1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HOÁ HÀ NỘI
NGUYỄN THỊ HỒNG TÂM
BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HĨA
THÁP BÀ PƠNAGAR
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC QUẢN LÝ VĂN HĨA
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. NGƠ VĂN DOANH
HÀ NỘI – 2011
2
MỤC LỤC
Trang
MỤC LỤC ……………………………………………………………………………….. 1
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT …………………………………………………………. 3
MỞ ĐẦU …………………………………………………………………………………. 4
Chương 1:
NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO TỒN, PHÁT HUY DI SẢN VĂN
HOÁ VÀ TỔNG QUAN VỀ THÁP BÀ PÔ NAGAR …………………………………11
1.1 Cơ sở khoa học và cơ sở pháp lý về bảo tòn và phát huy giá trị di sản văn hoá
……………………..............................................................................................................11
1.1.1. Lý luận về bảo tồn di sản văn hoá ………………………………………….11
1.1.2. Lý luận về phát huy giá trị di sản văn hoá ………………………………….16
1.1.3. Khái niệm quản lý, quản lý Nhà nước về di sản văn hoá …………………..17
1.1.4. Luật Di sản văn hoá và một số văn bản hướng dẫn thi hành ……………….18
1.2. Luợc sử hình thành vùng đất Khánh Hoà …………………………………….20
1.2.1. Một trong những cội nguồn của văn hoá Sa Huỳnh ………………………..20
1.2.2. Vùng đất Kauthara ………………………………………………………….21
1.2.3. Dinh Thái Khang …………………………………………………………...22
1.2.4. Tỉnh Khánh Hoà ………………………………………………………….. .23
1.3. Khái quát về tháp Bà Pô Nagar……………………………………………… ..25
1.3.1. Lịch sử hình thành di tích …..…………………………………………… ...25
1.3.2. Đặc điểm kiến trúc tháp Bà Pô Nagar …………………………………… ..28
1.3.3. Các nhân vật thờ trong di tích …………………………………………….. 35
1.4.
Vai trị của tháp Bà Pơ Nagar trong q trình giao lưu tiếp biến văn hố
Chăm - Việt ……………………………………………………………………………
39
1.4.1. Tháp Bà Pô Nagar trong đời sống tâm linh của người Chăm …………….. 39
1.4.2. Tháp Bà Pô Nagar trong đời sống tâm linh của người Việt …..……………40
Chương 2: THỰC TRẠNG BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HỐ
THÁP BÀ PƠ NAGAR ………………………………………………………………….45
2.1. Cơng tác quản lý di tích tháp Bà Pơ Nagar ………………………………… 45
2.1.1. Bộ máy quản lý Nhà nước …………………………………………………45
2.1.2. Quản lý và đào tạo nhân sự ……………………………………………….. 49
3
2.2. Thực trạng bảo tồn di sản văn hoá tháp Bà Pô Nagar ……………………… 51
2.2.1. Công tác bảo quản, trùng tu, tơn tạo di tích ………………………………. 51
2.2.2. Tổ chức lễ hội truyền thống ………………………………………………. 54
2.3. Thực trạng công tác phát huy giá trị di sản văn hố …………..…………… 64
2.3.1. Cơng tác trưng bày, tuyên truyền …………………………………………..65
2.3.2. Quảng bá ……………………………………………………………………67
2.3.3. Xuất bản ………………….………………………………………………...68
2.3.4. Tổ chức tham quan du lịch …………………………………………………70
2.4. Đánh giá thực trạng công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hố tháp
Bà Pơ Nagar ………………………………………………………… …………………..73
2.4.1. Ưu điểm …………………………………………………………………… 73
2.4.2. Hạn chế ……………………………………………………………………..75
Chương 3:
NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ
TRỊ DI SẢN VĂN HỐ THÁP BÀ PƠ NAGAR ………………………………… …..78
3.1. Giải pháp về quản lý và đào tạo nhân sự ……………………………………...78
3.2. Giải pháp về bảo quản tu bổ và phục hồi di tích …………………………… 79
3.2.1. Bảo quản di tích ……………………………………………………………79
3.2.2. Tu bổ di tích ………………………………………………………………..80
3.2.3. Bảo tồn di tích tháp Bà Pô Nagar trong phát triển không gian đô thị …….. 85
3.3. Khôi phục một số nghi thức lễ hội truyền thống …………………………… 87
3.4. Công tác quy hoạch, kế hoạch giữa bảo tồn và phát triển du lịch …………. 92
3.4.1. Chính sách của Nhà nước về quy hoạch phát triển du lịch ………………...93
3.4.2.
Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hố tháp Bà Pơ Nagar gắn với phát
triển du lịch ………………………………………………………………………………..95
KẾT LUẬN ……………………………………………………………………………..102
TÀI LIỆU THAM KHẢO …………………………………………………………… 105
PHỤ LỤC ……………………………………………………………………………….109
4
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
TT
Nội dung
Viết tắt
1
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
BVHTTDL
2
Chính phủ
CP
3
Nghị định
NĐ
4
Quyết định
QĐ
5
Thơng tư
TT
6
Thủ tướng
TTg
7
Ủy ban nhân dân
UBND
8
Xem tài liệu tham khảo số 28, trang 7
[28, tr.7]
9
Trang
tr
10
Xem phụ lục, hình 1, trang 111
[PL.H1, tr.111]
11
Phụ lục
PL
12
Nhà xuất bản
Nxb
13
Trung tâm Quản lý di tích và Danh lam thắng
cảnh tỉnh Khánh Hòa
14
Meeting Incentive Conference Event
Trung tâm hoặc:
TT QLDT DLTC KH
MICE
15
International Council On Monuments and Sites
ICOMOS
16
Trang mạng
website
17
Chương trình du lịch
tour
18
United Nations Educational,Scientific and
Cultural Organisation
UNESCO
5
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Đứng trước xu thế quốc tế hóa, tồn cầu hóa, văn hóa trở thành nét
đặc sắc riêng biệt để phân biệt các quốc gia, dân tộc và là cầu nối giữa các
nền kinh tế, để các quốc gia dân tộc xích lại gần nhau. Có nhiều đối tượng
khác nhau để tiếp cận với văn hóa mỗi quốc gia dân tộc, trong đó di sản văn
hóa là đối tượng được nhiều người quan tâm nhất. Bởi di sản văn hóa chính là
những bằng chứng xác thực và cụ thể nhất về đặc điểm lịch sử - xã hội, lối
sống, phong tục tập quán, con người của mỗi dân tộc. Theo dịng chảy văn
hóa, các thế hệ trước trao truyền cho thế hệ sau để kế thừa, phát huy những
giá trị văn hóa của cha ông và tiếp tục sáng tạo ra những giá trị văn hố mới.
1.2. Khánh Hịa - một tỉnh dun hải Nam Trung Bộ, nơi hội tụ, lưu giữ
khá đầy đủ những di sản văn hóa vật thể và phi vật thể để trở thành một trong
những điểm đến du lịch hấp dẫn của nước ta đối với du khách trong và ngồi
nước. Ở đó có những di chỉ khảo cổ học của nền văn hóa Sa Huỳnh như Hịa
Diêm, Bích Đầm; những vịnh biển đẹp và nổi tiếng thế giới như Vân Phong,
Nha Trang, Cam Ranh; những di sản văn hóa Chămpa một thời rực rỡ.... Tất
cả đó đã tạo nên một Khánh Hòa đầy tiềm năng và năng động trong thời kỳ
hội nhập và giao lưu quốc tế.
1.3. Phần lớn các di tích lịch sử - văn hóa của tỉnh Khánh Hịa có niên
đại từ 100 - 300 năm, trải qua thời gian cùng với sự khắc nghiệt của tự nhiên,
nhiều di tích lịch sử - văn hố vẫn tồn tại và đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn
hóa của nhân dân. Khánh Hịa có hơn 1.000 di tích, chủ yếu là hệ thống đình
làng thờ Thành Hồng làng, chùa thờ Phật và đền miếu thờ Mẫu. Trong đó, di
tích tiêu biểu nhất có lịch sử lâu đời và có giá trị văn hóa, khoa học, đã và
đang được bảo tồn, phát huy có hiệu quả là di tích lịch sử - văn hóa tháp Bà
6
Pơ Nagar. Có thể nói đây là di tích hội tụ đầy đủ nhất sự giao lưu tiếp biến
văn hóa Chăm - Việt ở nước ta. Đó là sự giao thoa giữa tín ngưỡng thờ Nữ
thần của người Chăm với tín ngường thờ Mẫu của người Việt. Từ một nữ thần
Pô Nagar trở thành một Thiên Y A Na Thánh Mẫu có sức thu hút mạnh mẽ
đối với người dân khu vực Nam Trung bộ và Nam bộ.
1.4. Giá trị của di sản văn hóa của di tích tháp bà Pơ Nagar nói riêng
thật là lớn, song việc bảo tồn và phát huy những giá trị của di tích này sao cho
có hiệu quả và mang tính bền vững trong giai đoạn hiện nay mới là vấn đề
đáng được quan tâm trong cơng tác quản lý văn hóa. Dù đây chỉ là một di tích
nhưng nó cũng là một viên gạch để đặt nền móng hợp thành nền tảng tinh
thần của xã hội và góp phần nhỏ bé vào việc tăng trưởng kinh tế địa phương
thông qua hoạt động du lịch. Mặt khác, thông qua việc tham quan, nghiên cứu
di tích Tháp Bà Pơ Nagar, những nhà nghiên cứu và du khách có thêm một
cách tiếp cận văn hóa, lịch sử vùng đất và con người Khánh Hịa nói riêng,
Việt Nam nói chung.
1.5. Hiện nay, di tích tháp bà Pơ Nagar do Trung tâm Quản lý di tích và
danh lam thắng cảnh Khánh Hòa chịu trách nhiệm quản lý về an ninh trật tự,
thu phí tham quan dịch vụ, trùng tu tơn tạo và phát huy giá trị di tích, cịn Hội
bảo trợ Tháp Bà Nha Trang duy trì và hướng dẫn nhân dân thờ cúng tại di
tích. Tuy nhiên, có một số thành viên của Hội nhận thức khơng đúng nên đã
có những hành động tiếm quyền về cơng tác quản lý làm ảnh hưởng đến công
tác quản lý ở di tích.
Xuất phát từ yêu cầu khách quan trên, là cán bộ hoạt động trong công
tác quản lý di tích – danh thắng, tơi chọn đề tài: Bảo tồn và phát huy giá trị
di sản văn hóa tháp Bà Pô Nagar làm luận văn tốt nghiệp bậc cao học
chuyên ngành Quản lý văn hóa. Hy vọng, đề tài sẽ góp phần vào việc nâng
7
cao chất lượng và hiệu quả công tác quản lý di tích nhằm bảo tồn và phát huy
những giá trị của di sản văn hóa, góp phần “Xây dựng và phát triển nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ngồi một số cơng trình đã cơng bố trước đây như: Nguyễn Đình Tư
(2003, tái bản), Non nước Khánh Hịa, Nxb Thanh Niên, Hà Nội - là cuốn địa
phương chí khảo cứu về địa lý và lịch sử của tỉnh mà tác giả thống kê năm
1966; Quách Tấn (2002, tái bản), Xứ Trầm hương, Nxb Hội Văn học Nghệ
thuật Khánh Hòa - mơ tả và nói về lịch sử, địa danh, phong tục, tín ngưỡng...
ở Khánh Hịa, ghi chép lại những điều mà ông được mắt thấy tai nghe sau
những cuộc điền dã; trong những năm gần đây, vấn đề nghiên cứu về các di
tích lịch sử - văn hố tháp Bà Pô Nagar đã được nhiều người quan tâm. Xin
đề cập đến một số cơng trình tiêu biểu:
Lê Đình Chi (1998), Lễ hội Tháp Bà Nha Trang, Nxb Văn hóa Dân
tộc, Hà Nội. Đây là Luận văn Thạc sỹ, một cơng trình nghiên cứu phản ánh
đời sống văn hóa tinh thần của cư dân Khánh Hịa thơng qua hình thức lễ hội
Tháp Bà Ponagar Nha Trang.
Nguyễn Văn Khánh (chủ biên) (2003), Tìm hiểu giá trị lịch sử và văn
hóa truyền thống Khánh Hịa 350 năm, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Trong cơng trình đã tập hợp nhiều bài viết của các nhà khoa học và những
nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Khánh Hịa, trong đó có bài viết khái qt
về tín ngưỡng Yang Pơ Inư Nagar trong đời sống văn hóa của người Khánh
Hịa của Ngơ Văn Doanh - nhà nghiên cứu văn hóa Chăm, nói về tín ngưỡng
thờ Thiên Y A Na Thánh Mẫu.
Nguyễn Công Bằng (2005), Tháp Bà Nha Trang, Nxb Khoa học - Xã
hội, Hà Nội. Đây là Luận án Tiến sỹ, một cơng trình nghiên cứu về đặc trưng
8
kiến trúc, điêu khắc, niên đại và phong cách nghệ thuật văn hóa Chăm ở di
tích Tháp Bà Pơ Nagar.
Ngơ Văn Doanh (2009), Tháp Bà Thiên Y A Na - Hành trình của một
nữ thần, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh. Trong tác phẩm này, nhà nghiên cứu đã
tổng hợp kết quả tìm hiểu và nghiên cứu trong 30 năm qua về tháp Bà Nha
Trang về sự hình thành, phát triển và những thăng trầm của khu đền tháp, đặc
biệt là sự lý giải về nguồn gốc của nữ thần Yang Pô Inư Nagar của người
Chăm và sự tiếp biến của người Việt trong tiến trình lịch sử.
Nguyễn Thanh Vân (2009), Tín ngưỡng thờ Pơ Nagar ở Khánh Hịa,
Luận văn tốt nghiệp Thạc sỹ, chuyên ngành Dân tộc học. Luận văn góp phần
tìm hiểu tín ngưỡng thờ Thiên Y A Na ở Khánh Hịa và ảnh hưởng của văn
hóa Chăm đối với người Việt ở Khánh Hòa và dải đất miền Trung hiện nay
trên lĩnh vực tín ngưỡng, tơn giáo.
Nguyễn Văn Bốn (2010), Văn hóa tín ngưỡng thờ Mẫu ở Khánh Hịa,
Nxb Văn hóa - Thơng tin, Khánh Hịa. Là luận văn tốt nghiệp Thạc sỹ,
chuyên ngành Văn hóa học. Luận văn tìm hiểu tín ngưỡng thờ Mẫu trên địa
bàn tỉnh Khánh Hịa. Trong đó, đi sâu tìm hiểu ở ba di tích Tháp Bà Pơ
Nagar, di tích Am Chúa và miếu Thánh Mẫu đệ nhất Tiên Thiên.
Các tác phẩm, cơng trình nghiên cứu trên chủ yếu tìm hiểu về lễ hội, tín
ngưỡng ở di tích hoặc kết cấu kiến trúc, chưa có cơng trình nghiên cứu nào
bàn về vấn đề quản lý di tích và lễ hội ở di tích tháp Bà để từ đó đặt ra vấn đề
giữ gìn và khai thác có hiệu quả những giá trị văn hóa, lịch sử của di tích.
Trong q trình triển khai đề tài Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa
tháp Bà Pơ Nagar, tác giả luận văn sẽ tiếp thu, kế thừa những kết quả của các
tác giả đi trước, vận dụng một số nội dung vào cơng trình nghiên cứu vấn đề
quản lý di tích lịch sử - văn hố tháp Bà Pơ Nagar.
9
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Trên cơ sở nhận thức sâu sắc vai trị của cơng tác quản lý di tích lịch sử
- văn hóa trong giai đoạn hiện nay, luận văn sẽ đi sâu tìm hiểu, phân tích,
đánh giá những kết quả đạt được cũng như những tồn tại, hạn chế trong công
tác quản lý di tích lịch sử - văn hóa tháp Bà Pơ Nagar, từ đó đề xuất một số
giải pháp, góp phần nâng cao hiệu quả cơng tác quản lý di tích lịch sử - văn
hố ở một di tích cụ thể và từ đó nhân rộng mơ hình phù hợp cho các di tích –
danh thắng trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa trong những năm tiếp theo.
3.2. Nhiệm vụ
Luận văn tập trung giải quyết các vấn đề sau:
- Tìm hiểu về giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học của di tích tháp Bà Pơ
Nagar;
- Trình bày những cơ sở khoa học và pháp lý trong công tác quản lý
di sản văn hố nói chung và di tích lịch sử - văn hố nói riêng;
- Tìm hiểu, phân tích, so sánh, đánh giá thực trạng cơng tác quản lý di
tích lịch sử - văn hố tháp Bà Pơ Nagar;
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả cơng tác
quản lý di tích lịch sử - văn hố ở một di tích cụ thể, từ đó nhân rộng mơ hình
phù hợp cho các di tích – danh thắng trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa trong
những năm tiếp theo.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng
- Luận văn đi sâu nghiên cứu về giá trị di tích lịch sử - văn hóa và cơng
tác quản lý di tích lịch sử - văn hố tháp Bà Pơ Nagar;
10
- Trong điều kiện cần thiết, sẽ mở rộng nghiên cứu sang một số di tích
khác để đối chiếu, so sánh, trao đổi kinh nghiệm quản lý di tích, nhằm rút ra
bài học kinh nghiệm, áp dụng cho di tích tháp Bà Pô Nagar.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
4.2.1. Về không gian:
- Di tích lịch sử - văn hóa tháp Bà Pô Nagar;
- Trong điều kiện cần thiết, tác giả luận văn sẽ mở rộng phạm vi
nghiên cứu công tác quản lý di tích ở một số di tích khác để đối chiếu, so
sánh.
4.2.2. Về thời gian: Từ khi thành lập Trung tâm Quản lý di tích và
Danh lam thắng cảnh tỉnh Khánh Hòa (năm 1997) đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của luận văn là hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng và Nhà nước về
quản lý di sản văn hoá dân tộc.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên
cứu sau:
- Phương pháp nghiên cứu định tính: khảo sát thực địa tại di tích, thu
thập các thơng tin có liên quan đến cơng tác quản lý di tích.
- Phương pháp phân loại hệ thống để làm nổi bật các giá trị vật thể và
phi vật thể của di tích lịch sử - văn hóa.
11
- Phương pháp so sánh trong văn hóa học để nhận diện những đặc điểm
chung và nét riêng trong các hiện tượng tín ngưỡng thờ Mẫu ở di tích tháp Bà
Pơ Nagar nói riêng và ở Khánh Hịa nói chung.
- Phương pháp nghiên cứu tổng hợp liên ngành: Quản lý văn hố, Lịch
sử, Bảo tàng, Khảo cổ học...
6. Đóng góp của luận văn
- Đưa ra một cái nhìn tồn diện về thực trạng công tác quản lý từ năm
1997 đến nay và những giá trị tiêu biểu của di tích lịch sử - văn hóa tháp Bà
Pơ Nagar;
- Góp phần hồn thiện và nâng cao hiệu quả cơng tác quản lý di tích
lịch sử - văn hố trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa trong những năm tới;
- Làm tài liệu tham khảo về cơng tác quản lý di tích lịch sử - văn hố
cho các di tích và địa phương cũng như cho những người muốn tìm hiểu cơng
tác quản lý di tích lịch sử - văn hố ở Khánh Hịa.
7. Bố cục luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn chia làm 3
chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về bảo tồn, phát huy di sản
văn hóa và tổng quan về tháp Bà Pô Nagar
Chương 2: Thực trạng bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa
tháp Bà Pơ Nagar
Chương 3: Nâng cao hiệu quả công tác bảo tồn và phát huy giá trị di
sản văn hóa tháp Bà Pơ Nagar
12
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ
BẢO TỒN, PHÁT HUY DI SẢN VĂN HÓA VÀ TỔNG QUAN
VỀ THÁP BÀ PÔ NAGAR
1.1. CƠ SỞ KHOA HỌC VÀ CƠ SỞ PHÁP LÝ VỀ BẢO TỒN VÀ PHÁT
HUY GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA
1.1.1. Lý luận về bảo tồn di sản văn hóa
1.1.1.1. Khái niệm di sản văn hóa
Văn hóa là thành quả lao động của nhân dân, là kết quả của những giao
lưu, tiếp biến văn hóa, tiếp thu những tinh hoa của các nền văn minh trên thế
giới để bồi đắp thêm bề dày văn hóa dân tộc và tạo nên những di sản văn hóa.
Cho nên có thể hiểu di sản văn hóa là kết tinh những giá trị vật chất và tinh
thần của cha ông đã để lại cho các thế hệ con cháu. "Di sản văn hóa Việt Nam
là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam và là một bộ phận của
di sản văn hóa nhân loại, có vai trị to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ
nước của nhân dân ta" [29, tr.7].
Theo từ điển tiếng Việt, di sản là giá trị tinh thần và vật chất của văn
hóa thế giới hay một quốc gia một dân tộc để lại [47, tr.533]. Từ cách giải
thích này, chúng ta có thể hình dung được di sản văn hóa và có thể hiểu một
cách nơm na: Di sản văn hóa gồm di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa
vật thể, là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học,
được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác ở nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam [29, tr.7-8].
Như vậy, di sản văn hóa cần được hiểu là bộ phận quan trọng cấu thành
môi trường sống của chúng ta. Di sản văn hóa là tài sản quý giá, tài nguyên
13
đặc biệt không thể tái sinh, không thể thay thế, nhưng rất dễ bị biến dạng
trước những tác động của điều kiện tự nhiên và những hành vi của con người.
Để gìn giữ kho tàng di sản văn hóa cho chúng ta hôm nay, biết bao thế hệ cha
ông đã hy sinh xương máu, đổ bao mồ hôi nước mắt, công sức cất giữ rồi lưu
truyền cho hậu thế.
1.1.1.2. Khái niệm di sản văn hóa vật thể
Trong cuộc sống hàng ngày, để tạo nên những lương thực, thực phẩm...
đáp ứng nhu cầu ăn, mặc, ở, đi lại mà cha ông đã tạo nên những sản phẩm văn
hóa. Những giá trị vật chất và tinh thần đó được kết tinh, trao truyền qua các
thế hệ và trở thành những di sản văn hóa vật thể. Do đó, chúng ta có thể hiểu:
Di sản văn hóa vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa
học, bao gồm di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật,
bảo vật quốc gia [29, tr. 9].
Ở đề tài này di sản văn hóa vật thể chủ yếu đề cập đến di tích lịch sử văn hóa, trong đó có cả di vật và cổ vật. Vì vậy, chúng ta hiểu những khái
niệm này được quy định trong Luật Di sản hóa là:
Di tích lịch sử - văn hóa là cơng trình xây dựng, địa điểm và các di vật,
cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc cơng trình, địa điểm có giá trị lịch sử, văn hóa,
khoa học .
Di vật là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa
học.
Cổ vật là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị tiêu biểu về lịch sử, văn
hóa, khoa học, có từ một trăm năm tuổi trở lên.
Di sản văn hóa vật thể luôn hiện hữu quanh chúng ta. Những di sản đó
chúng ta có thể nắm được, sờ được, nhìn được nên dễ nhận biết và dễ bảo tồn,
khai thác hơn.
14
1.1.1.3. Khái niệm di sản văn hóa phi vật thể
Di sản văn hóa phi vật thể là một bộ phận của di sản văn hóa và Điều 4
Luật Di sản văn hóa đã xác định rõ:
Là sản phẩm tinh thần có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được
lưu giữ bằng trí nhớ, chữ viết, được lưu truyền bằng miệng, truyền
nghề, trình diễn và các hình thức lưu giữ, lưu truyền khác, bao gồm
tiếng nói, chữ viết, tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, ngữ
văn truyền miệng, diễn xướng dân gian, lối sống, nếp sống, lễ hội,
bí quyết về nghề thủ công truyền thống, tri thức về y, dược học cổ
truyền, về văn hóa ẩm thực, về trang phục truyền thống dân tộc và
những tri thức dân gian khác [29, tr. 9].
Sau đó, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật di sản văn hóa năm
2009 đã sửa đổi, bổ sung khái niệm và khái quát cơ đọng hơn về di sản văn
hóa phi vật thể: "Là sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng hoặc cá nhân, vật
thể và khơng gian văn hóa liên quan, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, thể
hiện bản sắc của cộng đồng, không ngừng được tái tạo và được lưu truyền từ
thế hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng, truyền nghề và các hình thức
khác" [29, tr.43].
Khái niệm di sản văn hóa phi vật thể cũng đã được UNESCO nêu trong
Công ước quốc tế về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể tại phiên họp lần thứ
32 ở Paris (năm 2003):
Di sản văn hóa phi vật thể được hiểu là các tập quán, các hình thức
thể hiện, biểu đạt, tri thức, kỹ năng và kèm theo đó là những cơng
cụ, đồ vật, đồ tạo tác và các khơng gian văn hóa có liên quan mà
các cộng đồng, các nhóm và trong một số trường hợp là các cá
nhân, công nhận là một phần di sản văn hóa của họ. Được chuyển
15
giao từ thế hệ này sang thế hệ khác, di sản văn hóa phi vật thể được
các cộng đồng và các nhóm khơng ngừng tái tạo để thích nghi với
mơi trường và mối quan hệ qua lại giữa cộng đồng với tự nhiên và
lịch sử của họ, đồng thời hình thành trong họ một ý thức về bản sắc
và sự kế tục, qua đó khích lệ thêm sự tơn trọng đối với sự đa dạng
văn hóa và tính sáng tạo của con người.
Di sản văn hóa phi vật thể đơi khi khơng thể nhìn thấy bằng mắt, sờ
được bằng tay, nhưng dưới những hình thức tồn tại khác nhau chúng vẫn
được gìn giữ và trao truyền qua các thế hệ. Trong luận văn này, di sản văn
hóa phi vật thể chủ yếu được đề cập đến ở khía cạnh lễ hội truyền thống diễn
ra tại di tích. Giáo trình Quản lý lễ hội và sự kiện (2010), các tác giả đã trình
bày khái niệm lễ hội trích từ "Từ điển bách khoa Việt Nam " (2005):
Lễ là hệ thống các hành vi, động tác nhằm biểu hiện lịng tơn kính
của con người đối với thần linh, phản ánh những ước mơ chính
đáng của con người trước cuộc sống mà bản thân họ chưa có khả
năng thực hiện. Hội là sinh hoạt văn hóa, tơn giáo, nghệ thuật của
cộng đồng, xuất phát từ nhu cầu của cuộc sống, từ sự tồn tại và phát
triển của cộng đồng, sự bình yên cho từng cá nhân, hạnh phúc cho
từng gia đình, sự vững mạnh cho từng dịng họ, sự sinh sơi nảy nở
của gia súc, sự bội thu của mùa màng, mà từ bao đời nay quy tụ
niềm mơ ước chung vào bốn chữ "nhân khang, vật thịnh". Lễ hội là
hoạt động của một tập thể người, liên quan đến tín ngưỡng và tôn
giáo. Do nhận thức, người xưa rất tin vào trời đất, sơng núi, vì thế ở
các làng, xã, thường có miếu thờ thiên thần, thổ thần, thủy thần, sơn
thần, lễ hội cổ truyền đã phản ánh hiện tượng đó. Tơn giáo có ảnh
hưởng đáng kể đối với lễ hội. Tơn giáo thông qua lễ hội làm
16
phương tiện phô trương thanh thế, ngược lại lễ hội thơng qua tơn
giáo để thần linh hóa những gì trần tục [14, tr.14].
1.1.1.4. Bảo tồn di sản văn hóa
Theo sách Đại từ điển tiếng Việt, bảo tồn là: Giữ nguyên trạng, không
để mất đi [47, tr.101]. Trong điều kiện tự nhiên, khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa
nước ta và những biến cố lịch sử, những cuộc chiến tranh kéo dài là những tác
nhân gậy hại rất lớn đối với các di sản văn hóa. Bảo tồn di sản văn hóa là
nghiên cứu xác định những giá trị tiêu biểu của di sản về lịch sử, văn hóa,
khoa học, thẩm mỹ. Sau đó tìm kiếm giải pháp để áp dụng phù hợp cho việc
gìn giữ lâu dài và khai thác sử dụng có hiệu quả nhằm phục vụ phát triển kinh
tế, văn hóa và xã hội.
Trong hoạt động bảo tồn di sản văn hóa, bảo tồn di tích là một trong
những hoạt động đã và đang được quan tâm và thực hiện trong nhiều năm
qua. Bảo tồn di tích là những hoạt động bảo quản kết cấu một địa điểm, cơng
trình xây dựng ở hiện trạng và kìm hãm sự xuống cấp của di tích, có những
hoạt động chun mơn nhằm gìn giữ, phát huy giá trị của di tích [12, tr.8].
Cơng tác bảo tồn di tích khơng thể thiếu các hoạt động bảo quản, tu bổ
và phục hồi di tích. Tại Điều 4 của Luật Di sản văn hóa đã xác định: Bảo quản
di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia
là hoạt động nhằm phòng ngừa và hạn chế những nguy cơ làm hư hỏng mà
không làm thay đổi những yếu tố nguyên gốc vốn có của di tích lịch sử - văn
hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia [29, tr.10].
Hiến chương Burra của ICOMMOS (1979) họp tại Australia nhận định:
Bảo quản là chăm nom, bảo vệ thường xuyên kết cấu và khung cảnh một địa
điểm, cần phân biệt với sửa sang. Sửa sang bao hàm trùng tu hoặc phục dựng
[12, tr.117]. Như vậy, hoạt động bảo quản di tích nhằm phịng ngừa và hạn chế
17
những nguy cơ làm hủy hoại di tích, đồng thời không làm thay đổi những yếu
tố nguyên gốc của di tích.
Tu bổ cũng là một hoạt động quan trọng và không thể thiếu trong công
tác bảo tồn di sản văn hóa. Là một thuật ngữ thường được dùng trong những
năm gần đây. Tu bổ di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh là hoạt
động nhằm tu sửa, gia cố, tơn tạo di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng
cảnh [29, tr.10].
Tu bổ di tích cũng có thể hiểu là hoạt động sửa chữa về kỹ thuật, điều
chỉnh sự biến dạng, khắc phục những hư hỏng của di tích như chắp vá, nối,
gia cố, định hình [12, tr.118]. Cơng tác tu bổ di tích là hoạt động đòi hỏi sự
phối hợp của nhiều ngành, nhiều chuyên gia trong các lĩnh vực khác nhau
như: Sử học, hóa học, kiến trúc xây dựng, khảo cổ học... và các nghệ nhân để
những di sản văn hóa được bảo tồn với thành quả tốt nhất, nhằm gìn giữ cho
các thế hệ mai sau.
Phục hồi di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh là hoạt động
nhằm phục dựng lại di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh đã bị hủy
hoại trên cơ sở các cứ liệu khoa học về di tích lịch sử - văn hóa, danh lam
thắng cảnh đó [29, tr.10]. Trong đó, phục hồi được chia thành hai cấp độ là
phục hồi từng phần với những hạng mục, bộ phận riêng lẻ bị hư hỏng và phục
hồi toàn phần khi toàn bộ kết cấu cơng trình hoặc bộ phận cơ bản bị hư hỏng.
1.1.2. Lý luận về phát huy giá trị di sản văn hóa
Phát huy giá trị di sản văn hóa là một hoạt động nhằm khai thác những
giá trị của di sản để phục vụ và đáp ứng nhu cầu của xã hội, góp phần phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước; đồng thời góp phần nâng cao ý thức trách
nhiệm của nhân dân đối với việc bảo vệ di sản văn hóa dân tộc. Phát huy: làm
cho cái hay, cái tốt nhân thêm tác dụng, thúc đẩy tiếp tục nảy nở nhiều hơn
18
[47, tr.1321]. Phát huy cũng có thể hiểu là tập trung sự chú ý của cơng chúng
một cách tích cực tới các mặt giá trị của di sản văn hóa [12, tr.184].
Như vậy, phát huy giá trị di sản văn hóa gồm các hoạt động: Tham
quan tại di tích, quảng bá di tích trên các phương tiện truyền thơng đại chúng,
xuất bản các ấn phẩm giới thiệu di tích, đưa di tích đến với ngành cơng
nghiệp du lịch.
1.1.3. Khái niệm quản lý, quản lý Nhà nước về di sản văn hóa
Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa cũng chính là cơng tác quản
lý di sản văn hóa. Theo nghĩa thơng thường trong tiếng Việt, thuật ngữ “Quản
lý” được hiểu là trông nom, sắp đặt công việc hoặc gìn giữ, trơng nom, theo
dõi. Cụ thể, quản lý có hai nghĩa là: 1. Tổ chức, điều khiển hoạt động của một
số đơn vị, một cơ quan; 2. Trông coi, giữ gìn và theo dõi việc gì [47, tr.1363].
Trong bộ "Tư Bản", C.Mác cũng đã nhận định: Quản lý là một chức
năng đặc biệt nảy sinh từ bản chất xã hội của quá trình lao động. Mỗi ngành
khoa học nghiên cứu về quản lý từ một góc độ riêng và đưa ra định nghĩa
riêng về quản lý. Mai Hữu Khuê (2003) đã nêu trong cuốn Lý luận quản lý
nhà nước: Quản lý là hoạt động nhằm tác động có tổ chức của một chủ thể
vào một đối tượng nhất định để điều chỉnh các quá trình xã hội và các hành vi
con người, nhằm duy trì sự ổn định và sự phát triển của đối tượng theo những
mục đích nhất định [14, tr.19]. Đây có thể là khái niệm có ý nghĩa thơng
thường và phổ biến nhất về quản lý.
Từ đó, suy rộng ra có thể hiểu quản lý di sản văn hóa là một q trình
theo dõi, định hướng và điều tiết quá trình tồn tại và phát triển của các di sản
văn hóa trên một địa bàn cụ thể nhằm bảo tồn và phát huy tốt nhất giá trị của
chúng; đem lại lợi ích to lớn, nhiều mặt, lâu dài cho cộng đồng dân cư chủ
nhân của các di sản văn hóa đó [25, tr.56].
19
Di sản văn hóa là chiếc cầu nối giữa quá khứ với hiện tại, là mạch
nguồn truyền thống dân tộc chảy trong lòng các thế hệ con người Việt Nam
và tiếp nối qua các giai đoạn lịch sử, khiến cho di sản văn hóa biến đổi khơng
ngừng trong cuộc sống. Chúng tồn tại và thường xuyên được bồi đắp, tiếp
biến. Cho nên, chúng có ý nghĩa to lớn và có giá trị đặc biệt đối với lịch sử
dân tộc, chúng phản ánh những giai đoạn lịch sử mà chúng đã đi qua. Điều đó
khiến cho cơng tác quản lý di sản văn hóa là một nhiệm vụ khó khăn và có
tính cấp thiết trong đời sống kinh tế - xã hội.
1.1.4. Luật Di sản văn hóa và một số văn bản hướng dẫn thi hành
Pháp luật là công cụ, phương tiện để Nhà nước quản lý và điều chỉnh
các mối quan hệ xã hội. Nó ra đời và phát triển cùng với sự ra đời của Nhà
nước. Trong quản lý xã hội, bất kỳ một lĩnh vực nào cũng cần đến pháp luật
và quản lý di sản văn hóa khơng nằm ngồi quy định đó. Như đã nêu ở trên,
cơng tác quản lý di sản văn hóa là một nhiệm vụ khơng đơn giản và nhiều khi
phải có những chế tài cụ thể để thực hiện.
Để nâng cao hơn nữa công tác quản lý di sản trong thời kỳ hội nhập,
Luật Di sản văn hóa được Quốc hội thơng qua trong kỳ họp thứ 9, Quốc hội
khóa X năm 2001. Luật gồm 7 chương với 74 điều, trong đó quy định rõ nội
dung quản lý nhà nước về di sản văn hóa, phân định trách nhiệm các cấp đối
với việc quản lý di sản văn hóa. Ngày 11/11/2002, Chính phủ đã ban hành
Nghị định số 92/2002/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật
Di sản văn hóa. Năm 2009, Luật Di sản văn hóa được sửa đổi và bổ sung để
hoàn thiện, nâng cao những vấn đề đã được quy định trong các văn bản pháp
quy pháp luật trước đây cho phù hợp với thực tiễn và thơng lệ quốc tế. Ngày
01/01/2010, Luật Di sản văn hóa sửa đổi bổ sung có hiệu lực pháp lý và được
20
thi hành. Ngày 21/9/2010, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 98/2010/NĐCP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Di sản văn hóa.
Luật Di sản văn hóa và các Nghị định hướng dẫn thi hành đã cụ thể hóa
đường lối, chính sách pháp luật, thể hiện tư duy đổi mới của Đảng và Nhà
nước ta. Đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi trong việc dân chủ hóa và xã hội
hóa các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa. Trong đó, Điều
54 và 55 nằm trong Nội dung quản lý Nhà nước và cơ quan quản lý Nhà nước
về di sản văn hóa quy định cụ thể:
Điều 54: Nội dung quản lý Nhà nước về di sản văn hóa bao gồm:
1. Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch,
chính sách phát triển sự nghiệp bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá; 2.
Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về di sản
văn hoá; 3. Tổ chức, chỉ đạo các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản
văn hoá; tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về di sản văn hoá; 4.
Tổ chức, quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học; đào tạo, bồi dưỡng đội
ngũ cán bộ chuyên môn về di sản văn hoá; 5. Huy động, quản lý, sử dụng
các nguồn lực để bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá; 6. Tổ chức, chỉ
đạo khen thưởng trong việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá; 7. Tổ
chức và quản lý hợp tác quốc tế về bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn
hoá; 8. Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật, giải quyết khiếu nại,
tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về di sản văn hoá [29, tr.34-35].
Điều 55: 1. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về di sản văn hóa;
2. Bộ Văn hóa - Thơng tin chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản
lý nhà nước về di sản văn hóa; 3. Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc
Chính phủ có trách nhiệm quản lý nhà nước về di sản văn hóa theo phân cơng
của Chính phủ. Chính phủ quy định cụ thể trách nhiệm của các bộ, cơ quan
21
ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trong việc phối hợp với Bộ Văn hóa Thơng tin để thực hiện thống nhất quản lý nhà nước về di sản văn hóa; 4. Ủy
ban Nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ và quyền hạn của mình thực
hiện việc quản lý nhà nước về di sản văn hóa ở địa phương theo phân cấp của
Chính phủ [29, tr.35-36].
Như vậy, trên phương diện quản lý nhà nước, Luật di sản văn hóa là
văn bản pháp quy của Nhà nước chính thức ban hành nhằm bảo tồn và phát
huy giá trị di sản văn hóa. Theo đó, tất cả các cấp quản lý, các tổ chức xã hội
và cá nhân đều có quyền và có trách nhiệm thực hiệu theo những điều mà luật
đã đề ra. Vấn đề hiện nay là làm sao để Luật di sản văn hóa đi vào cộng đồng
dân cư để từng cá nhân, tổ chức hiểu biết pháp luật nhằm thực hiện tốt quyền
và nghĩa vụ của mình góp phần bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa.
1.2. LƯỢC SỬ HÌNH THÀNH VÙNG ĐẤT KHÁNH HỊA
1.2.1. Một trong những cội nguồn của văn hóa Sa Huỳnh
Khánh Hòa là vùng đất cổ, địa bàn cư trú của cư dân bản địa từ thời kỳ
tiền – sơ sử cho đến ngày nay. Các nhà khoa học đã khẳng định Khánh Hòa là
vùng đất cư trú của những cư dân bản địa thuộc nền văn hóa tiền Sa Huỳnh,
tồn tại trong khoảng thiên niên kỷ II trước Cơng ngun. Điều đó đã được
minh chứng qua các kết quả khảo cổ học như: Di chỉ Xóm Cồn (phường Cam
Linh, thành phố Cam Ranh), di chỉ Bích Đầm (phường Vĩnh Nguyên, thành
phố Nha Trang)… Văn hóa Xóm Cồn thuộc thời đại sơ kỳ kim khí là một
trong những cội nguồn văn hóa Sa Huỳnh - sơ kỳ Chămpa, là chiếc cầu nối
văn hóa giữa lưu vực sơng Đồng Nai với khu vực miền Trung và Tây Nguyên
[45, tr. 451]. Nền văn hóa Sa Huỳnh khơng những ở ven biển Trung bộ mà đã
lên đến Tây Nguyên. Làn sóng cư dân Nam Đảo đã từng tràn lên cao nguyên
đất đỏ mà dấu vết rõ nhất là chế độ mẫu hệ ở người Êđê, Cơ Ho. Có thể đây là
22
tiền đề của việc một số người dân Tây Nguyên hàng năm vẫn hành hương về
dự lễ Vía Bà vào tháng 3 Âm lịch tại di tích tháp Bà Pơ Nagar.
Tiếp đó, khảo cổ học đã phát hiện và khai quật di chỉ Hịa Diêm (xã
Cam Phước Đơng, thành phố Cam Ranh), di chỉ Diên Sơn (xã Diên Sơn,
huyện Diên Khánh) thuộc thời đại đồ sắt càng khẳng định sự xuất hiện của
văn hóa Sa Huỳnh ở Khánh Hịa, có niên đại cách ngày nay khoảng 3.500 3.000 năm. Đặc trưng của văn hóa Sa Huỳnh là các hiện vật đồ gốm, đồ trang
sức, mộ chum... Những thành quả đó của cư dân cổ thuộc nền văn hóa Sa
Huỳnh đã góp phần tạo nên vùng đất Khánh Hịa sau này, mà trực tiếp là góp
phần quan trọng trong việc hình thành và phát triển vương quốc Chămpa nói
chung và vùng đất Kauthara nói riêng. Thậm chí có nhà khoa học cịn nhận
định rằng: "Văn hóa Chămpa nảy sinh từ văn hóa Sa Huỳnh, người Chămpa
cổ là con cháu người Sa Huỳnh cổ" [15, tr. 43].
1.2.2. Vùng đất Kauthara
Bia cổ Võ Cạnh (xã Vĩnh Trung, thành phố Nha Trang) và sự hiện hữu
của di tích tháp Bà Pơ Nagar Nha Trang… đã minh chứng một thời kỳ phát
triển lâu dài của Vương quốc Chămpa trên vùng đất Khánh Hòa. Người Chăm
ở Khánh Hòa và những người Chăm ở miền Trung (sinh sống từ Quảng Bình
đến Bình Thuận ngày nay) đã xây dựng nên một nền văn hóa Chămpa rực rỡ
từ thế kỷ thứ II đến thế kỷ XV. Họ sinh sống chủ yếu ở những vùng đồng
bằng nhỏ hẹp ven biển và cửa sơng. Chính dãy núi Trường Sơn ở phía tây
chạy ra đến tận bờ biển Đông tạo thành các đèo "Một đèo, một đèo, lại một
đèo" và làm cho đồng bằng duyên hải miền Trung bị chia cắt nhỏ hẹp. Điều
kiện tự nhiên có thể là yếu tố góp phần chia cắt vùng duyên hải này thành các
tiểu vùng địa lý dưới các vương triều Chămpa và vùng đất Kauthara chỉ là
một trong năm tiểu vùng đó.
23
Tiểu vùng 1 gọi là Indrapura, gồm châu Địa Lý, châu Bố Chính, châu
Ma Linh, nay thuộc các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế. Tiểu
vùng 2 gọi là Amaravati, là trung tâm chính trị, văn hóa, nghệ thuật của
vương quốc Chămpa trong một thời gian dài và nay thuộc tỉnh Quảng Nam và
Quảng Ngãi. Tiểu vùng 3 gọi là Vijaya, là kinh đô của vương quốc Chămpa
từ thế kỷ XI - XV và nay thuộc tỉnh Phú Yên và Bình Định. Tiểu vùng 4
chính là Kauthara, tức là Khánh Hòa ngày nay. Tiểu vùng 5 gọi là
Panduranga, nay là tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận [35, tr.98]. Mỗi tiểu vùng
đều có những đặc điểm địa hình sơng núi, cửa biển đặc trưng của miền Trung
nên các thủ lĩnh địa phương đều dựa vào đó để thiết lập những tiểu quốc.
Nhà nước của người Chăm được hình thành trên cơ sở sát nhập các tiểu
quốc ở các tiểu vùng khác nhau. Trong đó, các tiểu quốc phía Nam có vai trị
chuyển tiếp những ảnh hưởng văn hóa Ấn Độ, họ thống nhất bằng một tâm
thức chung là tôn giáo. Xuất phát từ nhu cầu thực tế về tôn giáo, từ sự biểu
hiện quyền uy của triều đình là nguyên nhân xuất hiện các đền tháp Chămpa
(Kalan) và các đền tháp đã được chỉ đạo xây dựng theo tinh thần của đền tháp
Ấn Độ giáo [35, tr. 99]. Mỗi vị quốc chủ cũng ra sức xây dựng những đền tháp
để thờ các vị thần chủ. Chính vì vậy, dưới thời Chămpa trên dải đất miền
Trung đã xuất hiện rất nhiều đền tháp ở những địa điểm khác nhau và có sự
đa dạng phong phú về kiến trúc, nghệ thuật, điêu khắc. Một trong những di
sản của giai đoạn lịch sử này được xây dựng ở Kauthara, được trao truyền đến
hôm nay là tháp Bà Pô Nagar, một thánh đô ở phương Nam, một kiệt tác
trong nghệ thuật kiến trúc đền tháp và nghệ thuật điêu khắc của văn hóa
Chămpa.
1.2.3. Dinh Thái Khang
Có thể nhiều người nghĩ trong q trình nam tiến, mỗi lần mở rộng
phạm vi quốc gia Đại Việt, người Việt tiến sâu về phương Nam thì người
24
Chăm càng co dần về tụ cư ở vùng đất thuộc Ninh Thuận, Bình Thuận ngày
nay. Thực ra, một bộ phận người Chăm vẫn bám trụ quê hương, cộng cư với
cộng đồng người Việt mới nhập cư và diễn ra q trình người Chăm đồng hóa
với người Việt [39, tr.277]. Điều đó được thể hiện rất rõ trên vùng đất
Kauthara. Người Việt chiến thắng về quân sự nhưng trong công cuộc chinh
phục vùng đất Kauthara lại bị văn hóa người Chăm chinh phục ngược trở lại
để rồi người Việt tiếp biến và dung nạp những yếu tố văn hóa bản địa tương
đồng với tâm thức và truyền thống văn hóa của mình.
Theo bước chân chúa Nguyễn vào Nam khai hoang lập ấp ở giữa thế kỷ
XVII, những cư dân mới của vùng đất Kauthara mang theo cả hoài bão tạo lập
nên cuộc sống sung túc. Có lẽ vì vậy, chúa Nguyễn Phúc Tần đặt tên cho
vùng đất này là dinh Thái Khang với ngụ ý mong muốn đây sẽ trở thành vùng
đất thái bình, thịnh vượng và cử cai cơ Hùng Lộc Hầu cai quản vùng đất mới.
Dinh Thái Khang gồm hai phủ Diên Ninh và Thái Khang với năm huyện:
Phước Điền, Hoa Châu, Vĩnh Xương thuộc phủ Diên Ninh và Tân Định,
Quảng Đức thuộc phủ Thái Khang. Thủ phủ của dinh Thái Khang đặt ở phủ
Quảng Đức (nay là thị xã Ninh Hòa) [13, tr.69].
1.2.4. Tỉnh Khánh Hòa
Tỉnh Khánh Hòa được thành lập năm 1832, dưới triều vua Minh Mệnh.
Sau mấy lần dinh Thái Khang được đổi tên gọi, đến năm 1832 vua Minh
Mệnh ban chiếu đổi các trấn thành tỉnh nên trấn Bình Hịa được đổi thành tỉnh
Khánh Hòa. Đây là giai đoạn nước ta trải qua nhiều biến động lịch sử. Chỉ có
80 năm dưới thời Nguyễn, từ đời vua Gia Long (1802 - 1819) đến cuối đời Tự
Đức (1847 - 1883), nhân dân có cuộc sống thái bình thịnh trị, được yên ổn
làm ăn. Sau khi thực dân Pháp chiếm lục tỉnh Nam kỳ, nhân dân Khánh Hòa
cũng như người dân cả nước bước vào thời kỳ những cuộc chiến tranh kéo dài
25
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Đến mùa Xuân năm 1975,
bằng chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đất nước ta được hoàn toàn thống nhất
và từ đó nhân dân Khánh Hịa cùng cả nước có cuộc sống hịa bình và độc lập
dân tộc.
Ngày 30 tháng 6 năm 1989, Khánh Hòa tái lập tỉnh, được tách từ tỉnh
Phú Khánh thành hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa. Ngày nay, Khánh Hòa là
một tỉnh thuộc duyên hải Nam Trung Bộ, có chiều nghiêng theo hướng tây –
đơng, nằm trong khoảng vĩ độ từ 12052’15” bắc đến 11042’50” bắc và kinh độ
108040’33” đơng đến 109027’55” đơng. Khánh Hịa giáp với bốn tỉnh, gồm:
Phía bắc giáp tỉnh Phú Yên, nam giáp tỉnh Ninh Thuận, tây giáp tỉnh Đắc Lắc
và Lâm Đồng. Riêng phía đơng giáp biển Đơng, với bờ biển dài 385km,
quanh co và khúc khuỷu. Điểm cực Đông trên đất liền của Khánh Hịa nằm tại
mũi Hịn Đơi trên bán đảo Hòn Gốm, thuộc xã Vạn Thạnh, huyện Vạn Ninh
và cũng là điểm cực đông trên đất liền của nước ta [PL, tr.133].
Tỉnh Khánh Hòa trở thành tỉnh trực thuộc Trung ương, với chín đơn vị
hành chính, trong đó có 02 thành phố và 01 thị xã, gồm: Thành phố Nha
Trang, thành phố Cam Ranh, thị xã Ninh Hòa, huyện Vạn Ninh, huyện Diên
Khánh, huyện Cam Lâm, huyện Khánh Vĩnh, huyện Khánh Sơn và huyện
Trường Sa. Theo kết quả điều tra dân số năm 2009, dân số của tỉnh là
1.156.903 người; mật độ dân số trung bình 222 người/km2, phân bố đều khắp
các huyện, thị và thành phố, nhưng tập trung đông nhất là các vùng đồng
bằng, thành phố, thị xã, thị trấn. Thành phố Nha Trang tập trung đông dân cư
nhất, với 361.454 người, chiếm 31.24% dân số toàn tỉnh.
Cũng theo kết quả điều tra ở trên, Cục Thống kê Khánh Hịa đã cơng bố
trên địa bàn tỉnh có 293.280 người có tín ngưỡng, tơn giáo, chiếm 28,7% dân
số. Trong đó, nhiều nhất là Phật giáo 180.503 người, chiếm 17,6%; Công giáo