Tải bản đầy đủ (.docx) (3 trang)

SKKN GD DAO DUC QUA DAY HOC TOAN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (97.81 KB, 3 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>UBND TỈNH BÀ RỊA VŨNG TÀU SỞ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO PHÒNG GIÁO DỤC LONG ĐẤT TRƯỜNG THCS PHƯỚC TỈNH NĂM HỌC 2002- 2003. CỘNG HÒA XÃ HỘI CỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc Lập – Tự Do – Hạnh Phúc. . SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM. GIÁO DỤC TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ VÀ ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG QUA GIẢNG DẠY TOÁN Người viết : Nguyễn Văn Thế Chức Vụ : Phó Hiệu Trưởng – Giảng dạy : Toán 9. I/ ĐẶT VẤN ĐỀ : Cũng như các khoa học tự nhiên khác, toán học nghiên cứu những qui luật của tự nhiên. Vì vậy, nếu các kiến thức toán học được giảng dạy chính xác và với phương pháp đúng đắn sẽ góp phần tích cực giúp học sinh hiểu sâu sắc các qui luật của tự nhiên cũng như nhận thức đúng về thái độ của con người đối với tự nhiên, đối với những biến đổi đang diễn ra trong tự nhiên v.v… và do đósẽ góp phần xây dựng cho HS những cơ sở của thế giới quan khoa học biện chứng và góp phần rèn luyện những phẩm chất của con người lao động mới.. II/ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ : 1/ Xây Dựng Cho HS Những Cơ Sở Của Thế Giới Quan Duy Vật Biện Chứng : a) Nêu rõ tính chất thực tiển của toán học : Trong giảng dạy toán học, ta luôn cho HS thấy rằng cũng như mọi khoa học khác, toán học phát sinh và phát triển do nhu cầu hoạt động thực tiễn của con người và để thõa mãn những nhu cầu ấy . Như vậy là giáo dục cho HS quan điểm cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng : Bản chất Thế giới là vật chất, vật chất có trước ý thức có sau. Bằng cách nghiên cứu kỹ lịch sử phát triển của toán học ta tranh thủ mọi cơ hội giảng cho HS hiểu xuất xứ của các khái niệm, định lý toán học, một lý thuyết của toán học nào đó. Như vậy sẽ bồi dưỡng tốt quan điểm duy vật cho HS , đả phá luận điệu cho rằng toán học là sự sáng tạo tùy ý của con người; không liên quan gì đến thế giới hiện thực . Do đó việc chú ý giảng giải cơ sở thực tế trong quá trình hình thành các khái niệm, định lý và quy tắc; việc tìm ví dụ trong thực tế để minh họa hay nêu rõ tác dụng thực tế của các kiến thức đó, việc rèn luyện cho HS khả năng áp dụng kiến thức toán học vào thực tế đều có ý nghĩa giáo dục quan điểm duy vật cho HS b/ Giảng dạy trên quan điểm vận động biến đổi và tưông quan chặt chẽ giũa các sự vật và hiện tượng : Theo quan điểm duy vật biện chứng thì mọi sự vật và hiện tượng trên thế giới đều vận động , biến đổi, không ngừng phát triển và tương quan chặt chẽ với nhau trong quá trình đó. Giáo dục quan điểm này cho HS; ta nêu rõ quá trình biến đổi của các đại lượng, sự tương quan lẫn nhau giữa các đại lượng, các công thức, các mệnh đề toán học . Đặc biệt có giá trị về mặt này là các bài toán về quỹ tích và các bài toán về biến hình như phép đồng dạng, phép đối xứng, phép quay …. Khi làm một bài toán quỹ tích, HS phải quan sát sự tương quan giữa các yếu tố trong hoàn cảnh vận động . Khái niệm tương quan hàm số thể hiện được những nét biện chứng của tư duy toán học , nghiên cứu các đại lượng trong trạng thái biến đổi sinh động của nó, trong sự tương quan và phụ thuộc lẫn nhau. Vì vậy trong giảng dạy tôi thường đặc biệt chú ý bồi dưỡng cho HS khái niệm về tương quan hàm số , sự tương quan giữa phương trình đường thẳng và Parabol …...

<span class='text_page_counter'>(2)</span> c/ Xây dựng cơ sở khoa học để nhận thức các quy luật của phép biện chứng duy vật : Các quy luật của phép biện chứnh như thống nhất và đấu tranh giữa cá mặt đối lập , quy luật phủ định của phủ định , được thể hiện rất rõ qua môn toán . Theo nhận định của Ănghen “ …. ngay trong toán học sơ cấp cũng đầy dẫy mâu thuẫn . Về các số mà nói , thì mỗi loại số đều có số đối lập với nó : Số nguyên và phân số , số dương và số âm , số hữu tỷ và vô tỷ …… đều là những số đối lập với nhau . Ngay con số 0 cũng bao hàm mâu thuẫn : 0 hủy bỏ mọi số lượng nhưng lại rất có lượng , thêm 0 vào bên phải một số nguyên thì số ấy được nâng lên 10 lần … “ Mỗi phép tính cũng có một phép tính đối lập với nó . Như phép trừ là phép tính ngược của phép cộng , phép chia là phép tính ngược của phép nhân , phép khai căn là phép tính ngược của phép nâng lên lũy thừa….. Mỗi phép 2= tính lại có những cái đẹp tuyệt vời, thú vị và ngoạn mục. Chẳng hạn như 1,414213562373095048801688724…; 8 = 2,82842712474619009760337744… là các số vô tỉ, có phần thập phân vô hạn không tuần hoàn. Nhưng tích hoặc thương hai số đó lại có kết quả là các số hữu tỉ thật đẹp 1 (số 4 hoặc số 2 )! Mỗi tập hợp số lại có ích lợi thiết thực vô cùng. Ví như chưa biết gì về tập số vô tỉ thì ta 1 không thể tìm ở đâu ra hai số có tích bằng 4 và có thương bằng 2 (hoặc 2 ), (số 8 và số 2 )! Lại nữa, có những cách giải quyết dùng những phép tính thật đơn giản mà kỳ diệu. Ví dụ như : Tính A biết A = 6  6  6  6  ... (vô hạn dấu căn). Dĩ nhiên A phải là số dương. Bình phương số A ta được phương trình A2 = 6 + A. Ta thấy ngay nghiệm dương A = 3 của phương trình A 2 –A – 6 = 0 là kết quả cần tìm. Kiểm tra lại A = 3 = 2  2  2  2  .... 6  3 , rõ ràng 3 =. 6  6  6  6  .... Tương tự, cho HS tính B =. 12  12  12  12  ... (kết quả B = 2), C = (kết quả B = 4) v.v… Những phép tính đối lập với nhau lại có thể chuyển hóa thành hình thức ngược lại , và do đó sẽ làm cho nhiều phép tính rất phức tạp trở nên đơn giản đi nhiều. Ta thường gọi đó là đơn giản hóa quá trình phức tạp. Tôi đã dùng các phép biến đổi về căn thức bậc hai, rút gọn phân thức …. Minh họa khá sinh động cho điều này . Về quy luật phủ định của phủ định , có ví dụ rất hay (Của Anghen) là : Nếu ta phủ định số a ta có –a ; phủ định cái phủ định này bằng cách nhân –a với – a ta có a 2 ; nghĩa là có đại lượng ban đầu nhưng ở bậc cao hơn . HS lớp 9 chưa học về các quy luật biện chứng; song đối với đa số các HS khá giỏi; tôi đã mượn các yếu tố toán học này giả làm sự ngẫu nhiên để giúp học sinh dần dần hình thành được quan điểm duy vật biện chứng mà lý thuyết về triết học này các em sẽ học khi lên bậc phổ thông trung học và lúc đó các em sẽ tiếp thu hiệu quả hơn . Trong học tập tôi yêu cầu HS học một cách thông minh và sáng tạo, HS phải biết suy nghĩ linh hoạt, không máy móc rập khuôn, biết nhình nhận vấn đề theo nhiều khiá cạnh khác nhau, biết phối hợp một cách biện chứng các thao tác tư duy và các hình thức tư duy trái ngược nhau : phân tích và tổng hợp, quy nạp và suy diễn . 2/ Rèn Luyện Những Phẩm Chất Của Người Lao Động Mới : a/ Cần cù và nhẫn nại , tự lực tự cường có ý chí vượt khó khăn là những phẩm chất mà tôi chú ý và thường xuyên rèn luyện cho HS trong quá trình dạy và học toán ..

<span class='text_page_counter'>(3)</span> b/ Thật tha, trung thực, có tổ chức, có kỷ luật, có kế hoạch là những đức tính rất cần thiết vì việc giải toán, suy luận được tiến hành nói chung theo những quy tắc, những bước xác định. HS cần phải tôn trọng những quy trình đó mới thành công . c/ Qua môn toán tôi còn có điều kiện giáo dục cho HS tinh thần cách mạng tiến công trong học tập, ý thức vươn lên không ngừng, luôn tìm tòi và sáng tạo. d/ Môn toán lại còn có khả năng giáo dục cho HS yêu thích sự chính xác , ham chuộng chân lý. Tôi đã luôn luôn quan tâm đến giáo dục cho HS tính chính xác trong ngôn ngữ, trong ký hiệu, trong vẽ hình trong tính toán trong suy luận, trong chứng minh …. Tóm lại, tùy theo nội dung của từng bài giảng tôi đã chủ dộng tranh thủ mọi điều kiện đầu tư suy nghĩ trong khi soạn bài, tận dụng mọi yếu tố của bài giảng để giáo dục tư tưởng chính trị và đạo đức cách mạng cho HS . III/ KẾT QUẢ CHỨNG MINH : Tôi đã duy trì thường xuyên một lớp phụ khóa gồm những HS yêu thích toán từ lúc gần cuối năm lớp Tám và giảng dạy cho đến ngày thi giỏi Tỉnh lớp 9 năm sau và năm nào cũng vậy, trong rất nhiều năm qua số HS được dạy này không ít các em được công nhận là giỏi Huyện , Tỉnh . Năm 2000 có 1 HS đạt giải nhất Toán toàn tỉnh. Liên tiếp hai năm vừa qua mỗi năm có 3 HS thi giỏi Toán đoạt giải 3 cấp Tỉnh. Nhiều HS tôi giảng dạy toán trước kia nay đã trưởng thành lần lượt ra đời có đủ tài và đức, có lập trường tư tưởng chính trị rõ ràng và tinh thần Quốc tế vô sản trong sáng, có thể các em đã bắt đầu từ thế giới quan duy vật biện chứng qua việc học Toán gắn liền với học tập đạo đức từ nhỏ. Hiện nay trên 90% HS lớp tôi dạy học khá giỏi môn toán và nhiều môn khác. Trong số này có nhiều em xuất sắc vừa môn toán , vừa các môn học khác . Xác nhận của Hiệu Trưởng. Đinh Văn Hùng. Phước Tỉnh , ngày 25 tháng 05 năm 2003 Người viết. Nguyễn Văn Thế.

<span class='text_page_counter'>(4)</span>

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×