Ch ương II
NHỮNG CỘT TRỤ CHỦ CHốT đ Ể x â y DỰNG
XÃ HỘI TRI THỨC
1. Cột trụ chính trị
a.
Vai trị của chính quyền trong việc xây dựng xã hội
tri thức
Theo UNESCO, có một sự thực là ở một mức độ lớn,
chương trình phát triển thơng tin (tiếng Anh “infodevelopment”) là kết quả của những quyết định chính trị
và khơng thể chỉ dựa trên những cơ chế kinh tế. Trong việc
xây dựng một xã hội tri thức cũng vậy, theo chúng tơi, vai
trị trưốc tiên vẫn phải là của nhà nước, của chính phủ và
của các tổ chức quốc tế liên chính phủ mà ở cấp cao nhất là
của Liên hỢp quốc. Và vì hiện nay, thế giới đang trong thời
kỳ quá độ từ xã hội thông tin sang xã hội tri thức, những
quan niệm về xã hội thông tin và xã hội tri thức vẫn chưa
có sự phân biệt rạch ròi, cho nên những nỗ lực hiện tại của
các cấp chính quyển trong việc xây dựng một xã hội thơng
tin tồn cầu nhằm đáp ứng các mục tiêu phát triển của xã
111
hội và con ngưịi, thì cũng chính là những nỗ lực nhằm tiến
tối xây dựng một xã hội tri thức đích thực. Chính vì vậy, khi
nói đến vai trị của các cấp chính quyền trong việc xây dựng
xã hội tri thức, thì khơng thể khơng nói đến những cơng
việc mà họ đã và đang làm để cải thiện xã hội thông tin.
Những nỗ lực để xây dựng hạ tầng cơ sở thông tin đầu
tiên của xã hội thông tin hiện đại trên thê giới là thuộc về
chủ trương của chính phủ, đúng như lời nhận xét của hai
nhà khoa học Suliman Al-Hawamdeh và Thomas L. Hart:
“Cơ cấu thơng tin tồn thê giới bao gồm một tập hỢp đa
dạng những ứng dụng và dịch vụ gắn kết với các chính sách
và quy định (tôi nhấn mạnh - NVD) nhằm tạo ra một môi
trường tôt hơn và mang lại nhiều hơn cho cơng việc kinh
doanh và cuộc sơhg”'.
Như vậy, khơng có chính sách và những quy định hỢp
lý, khơng có sự điều hành của chính phủ đối với hạ tầng
cơ sở thơng tin thì xã hội thơng tin và sau đó là xã hội tri
thức khơng thể hình thành đưỢc. Ngay từ những ngày đầu
của xã hội thơng tin, Chính phủ Mỹ đã xây dựng một mạng
thông tin điện tử nhằm mục đích quốc phịng. Các nước đều
có bộ bưu chính viễn thông hoặc bộ thông tin và truyền
thông. Các mạng truyền thơng qh gia của các nưốc được
hình thành đều nằm dưới sự chỉ đạo và điểu hành của chính
phủ. Chính quyền Clinton trước đây rất coi trọng hạ tầng cơ
sở thông tin quốic gia, và Tổng thông Clinton lúc bấy giị coi
sáng kiến về hạ tầng cơ sở thơng tin quốc gia là một chính
1. s. Al-Hawamdeh và Th. L. Hart; Iníormation and KnowIedge
Society, Sđd, tr. 20.
112
sách chủ chốt của chính phủ. Từ đó, để bảo đảm vị trí dẫn
đầu của Hoa Kỳ trong cuộc cách mạng cơng nghệ thơng tin,
Chính phủ Mỹ đã tạo cho ngành cơng nghiệp thơng tin có
được những điều kiện cạnh tranh tích cực bằng việc loại bỏ
một cách có hệ thốhg các cơ cấu điều tiết lỗi thịi. Có thể nói
lịch sử ra đời của internet liên quan chặt chẽ vối các chủ
trương, chính sách của chính phủ, trưốc tiên là các chính
sách quổc phịng. Chúng ta hãy điểm qua những mốc chính
của sự phát triển internet trên thế giới.
Ngay từ đầu, việc Liên Xơ phóng thành cơng vệ tinh
nhân tạo đầu tiên Sputnik (1957) đã thúc đẩy Hoa Kỳ thực
hiện dự án nghiên cứu thành lập mạng thông tin qb phịng
từ năm 1958, vối việc thành lập Cơ quan Dự án Nghiên cứu
Tiên tiến (ARPA) thuộc Bộ Quốc phòng. Từ đó các cơ quan
nghiên cứu về mạng thơng tin của các nưóc đều do chính
phủ lập ra để xây dựng hạ tầng cơ sở thông tin quốc gia.
Đến năm 1968 thì mạng ARPANET của Hoa Kỳ chính thức
ra đời. Ngày 14-1-1969, ARPANET thử kết nôl lần đầu tiên
với Bộ Xử lý Thông điệp Giao diện (IMP) thuộc Đại học
California tại Los Angeles và vối IMP của Học viện Nghiên
cứu Staníord. Nhưng phải đến ngày 29-10-1969, thì bức
thơng điệp đầu tiên mối đưỢc gửi đi qua mạng ARPANET
vối nội dung chỉ với một từ duy nhất và khơng hồn chỉnh:
“login” (“nhập dữ liệu”). Đến năm 1973, lần đầu tiên mạng
ARPANET của Hoa Kỳ thực hiện việc kết nối ra bên ngồi
lãnh thổ nước Mỹ. Đó là chuyến kết nơl với NORSAR (Mạng
Dữ liệu về Địa chấn của Na Uy)k Từ đó các mạng máy tính
1. Theo \Vikipedia, mục từ “ARPANET”, .
113
trên thế giối bắt đầu phát triển và dẫn đến hình thành
mạng internet như ngày nay. Trong quá trình này, không
thể không kể đến công lao quan trọng của các chính phủ
trên thế giới.
Từ thập niên 1990, Việt Nam bắt đầu quan tâm đến
internet. Ngày 6-5-1994, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam
ra quyết định thành lập Ban chỉ đạo Chương trình Quốc
gia về Cơng nghệ Thơng tin trực thuộc Chính phủ, do Giáo
sư Đặng Hữu, Bộ trưởng Bộ Khoa học, Cơng nghệ và Mơi
trường lúc bấy giị, làm trưởng ban đầu tiên. Ngày 1911-1997, Việt Nam chính thức khai trương dịch vụ mạng
internet, đưa nưốc ta gia nhập xã hội thông tin hiện đại.
Năm 2006, Việt Nam ban hành Luật cơng nghệ thơng tin.
Rõ ràng, vai trị của chính phủ vẫn luôn là yếu tô' quyết
định trong việc xây dựng và phát triển xã hội thông tin và
xã hội tri thức.
Một sự kiện trọng đại phải kể đến là sự ra đời của Liên
hiệp Viễn thông Quô'c tế. Cách đây hơn một thê kỷ rưỡi, sau
sự kiện quan trọng của bức điện tín được Samuel Morse
gửi đi bằng điện báo ngày 24-5-1844 từ Washington đến
Baltimore, đánh dấu sự mỏ đầu của thời đại viễn thông;
đến ngày 17-5-1865, tại Paris, theo sáng kiến của nưốc
Pháp, 20 nước thành viên sáng lập đã ký Công ưốc Điện
báo Quốc tế và thành lập Liên hiệp Điện báo Quôc tế (ITU).
Năm 1932, tại Hội nghị Madrid, Liên hiệp này quyết định
hỢp nhất Công ước Điện báo Quốc tê 1865 với Công ước
Điện báo Vô tuyến Quốc tế năm 1906 thành Công ước Viễn
thông Quôc tế, và nó cũng quyết định đổi tên của Liên hiệp
114
n
thành Liên hiệp Viễn thông Quốc tế, rồi tên gọi này chính
thức có hiệu lực từ ngày 1-1-1934. Đến năm 1947, ITU xin
gia nhập Liên hỢp quốc và đến ngày 15-10-1947 chính thức
trở thành một cơ quan chun mơn của Liên hỢp quốic; đến
năm 1948, ITU chuyển trụ sở từ Bern về Giơnevơ (Thụy Sĩ).
Hiện tại ITU có 191 quốic gia hội viên chính thức, 600 hội
viên khu vực (tức là những tổ chức và công ty của các nước
tham gia vào các khu vực hoạt động' của ITU), cùng với
hơn 140 hội viên dự bị. Việt Nam đã gia nhập ITU từ ngày
24-9-1951 với tư cách là một quốíc gia hội viên chính thức,
nhưng rất tiếc, chúng ta vẫn chưa có một hội viên khu vực
nào tham gia vào các khu vực hoạt động của tổ chức này.
Từ ngày trở thành cơ quan của Liên hỢp quốc, ITU đã
tích cực hoạt động nhằm đẩy mạnh hỢp tác quốc tế trong
lĩnh vực viễn thông, đề ra những quy định cho việc phát
triển hạ tầng cơ sở thông tin nhằm mục đích rút ngắn
khoảng cách biệt số giữa các quốc gia, quan tâm đến các
nước đang phát triển. ITU kêu gọi chính phủ các nước, các
tổ chức của chính phủ, các tổ chức quốc tê liên chính phủ và
phi chính phủ, các khu vực tư nhân và các xã hội công dân,
quan tâm đến phát triển công nghệ thông tin và truyền
thông, xây dựng xã hội thông tin hiện đại để đáp ứng các
mục tiêu phát triển của quốc gia và của thế giới, đặc biệt là
1. ITU có 3 khu vực hoạt động; Khu vực Truyền thông vô tuyến
(ITU-R - Radiocommunication Sector); Khu vực Tiêu chuẩn hố Viễn
thơng (ITU-T - Telecommunication Standardization Sector); và Khu
vực Phát triển Viễn thông (ITU-D - Telecommunication Development
Sector).
115
đáp ứng các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ của Liên hỢp
quốc. Khi bước vào giai đoạn của xã hội thơng tin hiện đại
(hay cịn gọi là xã hội tri thức), ITU đặc biệt quan tâm đến
hoạt động quản trị mạng internet và yêu cầu chính phủ các
quốc gia phải phôi hỢp thực hiện công việc này. Trên tinh
thần đó, ITU đã triệu tập Hội nghị Thượng đỉnh Thế giối
về Xã hội Thông tin (WSIS), được tổ chức thành hai giai
đoạn: giai đoạn I tại Giơnevơ (Thụy Sĩ) từ ngày 10 đến 1212-2003; giai đoạn II họp tại Tuynít (Tuynidi) từ ngày 16
đến 18-11-2005; vối thành phần là các nguyên thủ và phó
nguyên thủ quốc gia, các bộ trưởng, thứ trưởng các bộ liên
quan đến thông tin và truyền thơng, các tổ chức quốc tế, các
hội đồn, các cơng ty liên quan đến công nghệ thông tin và
truyền thông, V .V .. Trong cả hai giai đoạn, Việt Nam đã cử
»
một phái đồn do Bộ trưởng Bộ Bưu chính - Viễn thơng Đỗ
Trung Tá làm trưởng đồn.
Tại các Hội nghị WSIS, con số đại biểu tham dự đạt
tới tầm cỡ rất ấn tượng, ở giai đoạn Giơnevơ có tổng sơ”là
11.047 người tham dự, trong đó có 4.590 người đại diện cho
175 nưốc, còn lại là đại biểu của các tổ chức quốc tế, các tổ
chức phi chính phủ, của giới doanh nghiệp, khách mịi và
giới truyền thơng. 0 giai đoạn Tuynít, tổng sơ”người tham
dự đã tăng lên đến 19.401 người, trong đó 5.857 người đại
diện cho 174 quốc gia và Liên hiệp châu Âu (EU), còn lại
là đại biểu của các tổ chức quốíc tê”, các tổ chức phi chính
phủ, các xã hội cơng dân, các tổ chức doanh nghiệp và giới
truyền thông.
Tại phiên họp bê”mạc, ông Yoshio Utsumi - Tổng Thư
ký của Hội nghị thượng đỉnh - đã phát biểu một câu rất có
116
ý nghĩa: “WSIS là một hội nghị thượng đỉnh duy nhất được
tổ chức thành hai giai đoạn. Thông qua phương thức này,
WSIS đã diễn ra tại một nước phát triển và một nước đang
phát triển. Điều này giúp bảo đảm rằng một loạt vấn đề của
xã hội thông tin đã đưỢc giải quyết, trong khi nó nhấn mạnh
nhu cầu cấp thiết là phải rút ngắn khoảng cách biệt sô”h
Chúng ta thấy rằng sự có mặt của các nhà lãnh đạo
quốc gia tại WSIS có một ý nghĩa rất quan trọng. Tại giai
đoạn Tuynít đã có 46 ngun thủ và phó nguyên thủ quốic
gia, cùng 197 bộ trưởng và thứ trưởng tham dự. Điều này
cho thấy ý chí của các chính phủ trong việc xây dựng một xã
hội thông tin và tri thức ở câ'p toàn cầu là rất cao. Hội nghị
Tuynít đã đạt đưỢc sự thỏa thuận tồn cầu về ba vấn đê chủ
chốt; quản trị internet, các chiến lược tài trỢ, và các cơ chê
thực hiện Kế hoạch Hành động Giơnevơ. Trong ba vấn đề
này, vai trò của các chính phủ và các tổ chức quốic tế là rất
quan trọng, đặc biệt là vấn để thứ nhất.
Trong vấn đề quản trị internet, sự thoả thuận đột phá
ở Tuynít đã công nhận sự cần thiết phải tăng cường hỢp tác
để tạo cho các chính phủ có khả năng hoạt động trong lĩnh
vực này, và nó dựa trên các nguyên tắc mói được thoả thuận
và các cơ chế trong tương lai;
- Mọi chính phủ đều phải đóng một vai trị ngang nhau
và có trách nhiệm ngang nhau đối với việc quản trị internet,
trong khi phải bảo đảm cho internet tiếp tục ổn định, an
toàn và vận hành liên tục.
1. “World Summit on the Iníormation Society”, International
Debates (2005), Dec, Vol. 3, Issue 9, p. 261.
117
- Các quốc gia không được can thiệp vào những quyết
định liên quan đến miền đẳng cấp cao thuộc mã nước (tiếng
Anh: “country code top - level domain” - ccTLD) của một
quốíc gia khác.
- Có một nhu cầu về tăng cường hỢp tác giữa những
tác nhân tham gia trong việc đề ra những chính sách cơng
về tên miền chung đẳng cấp cao (tiếng Anh: “generic top level domain name” - gTLD).
Trong các ngun tắc trên đây, va\ trị của chính phủ
đã được đặt lên hàng đầu. Hội nghị W SIS Tuynít cũng ra
quyết định thành lập Diễn đàn Quản trị Internet (IGF)
đế tăng cường đôl thoại đa phương vể những vấn đề thuộc
chính sách cơng và phát triển, trong đó có những vấn để cần
có sự tham gia giải quyết của các cấp ra quyết định thuộc
chính phủ các quốc gia. Tổng Thư ký Hội nghị, ông Yoshio
Utsumi đã kết luận bằng một câu mang đậm tính nhân
văn: WSIS “khơng chỉ nói về cơng nghệ. Chủ đề của nó chủ
yếu là về người dân và về tiềm năng của họ”’. Điểu đó có
nghĩa là việc xây dựng xã hội tri thức trước tiên là cơng việc
của người dân các nưóc chứ không phải chỉ là công việc của
khoa học và công nghệ. Và để bảo đảm cho người dân phát
huy đưỢc tiềm năng của mình, chính phủ cần phải phát huy
vai trò lãnh đạo theo tinh thần dân chủ và bảo đảm thực thi
dân quyền và nhân quyền cho người dân.
Theo tinh thần đó, UNESCO cũng nhấn mạnh vai trị
của các chính phủ trong việc bảo đảm cho cơng dân của
1. “World Summit on the Iníormation Society”, Tlđd, tr. 282.
118
mình thực thi các quyền con người cơ bản do Liên hỢp quốc
đê ra trong công cuộc xây dựng xã hội tri thức. Liên quan
đến lĩnh vực chính trị, UNESCO nhấn mạnh đặc biệt đến
quyền tham gia vào đời sốhg chính trị và quyền tự do diễn
đạt của tồn dân.
Như chúng tơi đã nói, xã hội tri thức của “thịi đại thông
tin” khác với các xã hội tri thức trước đây là ở chỗ nó tập
trung vào quyền con người, trong đó nó chú ý đến một số
quyển cơ bản của con người đã được Tuyên ngôn Nhân
quyền T h ếg iâi phát biểu, như:
- Quyền tự do quan điểm và tự do diễn đạt (Điều 19 của
Tuyên ngôn Nhân quyền T h ế giới) cũng như tự do thông
tin, đa dạng hố các phương tiện truyền thơng và tự do học
thuật.
- Quyền đưỢc giáo dục và hệ quả của nó, giáo dục cơ
sở miễn phí và tiếp cận miễn phí đổì với các cấp giáo dục
khác (Điều 26 của Tuyên ngôn Nhẫn quyền T h ế giới và
Điều 13 của Thoả ước Quốc t ế v ề các Quyền Kinh tế, Xã
h ội và Văn hoá).
- Và quyển “tự do tham gia vào đời sốhg văn hoá của
cộng đồng, tự do hưởng thụ nghệ thuật, cùng chia sẻ sự tiến
bộ khoa học và những lợi ích của nó” (Điều 27, khoản 1 của
Tuyên ngôn Nhân quyền Thếgiởĩ)\
Trong các quyền nêu trên, UNESCO khẳng định “quyền
tự do diễn đạt là hòn đá thử vàng cho xã hội tri thức”^ .
1. United Nations; The ưniversal Declaration of Human Rights,
/>2. Xem UNESCO: Towards Knovvỉedge Societies, Tlđd, tr. 38.
119
Vậy tự do diễn đạt là gì?
Cũng theo UNESCO, sự xuất hiện của một xã hội thơng
tin tồn cầu sẽ ít có ý nghĩa nếu nó khơng được dựa trên
ngun tắc về tự do diễn đạt. Như trên cho thấy, tự do diễn
đạt kéo theo tự do quan điểm, tự do ngơn luận bằng lời
nói và chữ viết, tự do báo chí, tự do tiếp cận thơng tin và
tiếp cận dịng lưu thơng tự do các dữ liệu và thơng tin. Nếu
khơng có tự do diễn đạt thì sẽ khơng thể có xã hội thơng tin
và xã hội tri thức. Tự do diễn đạt, cùng vứi các quyền tự do
khác, cũng bảo đảm rằng các cá nhân trên khắp thế giới sẽ
khơng bị ngập chìm trong đống khối lượng khổng lồ các dữ
liệu mơ hồ do cuộc cách mạng thông tin tạo ra, “bởi vì chính
là thơng qua việc tìm kiếm thông tin phù hỢp, qua trao đổi,
chia sẻ, thảo luận và hoạt động khoa học và tự do sáng tạo
mà thơng tin mới có thể trỏ thành tri thức. Như thế, tự do
diễn đạt là sự bảo đảm không chỉ cho chính khả năng xây
dựng các xã hội tri thức đích thực, mà cịn bảo đảm cho tuổi
thọ lâu dài của chúng”*.
Các xã hội tri thức cổ xưa đều là những xã hội dựa trên
sự giữ bí mật. Đến thịi đại thơng tin, tự do diễn đạt cùng
kết quả của nó là tự do thơng tin sẽ là cái bảo đảm cho chiều
cạnh dân chủ của xã hội tri thức hiện đại. Nhưng quyển tự
do diễn đạt có phải là một quyền tuyệt đốỉ không?
Mặc dù Đại hội đồng Liên hỢp quốic đã tuyên bô ngay từ
đầu rằng “quyền tự do diễn đạt là hòn đá thử vàng cho mọi
quyền và mọi quyền tự do khác” (Nghị quyết 59(1) hgày
1. Xem UNESCO; Towards KnowIedge Societies, Tlđd, tr. 38.
120
14-12-1946), và mặc dù UNESCO cũng tuyên bố “quyền tự
do diễn đạt là hòn đá thử vàng cho xã hội tri thức”, nhưng
đôi khi quyển này vẫn tỏ ra mâu thuẫn với các quyền hoặc
với các nguyên tắc khác đã được tun bố cơng khai trên
tồn thê giới. Chẳng hạn, khi một đài phát thanh ở một
nước kích động nạn diệt chủng hoặc thanh trừng sắc tộc,
thì liệu việc kiểm duyệt đài phát thanh đó có thể bị coi là vi
phạm tự do diễn đạt và tự do thông tin đưỢc khơng? Vì vậy,
chúng ta cần phải coi một số nội dung thơng tin là có tội để
có thể áp đặt những giới hạn khả dĩ cho quyển tự do diễn
đạt và tự do thông tin.
Hiện nay, trên thê giới có hai quan điểm về quyển tự do
diễn đạt: một là của Hiến pháp Hoa Kỳ, hai là theo Điều 10
của Công ưốc châu Âu về Quyền Con người. Điều bổ sung
đầu tiên cho Hiến pháp Hoa Kỳ đã biến quyền tự do diễn
đạt và tự do thông tin thành các quyền tuyệt đốĩ, khơng có
ngoại lệ.
Trong khi đó quan niệm của châu Âu lại khác. Theo
quan niệm này thì khơng thể có bất cứ quyền tự do nào mà
lại khơng thực hiện một trách nhiệm tương xứng. Vì thế,
Cơng ước châu Âu đã đưa ra một sô" quy định hạn chế mang
tính hỢp pháp và đáng mong muốn đơi với những nội dung
thơng tin có hại. Mâu thuẫn này đã dẫn đến những khó
khăn trong xã hội thơng tin và xã hội tri thức, khi có quốc
gia mn áp dụng phương thức điều tiết của châu Âu cho
một véctơ của tự do diễn đạt như internet, bởi lẽ các nguyên
tắc của véctơ này lại có nguồn gốc từ quan điểm của Hoa Kỳ
về tính tuyệt đơl của tự do diễn đạt.
121
Dù theo quan điểm của Hoa Kỳ hay của châu Âu, thì
các chính phủ, trên thê giới vẫn quan tâm đúng mức đến
quyển tự do diễn đạt, bởi vì nếu người dân không được tự do
diễn đạt và tự do thơng tin đi kèm với nó, thì khơng thể có
sự chia sẻ tri thức, và vì thế sẽ khơng thể có xã hội tri thức.
Tuy nhiên, vì mục đích phát triển con người và vì một nền
dân chủ cơng bằng, chúng ta không được phép coi thường
các quyển khác của con người khi xuất hiện những sự mâu
thuẫn vối quyền tự do diễn đạt và tự do thông tin. Trên tinh
thần đó, quan điểm của châu Âu đáng đưỢc quan tâm lưu
ý. Rõ ràng, vai trị điều tiết của chính trị là rất quan trọng
trong việc xây dựng một xã hội thơng tin tồn cầu và xã hội
tri thức.
M ộ t s ố v í d ụ v ẽ sự c ô n g n h ậ n q u y ề n tự d o d iễ n d ạ t v à q u y ể n tự d o th ô n g
tin trê n t h ế giở i (trư ố c 1 1 -9 -2 0 0 1 )
C á c tổ chứ c q u ố c t ế v à k h u vực
(m ộ t v à i v í d ụ )
ở c ấ p q u ố c g ia
(m ộ t v à i v í d ụ )
Cấp
h iế n p h á p
L iê n hỢp q u ố c
H o a Kỳ
1946; Nghị quyết 59(1) của Đại hội đồng:
“Quyền tự do diễn đạt là một quyền con người
cd bản và ... là viên đá thử vàng của mọi
quyền tự do mà vi chúng Liên hỢp quốc cống
hiến”.
1948: Tuyên ngôn Nhân quyền Thế giới, Điều
19: “Mọi người đều có quyền tự do quan điểm
và tự do diễn đạt; bao gổm tự do giữ ý kiến mà
không bị can thiệp, cũng như tự do tim kiếm,
thu nhận và truyền bá thông tin và tư tưỏng
bằng bát cứ phưong tiện truyền thông nào và
không giới hạn về ranh giới” .
1791: Điéu
sửa đổi bổ
sung đáu
tiên cho
Hiển pháp:
“Quốc hội
sẽ không
đưa ra bất
cứ một đạo
luật nào
liên quan
đến việc
thành lập
một tôn
giáo,
122
Cấp
lậ p p h á p
1766:
Thuỵ Điển
1888:
Cólơmbia
1967: Hoa
Kỳ
1966: Thoả ước Quốc tế về các Quyền
Cóng dân và Chính trị, Điều 19:
“1. Mọi người đéu có qun có quan
điểm mà khơng bị can thiệp.
2. Mọi người đều có quyền tự do diễn
đạt; quyền này bao gồm quyền tự do
tim kiếm, tiếp nhận, và phổ biến mọi tin
tức và ý kién bằng truyền khẩu, bút tự
hay ấn phẩm, dưới hình thức nghệ thuật,
hay bằng mọi phương tiện trun thơng
khác theo sự lựa chọn của mỗi người,
không kể ranh giới.
3. Việc thực thi các quyên được đưa ra ở
mục 2 của điều này kéo theo các nghĩa
vụ và trách nhiệm đặc biệt. Vi thế nó có
thể trỏ thành đối tượng của một số quy
định hạn chế nhất định, nhưng những
quy định đó chỉ nên được đặt ra đúng
theo pháp luật cho phép và chĩ được
cần thiết để:
a. Tôn trọng các quyền hoặc thanh
danh của những người khác;
b. Bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự
công cộng, hay bảo vệ sức khoẻ hoặc
đạo đức cơng cộng.
1993: Văn phịng Cao ủy Nhân quyền
Liên hợp quốc lập ra chức vụ “Báo cáo
viên Đặc biệt của uỷ ban Nhân quyền
về việc thúc đẩy và bảo vệ quyền tự do
quan điểm và tự do diễn đạt” .
H ộ i đ ổ n g c ủ a c h â u Âu''>
1950; Công ước châu Âu về Quyén Con
người, Điéu 10 (được sửa đổi bởi Nghị
định Bổ sung số 11, có hiệu lực từ ngày
1-11-1998):
“1. Mọl ngưịi đều có qun tự do diễn
đạt. Qun này bao góm quyến tự do có
quan điểm, tự do nhận và chia sẻ thông
tin và tư tưởng mà không bị công quyền
can thiệp và bất kể ranh giới. ...
hoặc ngăn cấm
việc tự do thực
thi tơn giáo đó;
hoặc giản lược
tự do ngơn luận
hoặc tự do báo
chí; qun của
người dân được
hội họp hồ binh
và được kiến nghị
lẽn chính phủ để
được giải quyết
những khiếu nại".
1978: Toà án Tối
cao phán quyết
vụ Houchins kiện
tập đoàn KQED:
“Tự do ngơn luận
và tự do báo chí
khơng bao hàm
qun tiếp cận
thơng tin của
chính phủ hay
những nguồn
thơng tin nằm
dưới quyền kiểm
sốt của chính
phủ”.
Ấn Đ ộ
1982: Diễn giải
Điều 19 của Hiến
pháp Philíppin.
1986: Thơng qua
Hiển pháp mới
(Điéu III, Phắn 7).
1982;
Ốxtrâylia,
Canada, Niu
Dllân
1987:
Philíppin
1994: Pêru,
Bêlizè
1997:
Thái Lan
1998:
Hàn Quốc,
Ixraen,
Áchentina
123
2. Việc thực thi các quyên tự do này, do
nó kéo theo các nghĩa vụ và trách nhiệm,
nên nó có thể trở thành đối tượng của
những thủ tục, điéu kiện, quy định hạn
chế hoặc hình phạt được luật pháp quy
định và tỏ ra cần thiết trong một xã hội
dân chủ, phục vụ lợi ích an ninh quốc
gia, tồn vẹn lãnh thổ hoặc an tồn cơng
cộng, nhằm ngàn ngừa linh trạng lộn xộn
hoặc tội phạm, bảo vệ sức khoẻ hoặc
đạo đức, bảo vệ thanh danh hoặc quyền
của những người khác, ngăn ngừa việc
tiết lộ thõng tin bí mật, hoặc nhằm duy tri
uy qun và lính cơng bằng của ngành
tư pháp”.
1987: Leander chống lại quyên cai quản
của Thuỵ Điển đối với Toà án chảu Âu vê
Nhân quyền.
1989: Gaskin chống lạl quyền cai quản
của Vưdng quốc Anh đói với Tồ án châu
Âu về Nhân quyén.
1998: Guerra và Ors chống lại quyền cai
quản của Italia đói với Tồ án châu Âu về
Nhân qun.
2001: Khuyến nghị số R(81)19 về liếp
cận thông tin do công quyén nắm giữ.
Tổ chức các Quốc gia châu Mỹ
1948: Tuyên ngôn châu Mỹ vé Quyén và
Nghĩa vụ của Con người, Điêu IV.
1969: Công ước châu Mỹ vê Nhân
quyền, Điều 13:
”1. Mọi người đéu có quyén tự do tư
tưởng và diễn đạt. Quyền này bao gốm
quyén tự do tim kiếm, tiếp nhận và phổ
biến mọi thông tin và tư tưởng bằng
truyén khẩu, bút lự hay án phẩm, bằng
hình thức nghệ thuật, hay bằng mọi
phương tiện truyền thông khác theo sự
lựa chọn của mỗi người, không kể ranh
giỏi.
2. Việc thực thi quyền được ghi trong
mục nói trẽn sẽ khơng phải là đối tượng
của sự kiểm duyệt trước, nhưng sẽ là
đối tượng của sự áp đặt sau đó về trách
nhiệm pháp lý, được thiết lập rõ ràng
bởi luật pháp trong chừng mực cần thiết
nhằm bảo đảm:
124
Hàn Quốc
1989: Diễn giải
Điều 21 của
Hiẽn pháp.
Nam Phi
1996: Thông
qua Phán 32
của Hiến pháp.
“Mọi người
đêu có qun
tiếp cận bát cứ
thơng tin nào
do nhà nước
nắm giữ; và
bất cứ thông
tin nào do cá
nhân khác nắm
giữ và thơng
tin đó cán thiết
cho việc thực
thi hoăc bảo
vệ bát cử một
quyên nào".
Thái Lan
1997: Thông
qua Phân 58
của Hiến pháp.
Châu MỹLatinh
Hiến pháp
của Arhentina
(Điều 43) và
của Pêru (Điêu
2/4) công nhận
quyền được
kiến nghị cho
xem bất cứ một
thông tin nào
do các ngân
hàng dữ liệu
của công hoặc
của tư nắm giữ.
1999: Triniđát
và Tôbago
2000:
Vương quốc
Anh
2001:
Nhật Bản
a. Tôn trọng các quyén và thanh danh của
những người khác; hoặc
b. Bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công
cộng, hay bảo vệ sức khoẻ hoặc đạo đức
cộng đống".
1985: Ý kiến tư vấn của Toà án Liên chảu
Mỹ vé Nhân quyên diễn giải Điéu 13(1).
1994: Tuyên bố Chapultepec (Hội nghị
Bán cầu vê Tự do Ngôn luận, do Hiệp hội
Báo chí Liên châu Mỹ tổ chức).
2000: Tuyên bố Liên châu Mỹ vé các
nguyên tắc tự do diễn đạt đâ được uỷ ban
Liên châu Mỹ về Nhân quyén thống qua:
“1. Mỗi người đều có qun được tiếp cận
thơng tin về mình hoặc vê lài sản của
mình một cách nhanh chóng và khơng khó
khăn, bát kể nó được lưu giữ trong cơ sỏ
dữ liệu hoặc trong sổ đăng ký của cỏng
hay của tư, và nễu cân sẽ được quyền cập
nhật nó, sửa chữa nó và/hoặc bổ sung nó.
2. Tiếp cận thơng tin do nhà nước nắm
giữ là một quyên cơ bản của mỗi cá nhân.
Nhà nước có nghĩa vụ bảo đảm thực thi
đáy đủ quyền này. Nguyên tắc này chĩ cho
phép có những hạn chế ngoại lệ và phải
được luật pháp quy định trước trong trường
hợp có một mói nguy hiểm thực sự và
sáp xảy ra đe doạ an ninh quốc gia trong
những xã hội dân chủ".
* Tiếng Anh; “Council of Europe”. c ầ n tránh nhầm lẫn với “Hội
đồng châu Âu” của Liên hiệp châu Âu: “European Council” - NVD.
Nguồn: Tbwards knovvledge societies, (Sđd, tr. 4 0 -4 1 ).
Như vậy, về mặt quyền lợi chính trị, nếu người dân
được hưởng quyền tự do diễn đạt và tự do thông tin, thì họ
sẽ có nhiều cơ hội để được tham gia vào đời sống chính trị xã hội và văn hố của cộng đồng, giảm được nguy cơ về sự
loại trừ chính trị - xã hội đối với họ, một nguy cơ đang trở
nên đáng sỢ nhất trong thê giới toàn cầu hoá hiện nay. về
nguy cơ này, năm
2000, Pierre s. Pettigrevv,
Bộ trưởng Bộ
125
Thương mại Quốc tế Canada lúc bấy giờ, đã nhận xét rất
xác đáng rằng; Tồn cầu hố “đang tạo ra những điều kiện
mang tính loại trừ và gạt ra ngoại vi những quốc gia hoặc
quần thê dân cư nào nằm ngồi rìa vũ đài thế giới hoặc
ngồi rìa xã hội mà không hội nhập đưỢc vào với các mạng
lưới mới;”' rằng “...kẻ bị bóc lột trước đây vẫn tồn tại trong
một mốì quan hệ xã hội, anh ta nằm trong một ‘cấp độ xã
hội’, do đó anh ta vẫn có thể đứng vào được một tổ chức nào
đó để địi quyền lợi. Cịn về phần kẻ bị loại trừ, vì anh ta
khơng cịn tồn tại trong một mối quan hệ xã hội nào, nên
anh ta có thể bị bỏ qua”^.
Một tác giả người Pháp là Alain Touraine cũng nhận
xét rất thấm thìa về vấn đê này: “Mới hơm qua thơi, (...),
chúng ta cịn nói đến sự thống trị, đến sự bóc lột, đến cải
cách hoặc cách mạng. Nhưng ngày nay chúng ta chỉ nói
đến tồn cầu hố hoặc đến sự loại trừ, đến khoảng cách xã
hội đang gia tăng (...). Trước đây chúng ta có thói quen đặt
mình trong mối quan hệ về các mặt xã hội, (...). Giò đây
chúng ta đã thay cái nhãn quan theo chiều dọc này bằng
một nhãn quan theo chiểu ngang: chúng ta phảkxác định
xem mình đang đứng ở trung tâm hay ở ngoại vi, ở trong
hay ở ngồi, dưới ánh sáng hay trong bóng tối”®.
Vậy là việc bị coi là người bị bóc lột chưa đáng sỢ bằng
bị coi là người bị loại trừ, bị gạt ra ngồi rìa làn sóng phát
triển. Người bị bóc lột cịn có cơ hội để tổ chức những hình
1,
2. Pierre s.
Pettigrew : “L ’avenir du politique” (“Tương lai của
chính trỊ”), Politique étra n gère, 20 0 0 , No. 2, p. 428, 249.
3. Trích theo Pettigrevv, B ài đã dẫn.
126
thức đấu tranh hỢp pháp chơng lại kẻ bóc lột, nhưng người
bị gạt ra rìa sẽ khơng biết bấu víu vào thể chế nào đê đấu
tranh. Đây là điều mà ở những thế kỷ trước khơng ai có thể
nghĩ tối. Và xã hội tri thức sẽ là xã hội đem lại cho người
dân nhiều hứa hẹn về khả năng hội nhập một cách bình
đẳng với thế giới. Tất nhiên, để làm được điều này, nếu chỉ
có vai trị của chính phủ các quốc gia và các cấp chính quyền
quốc tế thì chưa đủ. Trên tinh thần này, hiện người ta đang
nói nhiều đến vai trị ngày càng tăng của một tác nhân đổì
trọng với chính phủ: đó là xã hội công dân.
b.
Xáy dựng xã hội công dân dựa trên quyền dân chỉh
Theo UNESCO, chỉ riêng các chính phủ thì khơng thể
đáp ứng được thách thức vể sự phát triển xã hội tri thức.
Điều này địi hỏi phải có sự hỢp tác chặt chẽ giữa các chính
phủ với các tổ chức quốc tế, với khu vực tư nhân, với khu
vực đoàn thể và với xã hội công dân.
Vậy xã hội công dân là gì và tại sao hiện nay người ta
hay nói nhiều đến nó như vậy?
Đây là một thuật ngữ được dịch từ tiếng Anh “civil
society”, và từ tiếng Pháp “société civile”. Hiện nay ở nước
ta có người dịch là “xã hội cơng dân”, có người dịch là “xã
hội dân sự”. Vậy thực tế, thuật ngữ này cần phải được hiểu
và được dịch như thế nào?
Trưốc đây, trong các cuốn sách dịch các tác phẩm triêt học
kinh điển, các dịch giả nước ta vẫn dịch là “xã hội công dân”.
1. Vấn đê “xã hội công dân” và “xã hội dân sự” hiện nay vẫn còn
nhiều ý kiến khác nhau. Để bạn đọc có điều kiện nghiên cứu, tham khảo
thêm về vấn đề này, chúng tôi giữ nguyên luận giải của tác giả và coi đây
là quan điểm riêng (BT).
127
Nhưng gần đây, trong nhiều tài liệu dịch thuật, chúng ta
thấy xuất hiện thêm một cách dịch mối là “xã hội dân sự”
bên cạnh cách dịch “xã hội công dân”. Thực tế cả hai cách
dịch này đều có cái lý của nó về mặt ngữ nghĩa. (Nhưng tơi
vẫn ngờ rằng cách dịch thứ hai là của những người mới tham
gia vào cơng việc dịch thuật mà khơng biết gì đến cách dịch
thứ nhất của những người dịch sách kinh điển trước đây).
Từ điển Wikipedia đã định nghĩa “xã hội công dân” như
sau: “Xã hội cơng dân bao gồm tồn bộ các tổ chức công dân
và xã hội tự nguyện làm thành cơ sở cho một xã hội vận
hành, đốì lập với các cơ cấu dựa trên sức mạnh của một nhà
nước và của các tổ chức thương mại”.
Cũng theo Wikipedia, lịch sử của thuật ngữ này bắt
đầu từ nhà triết học người Scơtlen thịi Ánh sáng Adam
Perguson (“Tiểu luận về lịch sử xã hội công dân”, 1767),
người đã coi việc triển khai một “nhà nước thương mại” như
là một cách để thay đổi trật tự phong kiến mục nát và tăng
cường quyền tự do của cá nhân. Trong khi Perguson không
vạch một đường ranh giối giữa nhà nước và xã hội, thì nhà
triết học người Đức G. w. F. Hegel lại vạch ra sự phân biệt
này trong cơng trình Triết học pháp quyền (1827). Trong
cơng trình đó, Hegel coi xã hội công dân là một giai đoạn
trong quan hệ biện chứng giữa hai mặt đối lập: tức là giữa
đại cộng đồng là nhà nưốc vối tiểu cộng đồng là gia đình.
Sau đó đến Karl Marx, xã hội cơng dân trở thành cơ sở cho
xã hội tư sản. Đồng thời xuất hiện một xu hướng mở rộng
khía cạnh kinh tế trong quan niệm của Marx để thu nạp cả
các khía cạnh văn hố, xã hội và chính trị, coi xã hội công
128
dân là bao gồm tất cả những khía cạnh phi nhà nước của
xã hội.
Theo tinh thần nói trên, Trung tâm Xã hội Công dân
của Trường Kinh tê Luân Đôn đã định nghĩa xã hội công
dân như sau:
“Xã hội công dân đề cập một vũ đài của hành động tập
thể không bắt buộc, được thực hiện xung quanh những
quyền lợi, mục đích và giá trị chung,
về mặt lý thuyết, các
hình thức thể chế của nó khác biệt với những hình thức của
nhà nuớc, gia đình và thị trường, mặc dù trên thực tế, ranh
giới giữa nhà nc, xã hội cơng dân, gia đình và thị trường
thường tỏ ra phức tạp, mị nhạt và mang tính thoả thuận.
Thơng thường, xã hội cơng dân bao gồm nhiều địa điểm
khác nhau, nhiều hình thức tác nhân và thể chế, đa dạng
về câ'p độ nghi thức, về tính tự chủ và về quyền lực. Trong
xã hội cơng dân thường có mặt các tổ chức như các hội từ
thiện có đăng ký, các tổ chức phi chính phủ về phát triển,
các nhóm mang tính cộng đồng, các tổ chức của phụ nữ, các
tổ chức tín ngưỡng, các hội nghề nghiệp, các nghiệp đồn,
các nhóm tự giúp đỡ nhau, các phong trào xã hội, các hội
doanh nghiệp, các nhóm luật sư” (1-3-2004)'.
Mặc dù định nghĩa trên đây của Trường Kinh tế Luân
Đôn về xã hội công dân đã bao qt khá đầy đủ mọi khía
cạnh, nhưng nó lại khơng tính đến vai trị của các cá nhân.
Đầy cũng là quan điểm của một sô" người khác nữa. Chẳng
hạn Paul Wapner (Hoa Kỳ, 1996) đã cho rằng xã hội cơng
1. Trích theo Wikipedia, mục từ “Civil society”, http://www.
wikipedia.org.
129
dân là một “lĩnh vực của đời sống hội đoàn nằm trên cấp cá
nhân và dưới cấp nhà nước”’.
Tuy nhiên, có những người khác lại coi khu vực tư nhân
là một trong những tác nhân chủ chốt trong xã hội cơng
dân, xét vì tầm quan trọng của nó trong xã hội ngày nay,
đặc biệt là trong xã hội thông tin và xã hội tri thức. Chẳng
hạn Audrey N. Selian (Hoa Kỳ, 2004) đã cho rằng “theo
nghĩa rộng, xã hội công dân bao gồm chủ yếu các tác nhân
tư nhân. Vì thế nó khơng nhất thiết phải khác biệt với các
tác nhân thuộc khu vực tư nhân, tức là các thực thể như
các hiệp hội khoa học, nghề nghiệp hoặc thương mại”^. Chỉ
có điều, thuật ngữ khu vực tư nhân được Selian hiểu một
cách rất rộng, vối nghĩa là nó bao gồm chủ yếu các loại hiệp
hội, và đặc biệt là các tổ chức phi chính phủ (viết tắt tiếng
Anh: NGO).
Mặt khác, cùng vối sự xuất hiện của tồn cầu hố, xã
hội công dân cũng được xác định là đang tiến tới trở thành
một xã hội cơng dân tồn cầu, trong đó, các thành viên của
nó hành động như một cơng dân tồn cầu. Điều này cũng đã
đưỢc nhiều người nói đến, vối nghĩa là các tác nhân tư nhân
đang hoạt động ở phạm vi xuyên biên giới để tác động đến
cả đời sơng chính trị thế giối (Wapner, Selian).
1. Trích theo Audrey N. Selian: “The World Summit on the
Iníormation Society and Civil Society Participation” (“Hội nghị Thượng
đỉnh Thế giâi về Xã hội thông tin và sự tham gia của xã hội cơng dân”),
The Iníormation Society, no. 20, 2004, p. 206.
2. Trích theo Selian: “The World Summit on the Iníormation Society
and Civil Society Participation”, Tldd, tr. 206.
130
Một tác giả khác là Ja n Aart Scholte cũng nhấn mạnh
đến vai trị của xã hội cơng dân trong việc quản lý tồn cầu
một cách có trách nhiệm vê mặt dân chủ. ơng cho rằng
trong q trình lịch sử, thuật ngữ “xã hội công dân” đã
thâu nạp nhiều nghĩa khác nhau và đôi khi chúng mâu
thuẫn nhau một cách rõ rệt. Chẳng hạn như cách hiểu về
xã hội công dân của Liên minh Cơng dân Thế giới vì sự
tham gia của công dân (CIVICUS World Alliance for Citizen
Participation), và của Ngân hàng Thế giới, hiện tại đang
khác xa so vối những cách hiểu của John Locke, của Kant,
của Hegel và của Gramsci. ông nhận xét: vấn đề không
phải là xác định một định nghĩa cuối cùng, mà đúng hơn là
làm cho khái niệm “xã hội công dân” trở nên thích hỢp về
mặt trí tuệ và chính trị với bối cảnh sát sườn của chúng ta.
Và ông xác định rằng:
“Trong mốì quan hệ với nền chính trị thế giới đương
đại, xã hội cơng dân có thể được quan niệm như là một
khơng gian chính trị mà trong đó các hiệp hội tự nguyện
đang tìm cách, từ vị trí đứng ngồi các đảng phái chính trị,
định hình nên các quy tắc để quản lý một khía cạnh nào đó
của địi sơng xã hội. Các nhóm mang tính xã hội cơng dân
tập hỢp các công dân lại với nhau một cách không bắt buộc,
với chủ ý là nhằm tác động đến các điều luật chính thức và
các quy chuẩn phi chính thức đang điều chỉnh mổì tương
tác xã hội. Mặc dù trên thực tế, các diễn đàn của xã hội công
dân không thể tách biệt hồn tồn khỏi các lĩnh vực chính
trị chính thống và các lĩnh vực thương mại, nhưng các hiệp
131
hội xã hội cơng dân đích thực khơng theo đuổi để giành cho
mình một cơng sở hoặc một thành tựu về tiền bạc”'.
Scholte cũng nhận xét rằng ngày nay, các xã hội cơng
dân đang có ảnh hưởng mạnh mẽ hơn bao giị hết đến nền
chính trị và quản lý tồn cầu. Các tổ chức quốc tế, đặc biệt
là Liên hỢp quốc, rất coi trọng vai trò của các xã hội công
dân. Các hội nghị quốc tế và của Liên hỢp quốc đều dành
cho các xã hội công dân một diễn đàn song song. Ngay cả
các tổng thư ký Liên hỢp quốc trước đây cũng rất coi trọng
vai trò của các tơ chức phi chính phủ trong các hoạt động
của Liên hỢp quốc và của cả loài người. Nguyên Tổng Thư
ký Liên hỢp quốc Boutros Ghali đã khẳng định rằng các
NGO “là một bộ phận hỢp pháp không thể thiếu” của Liên
hỢp qb; cịn người kế nhiệm của ơng, ơng Kofi Annan, thì
tun bơ" rằng NGO “là lương tâm của nhân loại”^.
Như vậy nhìn chung, mặc dù cịn có sự khác nhau về
một số chi tiết, nhưng đa sô' các ý kiến đều nhấn mạnh đến
các tác nhân ngoài nhà nưốc khi nói đến xã hội cơng dân,
và đặc biệt là đều nhấn mạnh đến một loại tác nhân đang
ngày càng giành được vị trí quan trọng trên diễn đàn quốc
tế, đặc biệt là trong xã hội thông tin và xã hội tri thức trong
tương lai, đó là các tổ chức phi chính phủ.
1. Jan Aart Scholte: “Civil Society and Democratically Accountable
Global Governance” (“Xã hội công dân và việc quản lý tồn cầu một
cách có trách nhiệm về mặt dân chủ”), Government and Opposition Ltd,
Blackwell Publishing, 9600 Garsington Road, Oxford 0 X 4 2DQ, UK and
350 Main Street, Malden, MA 02148, USA, 2004, p. 214.
2. Audrey N. Selian: ‘The World Summit on the Iníormation Society
and Civil Society Participation”, Tlđd, tr. 206.
132
sở dĩ chúng tơi
phải nói nhiều đến các quan điểm của
nưốc ngồi về xã hội cơng dân như vậy là vì trong quan
điểm về xây dựng xã hội tri thức, các nhà khoa học và các
tổ chức quôh tế rất hay nhấn mạnh đến vai trị của xã hội
cơng dân như là một cơ sở để phát huy quyền dân chủ của
các “công dân thế giới” trong tương lai, khi mà trên thế giới
đang diễn ra q trình tồn cầu hố sơi động, trong đó vai
trị của nhà nước đang bị thu hẹp lại so với trước đây để
nhường một chỗ đáng kể cho vai trị của xã hội cơng dân. Và
vì thế, xã hội cơng dân mối trỏ thành một chủ đề được bàn
luận nhiều đến thê trên diễn đàn quốc tê hiện nay.
Sau tất cả những điều phân tích trên đây, chúng tơi
khơng thể đồng tình vối một ý kiến xuâ't hiện gần đây ở
Việt Nam cho rằng cần phải phân biệt “xã hội công dân” với
“xã hội dân sự”. Như chúng tôi đã chỉ ra, trên thế giới chỉ
có một khái niệm tương ứng với thuật ngữ tiếng Anh “civil
society” mà ở ta hiện đang có hai cách dịch cho một khái
niệm này. Thê nhưng ở Việt Nam lại có người võ đốn cho
rằng “Ban đầu, ý tưởng về ‘xã hội dân sự’ và ‘xã hội công
dân’ gần như đồng nhất, nhưng dần dần hai khái niệm ấy
tách khỏi nhaư”. Sau đó tác giả của ý kiến này lập luận
hồn tồn theo suy đốn ngẫu hứng cá nhân, chứ khơng hề
có một lý lẽ khoa học nào, và khơng hề căn cứ vào tình hình
bàn luận thực tế của giới khoa học trên thế giới về vấn đề
này, để rồi đi đến khẳng định rằng: “Nói cách khác, nếu xã
hội dân sự là xã hội nằm ngoài nhà nước, thì xã hội cơng
dân là pháp chế hố xã hội dân sự. (...) nói đến xã hội dân
133
sự là nói đến nhân quyền cịn nói đến xã hội cơng dân là nói
đến dân quyền”’.
Nói tóm lại, chúng tơi ghi nhận rằng ở Việt Nam hiện
tại đang có hai cách gọi “xã hội công dân” và “xã hội dân sự”
cho một khái niệm duy nhất. Tuy nhiên, nếu hiểu theo định
nghĩa của Hegel, của Wikipedia hay của nhiều ngưồi khác
nữa, và theo xu hưống chung trên thê giới là nhấn mạnh chủ
trương phát huy quyền dân chủ của “civil society”, phát huy
vai trò của người dân trong một nước và của người dân ở cấp
toàn cầu, và đặc biệt là theo sự giải trình của dan Scholte
mà chúng tôi vừa giối thiệu, nhất là căn cứ vào một tên
gọi tiếng Anh của một xã hội công dân là^“CIVICUS WorId
Alliance for Citixen Participatiorí’, trong đó từ “cơng đârí’
đưỢc nhắc lại hai lần (“civicus” (tiếng Latinh) và “citizen”),
thì chúng tơi khẳng định cách dịch “xã hội công dân” của
các học giả Việt Nam trước đây là chính xác. Và trong cơng
trình này chúng tơi sẽ dùng thuật ngữ “xã hội cơng dân”.
(Thậm chí, nói một cách chính xác hơn, từ “society” trong
cụm từ “civil society” của tiếng Anh phải được dịch là “hội”:
“hội cơng dân”. Tuy nhiên, do cách nói đã quen dùng hiện
nay, chúng ta sẽ chấp nhận cách dịch “xã hội cơng dân”).
Với tất cả những gì được trình bày trong mục này, chúng
tơi chỉ mn nói rằng cột trụ chính trị có một vị trí quan
trọng trong việc bảo đảm quyền con người và quyển dân
chủ cho nhân dân để xây dựng một xã hội thông tin tồn
1.
Đó là quan điểm của ơng Nguyễn Trần Bạt (Chủ tịch, Tổng giám
đốc InvestConsult). Xem Nguyễn Trần Bạt; “Bàn về xã hội dân sự ’, www.
chungta.com. 15-8-2007.
134
cầu và xã hội tri thức trong tương lai. Trong cột trụ này, vai
trị của chính phủ vẫn ngày càng được tăng cường để bảo
đảm về mặt chính trị cho các chiến lược phát triển kinh tế,
khoa học - công nghệ, văn hố và giáo dục. Bên cạnh đó, sự
nổi lên của xã hội cơng dân chính là thể hiện yêu cầu về các
quyền dân chủ trong thời đại thông tin. Có thể nói, nếu như
việc bảo đảm quyền con người sẽ làm cho xã hội tri thức
mang tính nhân văn hơn, thì việc bảo đảm quyển dân chủ
sẽ làm cho nó trở nên cơng bằng hơn. Như thế, lồi người
mới có cơ may xây dựng được một xã hội tri thức phát triển
bển vững.
2. Cột trụ kinh tế tri thức
a. Kinh t ế tri thức là gì?
Theo từ điển Wikipedia, kinh tế tri thức (tiếng Anh:
“knowledge economy”) là một thuật ngữ mơ hồ được
dùng để chỉ hoặc là nền kinh t ế (của) tri thức (“economy
of knowledge”) tập trung vào việc sản xuất và quản lý tri
thức, hoặc là một nền kinh tếdự a trên tri Ếhức(“knowledgebased economy”). Nghĩa thứ hai này thường được sử dụng
nhiều hơn, nó đề cập đến việc sử dụng tri thức để tạo ra
những lợi ích về mặt kinh tế. Khái niệm này đã được phổ
biến nhờ cuôh sách The Age o f Discontinuity; Guidelines
to Our changing S ociety (1969) của Peter Drucker, với
chương 12 đưỢc đặt tên theo khái niệm đó.
Nhiều nhà quan sát mơ tả nền kinh tế tồn cầu hiện nay
như là một nền kinh tế đang trong thời kỳ quá độ chuyển
sang nền “kinh tê tri thức”, như là một sự mở rộng của “xã
hội thông tin”. Sự quá độ này đòi hỏi cần phải thay đổi các
135