Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.1 KB, 6 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b> Cách điều trị đau cột sống thắt lưng</b>
<b>Điều trị bệnh tính bằng mũi tiêm, khỏi bệnh tính theo giờ thực sự là một quan niệm sai lầm trong việc khống</b>
<b>chế chứng bệnh đau cột sống thắt lưng. Nếu khơng cẩn thận, chính chúng ta lại mắc thêm nhiều chứng bệnh</b>
<b>khác.</b>
<b>Các thuốc thường bị lạm dụng</b>
Thuốc điều trị đau cột sống thắt lưng có nhiều loại. Tuỳ thuộc vào nguyên nhân là gì và kế hoạch điều trị của người
điều trị ra sao mà người bệnh được sử dụng loại thuốc nào. Nhưng nhìn chung, một số thuốc sau thường bị lạm
dụng:
Thuốc giảm đau, chống viêm không steroid (NSAID) như piroxicam, tenoxicam, diclofenac... Những thuốc này có
đặc điểm là giảm đau nhanh chóng với các cơn đau nhẹ và ức chế quá trình gây viêm tại chỗ. Tác dụng chống viêm
này cộng hưởng làm giảm đau rõ rệt. Chúng ức chế quá trình gây viêm do ức chế giải phóng ra các chất trung gian
hố học của phản ứng viêm - những chất là trung gian gây phù nề và gây đau tại chỗ nên có tác dụng giảm đau. Tác
dụng sẽ thấy ngay sau khi uống 30 phút nếu dùng theo đường uống còn nếu dùng theo đường tiêm thì sẽ xuất hiện
sau 5-7 phút.
Tuy nhiên, chúng lại có những tác dụng phụ đáng ngại: chậm tiêu, hội chứng trào ngược dạ dày thực quản, loét dạ
dày tá tràng, thủng dạ dày, xuất huyết tiêu hoá, viêm loét đại tràng, tiểu tràng là những biến chứng không thể không
cân nhắc.
<b>Thuốc chống viêm corticoid</b>
như hydrocortison, solumedrol... Đây là những thuốc có tác dụng chống viêm mạnh, song các biến chứng của thuốc
gây ra lại không nhỏ. Ngồi những tác dụng khơng mong muốn ở đường tiêu hóa giống như nhóm thuốc giảm đau
khơng steroid, corticoid cịn gây phù, lỗng xương, rối loạn tình dục, rối loạn nội tiết, teo cơ… là những biến chứng
thường gặp nhất.
Các thuốc gây têtại chỗ như novocain, lidocain: Đây là những thuốc làm mất cảm giác đau tại chỗ của một vùng cơ
Tác dụng của chúng mạnh đến mức chúng có thể làm mất mọi cơn đau sau vài giây tính từ khi tiêm. Chính vì vậy
mà chúng thường được sử dụng để gây tê dẫn truyền, phong bế thuốc vào cạnh đường dẫn truyền thần kinh để có
được hiệu quả như mong muốn.
Nhưng cũng như kẻ lắm tài nhiều tật, chúng cũng chứa đựng bên mình những tác hại vơ cùng hệ trọng. Nguy hiểm
nhất là phản ứng dị ứng, có thể gây tử vong tại chỗ cho bệnh nhân nếu không được cấp cứu kịp thời. Các tác hại
khác có vẻ “nhẹ” hơn nhưng cũng rất nguy hiểm như liệt hoàn tồn cơ hơ hấp, bloc nhĩ thất, rối loạn nhịp tim
nghiêm trọng ở những người có rối loạn nhịp tim dẫn truyền, hạ huyết áp, ngừng hô hấp do ức chế trung tâm hô
hấp.
Các thuốc điều trị chứng đau cột sống thắt lưng ngoài những hiệu quả điều trị khá tốt thì chúng cũng gây ra những
tai hại khó lường. Người bệnh có thể bị loét dạ dày tá tràng do thuốc, nặng hơn có thể bị chảy máu dạ dày gây nơn
ra máu và đi ngồi phân đen, thậm chí là thủng dạ dày phải mổ cấp cứu. Ở một khía cạnh khác, chúng có thể gây ra
rối loạn nội tiết trầm trọng, nam hoá nữ và ngược lại nếu sử dụng kéo dài. Nhiều bệnh nhân còn bị chứng phù toàn
thân, ứ nước toàn bộ cơ thể đến nguy hại mà không hề nghi ngờ đến nguyên nhân do thuốc.
Trong số các thuốc trên thì các thuốc chống viêm corticoid và các thuốc gây tê dễ bị lạm dụng nhất. Chúng thường
xuyên được sử dụng quá mức trong phương pháp phong bế thuốc hay thuỷ châm thuốc bởi chúng có tác dụng điều
trị hết đau bất kể nguyên nhân. Mặc dù vẫn được công nhận là biện pháp điều trị nhưng ta nên nhớ rằng chúng phải
được sử dụng cân nhắc khi đã có chẩn đốn và tìm ra ngun nhân chính xác.
<b>Cách dùng thuốc an tồn</b>
Để hạn chế, phịng tránh những tai biến do thuốc gây ra, người bệnh bị chứng đau cột sống thắt lưng cần lưu ý:
- Khi bị bệnh, người bệnh nên đến các cơ sở y tế để khám bệnh, tránh làm theo những lời mách bảo của người khác.
- Trong chứng bệnh này, chụp phim Xquang cột sống thắt lưng rất có giá trị bởi nó cho bác sĩ nhiều thơng tin chẩn
đoán và loại trừ quan trọng. Việc điều trị mà khơng có xét nghiệm chụp Xquang, một xét nghiệm vốn mất chi phí
rất thấp là chưa đủ tin cậy.
- Trong quá trình điều trị, vì thuốc gây ra nhiều biến chứng kể trên nên khi có bất cứ những tác dụng phụ nào xảy ra
trong quá trình dùng thuốc thì cần thơng báo kịp thời và đi khám ngay để có phương án xử lý thích hợp. Khơng nên
nhắm mắt điều trị một cách mù quáng.
Việc làm cho cột sống thắt lưng hết đau là điều mà người bệnh cần, nhưng việc giải quyết triệt để nguyên nhân mới
là nhiệm vụ chính của người điều trị. Trong việc này, sử dụng thuốc cân nhắc và kỹ càng là điều cực kỳ quan trọng.
Theo BS. Yên Lâm Phúc
<i>Sức khỏe & Đời sống</i>
Quí vị và các bạn thân mến!
Đau thắt lưng có thể là hậu quả của q trình thối hóa cột sống, do tình trạng hư hỏng phần sụn đệm giữa các
đốt sống thắt lưng kèm theo phản ứng viêm, làm giảm chức năng nâng đỡ cơ thể, đè ép vào các rễ thần kinh gây
đau với nhiều mức độ khác nhau. Bệnh thường gặp ở người cao tuổii gây ảnh hưởng nặng nề đến sinh hoạt do triệu
chứng đau, tê, hạn chế cử động,... có thể bị tàn phế nếu khơng biết cách điều trị tích cực. Để biết cách chăm sóc và
điều trị bệnh thối hóa cột sống thắt lưng ở người cao tuổi, chúng tơi có mời Bác sĩ chuyên khoa I Huỳnh Văn Hiệp,
Phó Khoa Nội II, Bệnh viện Đa khoa Sóc Trăng trao đổi với chúng ta về vấn đề này.
Hỏi: Thưa Bác sĩ Hiệp, được biết, thối hóa cột sống thắt lưng thường gặp những người sau tuổi 40 trở đi;
<b>càng lớn tuổi bệnh càng xảy ra nhiều hơn; có những người ở tuổi 30 - 40. Xin Bác sĩ giải thích cho khán giả</b>
<b>biết vì sao có hiện tượng thối hóa, đặc biệt là cột sống thắt lưng?</b>
<b>Đáp: Theo thống kê cập nhật được vào tháng 9/2009 ở Mỹ cho thấy đau thắt lưng chiếm khoảng 60-85% người lớn</b>
vào một thời điểm nào đó trong đời. Điều may mắn là hầu hết người bệnh đều có triệu chứng nhẹ và thống qua,
90% tự khỏi trong vịng 6 tuần. Do đó nếu chúng ta biết cách phịng tránh thì có thể giảm được tỉ lệ tái phát và làm
chậm đi quá trình tiến triển của bệnh.
Bệnh thối hóa cột sống là bệnh lành tính do thương tổn ở sụn của khớp và đĩa đệm của cột sống. Sụn và đĩa
đệm bị xơ cứng, mỏng, mất tính đàn hồi, nhiều khi cịn mọc thêm các gai xương có thể gây chèn ép các rễ thần kinh
gây ra đau. Sở dĩ có hiện tượng đó là do q trình lão hóa của mơ sụn. Thơng thường, bệnh gặp ở người cao tuổi
nhưng cũng có mạn thể gặp ở cả lứa tuổi trẻ hơn, trung niên. Loại bệnh hay gặp nhất là thối hóa đốt sống thắt lưng
và khớp cùng chậu.
Nguyên nhân chính là do tế bào sụn bị lão hóa, làm giảm tổng hợp các thành phần của sụn. Các yếu tố cơ học
như sang chấn, béo phì cũng gây áp lực quá tải và kéo dài lên sụn khớp và đĩa đệm liên đốt sống. Ngoài ra, các dị
tật bẩm sinh cũng tạo điều kiện thuận lợi cho bệnh xuất hiện. Khi sụn của đĩa đệm bị thối hóa, tế bào sụn bị mất
hoặc giảm chức năng khiến cho quá trình tái tạo sụn bị rối loạn, làm lực phân bố trên thân đốt sống không đều,
khiến cho xương mâm đốt sống phải tăng chịu tải, kết quả là hình thành các gai xương ở rìa ngồi thân đốt sống.
Gai xương có hình thơ và đậm đặc.
Điều đặc biệt là phì đại xương, dẫn đến tạo thành các gai xương có thể xuất hiện ngay từ giai đoạn sớm của
bệnh, thường kèm theo các thay đổi cấu trúc khớp khác như mòn sụn, giảm chiều cao đĩa đệm liên đốt sống và dày
xương dưới sụn. Các thay đổi cấu trúc này có thể nhìn thấy rất rõ trên phim chụp Xquang cột sống thắt lưng thẳng
và nghiêng.
Hỏi: Các bệnh ở cột sống thắt lưng thường gặp ở người cao tuổi như: thoái hóa cột sống, thốt vị đĩa đệm,
<b>gai cột sống,... Xin hỏi, các bệnh đó giống và khác nhau như thế nào thưa Bác sĩ?</b>
<b>Đáp: Thuật ngữ viêm xương khớp vùng thắt lưng, thoái hoá đĩa đệm, bệnh đĩa đệm do thoái hoá và thoái hoá cột</b>
sống đã được dùng trong y văn để mô tả những biến đổi giải phẫu của thân đốt sống và đĩa đệm mà có thể liên quan
với những hội chứng lâm sàng.
Bệnh lý đĩa đệm ám chỉ những hội chứng đau thắt lưng do thoái hoá đĩa đệm. Những biến đổi bệnh lý này bao
gồm khơ đĩa đệm, xơ hố và hẹp. Vịng bao có thể bị phình, nứt, hoặc thối hố nhầy. Trong định nghĩa này cũng
bao hàm cả tổn thương xơ hoá đĩa đệm và các chồi xương ở các mấu gai.
Thoái hoá cột sống lưng là một thuật ngữ có nhiều định nghĩa. Trong y văn, nó đã từng được dùng trong nhiều
ngữ cảnh khác nhau, đồng nghĩa với bệnh khớp, viêm đốt sống, viêm khớp phì đại và viêm xương khớp.
Hỏi: Như ban đầu giới thiệu thì người cao tuổi thường hay bị thối hóa cột sống thắt lưng, nhưng không
<b>phải người cao tuổi nào cũng mắc bệnh này. Xin Bác sĩ cho biết đối tượng nào dễ bị thối hóa cột sống thắt</b>
<b>lưng và ngun nhân vì sao?</b>
<b>Đáp: Thơng thường, bệnh xuất hiện ở người có tuổi từ 35, 40 trở lên. Những đối tượng dễ bị thoái hoá cột sống thắt</b>
lưng bao gồm:
- Người có điều kiện sống khó khăn, ăn uống khơng đầy đủ.
- Làm việc, lao động nặng quá sớm và quá sức.
- Tập luyện thể dục, thể thao không hợp lý.
- Chấn thương cột sống
- Rung chuyển toàn cơ thể (vd lái xe)
- Thường xuyên mang, vác, đẩy, kéo các vật nặng không đúng tư thế.
- Ngồi quá nhiều hoặc luôn luôn làm việc ở một tư thế ít thay đổi.
- Trọng lượng quá mức cho phép khiến cột sống luôn phải gắng đỡ cơ thể.
- Các yếu tố di truyền có khả năng ảnh hưởng đến việc tạo gai xương và thoái hoá đĩa đệm.
Hỏi: Một khi mắc bệnh thối hóa cột sống thắt lưng, người bệnh rất căng đau và gặp nhiều khó khăn trong
<b>Đáp: Thối hố cột sống và đau thần kinh toạ là một bệnh lý thường gặp trong các bệnh thần kinh, thể hiện bằng</b>
đau lưng vùng thắt lưng, lan dọc theo đường đi của dây thần kinh này.
Đau thần kinh toạ ở người trẻ thường do tổn thương đĩa đệm, ở người có tuổi có thể do các căn nguyên khác
cuả cột sống thắt lưng cùng (thoái hoá, ung thư nguyên phát hay di căn cột sống…). Chẩn đoán chủ yếu dựa vào
lâm sàng và các xét nghiệm như chụp cắt lớp vi tính, cộng hưởng từ hạt nhân, điện cơ đồ…
Điều trị đau thần kinh toạ, thối hố cột sống cho người có tuổi cần phải chú ý những điểm sau:
- Điều trị nhằm mụcđích giảm đau, hạn chế các cơn đau tái phát, và hạn chế sự phát triển của thoái hoá.
- Điều trị cần kết hợp điều trị toàn thân, tại chỗ đau, và điều trị nguyên nhân gây bệnh.
- Trong cơn đau dữ dội đột ngột, phải tìm cách nằm yên, bất động chỗ đau. Khơng nên xoa nắn, đấm bóp, kích
thích nhiều vào chỗ đau, có thể dùng thêm các thuốc giảm đau và giãn cơ.
- Về thuốc men, dùng nên thận trọng vì đa số bệnh nhân thường mắc phải những bệnh như cao huyết áp, bệnh
tim mạch, bệnh đái tháo đường, bệnh xuất huyết, tiêu hóa, béo phì…
- Các thuốc giảm đau thường là dòng họ của cocticoit, hay gây xuất huyết, dùng quá nhiều, quá liều dẫn đến
loãng xương, đái đường, huyết áp cao…
- Dùng thuốc phải chú ý đến liều lượng, không nên q máy móc vì cơ thể người già thường khả năng đào thải
thuốc kém hơn so với người trẻ. Liều nên cho từ từ tăng dần đến khi có đáp ứng với thuốc thì dừng, khơng nên
cho thuốc dài ngày. Cũng có thể dùng thuốc Đơng y nhưng cần chú ý vì thuốc đơng y thường là thuốc bổ nên
bệnh nhân dễ tăng cân, nhất là bệnh nhân cân nặng đã cao.
- Chế độ ăn cũng rất quan trọng, nên ăn đủ chất như vậy mới giúp cho cơ thể khoẻ và mau hồi phục. Thịt nạc,
trứng, tơm, cua, sữa chua rất tốt vì nhiều Canxi, magie, mà không làm tăng cholesterol…
- Hạn chế đường và tinh bột, hạn chế ăn mặn, tránh các chất kích thích, gia vị, nước uống trung bình 1 lit/ ngày
- Các loại hoa quả tươi nên khuyến khích , nên uống nhiều nước chanh, cam, táo, bưởi. Ăn nhiều các loại rau
xanh như: rau cải, dền, muống, giá đỗ….
- Nên phối hợp với biện pháp dùng thuốc với diều trị vật lý trị liệu như dùng nhiệt, chườm lá ngải cứu, chườm
muối nóng, đắp bùn, thuỷ liệu, bơi lội, xoa bóp bấm huyệt…
Hỏi: Để phịng ngừa bệnh thối hóa cột sống thắt lưng, chúng ta cần phải làm gì thưa Bác sĩ?
<b>Đáp: Để phịng tránh hiệu quả bị thối hóa cột sống, chúng ta cần lưu ý một số điều sau: Với những người lao động</b>
trí óc, cứ ngồi làm việc khoảng 1 - 2 tiếng phải đứng dậy đi lại, tập một vài động tác có lợi cho lưng. Với người lao
động chân tay, chú ý không mang vác quá sức. Với những vật quá nặng, không bao giờ được đứng cúi lưng để nhấc
vật lên mà phải ngồi xổm xuống, nâng vật lên từ từ. Tập thể dục thường xuyên, đều đặn. Tập Thái cực quyền, bơi
lội là rất tốt để phịng ngừa đau lưng do thối hố cột sống.
Việc cập nhật, trao đổi thông tin về các biện pháp phòng, chống một số bệnh thường gặp ở người cao tuổi
thật là cần thiết. Thông tin trao đổi vừa rồi của Bác sĩ Huỳnh Văn Hiêp đã giúp chúng ta biết cách phịng, chăm sóc
và điều trị bệnh thối hóa cột sống thắt lưng ở người cao tuổi. Chuyên mục "Sức khoẻ cho mọi người" kỳ này đến
đây xin khép lại, xin cám ơn Bác sĩ Hiệp đã tham gia chương trình, cám ơn q vị và các bạn đã quan tâm theo dõi.
Mọi thắc mắc về sức khỏe xin liên hệ địa chỉ:
Trung tâm Truyền thông - Giáo dục sức khoẻ: Số 71, đường 3/2, thành phố Sóc Trăng; điện thoại: 0793.
<b>611263.</b>
<b>VIÊM BỂ THẬN CẤP </b>
Kể bệnh, tư vấn, lấy thuốc
<b>Đại cương</b>
Là một bệnh nhiễm khuẩn vào tổ chức kẽ của Thận, vì vậy, cịn gọi là Viêm Thận Kẽ.
Đông y xếp vào loại ‘Nhiệt Lâm’, ‘Yêu Thống’.
Sách ‘Kim Quỹ Yếu Lược’ viết: ‘Lâm bệnh, tiểu ra như nước vo gạo, bụng dưới đau cứng, lan đến giữa rốn’.
Trên lâm sàng cho thấy đa số thuộc thực chứng, nhiệt chứng.
<b>Nguyên Nhân</b>
Vi khuẩn có thể xâm nhập vào Thận theo hai đường chính:
a- Đường máu: Do các ổ nhiễm khuẩn địa phương như Amidal viêm, xoang viêm,bệnh ở răng miệng, ruột dư,
túi mật, bệnh đường ruột... từ đó chuyển vào thận.
b- Đường ngược chiều: Từ một viêm nhiễm đường sinh dục, tiết niệu dưới lan lên: tử cung viêm, âm đạo
viêm, bàng quang, tiền liệt tuyến...
c- Đường hạch bạch huyết ít gặp xẩy ra.
Bệnh thường xẩy ra trên cơ sở đã có một tổn thương địa phương ở bể thận như sự ứ nghẽn nước tiểu gây tắc, giãn
đài thận, bể thận... phụ nữ có thai, tử cung đè vào niệu quản hai bên, sỏi bể thận, đài thận, niệu quản...
Vi Khuẩn: Đứng hàng đầu là E. Coli 40-70%, Tụ cầu khuẩn, Liên cầu khuẩn...
Thường có liên hệ với Thận và Bàng quang. Thận hư, Bàng quang có thấp nhiệt là nguyên nhân chủ yếu gây
nên bệnh.
Đa số do ăn các thức ăn cay, nóng, nhiều chất béo hoặc uống rượu nhiều quá, sinh ra nhiệt, dồn xuống hạ tiêu
gây nên bệnh. Hoặc do bộ phận sinh dục bị rối loạn, uế trọc xâm nhập vào bàng quang, gây nên thấp nhiệt, thấp
nhiệt làm cho khí hóa bị ngăn trở, đường tiểu khơng thơng lợi khiến cho tiểu buốt, tiểu nhiều, đau, tiểu ra máu.
<b>Điều trị</b>
Triệu chứng:
a- Dấu hiệu nhiễm khuẩn khu trú vào vùng Thận:
+ Sốt, có thể cao đến 39-40o, có khi có cơn rét run.
+ Đau vùng thận một bên hoặc cả hai bên.
b- Tiểu đục, tiểu gắt (50% trường hợp)
c- Tiểu ra protein: 80-90%. Trường hợp tiểu ra protein nhẹ thì từ 40-50mg% đến 150-300mg%, ít khi q
300mg% (tức 3g/lít nước tiểu), thường dưới 5g/24 giờ. Trong trường hợp cấp tính mức protein thường trên dưới
300mg%.
d- Tiểu ra bạch cầu: là dấu hiệu phổ biến nhất trong trường hợp cấp tính.
+ Tiểu ra hồng cầu (máu), ít phổ biến hơn.
Pháp: Thanh nhiệt, trừ thấp, lợi niệu, thông lâm.
Bài thuốc
+ Thận Vu Thanh Giải Thang (Thiểm Tây Trung Y Tạp Chí )
Bạch đầu ông 30 Liên kiều 30 Hoạt thạch đều 30
Hồng bá 15 Mộc thơng 15 Biển súc 15 Cù mạch 15
Phục linh 15 Hoàng liên 10 Cam thảo 10
Đã trị 67 ca, nam 12, nữ 55.tuổi từ 12 đến 67. Trong đó, cấp tính 45 ca, mạn tính 22. khỏi hồn tồn 21 (cấp
tính 16, mạn tính 5). Có hiệu quả 24 (cấp 19, mạn 5). Có chuyển biến 18 (cấp 9, mạn 9). Khơng hiệu quả 4 (cấp 1,
mạn 3). Đạt tỉ lệ 94%.
+ Bát Chính Ơ Linh Thang (Hồ Bắc Trung Y Tạp Chí 1991: 6, 16):
Thổ phục linh 30 Cù mạch 20 Biển súc 18
Xa tiền tử 18 Hoạt thạch 18 Mộc thơng 12 Đăng tâm thảo 5
Ơ dược 10 Sơn chi(sao), 10 Đại hoàng (sống)10
. Cứ 6 giờ uống một lần.
TD: Thanh lợi thấp nhiệt. Trị bí tiểu cấp tính do viêm nhiễm.
Đã trị 60 a, nam 24, nữ 36. Tuổi từ 6 đến 64. có dấu hiệu sợ lạnh, sốt 38-39,5oC, lưng đau, bụng dưới trướng
đau, tiểu nhiều, đường tiểu sưng, đau, rát hoặc tiểu ra máu hoặc tiểu ra sỏi. Vùng Thận đau. Xét nghiệm nước tiểu
có albumin, bạch cầu, hồng cầu. Sau khi uống thuốc, khỏi 45 ca, có chuyển biến 12, khơng kết quả 3. Đạt tỉ lệ 95%.
Thuốc uống ít nhất 5 ngày, nhiều nhất 45 ngày. Trương hợp mạn tính, phải uống trên 10-15 ngày mới thấy có kết
quả.
<b>Viêm bể thận . triệu chứng đau như thế nào ?</b>
Chào bạn
Viêm bể thận là bệnh viêm cấp tính tổ chức kẽ của thận do nguyên nhân nhiễm khuẩn, thường là nhiễm khuẩn gr
(-), nhiễm khuẩn đa số theo đường ngược dòng gây viêm ở đài bể thận, vào tổ chức kẽ của thận, cũng có thể đi theo
đường máu, bạch huyết.
Người bệnh có biểu hiện sốt cao rét run, sốt cao dao động. Môi khô, lưỡi bẩn, hơi thở hơi. Thể trạng suy sụp nhanh.
Có khi có nhiễm khuẩn máu kèm theo đau vùng hố lưng một bên hoặc hai bên, thường là đau âm ỉ, có khi đau dữ
dội, đau lan xuống dưới; tiểu buốt, tiểu dắt, nước tiểu có màu đục như nước vo gạo, có thể có máu, mủ.
Để điều trị, nhất thiết phải được các bác sĩ thăm khám cẩn thận, làm các xét nghiệm rồi mới chỉ định dùng thuốc.
Cần dùng kháng sinh theo kháng sinh đồ, nếu khơng có điều kiện làm kháng sinh đồ thì nên lựa chọn kháng sinh có
tác dụng với trực khuẩn gr (-). Kháng sinh nhóm quiinolon là tốt nhất (ciprofloxacine, fefloxacine, levefloxacine...).
Nên dùng kháng sinh kéo dài từ 10 - 15 ngày. Cần điều trị 2 đợt cách nhau 1 tuần cho dù xét nghiệm vi khuẩn niệu
đã âm tính.
Khi có suy thận thì tránh dùng những kháng sinh độc cho thận như gentamycin, tetracycline.
Bệnh nhân cần uống nhiều nước, uống nước lọc hoặc nước quả ép trong những ngày đầu, nếu có vơ niệu thì kiêng
rau quả và hạn chế nước. Bù nước và điện giải bằng đường truyền tĩnh mạch. Nếu có suy thận thì phải ăn giảm
đạm.
Bệnh được phát hiện sớm và điều trị kháng sinh đúng và đủ liều, các triệu chứng lâm sàng thường giảm nhanh, hết
sốt, bạch cầu máu và niệu giảm. Nước tiểu trở về bình thường sau 1 - 2 tuần. Nếu điều trị khơng đúng thì thường tái
phát nhiều lần và trở thành mạn tính hoặc có thể tử vong do nhiễm khuẩn huyết, sốc nhiễm khuẩn hoặc hội chứng
ure máu cao.