1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI
TRẦN THỊ PHƯƠNG THẢO
QUẢN LÝ LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG Ở HUYỆN HƯNG HÀ,
TỈNH THÁI BINH
Chuyên ngành: QUẢN LÝ VĂN HÓA
Mã số: 60310642
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ VĂN HÓA
Hà Nội 2014
2
LỜI CAM ĐOAN
Tơi cam đoan rằng đây là cơng trình nghiên cứu do chính tơi thực hiện,
các số liệu thu thập và kết quả phân tích nêu trong luận văn là trung thực lấy
từ quá trình điền dã và do phịng Văn hố Thơng tin huyện Hưng Hà, tỉnh
Thái Bình cung cấp. Đề tài khơng trùng với bất cứ đề tài nào đã từng nghiên
cứu trước đó. Tơi xin hoàn toàn chịu tránh nhiệm về lời cam đoan này./.
Hà nội, ngày 30 tháng 12 năm 2014
Tác giả luận văn
Trần Thị Phương Thảo
3
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC ..................................................................................................................1
DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT.........................................................................5
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................6
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG VÀ
TỔNG QUAN VỀ LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG Ở HUYỆN HƯNG HÀ, TỈNH
THÁI BÌNH..............................................................................................................13
1.1. Cơ sở lý luận quản lý lễ hội truyền thống ................................................ 13
1.1.1. Lễ hội và lễ hội truyền thống ............................................................... 13
1.1.2. Đặc điểm và giá trị của lễ hội .............................................................. 22
1.1.3. Quản lý văn hóa và quản lý lễ hội truyền thống ................................... 26
1.1.4. Vai trò của lễ hội truyền thống trong đời sống văn hóa cộng đồng ............. 30
1.2. Tổng quan về lễ hội truyền thống ở huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.......... 31
1.2.1. Tổng quan về huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình..................................... 31
1.2.2. Lễ hội truyền thống ở huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình ........................ 39
Tiểu kết chương 1 ............................................................................................ 51
Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG Ở HUYỆN
HƯNG HÀ, TỈNH THÁI BÌNH .............................................................................53
2.1. Tình hình quản lý lễ hội truyền thống ở huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình . 53
2.1.1. Tổ chức bộ máy ................................................................................... 53
2.1.2. Cơ chế quản lý..................................................................................... 56
2.1.3. Nguồn lực quản lý (nhân lực, tài chính) ............................................... 58
2.1.4. Hoạt động quản lý ............................................................................... 59
2.1.5. Công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm khen thưởng .................... 61
2.2. Thực trạng quản lý tổ chức lễ hội truyền thống của cộng đồng ............. 62
2.2.1. Quản lý tổ chức lễ hội và các mơ hình lễ hội truyền thống của cộng đồng 62
2.2.2. Các mô hình tổ chức lễ hội truyền thống của cộng đồng ...................... 64
4
2.3. Đánh giá hoạt động quản lý lễ hội truyền thống ở huyện Hưng Hà, tỉnh
Thái Bình ......................................................................................................... 71
2.3.1. Những ưu điểm và nguyên nhân .......................................................... 71
2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân ........................................................... 74
Tiểu kết chương 2 ............................................................................................ 76
Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ LỄ HỘI TRUYỀN
THỐNG Ở HUYỆN HƯNG HÀ, TỈNH THÁI BÌNH ..........................................78
3.1. Xu hướng biến đổi lễ hội truyền thống nói chung và ở huyện Hưng Hà,
tỉnh Thái Bình nói riêng trong tình hình hiện nay......................................... 78
3.2. Mục tiêu và phương hướng quản lý lễ hội truyền thống ở huyện Hưng
Hà, tỉnh Thái Bình........................................................................................... 80
3.2.1. Mục tiêu .............................................................................................. 80
3.2.2. Phương hướng ..................................................................................... 83
3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý lễ hội truyền thống ở
huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình ..................................................................... 87
3.3.1. Nhóm giải pháp về cơng tác lãnh đạo, chỉ đạo ..................................... 87
3.3.2. Nhóm giải pháp về tổ chức quản lý và cơ cấu nhân sự ......................... 90
3.3.3. Nhóm giải pháp về bảo tồn, phát huy giá trị lễ hội truyền thống .......... 93
3.3.4. Nhóm giải pháp về nâng cao vai trò của cộng đồng trong việc tổ chức và
quản lý lễ hội .............................................................................................. 103
3.3.5. Một số đề xuất và kiến nghị ............................................................... 108
Tiểu kết chương 3 .......................................................................................... 110
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 112
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................... 115
PHỤ LỤC ............................................................................................................... 118
5
DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
Chữ viết tắt
Chữ viết đầy đủ
BVHTTDL
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
GS
Giáo sư
Nxb
Nhà xuất bản
PGS.TS
Phó Giáo sư, Tiến sĩ
SVHTTDL
Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch
Tr
Trang
UBND
Ủy ban Nhân dân
6
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất nước ta từ xa xưa tới nay có rất nhiều lễ hội như lễ hội lịch sử, lễ
hội tôn giáo, lễ hội dân gian, rất phong phú và đa dạng. Ngoài các lễ hội
truyền thống, hiện cịn có rất nhiều ngày kỷ niệm các anh hùng, liệt sĩ, những
ngày quốc lễ, ngày thành lập các cơ quan, các tổ chức, các đoàn thể, hiệp
hội… thu hút đông đảo quần chúng nhân dân. Tổ chức lễ hội và những ngày
kỷ niệm là một loại hình sinh hoạt văn hóa tinh thần mang tính cộng đồng, có
sức hấp dẫn lơi cuốn các tầng lớp nhân dân tham gia, trở thành một nhu cầu
không thể thiếu trong đời sống cộng đồng.
Việc tổ chức các lễ hội, các ngày kỷ niệm đạt được mục đích yêu cầu đề
ra có ý nghĩa quan trọng góp phần giáo dục truyền thống yêu nước, bồi đắp
lòng tự hào, tự tơn dân tộc, vun đắp tình u q hương, đất nước, nâng cao ý
thức giữ gìn, phát huy, phát triển những giá trị tốt đẹp của truyền thống văn
hóa dân tộc. Tổ chức kỷ niệm các ngày lễ lớn của dân tộc, ngày thành lập các
đơn vị, tổ chức, đoàn thể trong năm còn nhằm biểu dương những thành tựu to
lớn của nhân dân cả nước nói chung và của mỗi địa phương, mỗi tổ chức, đơn
vị nói riêng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thông qua các hoạt
động kỷ niệm nhằm động viên các tầng lớp nhân dân đẩy mạnh các phong
trào thi đua, yêu nước, các cuộc vận động, thực hiện thắng lợi các mục tiêu
phát triển kinh tế xã hội, các nhiệm vụ quốc phòng, an ninh ở địa phương,
cơ sở, đồng thời củng cố xây dựng tổ chức, nâng cao vị thế và hiệu quả hoạt
động của mỗi tổ chức trong hệ thống chính trị và đời sống xã hội.
Đối với một số địa phương, lễ hội truyền thống còn trở thành nguồn lực
quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, là phương tiện hữu hiệu để quảng
bá, giới thiệu văn hóa, con người và vùng đất với bạn bè trong nước và quốc tế.
7
Bước sang thời kỳ đổi mới, cùng với những thay đổi trong chính sách
tơn giáo, tín ngưỡng, các hoạt động tổ chức lễ hội cổ truyền đã được phục hồi
và phát triển nhanh chóng. Việc giữ gìn và phát huy những giá trị quý báu
trong di sản văn hóa lễ hội là việc làm đúng đắn và cần thiết, tuy nhiên những
biến tướng và sự phát triển thái quá, vượt tầm kiểm sốt của nó cũng đang
khiến giới chun mơn, báo chí và người dân lo ngại, bất bình.
Hưng Hà là một huyện đồng bằng thuộc tỉnh Thái Bình, tiếp giáp với
các tỉnh Hà Nam và Hưng Yên, là cửa ngõ phía Tây Bắc của tỉnh, nơi có quốc
lộ 39 chạy dọc qua. Trong công cuộc đổi mới và phát tiển đất nước hiện nay,
Đảng bộ, chính quyền và nhân dân huyện Hưng Hà đã có nhiều nỗ lực trong
việc phát huy truyền thống của địa phương. Thêm vào đó, những thành quả
của công cuộc đổi mới, những cơ hội mà quá trình hội nhập kinh tế đã mang
đến một diện mạo mới cho đời sống văn hóa của huyện. Nhiều di tích lịch sử
và cơng trình văn hóa được trùng tu, tơn tạo, đời sống văn hố tinh thần của
nhân dân không ngừng được nâng cao. Các lễ hội được tổ chức ngày một quy
củ, long trọng với quy mô lớn hơn. Công tác quản lý lễ hội được Đảng bộ,
chính quyền ln chú trọng và đã đạt được những thành tựu nhất định, có ý
nghĩa sâu sắc đối với việc phát triển đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân. Bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được, khơng thể khơng nói đến
những khó khăn, thách thức và cả những hạn chế trong công tác quản lý nhà
nước đối với công tác tổ chức các lễ hội truyền thống trên địa bàn Huyện. Đây
cũng là một trong những nguyên nhân cản trở đến tiến trình phát triển kinh tế
xã hội của huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình và trên phương diện nào đó nó
cịn là nguyên nhân dẫn tới sự xuống cấp về tư tưởng, đạo đức và lối sống của
một bộ phận dân cư trên địa bàn.
Đến nay có nhiều cơng trình nghiên cứu về lễ hội và quản lý lễ hội,
nhưng chưa có cơng trình nghiên cứu nào liên quan trực tiếp đến nội dung này
8
ở huyện Hưng Hà. Từ những lý do trên, tôi chọn đề tài “Quản lý lễ hội
truyền thống ở huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình” làm đề tài luận văn cao
học của mình, với hy vọng góp một phần nhỏ bé vào việc nâng cao chất lượng
và hiệu quả công tác quản lý lễ hội truyền thống ở địa bàn huyện Hưng Hà,
tỉnh Thái Bình nói riêng và đất nước nói chung trong giai đoạn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Quản lý nhà nước trên lĩnh vực lễ hội ở nước ta là vấn đề luôn thu hút
sự quan tâm của các nhà lãnh đạo, quản lý, các nhà khoa học bởi vai trò và
tầm quan trọng to lớn của nó đối với cơng cuộc đổi mới và phát triển đất nước
hiện nay. Quản lý nhà nước về lễ hội nói chung và quản lý nhà nước về lễ hội
truyền thống nói riêng cịn nhiều vấn đề bất cập cần phải được làm sáng tỏ cả
về lý luận và thực tiễn. Có thể khái qt các cơng tình nghiên cứu về phương
diện lý luận và thực tiễn liên quan đến đề tài như sau:
“Một số giải pháp quản lý lễ hội dân gian” của Hoàng Nam (2005)
NXb Văn hóa dân tộc đề cập đến các giải pháp quản lý ở góc độ cơ chế
quản lý lễ hội dân gian, trên cơ sở phân tích lễ hội như một hình thái ý thức
xã hội. Cụ thể là tác giả đi sâu vào giới thiệu điều kiện tự nhiên, lễ hội dân
gian, giá trị văn hóa và quản lý lễ hội dân gian của các dân tộc Tày, Nùng ở
Lạng Sơn.
“Quản lý lễ hội truyền thống của người Việt” của Bùi Hồi Sơn (2009)
NXb Văn hóa dân tộc đi vào tổng quan lịch sử nghiên cứu lễ hội và các vấn
đề lý thuyết về quản lý lễ hội với tư cách là di sản; Những vấn đề đặt ra đối
với quản lý lễ hội truyền thống của người Việt – nhìn từ các văn bản quản lý;
Những mặt đã làm được, chưa làm được và những khó khăn trong cơng tác
quản lý lễ hội truyền thống; Đưa ra các giải pháp tăng cường quản lý lễ hội
truyền thống từ góc độ quản lý di sản.
9
“Quản lý nhà nước về văn hoá trên địa bàn huyện Hưng Hà, tỉnh Thái
Bình ”(2013) luận văn Quản lý văn hóa của học viên Ngơ Xn Phương
nghiên cứu cơng tác quản lý nhà nước về văn hoá ở một số hoạt động văn hoá
cụ thể: xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, cơng tác thư viện, hoạt động thể dục
thể thao, các hoạt động kinh doanh dịch vụ sản phẩm văn hóa, di tích và tổ
chức lễ hội, các hoạt động thơng tin truyền thơng... từ đó đề xuất một số giải
pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả cơng tác quản lý nhà nước về văn
hố trên địa bàn huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.
“Quản lý lễ hội truyền thống của người Việt ở Châu thổ Bắc Bộ từ năm
1945 đến nay” (2007) Luận án Tiến sĩ Văn hóa học của Bùi Hồi Sơn đánh
giá về cơng tác quản lý lễ hội của ngành văn hóa thông tin. Áp dụng các văn
bản vào thực tiễn công tác tổ chức lễ hội trong các giai đoạn khác nhau. Đưa
ra những luận điểm lý giải cho các vấn đề xảy ra xung quanh việc quản lý và
tổ chức lễ hội, hướng đến việc xây dựng nên một cơ sở lý luận và tổ chức lễ
hội truyền thống của người Việt ở châu thổ Bắc Bộ.
Tham khảo các tài liệu của các tác giả như Nguyễn Quang Lê, chủ biên
(2001), Khảo sát thực trạng văn hóa lễ hội truyền thống của người Việt ở
Đồng bằng Bắc Bộ. Tác giả Lê Ngọc Dũng (2005), Tổ chức, quản lý và khai
thác các di sản và danh thắng ở Việt Nam trong cơ chế thị trường.Tác giả Hồ
Thị Lan (1989), Lễ hội, một nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng….
Như vậy, trên thực tiễn hiện nay chưa có nhiều cơng trình, tài liệu nghiên
cứu một cách đầy đủ, có hệ thống về công tác quản lý nhà nước về lễ hội truyền
thống trên địa bàn huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Thực hiện đề tài “Quản lý lễ
hội truyền thống ở huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình”, tác giả muốn kế thừa
những kết quả nghiên cứu trước đó từ những cơng trình có đối tượng và phạm vi
nghiên cứu tương tự để giải quyết những nhiệm vụ mà luận văn đặt ra.
10
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích:
Nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác quản lý nhà nước về
lễ hội truyền thống ở huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình nói riêng và cả nước
nói chung.
3.2. Nhiệm vụ:
Hệ thống hoá một cách chọn lọc các khái niệm và vấn đề lý luận để
hình thành cơ sở lý luận quản lý nhà nước về lễ hội truyền thống cho Luận
văn như: khái niệm, đặc điểm, những nội dung và phương pháp quản lý nhà
nước về lễ hội.
Khảo sát đánh giá thực trạng công tác quản lý nhà nước về lễ hội
truyền thống ở huyện Hưng Hà trong những năm qua, chỉ ra những kết quả và
nguyên nhân, những hạn chế và nguyên nhân trong công tác quản lý nhà nước
về lễ hội truyền thống ở huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình đề hình thành cơ sở
thực tiễn nghiên cứu đề tài.
Đề xuất phương hướng và những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
công tác quản lý nhà nước về lễ hội truyền thống trên địa bàn huyện Hưng
Hà, tỉnh Thái Bình trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Quản lý nhà nước về lễ hội truyền thống
trên địa bàn huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình trong giai đoạn hiện nay. Luận
văn giới hạn việc nghiên cứu công tác quản lý nhà nước về lễ hội ở một số
hoạt động cụ thể: tìm hiểu cơng tác tổ chức quản lý lễ hội truyền thống từ đó
đưa ra cái nhìn tồn cảnh về cơng tác quản lý lễ hội của huyện Hưng Hà, tỉnh
Thái Bình trong giai đoạn hiện nay.
11
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Về không gian: Phạm vi nghiên cứu của đề tài là công tác quản lý lễ
hội truyền thống huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.
- Về thời gian: Số liệu cập nhật về thực trạng đến cuối năm 2013; các
giải pháp áp dụng cho năm 2014, năm 2015 và các năm tiếp theo.
- Về nội dung: Nghiên cứu được tập trung vào các vấn đề liên quan đến
công tác quản lý lễ hội truyền thống trên địa bàn nghiên cứu.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận văn được thuận lợi và đạt kết quả, Luận văn này lựa
chọn các phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu sau:
Phương pháp luận:
Dựa trên quan điểm phương pháp luận duy vật lịch sử và duy vật biện
chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh để xem xét đánh
giá các vấn đề nghiên cứu.
Dựa trên quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nước về phát triển văn hóa, bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa.
Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp phân tích và tổng hợp: Để xử lý các tài liệu thứ cấp và
tài liệu chính liên quan đến đề tài;
Phương pháp điền dã thực địa: Để thu thập tài liệu tại địa phương;
Phương pháp điều tra xã hội học: Để thu thập các số liệu mang tính
thực tế;
Phương pháp liên ngành: Sử dụng các khái niệm, phạm trù, quy luật
của khoa học quản lý về các khoa học chuyên ngành khác: cơ sở văn hóa, văn
hóa học, tâm lý học, xã hội học...
12
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn mong muốn góp phần hệ thống hoá những vấn đề lý luận
chung về quản lý nhà nước trong lĩnh vực lễ hội, bước đầu đánh giá thực
trạng quản lý lễ hội truyền thống trong những năm qua trên địa bàn huyện
Hưng Hà, tỉnh Thái Bình và đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng và hiệu quả công tác quản lý các hoạt động tổ chức lễ hội trên địa bàn
huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình trong thời gian tới.
Những kết quả mà luận văn đạt được hy vọng có thể làm tài liệu tham
khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy; hoặc là bài học kinh nghiệm trong công
tác lãnh đạo, quản lý các hoạt động quản lý lễ hội ở cấp cơ sở.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục,
luận văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận quản lý lễ hội truyền thống và tổng quan về
lễ hội truyền thống ở huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.
Chương 2. Thực trạng quản lý lễ hội truyền thống ở huyện Hưng Hà,
tỉnh Thái Bình.
Chương 3. Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý lễ hội truyền thống ở
huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.
13
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG
VÀ TỔNG QUAN VỀ LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG
Ở HUYỆN HƯNG HÀ, TỈNH THÁI BÌNH
1.1. Cơ sở lý luận quản lý lễ hội truyền thống
1.1.1. Lễ hội và lễ hội truyền thống
“Lễ hội” (còn gọi là hội lễ, hội hè là một hình thức sinh hoạt văn hóa, tín
ngưỡng truyền thống của cộng đồng). Lễ hội bao gồm hai bộ phận là Lễ và Hội.
Theo Đào Duy Anh trong cuốn Hán Việt từ điển thì lễ là “cách bày tỏ
kính ý hoặc đồ vật để bày tỏ kính ý” [1, tr.505].
Theo GS. Trần Ngọc Thêm trong cuốn Cơ sở văn hóa Việt Nam thì:
Lễ hội là hệ thống phân bố theo không gian: vào mùa xuân và mùa
thu, khi công việc đồng áng rảnh rỗi nhất, lễ hội diễn ra liên tiếp hết
chỗ này đến chỗ khác, mỗi vùng có lễ hội riêng của mình. Lễ hội có
phần lễ và phần hội: Phần lễ mang ý nghĩa tạ ơn và cầu xin thần
linh bảo trợ cho cuộc sống của mình. Phần hội gồm các trị vui chơi
giải trí hết sức phong phú. Xét về nguồn gốc, phần lớn các trò chơi
này đều xuất phát từ những ước vọng thiêng liêng của con người
nông nghiệp [37, tr.7].
GS. Ngô Đức Thịnh cho rằng:
Lễ là một hiện tượng tổng thể, không phải thực thể chia đôi (phần lễ
và phần hội) một cách tách biệt như một số học giả đã quan niệm
mà nó được hình thành trên cơ sở một cốt lõi nghi lễ tín ngưỡng nào
đó (thường là tơn thờ một vị thần linh lịch sử hay một vị thần linh
nghề nghiệp nào đó) rồi từ đó nảy sinh và tích hợp các hiện tượng
14
sinh hoạt văn hóa, phái sinh để tạo nên một tổng thể lễ hội. Cho nên
trong lễ hội, phần lễ là phần gốc rễ, chủ đạo, phần hội là phần phái
sinh tích hợp [38, tr.37].
Ngồi ra, các nhà nghiên cứu văn hóa Việt Nam có nhiều cách trình bày
định nghĩa lễ hội như trong Từ điển bách khoa Việt Nam (2005) có viết:
Lễ là hệ thống các hành vi, động tác nhằm biểu hiện lịng tơn kính
của con người đối với thần linh, phản ánh những ước mơ chính đáng
của con người trước cuộc sống mà bản thân họ chưa có khả năng
thực hiện, cịn hội là sinh hoạt văn hóa tơn giáo, nghệ thuật của cộng
đồng, xuất phát từ nhu cầu cuộc sống, từ sự tồn tại và phát triển của
cộng đồng, sự bình yên cho từng cá nhân, hạnh phúc cho từng gia
đình, sự vững mạnh cho từng dịng họ, sự sinh sơi nảy nở của gia
súc, sự bội thu của mùa màng mà từ bao đời nay quy tụ thành niềm
mơ ước chung vào bốn chữ “Nhân khang, vật thịnh” [42, tr.207].
Trong cuốn Văn hóa học xuất bản năm 1997, Đoàn Văn Chúc cho rằng:
Lễ (cuộc lễ) là sự bày tỏ kính ý đối với một sự kiện xã hội, hay tự
nhiên, tư tưởng hay có thật, đã qua hay hiện tại được thực hiện
theo nghi điển rộng lớn, mức độ rộng lớn, tùy thuộc cấp nhóm xã
hội có nhiệm vụ cử hành, nhằm biểu hiện giá trị của đối tượng
được cử lễ. Hội là cuộc vui chơi bằng vô số hoạt động giá trị
công cộng, diễn ra tại một địa điểm nhất định vào dịp, lễ kỷ niệm
một sự kiện tự nhiên xã hội, nhằm diễn đạt sự phấn khích, hoan
hỉ của cơng chúng dự lễ [13, tr.75].
Như vậy, có thể thấy phần Lễ thường bao gồm các nghi lễ, lễ thức tồn
tại dưới dạng đọc các bài văn tế, động tác cúng tế, động tác lạy thờ, đọc, tụng
và một số động tác khác liên quan đến tục lệ thờ cúng đã được định ước từ
15
trước, đời này truyền lại đời sau và cứ thế tiếp diễn. Gắn với lễ có vật thờ, vật
dâng cúng và nghi thức lễ.
Từ đó trong luận văn này, thì Lễ là một hệ thống nghi thức, hành vi,
động tác có định ước, có quy cách chặt chẽ, ổn định được lưu truyền từ đời
này sang đời khác trong đời sống sinh hoạt văn hóa của nhân dân.
Lễ là hành vi nhằm mục đích thể hiện lịng tin, sự tơn kính của một tập
thể cộng đồng người với một lực lượng siêu nhiên tồn tại trong tâm linh họ.
Cái chung của tập thể cộng đồng ấy là có chung niềm tin và hy vọng rằng,
hành vi lễ của mình sẽ mang đến những điều tốt lành như mong muốn. Trong
một số trường hợp mà đối tượng được thờ cúng là những nhân vật lịch sử, văn
hóa thì hành vi lễ cịn mang tính chất thể hiện lịng tơn kính, biết ơn người đã
có cơng với q hương, đất nước.
Với mỗi địa phương khác nhau, thường có lễ hội khác nhau và nhân vật
được thờ cũng khác nhau. Tục ngữ có câu “trống làng nào, làng ấy đánh
thánh làng nào, làng ấy thờ”.
Về vật thờ: Xưa kia, khi mà con người còn sợ thiên nhiên, xem thiên
nhiên là đối tượng siêu nhiên để tơn thờ thì những thần thoại, truyền thuyết…
ra đời gắn với nguồn gốc vật thiêng. Trong những trường hợp này, vật thờ là
những nhân vật thần thánh cai quản thế giới tự nhiên, ví dụ như thần Nông,
thần Sấm, thần Sét, thần Mưa… Gắn với truyền thuyết, truyện kể về các nhân
vật lịch sử thì vật thờ là những nhân vật lịch sử có cơng chiến đấu đánh đuổi
giặc ngoại xâm, cứu dân, cứu nước hoặc bảo vệ đất nước, ví dụ thờ Thánh
Gióng gắn với Hội làng Gióng. Nhiều nhất là Thành Hồng vì mỗi làng
thường có vị thần vừa là người có cơng khai hóa hoặc bảo vệ làng, vừa là thần
hộ mệnh cho làng. Tục thờ Thành Hồng ở Việt Nam có thể nói là hình thức
thờ phổ biến nhất vì hầu hết các làng mạc trong Nam, ngồi Bắc đều có thờ
16
Thành Hồng của làng mình. Nhìn ở góc độ tín ngưỡng, có thể là một vị phúc
thần hoặc một vị Thánh Mẫu. Tuy nhiên, dù ở góc độ nào thì các vị thần
thánh ấy đều là hệ quả của thể chế tín ngưỡng dân gian tồn tại qua nhiều thế
hệ và tồn tại như sự minh chứng cho quá trình sáng tạo dân gian phù hợp với
đặc điểm con người Việt Nam là tôn trọng người tài đức và nhớ ơn những
người đã có cơng với dân, với nước, với xóm làng. Dân gian đã thiêng liêng
hóa nhân vật đời thường thành những nhân vật thần thánh để thờ phụng.
Từ đây, có thể thấy có hai cách mà dân gian thường sử dụng trong q
trình thiêng liêng hóa nhân vật: Lịch sử hóa thần thánh và huyền thoại hóa
nhân vật thần thánh. Có một đặc điểm quan trọng là các nhân vật thần thánh
được phụng thờ thường gắn bó mật thiết với địa phương. Chính vì vậy, q
trình lịch sử hóa hoặc huyền thoại hóa ở từng vùng văn hóa khác nhau đã tạo
nên những nhân vật thần thánh khác nhau. Có thể lấy nhân vật Thành Hồng
làm ví dụ. Đa số các nhân vật được thờ phụng trong các làng quê đều là
Thành Hoàng của làng. Mặt khác, các nhân vật được thờ phùng thường gắn
với những tín ngưỡng của lễ hội đó. Khơng có tín ngưỡng, khơng có vật thờ
thì khơng thành lễ hội.
Cịn về phần Hội: Thường là các trò diễn, trò chơi dân gian hoặc các
hoạt động vui chơi giải trí. Giữa “lễ” và “hội” khơng phải lúc nào cũng có thể
tách bạch chúng ra được. Trong một số trường hợp, những trị chơi dân gian
có nguồn gốc từ các trò diễn nghi lễ nhưng theo thời gian, phần nghi lễ nhạt
dần (chọi gà, đấu vật…).
Mỗi lễ hội khác nhau thường có các trị diễn khác nhau. Có ba loại trị
diễn cổ truyền như sau: 1) Trị diễn đồng nhất với nghi lễ, tơn thờ tự nhiên; 2)
Trị diễn mang tính chất đồng hiện lịch sử, vật thờ là nhân vật lịch sử. Trò
diễn là những hình thức có thể là sân khấu dân gian mà nội dung là kể lại
17
cuộc đời, chiến công của những anh hùng lịch sử; 3) Trò diễn giả định, vật
thờ gắn với truyền thuyết. Trò diễn là tái hiện hiện thực, phản ánh niềm tin,
hy vọng của con người vào thế giới tâm linh. Trị diễn Nghinh Ơng trong lễ
hội thờ cá voi của cư dân ven biển là trị diễn loại này. Ngồi ra, cịn có các
tục: cầu mưa, vía lúa, rước nước, đua thuyền, giã gạo…
Như vậy, trong luận văn này, lễ hội được hiểu là hoạt động của một tập
thể người liên quan đến tín ngưỡng và tơn giáo, bao gồm hai thành tố Lễ và
Hội kết hợp giữa tín ngưỡng và vui chơi, giữa con người và thần linh, giữa thế
giới âm và dương… để thơng qua đó, con người có thể bày tỏ niềm mong ước
của mình vào các vị thần linh trên trời. Đồng thời thỏa mãn khát vọng trở về
cội nguồn và đáp ứng nhu cầu văn hóa tâm linh cũng như nhu cầu giao lưu
trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng.
Từ đó, có thể thấy Lễ hội là một hình thức sinh hoạt tín ngưỡng – văn
hóa cộng đồng của nhân dân ở nơng thơn cũng như ở đơ thị. Trong các lễ hội
đó, nhân dân tự đứng ra tổ chức, chi phí, sáng tạo và tái hiện các sinh hoạt văn
hóa cộng đồng và hưởng thụ các giá trị văn hóa và tâm linh, do vậy, lễ hội
bao giờ cũng thấm đượm tinh thần dân chủ và nhân bản sâu sắc. Đặc biệt
trong “thời điểm mạnh” của lễ hội, khi mà tất cả mọi người chan hịa trong
khơng khí thiêng liêng, hứng khởi thì các cách biệt xã hội giữa cá nhân ngày
thường dường như được xóa nhịa, con người cũng sáng tạo và hưởng thụ
những giá trị văn hóa của mình.
Điều này có phần nào đối lập với đời sống thường nhật của những xã
hội phát triển, khi mà phân công lao động đã được chun mơn hóa, nhu cầu
sáng tạo và hưởng thụ văn hóa của con người đã có phần nào tách biệt. Đấy là
chưa kể trong xã hội, một lớp người có đặc quyền tham vọng “cướp đoạt” các
sáng tạo văn hóa cộng đồng để phục vụ cho lợi ích riêng của mình. Đến nhu
18
cầu giao tiếp với thần linh của con người cũng tập trung vào một lớp người có
“khả năng đặc biệt”. Như vậy con người, đứng ở góc độ quảng đại quần
chúng, khơng cịn thực sự là chủ thể của q trình sáng tạo và hưởng thụ các
giá trị văn hóa một cách bình đẳng nữa. Xu hướng đó phần nào xói mịn tinh
thần nhân bản của văn hóa, làm tha hóa chính bản thân con người. Do vậy,
con người trong xã hội hiện đại, cùng với xu hướng dân chủ hóa về kinh tế, xã
hội thì cũng diễn ra q trình dân chủ hóa về văn hóa. Chính nền văn hóa
truyền thống, trong đó có lễ hội cổ truyền và môi trường tiềm ẩn những nhân
tố dân chủ trong sáng tạo và hưởng thụ các giá trị văn hóa ấy.
Lễ hội không chỉ là tấm gương phản chiếu nền văn hóa dân tộc, mà cịn
là mơi trường bảo tồn, làm giàu và phát huy nền văn hóa dân tộc ấy.
Cuộc sống của con người Việt Nam không phải lúc nào cũng là ngày
hội, mà trong chu kỳ một năm, với bao ngày tháng nhọc nhằn, vất vả, lo âu,
để rồi “xuân thu nhị kỳ”, “tháng tám giỗ cha, tháng ba giỗ mẹ”, cuộc sống nơi
thôn quê vốn tĩnh lặng ấy vang dậy tiếng trống chiêng, nở bừng cờ hội, người
người tụ hội nơi đình đến, chùa mở hội. Nơi đó, con người hóa thân thành văn
hóa, văn hóa làm biến đổi con người, một “bảo tàng sống” về văn hóa dân tộc
được hồi sinh, sáng tạo và trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Nếu như
khơng có nghi lễ và lễ hội thì các làn điệu dân ca như quan họ, hát xoan, hát
dặm…; các hình thức sân khấu chèo, hát bội, rối nước, cải lương…; các trò
chơi, trò diễn: Đánh cờ người, chọi gà, chơi đu, đánh vật, bơi trải, đánh
phết… sẽ ra đời và duy trì thế nào trong lịng dân tộc hàng nghìn năm qua.
Ai đó đã từng nói làng xã Việt Nam là cái nơi hình thành, bảo tồn, sản
sinh văn hóa truyền thống của dân tộc nhất là trong hoàn cảnh bị xâm lược và
đồng hóa. Xin nói thêm, trong cái làng xã nghèo nàn ấy, ngơi đình mái chùa, cái
đền và cùng với nó là lễ hội với “xuân thu nhị kỳ” chính là tâm điểm của cái nơi
văn hóa đó. Khơng có làng xã Việt Nam thì cũng khơng có văn hóa Việt Nam.
19
Điều này càng cực kỳ quan trọng trong điều kiện xã hội cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa và tồn cầu hóa hiện nay, khi mà sự nghiệp bảo tồn, làm
giàu và phát huy văn hóa truyền thống dân tộc trở nên quan trọng hơn bao giờ
hết, thì làng xã và lễ hội Việt Nam lại gánh một phần trách nhiệm là nơi bảo
tồn, làm giàu và phát huy văn hóa dân tộc.
Trong đời sống văn hố hiện nay có một số hình thức lễ hội như: Lễ
hội truyền thống, Lễ hội cổ truyền, Lễ hội dân gian. Theo định nghĩa
UNESCO, văn hóa truyền thống là “các tập quán và biểu tượng xã hội mà
theo quan nhiệm của một nhóm xã hội thì được lưu giữ từ quá khứ đến hiện
tại thông qua việc lưu truyền giữa các thế hệ và có tầm quan trọng đặc biệt”.
Lễ hội thuộc phạm trù của văn hóa, do vậy khái niệm Lễ hội truyền thống có
thể bao trùm cả những lễ hội cổ truyền đã có từ xa xưa và cả những truyền
thống lễ hội được xác lập mấy chục năm trở lại đây như lễ hội kỷ niệm ngày
quốc khánh, lễ hội Làng Sen. Tuy nhiên, ở nước ta khi sử dụng cụm từ lễ hội
truyền thống thông thường được hiểu như lễ hội cổ truyền. Lễ hội cổ truyền
bao gồm những lễ hội đã được hình thành trong lịch sử từ xa xưa truyền lại
trong các cộng đồng nông nghiệp với tư cách một phong tục. Ví dụ như các lễ
hội thờ Thành Hoàng ở cá làng quê Bắc Bộ, lễ cúng đình ở Nam Bộ... Khái
niệm này cũng chỉ cả những lễ hội vượt ra ngồi khn khổ một cộng đồng
làng, ấp, buôn, bản như những lễ hội ở đền, chùa... dân gian được phát triển
trên quy mô vùng hay cả nước như lễ hội Chùa Hương, lễ hội núi Bà Đen, lễ
hội Điện Hòn Chén và cả những lễ hội có nguồn gốc dân gian nhưng đã phát
triển yếu tố lịch sử rồi được cơng nhận một cách chính thống như những di
tích lịch sử thờ anh hùng dân tộc như lễ hội đền Hùng, hội đền Kiếp Bạc, hội
đền Hoa Lư...
Còn Lễ hội dân gian thường được sử dụng để chỉ những lễ hội được
sáng tạo và lưu truyền theo phương thức dân gian. Do lễ hội cổ truyền ở nước
20
ta cơ bản là những lễ hội dân gian nên trong nhiều trường hợp được cụm từ lễ
hội dân gian và lễ hội cổ truyền được sử dụng với cách hiểu tương đương.
Như vậy có thể thấy, Lễ hội truyền thống, Lễ hội cổ truyền, Lễ hội dân gian là
lễ hội được tổ chức nhằm tơn vinh người có cơng với nước, với cộng đồng;
thờ cúng thần thánh, biểu tượng có tính truyền thống và các hoạt động tín
ngưỡng dân gian khác tiêu biểu cho những giá trị tốt đẹp về truyền thống lịch
sử, văn hoá, đạo đức xã hội.
Lễ hội lịch sử, cách mạng là lễ hội được tổ chức nhằm tôn vinh những
danh nhân, sự kiện lịch sử, cách mạng.
Lễ hội văn hoá, thể thao, du lịch là lễ hội được tổ chức để quảng bá về
văn hoá, thể thao, du lịch bao gồm các Festival, liên hoan văn hoá, thể thao,
du lịch, tuần văn hoá, thể thao, du lịch, tuần văn hoá du lịch, tháng văn hoá
du lịch, năm văn hoá du lịch.
Lễ hội có nguồn gốc từ nước ngồi được tổ chức tại Việt Nam là lễ
hội do tổ chức của Việt Nam hoặc tổ chức nước ngoài đang hoạt động hợp
pháp tại Việt Nam tổ chức nhằm giới thiệu giá trị văn hố tốt đẹp của nước
ngồi với cơng chúng Việt Nam.
Trước đây, con người chưa có đủ khả năng chinh phục, chế ngự và làm
chủ thiên nhiên cũng như làm chủ xã hội nên bị bất lực và bị chi phối bởi
nhưng thiên tai bất trắc, may rủi hay bất công do thiên nhiên, con người gây
nên. Vì thế thần linh là nơi họ đặt niềm tin vào đó như là: thần mặt trời, thần
núi, thần sông... Vậy nên, xưa kia có nhiều làng xã đã xây dựng đình, miếu...
để thờ các vị thần linh tại địa phương và thường tổ chức lễ hội tại những nơi
đó, nhằm thể hiện sự biết ơn đối với các vị thần linh đã ban cho con người nơi
đó sức khỏa, mùa màng bội thu, vật ni sinh sơi phát triển. Hơn thế nữa, họ
cịn cầu mong các vị thần tiếp tục che chở, bảo vệ và ban phúc lành may mắn,
thịnh vượng cho họ. Các lễ hội truyền thống thể hiện rõ nhất điều này.
21
Lễ hội truyền thống là một bộ phận những giá trị tốt đẹp trong lễ hội cổ
truyền của dân tộc được các thế hệ sau nối tiếp các thế hệ trước tái tạo và
khẳng định để bảo tồn và phát huy theo hướng tích cực trong đời sống xã hội.
Như vậy, lễ hội truyền thống được coi như là một thành tố quan trọng cấu
thành nên hình thái sinh hoạt văn hóa lịch sử tương ứng với những mơ hình
xã hội được tổ chức theo giai đoạn lịch sử khác nhau.
Ngoài “Lễ hội truyền thống” và “Lễ hội cổ truyền” cịn có “Lễ hội dân
gian” là lễ hội trong đời sống văn hóa tinh thần của các xã hội truyền thống.
Xã hội truyền thống có thể hiểu là những tập hợp người được tổ chức bởi các
đơn vị “công đồng”, dựa trên ưu thế của tính chất “cộng đồng”. Hơn nữa, xã
hội truyền thống là các cộng đồng thị tộc, bộ lạc, liên minh bộ lạc, các xã hội
tiền công nghiệp tồn tại trước khi hình thành những dân tộc quốc gia. Từ đó
có thể thấy, “Lễ hội truyền thống”, “Lễ hội cổ truyền” hay “Lễ hội dân gian”
là đồng nhất với nhau và đều nói về lễ hội trong sinh hoạt văn hóa tinh thần
của người dân xưa và nay.
Có nhiều định nghĩa khác nhau về lễ hội truyền thống, tùy thuộc vào
các tác giả tiếp cận ở khía cạnh nào theo phương thức nào. Tuy nhiên các nhà
nghiên cứu văn hóa đều cho rằng lễ hội truyền thống là hình thái văn hóa có
tính chất hai mặt trong một chỉnh thể thống nhất. Lễ hội truyền thống là một
hệ thống hành vi nghi thức biểu đạt thế ứng xử của cộng đồng hướng tới một
đối tượng thần linh nhất định và những hoạt động văn hóa để minh họa cho
các hành vi nghi lễ. Lễ càng thiêng thì hội càng đơng, hội càng đơng thì lễ
càng thiêng. Mặc dù vậy, khi đứng ở góc độ quản lý văn hóa để tiếp cận và
tìm hiểu về lễ hội thì tất cả các yếu tố của lễ hội sẽ được quan tâm để nhằm
bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống dân gian của dân tộc,
đồng thời tái sáng tạo những giá trị văn hóa bác học dựa trên những yếu tố
dân gian. Có thể nói quản lý văn hóa quan tâm đến việc bảo tồn, phát huy và
22
khai thác những vốn văn hóa truyền thống cùng với sự tái sáng tạo để làm nên
những lễ hội truyền thống mang đúng nghĩa của nó, đáp ứng được nhu cầu
sinh hoạt văn hóa tinh thần của mọi người dân.
Lễ hội truyền thống là hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian phổ biến
của cộng đồng cư dân nông nghiệp nước ta. Tính nguyên hợp của lễ hội thể
hiện ở chỗ lễ hội vừa là hoạt động tín ngưỡng thờ cúng các vị thần linh, vừa là
hoạt động vui chơi giải trí, là sinh hoạt văn hóa tinh thần gắn bó trực tiếp với
hoạt động sản xuất vật chất.
Như vậy có thể hiểu: Lễ hội truyền thống là lễ hội được sáng tạo và lưu
truyền theo phương thức dân gian, được hình thành trong các hình thái văn
hóa lịch sử, được truyền lại trong các cộng đồng nông nghiệp với tư cách là
một phong tục tập quán.
1.1.2. Đặc điểm và giá trị của lễ hội
Trên thế giới hiện nay, dân tộc nào cũng có lễ hội. Nó như một loại hình
sinh hoạt văn hóa tinh thần đặc biệt mang tính tập thể, nhằm thỏa mãn nhu cầu
tâm linh, củng cố ý thức cộng đồng. Lễ hội chứa đựng và phản ánh nhiều mặt
của cuộc sống kinh tế văn hóa xã hội. Lễ hội là chỗ dựa tinh thần của nhân
dân để mỗi người hướng vể tổ tơng, dịng tộc, về thế giới tâm linh, với thiên
nhiên. Từ đó tất cả mọi người tham gia lễ hội hưng phấn, thăng hoa trong một
khơng khí vui vẻ, vừa trang nghiêm, vừa trần tục, vừa linh thiêng.
Rõ ràng lễ hội là “thời điểm mạnh của sinh hoạt cộng đồng” để mỗi
người cùng nhau chuẩn bị lễ vật và trò diễn, cùng nhau vui chơi, giao cảm
tình quê hương, cùng nhau hưởng thụ các giá trị vật thể và phi vật thể. Cũng
thơng qua đó các cơng trình kiến trúc đình, chùa, cơ sở thờ tự của làng xã, của
cả con người, của cả không gian tĩnh lặng của làng cũng trở nên có hồn hơn.
Hiện nay lễ hội truyền thống có những giá trị quan trọng trong đời sống
23
xã hội của thời kỳ hội nhập và phát triển, thể hiện trên một số mặt cơ bản là:
Giá trị hướng về cội nguồn, giá trị văn hóa tâm linh, giá trị sáng tạo và hưởng
thụ văn hóa tinh thần, giá trị bảo tồn, làm giàu và phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc và giá trị kinh tế.
Giá trị hướng về cội nguồn: Tất cả các lễ hội truyền thống đều hướng
về cội nguồn. Đó là nguồn cội tự nhiên mà con người vốn từ đó sinh ra và nay
vẫn là bộ phận hữu cơ, nguồn cội cộng đồng, như dân tộc, đất nước, xóm
làng, tổ tiên, nguồn cội văn hóa... Hơn thế nữa, hướng về cội nguồn đã trở
thành tâm thức của người Việt, “Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ kẻ
trồng cây”. Do đó, ngày nay lễ hội thường gắn với hành hương du lịch.
Lễ hội đồng thời tái hiện cuộc sống của quá khứ và hiện tại bằng các
hình thức lễ tế và trị diễn. Đó là cuộc sống lao động sáng tạo và chống lại
thiên tai, dịch họa, được thể hiện dưới dạng những hoạt động văn hóa tinh
thần vơ cùng sinh động. Thơng qua lễ hội, các kinh nghiệm lao động sản xuất,
kinh nghiệm sống của ông cha được tái hiện để con cháu học tập, noi theo.
Ngày nay, trong thời đại cách mạng khoa học cơng nghệ, tồn cầu hóa
lan rộng, truyền thống văn hóa độc đáo đang có nguy cơ bị mai một. Chính
trong mơi trường này, hơn bao giờ hết con người càng có nhu cầu tìm về cội
nguồn tự nhiên của mình, hịa mình vào mơi trường thiên nhiên, tìm lại cội
nguồn gốc và bản sắc văn hóa của mình trong cái chung của văn hóa nhân
loại. Lễ hội truyền thống là một trong những phương thức quan trọng để con
người thực hiện được những nhu cầu đó. Đây cũng chính là tính nhân bản bền
vững và sâu sắc của lễ hội truyền thống để đáp ứng được nhu cầu con người
trong mọi thời đại.
Giá trị văn hóa tâm linh: Bên cạnh đời sống vật chất, đời sống tinh
thần, tư tưởng cịn hiện hữu đời sống tâm linh. Đó là đời sống của con người
24
hướng về cái cao cả thiêng liêng chân, thiện, mỹ mà con người ngưỡng mộ,
ước vọng, tôn thờ, trong đó có niềm tin tơn giáo tín ngưỡng. Tơn giáo, tín
ngưỡng thuộc về đời sống tâm linh, tuy nhiên khơng phải tất cả đời sống tâm
linh đều thuộc về tôn giáo tín ngưỡng. Chính tơn giáo, tín ngưỡng, các nghi
lễ, lễ hội góp phần làm thỏa mãn về nhu cầu đời sống tâm linh của con người,
đó là trạng thái “thăng hoa” từ đời sống hiện hữu.
Trong quá trình lao động sáng tạo, để đáp ứng nhu cầu cuộc sống của
mình, cộng đồng làng khơng chỉ biến đổi cái tự nhiên để tạo ra sản phẩm văn
hóa mà cịn hịa mình vào thế giới hữu hình và vơ hình trong tự nhiên. Và
khơng ít trường hợp con người bất lực trước thiên nhiên, họ phải nhờ tới sự
che chở của tổ tiên, dịng tộc, thành hồng và các vị thần linh khác trong cuộc
sống, trong lao động sản xuất... Họ cầu mong thần linh phù hộ cho cuộc sống
bình an, mùa màng bội thu, thành đạt trong nghề nghiệp. Chỉ có lễ hội, các
cộng đồng dân cư mới có dịp thỏa mãn đời sống tâm linh, được thăng hoa từ
đời sống hiện thực và hưởng thụ các giá trị đời sống tâm linh. Lễ hội với
những hình thức cúng tế, dâng lễ hội, cầu nguyện thần linh... đã làm cho nó ẩn
chức trong mình văn hóa tâm linh.
Giá trị sáng tạo và hưởng thụ văn hóa tinh thần: Lễ hội là một hình
thức sinh hoạt tín ngưỡng văn hóa cộng đồng của nhân dân ở làng quê, cũng
như nơi thành thị. Trong các lễ hội, nhân dân đứng ra tổ chức, sáng tạo và tái
hiện các sinh hoạt cộng đồng và hưởng thụ các giá trị văn hóa và tâm linh.
Trong những “thời điểm mạnh” của lễ hội, khi tất cả mọi người chìm vào
khơng khí thiêng liêng, hứng khởi thì khoảng cách xã hội giữa các các nhân
đời thường dường như khơng cịn ranh giới, mọi người cùng nhau sáng tạo và
hưởng thụ văn hóa của mình.
Điều này có phần nào đối lập với đời sống thường nhật của xã hội phát
triển, khi mà phân công xã hội đã được chun mơn hóa, nhu cầu sáng tạo và
25
hưởng thụ văn hóa của con người có phần nào tách biệt. Tuy nhiên khi tham
gia lễ hội, con người có xu hướng xích gần nhau hơn trong q trình giao cảm
với thế giới thiêng liêng bí ẩn.
Ai cũng có “đức tin” về sự chứng giám của thế giới tâm linh về thái độ
thành kính của mình. Muốn vậy, con người phải chứng tỏ vẻ đẹp chân, thiện,
mỹ của bản thân. Người ta cùng nhau hành hương, cùng nhau tưởng tượng,
cùng nhau chiêm bái về cái thiêng và như vậy lễ hội lại nảy sinh ra những giá
trị văn hóa mới mang tính lịch sử thời đại.
Giá trị bảo tồn, làm giàu và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc: Lễ hội
khơng chỉ là văn hóa dân tộc, mà cịn là mơi trường bảo tồn, làm giàu và phát
huy văn hóa dân tộc ấy. Đồng thời tạo ra khơng gian văn hóa cho các làn điệu
dân ca, dân vũ: hát chèo, hát xoan, hát ghẹo, hát trống quân...; các điệu múa
sênh tiền, múa rồng, múa lân...; các trò chơi, trò diễn: đánh cờ người, vật, kéo
co, bơi chải, đánh phết được dịp tổ chức sôi nổi.
Trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tồn cầu hóa hiện nay, khi
mà sự nghiệp bảo tồn, làm giàu và phát huy văn hóa truyền thống dân tộc
đang trở nên quan trọng hơn bao giờ hết, thì lễ hội truyền thống lại thêm phần
trọng trách là nơi bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc tại cộng đồng
làng xã Việt Nam.
Giá trị kinh tế: Giá trị này được thể hiện trên những phương diện: Lễ
hội truyền thống tạo nên mơi trường du lịch văn hóa tâm linh hấp dẫn. Lễ hội
như là nhân tố tạo nên sự thư giãn tinh thần, là biểu hiện cách ứng xử văn hóa
với thiên nhiên, với thần thánh, với cộng đồng xã hội. Nhờ có khơng khí linh
thiêng, vui tươi của lễ hội mà mỗi người trút bỏ những âu lo phiền muộn của
cuộc sống đời thường, mà thúc đẩy quá trình hoạt động sáng tạo làm ra nhiều
của cải, vật chất hơn.