Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (72.41 KB, 3 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
Ai Cập ở vùng Đông Bắc châu Phi, nằm dọc theo vùng hạ lưu của lưu vực sông Nin, sông Nin bắt nguồn
từ vùng xích đạo của châu Phi, dài 6700 km, nhưng phần chảy qua Ai Cập chỉ dài 700 km. Miền đất đai
do sông Nin bồi đắp chỉ rộng 15-25 km, ở phía Bắc có nơi rộng đến 50 km vì ở đây sơng Nin chia thành
nhiều nhánh trước khi đổ ra biển. Hàng năm, từ tháng 6 đến tháng 11, nước sông Nin dâng cao đem theo
một lượng phù sa rất phong phú bồi đắp cho vùng đồng bằng hai bên bờ ngày càng thêm màu mỡ. Chính
vì vậy, nên kinh tế ở đây phát triển sớm tạo điều kiện cho Ai Cập có thể bước vào xã hội văn minh sớm
nhất thế giới. Cũng chính vì vậy, nhà sử học Hy Lạp Hêrơđơt nói rằng: “Ai Cập là tặng phẩm của sơng
Nin”.
Tuy vậy, về mặt địa hình, Ai Cập là một nước tương đối bị đóng kín, phía Bắc, là Địa Trung Hải, phía
Đơng giáp Biển Đỏ, phía Tây giáp sa mạc Xahara, phía Nam giáp Nubi, nơi giáp giới ấy là một vùng núi
hiểm trở khó qua lại. Chỉ có ở Đơng Bắc, vùng kênh đào Xuyê sau này, người Ai Cập cổ đại mới có thể
qua lại với vùng Tây Á.
Ai Cập chia làm hai miền rõ rệt theo dịng chảy của sơng Nin từ Nam lên Bắc: miền Thượng Ai Cập (miền
Nam) là một dải lưu vực hẹp, miền Hạ Ai Cập (miền Bắc) là một đồng bằng hình tam giác.
Về tài nguyên thiên nhiên, Ai Cập có rất nhiêu loại đá quý như đá vôi, đá badan, đá hoa cương, đá mã
não... Kim loại thì có đồng, vàng, cịn sắt thì phải đưa từ bên ngoài vào.
Cư dân chủ yếu của Ai Cập ngày nay là người Arập, nhưng thời cổ đại, cư dân ở đây là người Libi, người
da đen và có thể có cả người Xêmit di cư từ châu Á tới nữa.
Các thời kì lịch sử của Ai Cập cổ đại
Nhà nước Ai Cập cổ đại ra đời từ cuối thiên niên kỉ IV TCN. Từ đó cho đến năm 525 TCN, theo cách
phân chia của Manêtông, tác giả sách Lịch sử Ai Cập, sống vào thế kỉ III TCN, lịch sử Ai Cập cổ đại được
chia thành 5 thời kì là Tảo vương quốc, Cổ vương quốc, Trung vương quốc, Tân vương quốc và Hậu kì
1. Thời kì Tảo vương quốc (khoảng 3200 - 3000 TCN)
Vào khoảng nửa sau thiên niên kỉ IV TCN, do sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự phân hóa giàu
nghèo, các công xã nông thôn đã liên hiệp lại thành những nhà nước nhỏ đầu tiên gọi là châu. Dần dần,
những châu ấy hợp lại thành hai miền Thượng và Hạ Ai Cập. Tiếp đó, qua đấu tranh, hai miền Thượng và
Hạ Ai Cập mới thống nhất thành nước Ai Cập. Từ khi nhà nước Ai Cập thống nhất ra đời cho đến khoảng
năm 3000 TCN, ở Ai Cập đã trải qua hai vương triều là vương triều I và vương triều II và được gọi chung
là thời Tảo vương quốc.
Ngay từ thời kì này, người cổ Ai Cập đã biết sử dụng công cụ bằng đồng đỏ, biết dùng cày và dùng súc
vật để kéo cày.
Người đứng đầu nhà nước là một ông vua chuyên chế gọi là Pharaông.
2. Thời kì Cổ vương quốc (khoảng 3000 - 2200 TCN)
Thời kì Cổ vương quốc bao gồm 8 vương triều, từ vương triều III đến vương triều X. Đầu thời Cổ vương
quốc, chế độ tập quyền trung ương càng được củng cố, kinh tế cũng phát triển hơn trước. Trên cơ sở ấy,
các Pharaông đã huy động sức người sức của để xây dựng cho mình những Kim tự tháp rất đồ sộ. Nhưng
từ vương triều V, thế lực của chính quyền trung ương bắt đầu suy giảm, đến vương triều VII, nền thống
nhất khơng duy trì được nữa.
3. Thời kì Trung vương quốc (khoảng 2200 - 1570 TCN)
Bắc Ai Cập bị người Híchxốt ở Palextin chinh phục và thống trị 140 năm. Trong thời gian ấy, miền Nam
Ai Cập cũng phải thần phục vương triều ngoại tộc ấy.
4. Thời kì Tân vương quốc (1570 - khoảng 1100 TCN)
Năm 1570 TCN, người Híchxốt bị đánh đuổi khỏi Ai Cập, đất nước lại được thống nhất, thời Tân vương
quốc bắt đầu. Thời kì này gồm 3 vương triều, từ vương triều XVIII đến vương triều XX. Các vua đầu
vương triều XVIII tích cực thi hành chính sách xâm lược bên ngồi đã chinh phục được Xyri, Phênixi,
Palextin ở châu Á và Libi, Nubi ở châu Phi.
Cuối vương triều XVIII, do thế lực của tầng lớp tăng lữ thờ thần Mặt trời Amôn phát triển quá mạnh, lấn
át cả uy quyền của vua, vì vậy, để làm suy yếu thế lực của tầng lớp tăng lữ, vua Ichnatôn đã tiến hành một
cuộc cải cách tơn giáo, nhưng chính sách cải cách này chỉ được thi hành một thời gian ngắn mà thôi.
Về công cụ sản xuất, từ thời Trung vương quốc, đồng thau đã ra đời nhưng chất lượng còn kém và còn ít.
Đến thời Tân vương quốc, đồng thau mới được sử dụng rộng rãi, đồng thời sắt đã bắt đầu xuất hiện nhưng
còn rất hiếm.
Sau vương triều XVIII, Ai Cập ngày càng suy yếu.
5. Ai Cập từ thế kỉ X - I TCN
Từ thế kỉ X TCN, Ai Cập hết bị chia cắt lại bị ngoại tộc thống trị. Đặc biệt, từ năm 525 TCN, Ai Cập bị
nhập vào đế quốc Ba Tư ở Tây Á. Năm 332 TCN, Ai Cập bị Alếchxăngđrơ ở Makêđônia chinh phục. Sau
khi đế quốc Makêđônia tan rã, Ai Cập thuộc quyền thống trị của một vương triều Hy Lạp gọi là vương
triều Ptôlêmê (305-30 TCN). Đến năm 30 TCN, Ai Cập thành một tỉnh của đế quốc La Mã.
Những thành tựu chủ yếu của văn minh Ai Cập cổ đại
1. Chữ viết, văn học
<i><b>Chữ viết</b></i> Khoảng hơn 3000 nămTCN, người Ai Cập cổ đại đã sáng tạo ra chữ tượng hình. Muốn chỉ một
vật gì thì họ vẽ những nét tiêu biểu của sự vật đó. Để diễn tả những khái niệm trừu tượng thì họ mượn ý.
Thí dụ để diễn tả trạng thái khát thì họ vẽ ba làn sóng nước và cái đầu bị đang cúi xuống; để nói lên sự
cơng bằng thì họ vẽ lơng chim đà điểu (vì lơng đà điểu hầu như dài bằng nhau). Từ chữ tượng hình, sau
này người Ai Cập cổ đại đã hình thành ra hệ thống 24 chữ cái. Vào thiên niên kỉ II TCN, người Híchxốt
đã học cách viết của người Ai Cập để ghi lại các ngơn ngữ của mình. Về sau này, loại chữ viết ấy lại ít
nhiều ảnh hưởng tới người Phênixi và người Phênixi đã sáng tạo ra vần chữ cái A, B... Những chữ tượng
<i><b>Văn học</b></i> Những tác phẩm tiêu biểu cịn lại như Truyện hai anh em, Nói Thật và Nói Láo, Đối thoại của
một người thất vọng với linh hồn của mình, Người nơng phu biết nói những điều hay...
2. Tôn giáo
Người Ai Cập cổ đại theo đa thần giáo, họ thờ rất nhiều thần. Ban đầu, mỗi vùng thờ mỗi vị thần riêng của
mình, chủ yếu là những vị thần tự nhiên. Đến thời kì thống nhất quốc gia, bên cạnh những vị thần riêng
của mỗi địa phương cịn có các vị thần chung như thần Mặt trời (Ra), thần sông Nin (Osiris).
Người Ai Cập cổ tin rằng con người có hai phần: hồn và xác. Khi con người chết đi, linh hồn thoát ra
ngồi nhưng có thể một lúc nào đó lại tìm về nơi xác (Họ tin rằng như khi bị ngất , hồn thốt ra ngồi tạm
thời). Vì vậy những người giàu có tìm mọi cách để giữ gìn thể xác. Kĩ thuật ướp xác vì vậy cũng rất phát
triển.
3. Kiến trúc điêu khắc
mỗi cạnh tới 230m. Đã mấy ngàn năm qua các Kim tự tháp vẫn sừng sững với thời gian. Vì vậy người Ai
Cập có câu “Tất cả mọi vật đều sợ thời gian, nhưng riêng thời gian phải nghiêng mình trước Kim tự tháp”.
Ngoài việc xây dựng các lăng mộ, người Ai Cập cổ còn để lại ấn tượng cho đời sau qua các cơng trình
điêu khắc. Đặc biệt nhất là tượng Nhân Sư (Sphinx) hùng vĩ ở gần Kim tự tháp Khephren. Bức tượng
mình sư tử với gương mặt Khephren cao hơn 20m này có lẽ muốn thể hiện Khephren là chúa tể với trí
khơn của con người và sức mạnh của sư tử.
4. Khoa học tự nhiên
<i><b>Thiên văn học</b></i> Người Ai Cập cổ đã vẽ được bản đồ sao, họ đã xác định 12 cung hoàng đạo và sao
Thuỷ,Kim, Hoả, Mộc, Thổ. Người Ai Cập cổ làm ra lịch dựa vào sự quan sát sao Lang (Sirius). Một năm
của họ có 365 ngày, đó là khoảng cách giữa hai lần họ thấy sao Lang xuất hiện đúng đường chân trời. Họ
chia một năm làm 3 mùa, mỗi mùa có 4 tháng, mỗi tháng có 30 ngày. Năm ngày còn lại được xếp vào cuối
năm làm ngày lễ. Để chia thời gian trong ngày, họ đã chế ra đồng hồ mặt trời và đồng hồ nước.
<i><b>Toán học</b></i> Do yêu cầu làm thủy lợi và xây dựng nên kiến thức toán học của người Ai Cập cổ cũng sớm
được chú ý phát triển. Họ dùng hệ đếm cơ số 10. Họ rất thành thạo các phép tính cộng trừ, cịn khi cần
nhân và chia thì thực hiện bằng cách cộng trừ nhiều lần. Về hình học, họ đã tính được diện tích của các
hình hình học đơn giản; đã biết trong một tam giác vng thì bình phương cạnh huyền bằng tổng bình
phương hai cạnh góc vng. Pi của họ tính là 3,14…
<i><b>Y học</b></i> Người Ai Cập cổ đã chia ra các chuyên khoa như khoa nội, ngoại , mắt, răng, dạ dày... Họ đã biết
giải phẫu và chữa bệnh bằng thảo mộc.