết: còn thiếu, chưa khả thi hay kém chất lượng, kiến trúc ĐT chưa được định hướng kỹ
nhiều di sản kiến trúc văn hoá truyền thống đang bị vi phạm biến dạng 1 cách nghiêm trọng, cần được khôi phục
lại.
- Hiện nay cịn có nhiều cơ quan đơn vị tham gia vào việc QL ĐT, nhưng lại thiếu hẳn cơ quan điều phối chung,
nó gây ra nhiều vấn đề chồng chéo, phức tạp và không hợp lý.
- Trong công tác QL ĐT, thì thủ tục hành chính trong vấn đề cấp đất, giấy phép xây dựng, thẩm định các dự án
đầu tư cịn nhiều phiếu hà, vấn đề về thuế, phí còn bất hợp lý chưa phù hợp với thực tiễn nên gây khó khăn cho
các nhà đầu tư và nhân dân, dẫn đến tình trạng xây dựng khơng phép, chuyển nhượng ngầm đất đai,…