Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.91 KB, 12 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span>Phòng GD Krông Nô Trường THCS Đăk Sôr BÁO CÁO NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SƯ PHẠM ỨNG DỤNG. Đề tài : SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP ĐƯA TRÒ CHƠI VÀO TRONG QUÁ TRÌNH GIẢNG DẠY MÔN ÂM NHẠC NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ BÀI HỌC VÀ TẠO HỨNG THÚ CHO HỌC SINH ( Lớp 6 TRƯỜNG THCS ĐĂK SÔR). Năm 2012.
<span class='text_page_counter'>(2)</span> Mục lục Mục lục ………………………………...…...............….. …............. - 3 Lời nói đầu :…………………………………….......………........... – 4 I. Tóm tắt …………………………………… ……….............…. – 5 I.1 Mục đích ………………………………………..…………..– 5 – I.2 Quy Trình…………………………………………………...– 5 – I.3 Kết quả…..………………………………..……...– 5 – II. Giới thiệu .…………………………………………….…………….. – 5 – II.1.a: Hiện trạng……………………………………..............– 5 – II.1.b: Nguyên nhân…………………………………..............– 5 – II.2: Giải pháp thay thế ………………………………………… 5 – II.3: Một số nghiên cứu gần đây liên quan đến đề tài…………..– 5 – II.4: Vấn đề nghiên cứu và giải thiết nghiên cứu………….……...– 5 – II.4.a: Vấn đề nghiên cứu…………………………….…….– 5 – II.4.b: Giả thiết nghiên cứu……………..……………… .. .– 6 – III. Phương pháp..…………………… ………………..…….… …– 6 – III.1 Khách thể nghiên cứu…………………………..…. – 6 – III.2 Thiết kế……………………………………..……….. – 6 – III.3 Quy trình ..……………………………… …….……. – 6 – III.4 Đo lường ………………………….………………… –7– IV. Phân tích dữ liệu và kết quả ………………………………….. – 7 – V. Bàn luận …………………………………………………..– 8 – V.1 Ưu Điểm ……………………………………..………..... – 8– V.2 : Hạn Chế ……………………………………………..….. – 8 – VI. Kết luận và khuyến nghị ………………………………….…..– 9 – VI.1 : Kết Luận …………………………………………...…......– 9– VI.2: Kiến Nghị ………………………………………..……... ...– 9 – VII. Tài liệu tham khảo …………………………………….……… – 9 – VIII. Phụ lục ……………………………………................….... – 9 –.
<span class='text_page_counter'>(3)</span> Lời nói đầu Trong thời kỳ đổi mới và phát triển mọi mặt về kinh tế- văn hoá- chính trị và xã hội hiện nay Đảng và nhà nước ta luôn coi trọng vấn đề Giáo dục con người phát triển toàn diện đặc biệt là thế hệ trẻ. Giáo dục đã trở thành nhân tố tích cực, một động lực thúc đẩy sự phát triển của sản xuất mà sản phẩm chính là nguồn nhân lực cho xã hội, mở đường cho sự phát triển kinh tế khoa học công nghệ, văn hoá…vv. Đại hội VIII của Đảng ta khẳng định: “Phát triển giáo dục và khoa học là quốc sách hàng đầu nhằm xây dựng chiến lược con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đưa đất nước phát triển nhanh chóng và bền vững, mau chóng sánh vai được với các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới” từ ý nghĩa và tầm quan trọng ấy mà đòi hỏi ngành giáo dục phải đổi mới mục tiêu, nội dung, hình thức, phương pháp đào tạo, nhằm nâng cao chất lượng đào tạo một cách toàn diện có hiệu quả cao, thiết thực. Đặc biệt là hệ thống giáo dục phổ thông, một bậc học vô cùng quan trọng. Đây là bước tạo nên sự hình thành và phát triển nhân cách của lớp trẻ Việt Nam. Một trong những môn học có ý nghĩa to lớn và tích cực trong việc hình thành và phát triển nhân cách toàn diện cho học sinh đó là môn âm nhạc. Âm nhạc là loại hình nghệ thuật quan trọng, gắn bó với cuộc sống thường ngày của mỗi con người, phản ánh cuộc sống bằng các hình tượng âm thanh cho con người từ lúc sinh ra cho đến hết cuộc đời. Bởi vậy những cá nhân tập thể và các cơ quan chức năng cần có những biện pháp, trách nhiệm hướng dẫn cho tuổi trẻ thưởng thức âm nhạc, hiểu âm nhạc một cách có hiệu quả cao nhất, thiết thực nhất. Mục đích của giáo dục âm nhạc trong nhà trường THCS là vô cùng quan trọng, bởi đã đưa âm nhạc vào đời sống của học sinh góp phần giáo dục thẩm mỹ, đạo đức lối sống, phát triển trí tuệ, thể chất ở học sinh, khích lệ các em có khả năng phát triển toàn diện để sau này trở thành những con người “Vừa hồng vừa chuyên” xây dựng đất nước đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của cách mạng dưới sự lãnh đạo của nước ta Là một giáo viên dạy tại trường THCS, trực tiếp giảng dạy bộ môn âm nhạc thông qua các phân môn: Dạy hát, nghe nhạc, tập đọc nhạc, âm nhạc thường thức, chính vì vậy phải có tinh thần trách nhiệm cao, có kiến thức chuyên môn giỏi, có tâm hồn và lối sống trong sáng lành mạnh, có tình thương yêu học sinh để hướng các em vào học môn âm nhạc có hiệu quả cao nhất. Với điều kiện hiện nay vừa là chủ quan vừa là khách quan, các phương tiện và cơ sở vật chất dành cho giảng dạy âm nhạc còn gặp nhiều khó khăn. Cho nên nhìn chung hiệu quả giáo dục môn âm nhạc, trong đó có phân môn học hát còn hạn chế. Qua học tập và thực tiễn trong công tác giảng dạy môn âm nhạc ở trường THCS . Tôi đã có những kết quả nghiên cứu để góp một phần nhỏ cho sự nghiệp chung và có những bổ ích thiết thực cho bản thân nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả giảng dạy phân môn học hát cho học sinh trường THCS nói chung và trường THCS nơi tôi giảng dạy nói riêng nhằm góp phần tích cực cho ngành giáo dục đào tạo nơi có nhiệm vụ cao cả là: “ Nâng cao trí tuệ, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước” đó chính là đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi ngày một cao hơn của ngành giáo dục đào tạo từ trung ương, tỉnh và huyện đã luôn luôn quan tâm, trực tiếp chỉ đạo, hướng dẫn cho giáo viên giảng dạy môn âm nhạc ở các cấp học phổ thông đúng quy định, khoa học và thiết thực. Ở bậc học sinh THCS học đủ 13 môn, riêng học sinh khối lớp 6 học 12 môn trong đó có cả môn âm nhạc. Ngoài nhiệm vụ cung cấp kiến thức, phương pháp đào tạo nhằm nâng cao chất lượng đào tạo đối với đội ngũ giáo viên phổ thông nói chung giáo viên âm nhạc noí riêng có khả năng đáp ứng được yêu cầu của ngành giáo dục đào tạo trong giai đoạn cách mạng mới đó là: Cung cấp kiến thức và rèn luyện kỹ năng về nghệ thuật âm nhạc và trước hết là ca hát cho học sinh. Riêng ở trường THCS nơi tôi đang giảng dạy môn âm nhạc, tôi vẫn thực hiện 3 phân môn: Học hát, Nhạc lý-tập đọc nhạc và âm nhạc thường thức có hiệu quả cao được học sinh yêu thích âm nhạc, tập trung tiếp thu bài giảng có hiệu quả tốt đẹp. Là giáo viên trực tiếp giảng dạy môn âm nhạc ở trường THCS một yêu cầu được đặt ra cho bản thân tự rèn luyện phấn đấu, đó là làm thế nào để dạy tốt quả là không đơn giản. Bởi vậy tôi luôn cố gắng vươn lên để học tập nghiệp vụ, lý luận về chuyên môn thật giỏi. Gắn lý luận với thực tiễn, bám sát đường lối chủ trương của đảng nhà nước về đường lối văn hoá văn nghệ của đảng, nắm vững yêu cầu và sự đòi hỏi của ngành giáo dục đào tạo trong giai đoạn hiện nay cũng như qua kinh nghiệm giảng dạy tôi đã chọn và nghiên cứu đề tài này ..
<span class='text_page_counter'>(4)</span> Đề tài : ĐƯA TRÒ CHƠI VÀO TRONG QUÁ TRÌNH GIẢNG DẠY MÔN ÂM NHẠC NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ BÀI HỌC VÀ TẠO HỨNG THÚ CHO HỌC SINH. Tác giả : Hồ Sỹ Bắc – Trường THCS Đăk Sôr I. TÓM TẮT I.1 Mục đích : Trong thời kỳ đổi mới và phát triển ca hát luôn là món ăn tinh thần cho con người cũng như trong chương trình giáo dục ở các cấp học .Đối với các cấp tiểu học, THCS thì đây là kiến thức ban đầu giúp cho học sinh học và biết ca hát theo một quy định chung nhất. Nhưng qua thực tế việc giảng dạy phân môn này ở trường THCS, tôi thấy còn rất nhiều khó khăn như: Ngoài sự quan tâm của ngành giáo dục, sự giúp đỡ của các lãnh đạo và giáo viên trong trường thì mong muốn của tôi là đội ngũ giáo viên âm nhạc phải thật đồng bộ từ cấp mầm non, tiểu học và THCS. Vì nếu không có sự đồng bộ thì việc truyền thụ kiến thức sẽ gặp khó khăn cho giáo viên dạy các lớp sau. Ví dụ: giáo viên dạy mẫu giáo có khả năng gây sự say xưa yêu thích học hát, nghe âm nhạc cho các em ngay buổi ban đầu và tiếp đó khi lên cấp tiểu học các em đã vốn có cảm tình yêu thích học hát, nghe âm nhạc đây là cơ sở tốt cho giáo viên âm nhạc truyền thụ những kiến thức mới cho ở cấp tiểu học cho các em. Học xong tiểu học cũng như các môn học khác, các em đã có sẵn vốn kiến thức nói chung. Riêng môn âm nhạc và học hát vốn là sở thích của các em khi ở độ tuổi ban đầu “Học mà chơi, chơi mà học” ở các cấp mẫu giáo và ở các cấp đầu bậc tiểu học, lên cấp THCS, các em đã có kiến thức và sự say mê cộng với sự nhiệt tình, tinh thần trách nhiệm và đặc biệt là trình độ năng lực nghiệp vụ chuyên môn của giáo viên âm nhạc ở mức độ cao hơn sẽ tạo ra sự say mê ham thích, ưu ái môn học này. Đây là động lực to lớn để thúc đẩy các môn học khác và các hoạt động xã hội của nhà trường. Ta đã biết rằng bất kỳ làm việc gì nếu có hứng thú thì sẽ dễ đi đến thành công, đặc biệt là đối với học sinh do đặc điểm tâm sinh lý của lứa tuổi các em. Nếu thích thú thì các em sẽ làm tốt, khi hoạt động nhận thức của học sinh dựa trên cơ sở của hứng thú nó sẽ trở nên hào hứng, thoải mái và dễ dàng. Hứng thú trong học tập nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, nuôi dưỡng ở các em lòng ham muốn chính đáng trong việc không ngừng vươn tới những đỉnh cao của việc nắm vững kiến thức, luôn tìm tòi học tập cái mới tích cực sáng tạo cái đã học vào hoạt động thực tiễn. Môn học nào cũng có khả năng gây hứng thú cho học sinh. Âm nhạc bản thân nó cũng là nguồn cảm hứng cho nhiều người. Tạo cho các em hứng thú trong học tập môn âm nhạc không chỉ nâng cao hiệu quả dạy học mà còn làm cho các em vui tươi phấn khởi thoải mái về tinh thần. Xuất phát từ thực tế hiện nay là đang thực hiện các cuộc vận động “ Mỗi thầy giáo, cô giáo là một tấm gương đạo đức tự học và sáng tạo”. Mỗi thầy cô giáo phải tự đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới kiểm tra đánh giá ( từ năm học 2008 – 2009 đến nay đánh giá học sinh bằng hình tức xếp loại ) học sinh tự chủ động chiếm lĩnh kiến thức, giáo viên là người hướng dẫn điều khiển việc tạo hứng thú học tập cho các em có vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả chất lượng dạy học Là một giáo viên giảng dạy bộ môn âm nhạc, bản thân tôi nhận thấy đó là một trong những yếu tố hết sức quan trọng. Như chúng ta đã biết âm nhạc có vai trò rất to lớn, âm nhạc đem đến những khoái cảm thẩm mỹ cao, là món ăn tinh thần không thể thiếu trong cuộc sống của con người. Trong những năm qua, từ khi nước ta bước sang thế kỷ XXI, sự nghiệp giáo dục đào tạo âm nhạc có điều kiện phát triển những bước cao hơn. Cho đến ngày nay việc đưa âm nhạc vào học đường đã được chú trọng vì những lợi ích quan trọng của nó trong việc giáo dục học sinh thành những con người toàn diện. Bởi vậy việc dạy âm nhạc ở trường phổ thông nói chung và cấp học THCS nói riêng, mặc dù không nhằm đào tạo các em thành những con người hoạt động nghệ thuật chuyên nghiệp mà chủ yếu là giáo dục văn hoá âm nhạc, làm cho các em yêu thích nghệ thuật âm nhạc, hình thành ở học simh một tâm hồn trong sáng, một thị hiếu âm nhạc lành mạnh, cách tư duy sắc sảo, lòng khát khao sáng tạo, giàu tình cảm nhanh nhẹn hoạt bát và sống vui tươi. Âm nhạc phát triển tối đa những tố chất sinh lý, những phẩm chất tâm lý của lứa tuổi học sinh, tạo điều kiện để các em hoàn chỉnh và cân đối về tâm hồn, trí tuệ và thể chất, làm phong phú tình cảm của lứa tuổi học trò..
<span class='text_page_counter'>(5)</span> Mặt khác qua đó phát triển bồi dưỡng những mầm non nghệ thuật cho tương lai đất nước. Đây là một môn học còn rất mới mẻ không giống những môn học khác, môn học mang tính nghệ thuật cao, học sinh học theo phương châm học vui- vui học. Vì vậy, tạo cho các em say mê hứng thú học tập là rất cần thiết. I.2 Quy Trình : Chuẩn bị các bước nghiên cứu. Thiết kế bài dạy , sử dụng các câu hỏi kiểm tra đánh giá . Phân tích kết quả , rút ra kết luận . I.3 Kết quả Qua nghiên cứu cho thấy kết quả rất khả quan , đem lại hiệu quả rất tốt về ý thức của học sinh trong vấn đề bảo vệ môi trường . II. Giới thiệu II.1.a: Hiện trạng Xuất phát từ sự thay đổi về mặt tâm sinh lý lứa tuổi và một số học sinh còn xem môn học âm nhạc là một môn phụ, các em chỉ quan tâm đến môn học mà các em đã định hướng cho nghề nghiệp tương lai sau này nên một số học sinh chưa thực sự hứng thú học. Trên thực tế hiện nay tại các trường THCS tôi thấy số giáo viên được đào tạo chuyên sâu vào môn Âm nhạc tương đối đầy đủ với nhiều loại hình đào tạo (Trung cấp SP, CĐSP, ĐHSP Âm nhạc)… Tuy nhiên trong quá trình giảng dạy còn một số bộ phận giáo chưa đáp ứng hết yêu cầu của bộ môn. Dạy còn mang tính chất qua loa, chưa thực sự gây hứng thú đối với học sinh. Bởi vì đặc trưng của bộ môn âm nhạc khác so với nhiều môn học khác ( dạy học không nên cứng nhắc, áp đặt, máy móc). Mặt khác, có một số giáo viên chưa thực sự nắm vững đặc trưng của bộ môn nên trong quá trình dạy còn hơi cứng nhắc dẫn đến học sinh thấy tiết học nhạc còn nặng nề không tập trung học. Để cung cấp kiến thức khoa học, giáo dục tư tưởng và rèn luyện kỷ năng cho học sinh , giáo viên phải làm cho học sinh ham mê hứng thú học tập, làm cho quá trình học tập của các em trở nên tự giác tạo nên niềm vui trong học tập và giúp các em tích cực, chủ động hơn trong hoạt động âm nhạc. Bất kỳ môn học nào cũng có khả năng gây hứng thú học tập đối với học sinh. Bản thân nghệ thuật âm nhạc nói chung và môn âm nhạc ở trường THCS nói riêng là nguồn cảm hứng là sự kích thích, sự say mê học tập của học sinh nhưng không phải dạy như thế nào cũng gây được hứng thú cho học sinh đặc biệt là học sinh hai khối (lớp 8 và lớp 9). II.1.b: Nguyên nhân + Các em chưa chú trọng vào môn nhạc do chú trọng các môn học chính như văn toán . + Một số học sinh không có năng khiếu nên chán + Giáo viên dạy chưa có sức hút II.2: Giải pháp thay thế Rõ ràng ngay từ bước chân của giáo viên vào lớp với thái độ vui vẻ thân mật đối với học sinh, việc đánh giá công bằng trong việc kiểm tra miệng...đều là những yếu tố góp phần tạo nên không khí hào hứng chung của cả lớp để chuẩn bị bước vào bài học mới, nhưng sự hứng thú học tập chỉ thực sự bắt đầu với phần giới thiệu đề mục mới tạo sự hấp dẫn đối với học sinh. Giải pháp thay thế là : ”Đưa trò chơi vào trong quá trình giảng dạy môn âm nhạc nhằm nâng cao hiệu quả bài học và tạo hứng thú cho học sinh”. II.3: Một số nghiên cứu gần đây liên quan đến đề tài + ‘ một số phương pháp tạo hứng thú cho học sinh khi học âm nhạc” của Huỳnh văn tới + “Thực trạng và một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy phân môn học hát tại trường THCS" của Tống Thị Kiều Oanh ( Quỳ Châu ) .II.4: Vấn đề nghiên cứu và giải thiết nghiên cứu II.4.a: Vấn đề nghiên cứu Việc áp dụng các phương pháp Đưa trò chơi vào trong quá trình giảng dạy môn âm nhạc có nâng cao hiệu quả bài học và tạo hứng thú cho học sinh không ? II.4.b: Giả thiết nghiên cứu Việc áp dụng các phương pháp Đưa trò chơi vào trong quá trình giảng dạy môn âm nhạc sẽ nâng cao hiệu quả bài học và tạo hứng thú cho học sinh III. Phương pháp III.1 Khách thể nghiên cứu Tôi chọn lựa đối tượng nghiên cứu là học sinh khối lớp 6 Trường THCS Đăk Sôr . Từ đối tượng chính là học sinh lớp 6 có thể giúp tôi đi sâu nghiên cứu thêm về các đối tượng khác, để môn học.
<span class='text_page_counter'>(6)</span> hát trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu được trong đời sống nhân dân. Đặc biệt là giới trẻ để sớm đưa ra những giải pháp nâng cao chất lượng dạy phân môn học hát tại trường III.2 Thiết kế ở đây tôi sử dụng thiết kế 1.Kiểm tra trước và sau tác động của nhóm học sinh tương đương Bảng 3. Thiết kế nghiên cứu Nhóm Kiểm tra trước Tác động Kiểm tra sau tác tác động động N1. O1. N2. O2. Dùng phương pháp đưa trò chơi vào trong quá trình giảng dạy môn âm nhạc nhằm nâng cao hiệu quả bài học và tạo hứng thú cho học sinh Không dùng tác động. O3 O4. N1 : nhóm thực nghiệm N2 : nhóm đối chứng O3 – O4>0 tác động có ảnh hưởng • N1 và N2 hai lớp học sinh có trình độ tương đương. • N1 là lớp 6D1 có 37 Hs , N2 là lớp 6D2 có 38 HS ở thiết kế này, tôi sử dụng phép kiểm chứng T-Test độc lập III.3 Quy trình Tôi Thiết kế bài dạy có sử dụng các phần mềm ứng dụng bổ trợ , sưu tầm, lựa chọn thông tin tại các website baigiangdientubachkim.com, baigiang.violet.vn, và các tài liệu liên quan như: chuẩn kiến thức kỹ năng , SGK , SGV , nghiên cứu đề tài của Huỳnh Văn Thời ( Cát Tường), Tống Thị Kiều Oanh ( Quỳ châu - Nghệ an ) …....... và tham khảo các bài dạy của Phan Thị Lưu (Nam Đà), Đỗ Dức Khanh ( Đăk Mâm) .v.v.. Trong quá trình giảng dạy tôi có thể thực hiện 1 trong các phương pháp giáo dục tác động ,ở đây tôi sử dụng phương pháp đưa trò chơi vào trong qua trình giảng dạy làm phương pháp chính , ngoài ra tôi còn kết hợp 1 số phương pháp khác ( phụ lục ) Thời gian giảng dạy tôi thực hiện theo lịch của nhà trường , cũng có thể sử dụng các buổi ngoại khóa thực tế để triển khai. Tôi tiến hành kiểm tra trước tác động . Sau đó tôi tiến hành tác động tới đối tượng cần nghiên cứu. và ghi lại số liệu . Cuối cùng phân tích số liệu và đưa ra kết luận. III.4 Đo lường. Tôi sử dụng bài kiểm tra để đánh giá tác động , từ đó phân tích dữ liệu và rút ra kết luận Bài kiểm tra trước tác động ( phụ lục 3) Bài kiểm tra sau tác động là bài kiểm tra (phần phụ lục 4 ). IV. Phân tích dữ liệu và kết quả . Bảng 5. So sánh điểm trung bình bài kiểm LỚP THỰC NGHIỆM LỚP ĐỐI CHỨNG Mốt (MODE) 5 7 5 6 Trung vị (MEDIAN) 5 7 5 6 Giá trị TB(AVERAGE) 5.5 7.3 5.34 6,1 Độ lệch chuẩn(SD) 1.41 1.35 1.49 1.42 giá trị P 0.28 0.000109 mức độ ảnh hưởng (SMD) 0.13 0.86 0.92 0.90 Giữa kết quả KT trước tác động và sau tác động của nhóm thực nghiệm.
<span class='text_page_counter'>(7)</span> Hình 1. Biểu đồ so sánh ĐTB trước tác động và sau tác động của nhóm thực nghiệm và nhóm đối chứng V. Bàn luận Như trên đã chứng minh rằng kết quả 2 nhóm trước tác động là tương đương. Sau tác động kiểm chứng chênh lệch ĐTB bằng T-Test cho kết quả P = 0,00028, cho thấy: sự chênh lệch giữa ĐTB nhóm thực nghiệm và nhóm đối chứng rất có ý nghĩa, tức là chênh lệch kết quả ĐTB nhóm thực nghiệm cao hơn ĐTB nhóm đối chứng là không ngẫu nhiên mà do kết quả của tác động. 7 ,35 −5 , 34 ≈ 0 , 86 . ( nằm trong khung 0,8- 1) Điều đó cho thấy 1, 41 mức độ ảnh hưởng của tác động đến TBC học tập của nhóm thực nghiệm là lớn. Kết quả của bài kiểm tra sau tác động của nhóm thực nghiệm là TBC= 7,35 , kết quả bài kiểm tra tương ứng của nhóm đối chứng là TBC = 6,1 . Độ chênh lệch điểm số giữa hai nhóm là 1,25 ; Điều đó cho thấy điểm TBC của hai lớp đối chứng và thực nghiệm đã có sự khác biệt rõ rệt, lớp được tác động có điểm TBC cao hơn lớp đối chứng. Chênh lệch giá trị trung bình chuẩn của hai bài kiểm tra là SMD = 0,86. Điều này có nghĩa mức độ ảnh hưởng của tác động là lớn. Phép kiểm chứng T-test ĐTB sau tác động của hai lớp là p=0.00028< 0.001. Kết quả này khẳng định sự chênh lệch ĐTB của hai nhóm không phải là do ngẫu nhiên mà là do tác động. Chênh lệch giá trị trung bình chuẩn SMD =. => Giả thuyết của đề tài “Đưa trò chơi vào trong quá trình giảng dạy môn âm nhạc nhằm nâng cao hiệu quả bài học và tạo hứng thú cho học sinh” đã được kiểm chứng. V.1 Ưu Điểm Phương pháp này giúp học sinh tham gia môn học một cách tích cực chủ động và hứng thú . Thu hút sự tập trung của học sinh trong tiết dạy . V.2 : Hạn Chế Việc gây hứng thú cho học sinh trong giờ học không chỉ một lần mà phải rèn luyện thường xuyên từ phút đầu đến phút cuối giờ học. Hơn nữa phải làm cho mức độ hứng thú ngày càng tăng đến nỗi các em không để ý thời gian trôi đi nhanh chóng và đến khi giờ học kết thúc học sinh còn luyến tiếc. VI. Kết luận và khuyến nghị VI.1 : Kết Luận Ngạn ngữ Nhật Bản có câu: “Tri thức mở ra cho chúng ta những chân trời mới”. Và bộ môn Âm nhạc cũng là một trong những yếu tố để đưa chúng ta đến những chân trời mới lạ. “ Nhờ có âm nhạc, bạn sẽ tìm được bản thân mình những sức mạnh mới mà trước đây chưa từng thấy. Các bạn sẽ thấy cuộc đời trong những sắc thái và màu sắc khác. Âm nhạc cũng đưa bạn xích lại gần lí tưởng về con người hoàn thiện, mục tiêu của công cuộc xây dựng chủ nghĩa cộng sản chúng ta” - Đ.SôtxatacôVich. Vai trò của âm nhạc đối với đời sống con người đã được khẳng định là vô cùng quan trọng. Chúng ta những giáo viên âm nhạc, hơn ai hết chúng nhận thức rất rõ điều này. Nhưng không thể chỉ có trình độ chuyên môn thôi chưa đủ, mà tình yêu âm nhạc, niềm đam mê với nghề mới giúp chúng ta đem những chân trời mới lạ trong từng câu hát đến với những học sinh thân yêu. Đó chính là tài sản quý giá mà mỗi người giáo viên phải trau dồi và gìn giữ. Điều này đã được Đảng và Nhà nước ta quan tâm thể hiện quan điểm đó qua các kì Đại hôi VII, VIII, IX. “Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội” mà nhìn ở góc độ nào đó thì âm nhạc cũng là văn hoá. Xuất phát từ thực tiễn đó, sáng kiến kinh nghiệm của tôi không chỉ phát hiện những khó khăn trở ngại của giáo viên và học sinh khối lớp 6 trường THCS trong việc giảng dạy và học tập phân môn Học hát mà còn đề xuất.
<span class='text_page_counter'>(8)</span> một số giải pháp khắc phục những khó khăn nhằm nâng cao hiệu quả dạy và học phân môn Học hát, góp phần nhỏ vào việc hình thành và phát triển nhân cách học sinh, thay đổi nhận thức của học sinh, giáo viên và phụ huynh học sinh về bộ môn Âm nhạc nói chung và phân môn Học hát nói riêng. Để nâng cao hiệu quả giảng dạy phân môn Học hát cũng như môn Âm nhạc cho học sinh nhằm trang bị cho các em một “Vốn văn hoá âm nhạc” phổ thông tối thiểu nhất là cả một quá trình phức tạp và lâu dài. VI.2: Kiến Nghị VI.2.a. đối với giáo viên Để tạo hứng thú đối với học sinh thì trước hết phải gây hứng thú cho học sinh ngay từ phần mở đầu bài học, phần giới thiệu đề mục mới. - Trong quá trình giảng dạy giáo viên phải biết phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh. - Giáo viên cần phải nắm đặc trưng của bộ môn, có phương pháp dạy học linh hoạt sáng tạo, phải tìm mọi cách để cải tiến cách dạy từng phân môn theo hướng tích cực hóa hoạt động của học sinh, bổ sung sáng tạo thêm nhiều thủ pháp sinh động, hấp dẫn, đa dạng hóa cách thức truyền đạt ở mỗi bài học. - Phương tiện dạy học phải đầy đủ, giáo viên phải biết sử dụng phương tiện dạy học như một yếu tố gây xúc cảm - Trong các tiết học phải tạo cho các em sự hứng thú từ đầu đến hết tiết học, tạo cho các em sự hứng thú vui tươi bởi vì đặc trưng bộ môn đó là học vui- vui học, tránh gò ép đối với học sinh. - Tăng cường các hoạt động âm nhạc trong lớp trong trường bằng hình thức tổ chức hội thi văn nghệ ngoại khóa. Muốn thực hiện những nội dung trên có hiệu quả đòi hỏi mỗi giáo viên phải không ngừng nâng cao kiến thức, tạo cho mình một trình độ chuyên môn vững vàng, thường xuyên học hỏi rút kinh nghiệm ở các đồng nghiệp. VI.2.b Đối với nhà trường Thường xuyên tổ chức cho các em giao lưu văn nghệ, thi hát…để các em làm quen với biểu diễn, từ đó các em sẽ mạnh dạn hơn. Thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn, nâng cao kiến thức cho giáo viên âm nhạc. Vì đây là một môn học mang tính đặc trưng riêng nên cần phải có phòng học bộ môn, trang bị thêm một số tranh ảnh, tài liệu phục vụ môn học.. IX. -. Tài liệu tham khảo SGV , SGK âm nhạc Tài liệu chuẩn kiến thức kỹ năng Trang web violet.vn, …. Phần mềm làm nhạc midi ..
<span class='text_page_counter'>(9)</span> X.. Phụ lục .. Phụ lục 1 : các phương pháp tạo hứng thú cho học sinh . 1. Trong quá trình giảng dạy cần đưa vào một số trò chơi vừa nâng cao hiệu quả bài học, vừa tạo hứng thú cho học sinh. Thực tế cho thấy nếu trong một tiết học giáo viên giành ít thời gian tổ chức trò chơi cho học sinh thì học sinh rất hào hứng học. Trong âm nhạc có rất nhiều trò chơi nhưng giáo viên phải biết tổ chức trò chơi phù hợp với từng bài học cụ thể. Ví dụ: Trong học hát có trò chơi “Nhìn tranh đoán tên bài hát”, “Nghe nhạc đoán bài hát”, “nghe tiết tấu đoán câu hát”. Trong tiết tập đọc nhạc có thể cho học sinh chơi trò chơi “Nghe nhạc đoán tên nốt”, hoặc “ghi tiết tấu của bài”, hoặc nghe nhạc doán câu nhạc trong bài Tập đọc nhạc và đọc lại... Trường hợp đọc , kể chuyện theo sách có thể giáo viên đọc cho học sinh cả lớp nghe. Nếu cần tóm tắt ý chính và nêu câu hỏi cho học sinh trả lời . Bài nào có tranh minh hoạ cần sưu tầm , phóng to những hình vẽ trong sách treo trên bảng. Mỗi câu chuyện kể phải nhấn mạnh một đôi ý để gây ấn tượng cho các em. Bên cạnh đó lời nói giọng hát, phong cách năng lực của giáo viên là hết sức quan trọng, đây là một trong những yếu tố gây hứng thú đối với học sinh. 2/ Phải gây hứng thú cho học sinh ngay từ phần mở đầu bài học, phần giới thiệu đề mục mới: Rõ ràng ngay từ bước chân của giáo viên vào lớp với thái độ vui vẻ thân mật đối với học sinh, việc đánh giá công bằng trong việc kiểm tra miệng...đều là những yếu tố góp phần tạo nên không khí hào hứng chung của cả lớp để chuẩn bị bước vào bài học mới, nhưng sự hứng thú học tập chỉ thực sự bắt đầu với phần giới thiệu đề mục mới tạo sự hấp dẫn đối với học sinh. 3/ Trong quá trình giảng dạy giáo viên phải biết phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh nhằm gây hứng thú học tập cho các em. Thực chất của việc học tập là chuỗi của quá trình: vấn đề được đặt ra, được nhận thức rồi được đặt ra và được nhận thức ở mức độ cao hơn, đặc trưng của môn âm nhạc là thực hành. Thực hành là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình dạy và học bộ môn. Thông qua thực hành để dạy lý thuyết, lấy lý thuyết để củng cố kỹ năng thực hành trên cơ sở sử dụng thời gian trên lớp một cách tối ưu ( tránh thời gian chết ) để tất cả học sinh được nhìn nghe và luyện tập nhiều. Thực tế cho thấy nếu trong một tiết học giáo viên đặt ra nhiều câu hỏi vừa sức đối với học sinh, học sinh dễ hiểu dễ nhớ, hay cho các em nghe, nhìn thể hiện nhiều thì học sinh rất có hứng thú học, tạo động cơ học tập tốt. 4/ Vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học: Tránh cách dạy thông báo khô khan tẻ nhạt. Giáo viên phải nắm chắc đặc trưng môn học âm nhạc để có cách dạy cho phù hợp, giờ học âm nhạc phải là giờ học nghệ thuật hấp dẫn với phương châm học vui - vui học . Tránh dạy lý thuyết trừu tượng và dạy Tập đọc nhạc ( TĐN ) nặng nề, căng thắng. Phải tìm mọi cách cải tiến cách dạy từng phân môn theo hướng tích cực hoá hoạt động của học sinh. Bổ sung sáng tạo thêm nhiều thủ pháp sinh động, hấp dẫn, đa dạng hoá cách thức truyền đạt ở mỗi bài học mỗi tiết dạy. * Đối với học hát: Muốn gây hứng thú cho thì vai trò của giáo viên rất to lớn, đó là quá trình chuẩn bị của giáo viên, giọng hát của giáo viên, phong cách biểu diễn ...cách tiến hành dạy hát theo phương pháp dạy truyền miệng (kết hợp với nhạc cụ) từng câu ngắn theo lối móc xích, giáo viên hát mẫu rồi học sinh hát theo, giáo viên có thể đánh đàn giai điệu cho học sinh nghe từng câu ngắn và tập hát lời ca. Sau khi thuộc bài hát có thể học sinh kết hợp một số động tác phụ họa đơn giản hoặc vận động thân thể theo nhạc ( nhịp điệu). Cuối cùng cho học sinh tập biểu diễn thể hiện giọng hát của mình kết hợp động tác phụ hoạ. *Đối với dạy nhạc lý- Tập đọc nhạc. Lâu nay khi dạy về Nhạc lí giáo viên thường định nghĩa, giảng giải ít xuất phát từ thực tiễn âm nhạc qua các ví dụ sinh động để rút ra nhận nhận xét, kết luận. Về tập đọc nhạc các giáo viên chịu ảnh hưởng sâu sắc phương.
<span class='text_page_counter'>(10)</span> pháp dạy cho học sinh chuyên nghiệp âm nhạc, gây nên tâm lý căng thẳng nặng nề không cần thiết, làm cho học sinh sợ Tập đọc nhạc. Những tiết dạy như vậy thường kém hiệu quả, học sinh không hứng thú học. Vì vậy để tạo cho các em sự hứng thú trong học tập cách dạy tập đọc cao độ nên cho các em dựa vào tiếng đàn làm mẫu của giáo viên, kỹ năng thể hiện trường độ và tiết tấu phải được quan tâm nhiều hơn nữa bằng những bài tập riêng trong nhiều tiết học. Giáo viên đàn từng câu ngắn để các em đọc theo đúng tên nốt nhạc và cuối cùng học sinh trong lớp đọc đúng được cả bài đọc nhạc. Dạy nhạc lý – Tập đọc nhạc phải thật nhẹ nhàng, dễ học với đại đa số học sinh. * Đối với dạy âm nhạc thường thức: Phân môn này bao gồm các nội dung: Giới thiệu tác giả tác phẩm, nghe nhạc và một số kiến thức liên quan đến đời sống âm nhạc. Để tạo ra hứng thú đối với phân môn này giáo viên có thể tiến hành dưới các hình thức: Đọc truyện, kể chuyện. Xem tranh và giải thích Nghe băng nhạc hoặc giáo viên tự trình bày tác phẩm. Trường hợp đọc , kể chuyện theo sách có thể giáo viên đọc cho học sinh cả lớp nghe. Nếu cần tóm tắt ý chính và nêu câu hỏi cho học sinh trả lời . Bài nào có tranh minh hoạ cần sưu tầm , phóng to những hình vẽ trong sách treo trên bảng. Mỗi câu chuyện kể phải nhấn mạnh một đôi ý để gây ấn tượng cho các em. Bên cạnh đó lời nói giọng hát, phong cách năng lực của giáo viên là hết sức quan trọng, đây là một trong những yếu tố gây hứng thú đối với học sinh 5. Giáo viên phải biết sử dụng phương tiện dạy học như một yếu tố gây xúc cảm. Một giờ học sinh động giáo viên không thể không sử dụng phương tiện dạy học. Đồ dùng dạy học phổ biến đó là sách giáo khoa, nhạc cụ tranh ảnh. Các phương tiện đó giáo viên phải biết sử dụng cho phù hợp với nội dung từng bài học. Biết minh hoạ một cách độc đáo, thú vị sẽ kích thích hứng thú học tập của các em. Kinh nghiệm đã xác nhận nếu chỉ lặp lại những kiến thức trong sách giáo khoa thì học sinh cũng không hứng thú học tập và vai trò của giáo viên trên lớp cũng không phát huy được. Mặt khác nếu thoát ly sách giáo khoa làm cho học sinh khó nắm kiến thức cần thiết thì bài giảng dù có hấp dẫn sinh động đến mấy cũng không mang lại hiệu quả sư phạm. Vì vậy phải biết kết hợp kiến thức sách giáo khoa phải vừa mở rộng kiến thức trên cơ sở tuân thủ “ Chuẩn kiến thức kĩ năng môn học”. Đặc biệt với môn nhạc phải chú trọng thực hành giáo viên dạy nhạc không có nhạc cụ, không biết sử dụng nhạc cụ thì tiết học sẽ trở nên nhàm chán, hiệu quả bài dạy không cao. Các mẫu chuyện tranh ảnh đòi hỏi giáo viên phải có để minh hoạ thêm cho học sinh, ngoài ra học sinh cũng phải có đầy đủ các phương tiện học tập như: sách, vở ghi bài học trên lớp, tập chép nhạc, bút… 6/Thường xuyên củng cố và phát triển hứng thú của học sinh trong giờ học âm nhạc. Việc gây hứng thú cho học sinh trong giờ học không chỉ một lần mà phải rèn luyện thường xuyên từ phút đầu đến phút cuối giờ học. Hơn nữa phải làm cho mức độ hứng thú ngày càng tăng đến nỗi các em không để ý thời gian trôi đi nhanh chóng và đến khi giờ học kết thúc học sinh còn luyến tiếc. 7/ Tăng cường các hoạt động âm nhạc trong lớp, trường để học sinh được xem, được nghe, được thể hiện và bình luận : Bằng hình thức tổ chức các Hội thi văn nghệ về các chủ đề, các buổi ngoại khoá âm nhạc nói về các nhạc sĩ.... giúp cho học sinh có niềm say mê hứng thú trong học tập cũng là hình thức phát hiện năng khiếu bồi dưỡng cho các em phát huy khả năng âm nhạc. Phụ lục 2: giáo án ..
<span class='text_page_counter'>(11)</span> Vui bước trên đường xa Theo điệu Lí con sáo Gò Công (dân ca Nam Bộ) Đặt lời mớí: Hoàng Lân Hoạt động của giáo viên. Hoạt động của học sinh. 1.Ổn định tổ chức lớp. 2.Kiểm tra bài cũ: kiểm tra đan xen. 3.Bài mới. Hoạt động 1: Giới thiệu bài hát Lí là những bài dân ca ngắn gọn mộc mạc, giản dị. Mỗi bài Lí thường được xây dựng từ những câu thơ lục bát. - Học sinh chú ý nghe giảng. Bài Lí con sáo Gò Công do nhạc sĩ Trần Kiết Tường sưu tầm, bài hát biểu hiện tình cảm nhẹ nhàng, có tính chất giãi bày, tâm sự. Dựa trên làn diệu này, nhạc sĩ Hoàng Lân đặt lời mới thành bài hát Vui bước trên đường xa. GV treo bản đồ hành chính Việt Nam và giới thiệu vị trí đồng bằng Nam Bộ cho học sinh nghe. Sau đó giáo viên đưa trò chơi vào thu hút học sinh . Học sinh quan sát. Học sinh nghe 1 đoạn nhạc nói tên bài hát . Học sinh nghe 1 bài hát nói tên tác giả . Giáo viên đưa bài vui bước đường xa vào cho học sinh dự đoán . Hoạt động 2: Dạy hát a. Hát mẫu - Học sinh chú ý lắng nghe - Giáo viên cho học sinh nghe băng hát mẫu, sau đó đệm đàn và hát mẫu lại một lần nữa. b. Dạy bài hát. * Đọc lời ca: - Gọi 2 học sinh đọc lời ca bài hát - Học sinh đọc lời ca trong SGK. * Chia đoạn chia câu: Hỏi: Bài hát được chia là mấy câu? - HS trả lời Bài hát chia làm 5 câu. Hỏi: Có những câu nhạc nào giống nhau? - HS trả lời Câu 4 và câu 5 * Luyện thanh: ( thang âm đô trưởng ) - Học sinh chú ý luyện thanh Đô-rê-mi-pha-son-la-si-đô - HS chú ý lắng nghe. Tập hát từng câu: - GV hát mẫu từng câu hát ngắn, hát xong đàn lại giai điệu cho học sinh nghe (làm mẫu 2 lần), sau đó cho các em tập hát theo. - Học sinh hát theo hướng dẫn của - Tập từng câu, mỗi câu 2-3 lần, chú ý lấy hơi những chỗ cuối câu hát GV và lưu ý những tiếng có dấu luyến, ở ô nhịp thứ 6 “tưng, ô“ nhịp thứ 16 “ quyết, bước“. - HS chú ý lắng nghe và theo dõi. - GV giới thiệu trong bài hát, nốt nhạc đầu tiên thuộc phách thứ 2 của nhịp (đây là nhịp lấy đà). Khi đánh nhịp 2 hoặc gõ phách, phách mạnh sẽ rơi vào tiếng “dài” trong câu hát “ Đường dài đường dài không ngại bước chân” - Học sinh hát cả bài - Giáo viên nhắc học sinh bài hát này có dấu nhắc lại và có khung thay đổi 1 và 2..
<span class='text_page_counter'>(12)</span> - Khi học sinh tập xong thì giáo viên cho học sinh ghép cả bài hát lại. - GV lắng nghe học sinh hát chỗ nào chưa tốt thì sửa chữa ngay. - Cho HS hát đúng tốc độ và thể hiện đúng sắc thái bài hát. - Cho từng dãy một hát và kết hợp gõ tự gõ phách hoặc đánh nhịp . - Học sinh hát kết hợp gõ phách. - GV cho học sinh hát dầy đủ cả bài. Vì bài hát ngắn, khi học xong cho học sinh hát 2 lần cả bài. - GV gọi những em có tinh thần xung phong lên bảng trình bày (GV nhận xét và cho điểm). - HS xung phong lên bảng trình 4. Củng cố, dặn dò: bày * Củng cố - GV củng cố bằng cách cho học sinh đứng lên hát và gõ tiết tấu theo - HS hát lại toàn bộ bài hát và gõ phách một lần trước khi kết thúc tiết học. tiết tấu bài hát. - GV nhận xét - đánh giá tiết học * Dặn dò: - Dặn HS về nhà học thuộc bài hát, và trình bày đúng sắc thái bài hát. - HS chú ý lắng nghe và ghi nhớ. - Làm bài tập trong SGK. Phụ lục 3: Bài kiểm tra trước tác động Câu1: “ Ca ngợi tổ quốc” là bài tập đọc nhạc của tác giả nào? A. Hoàng Vân B. Hoàng Long C. Phạm Tuyên D Phong Nhã Câu 2: Nhịp 4/4 là nhịp gồm có mấy phách A, 2phách B. 3phách C. 4phách D. 6 phách Câu3 ;Đàn Pi a nô còn gọi là đàn gì? A. Đan Dương Cầm B. Đàn Vĩ Cầm C. Đàn Phong cầm D. Đàn Nhị Câu4 . Bài “ Mái trường mến yêu” do nhạc sĩ nào sáng tác A. Hàn Ngọc Bích B. Hoàng Lân C. Lê Quốc Thắng D. Trần Hoàn Câu5. “ Lí cây đa” là dân ca vùng miền nào ? A. Nam Bộ B. Quãng Nam C. Quan họ Bắc Ninh D. Thanh Hoá Câu 6: Nhịp, phách, nhịp 2/4 là gì ? Câu 7: Nêu nội dung bài hát đi cấy? Phụ lục 4 : bài kiểm tra sau tác động * Đề lí thuyết:( 2 điểm) Câu 1: ( 0,5 điểm): Khoanh tròn vào đáp án em chọn là đúng. Nhạc sĩ Văn Chung sinh và mất ngày, tháng, năm nào? A. 20/5/1914- 27/5/1984. C. 20/6/1915- 25/8/1974. B. 20/6/1914- 27/8/1984. D. 21/5/1914- 27/8/1983. Câu 2: ( 0,5 điểm) Bài hát Hô- la-hê, hô-la-hô là dân ca của nước nào? A. Ba lan B. Pháp C. Đức D. Áo. Câu 3: ( 1 điểm) Nêu vài nét về thân thế, sự nghiệp của nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát? * Đề thực hành: ( 8 điểm) Hs bốc đề thực hiện 1 trong các nội dung sau: - Hát bài Niềm vui của em kết hợp gõ đệm theo nhịp( Hoặc theo phách)? - Đọc nhạc, hát lời bài TĐN số 6? -Đọc nhạc, hát lời bài TĐN số 7? -Thể hiện hoàn chỉnh bài Ngày đầu tiên đi học kết hợp đánh nhịp 3 4 - Hát bài Tia nắng hạt mưa kết hợp gõ đệm theo tiết tấu lời ca? - Thể hiện bài hát Hô-la-hê,hô-la-hô kết hợp nhún theo nhịp?.
<span class='text_page_counter'>(13)</span>