1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HĨA HÀ NỘI
NƠNG THỊ MINH PHƯƠNG
VĂN HĨA CÀ PHÊ CỦA NGƯỜI DÂN
THÀNH PHỐ BN MA THUỘT
Chuyên ngành: Văn hóa học
Mã số
: 60 31 70
LUẬN VĂN THẠC SỸ VĂN HÓA HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. LÊ HỒNG LÝ
HÀ NỘI - 2011
2
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
3
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT VÀ
ĐẶC ĐIỂM CÀ PHÊ Ở NƠI ĐÂY
9
1.1. TỔNG QUAN VỀ THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT
9
1.2. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CÂY CÀ PHÊ Ở BUÔN MA THUỘT
21
1.3. ĐẶC ĐIỂM CỦA CÀ PHÊ BUÔN MA THUỘT
35
Tiểu kết
47
Chương 2: SINH HOẠT CÀ PHÊ CỦA NGƯỜI DÂN
Ở THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT
48
2.1. VĂN HÓA VÀ VĂN HÓA CÀ PHÊ
48
2.2. CÁC QUÁN CÀ PHÊ VÀ MỘT SỐ THƯƠNG HIỆU CÀ PHÊ NỔI
TIẾNG Ở THÀNH PHỐ BUÔN MA THUẬT
52
2.3. THỰC TRẠNG SINH HOẠT VĂN HĨA CÀ PHÊ CỦA NGƯỜI DÂN
Ở THÀNH PHỐ BN MA THUỘT
75
2.4. MỘT SƠ SINH HOẠT VĂN HĨA TIÊU BIỂU TẠI QUÁN CÀ PHÊ
82
Tiểu kết
84
Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG VĂN HÓA
CÀ PHÊ TRONG ĐỜI SỐNG CƯ DÂN THÀNH PHỐ BN MA
THUỘT HIỆN NAY
86
3.1. VAI TRỊ CỦA SINH HOẠT VĂN HÓA CÀ PHÊ TRONG ĐỜI SỐNG
CỦA NGƯỜI DÂN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT
86
3.2. NHỮNG ƯU ĐIỂM VÀ HẠN CHẾ
88
3.3. NHỮNG CĂN CỨ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP
92
3.4. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG SINH HOẠT VĂN
HÓA CÀ PHÊ
96
Tiểu kết
104
KẾT LUẬN
106
TÀI LIỆU THAM KHẢO
110
3
115
PHỤ LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
TT
Viết tắt
Nội dung
1
BVHTTDL
Bộ văn hóa, Thể thao cà Du lịch
2
[35, tr.15]
Tài liệu tham khảo số 35, trang 15
3
DTH
Dân tộc học
4
HTX
Hợp tác xã
5
KHKT
Khoa học kĩ thuật
6
KHXH
Khoa học xã hội
7
Nxb
Nhà xuất bản
8
PGS
Phó giáo sư
9
PL
Phụ lục
10
[PL. H1, tr.111]
Phụ lục, hình 1, trang 111
11
Tour
Chương trình du lịch
12
UNESCO
United Nations Educational, Scientific
and Cultural Organisation
13
Tr
Trang
14
VHDT
Văn hóa dân tộc
15
VHTT
Văn hóa thơng tin
16
Website
Trang mạng
4
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Từ xưa, ăn uống là một nhu cầu không thể thiếu trong cuộc sống
của con người. Nhưng rồi cùng với diễn trình lịch sử, việc ăn cái gì, uống cái
gì? Ăn với ai? Uống với ai? Ăn như thế nào? Uống như thế nào đã trở thành
nghệ thuật, một nét văn hóa đặc sắc và mang những đặc trưng riêng.
Vì vậy, vượt ra ngoài phạm vi để đảm bảo sự sinh tồn, cung cấp dinh
dưỡng cho cơ thể người, ăn uống còn là một bộ phận thiết yếu cấu thành nên
bản sắc dân tộc, là một trong những lĩnh vực thể hiện đặc trưng của một dân
tộc, một cộng đồng, một khu vực, một địa phương. Trong cơng trình nghiên
cứu của mình, Giáo sư Trần Ngọc Thêm đã khẳng định: “Ăn uống là văn hóa,
nói chính xác hơn, đó là văn hóa tận dụng mơi trường tự nhiên”.
Văn hóa ẩm thực bao gồm cả văn hóa ăn và văn hóa uống. Cùng với các món
ăn ngon và nổi tiếng khắp các vùng miền trên lãnh thổ Việt Nam thì các thức uống
cũng chiếm một vị trí quan trọng trong văn hóa ẩm thực Việt Nam. Bên cạnh các
loại thức uống phổ biến như: rượu, trà, các loại chè ngọt… cịn có cả cà phê.
1.2. Việt Nam là một nước xuất khẩu cà phê, do đó nhiều loại cà phê
được sử dụng ngày càng thịnh hành trong ẩm thực của người Việt Nam, tại
khắp các vùng miền. Nói đến cà phê ở Việt Nam, người ta sẽ nghĩ ngay đến
Buôn Ma Thuột - “xứ sở cà phê của Việt Nam”.
Cà phê Buôn Ma Thuột là một trong những thương hiệu nổi tiếng của cà
phê Việt Nam, được trồng trên cao nguyên Buôn Ma Thuột, một cao nguyên
thuộc vùng Tây Nguyên Việt Nam.
5
Ðến với Đắc Lắc, cảm nhận đầu tiên và dễ thấy nhất của mỗi người đó là sự
hiện diện của hàng trăm quán cà phê với đủ mọi phong cách kiến trúc và những
đồi cà phê xanh bạt ngàn trên khắp mọi nẻo đường vùng đất đỏ bazan trù phú
này. Và bất cứ du khách trong nước hay quốc tế nào dù chỉ một lần đến đây cũng
đều nhớ nằm lịng câu nói nổi tiếng của người Tây Ngun, đó là: “Đến Đắc Lắc
mà khơng uống cà phê thì coi như chưa từng đến vùng đất được mệnh danh là
thủ phủ cà phê Việt Nam”.
Cao nguyên Buôn Ma Thuột không chỉ là nơi cây cà phê phát triển tốt mà
còn tạo nên hạt cà phê chất lượng cao, hương vị khác biệt so với nhiều vùng đất
khác trên thế giới. Cà phê Buôn Ma Thuột nức tiếng thơm ngon và từ trước đến
nay được coi là đặc sản của cao nguyên này. Người đi xa không quên mang theo
cà phê để làm quà tặng, kẻ đến đây không bao giờ bỏ qua cơ họi thưởng thức ly
cà phê mỗi sớm. Cứ thế yếu tố văn hóa chứa đựng trong thức uống hàng ngày
kia được vun bồi và nảy nở. Đầu tiên là trong những quán bình dân, tiếp đến là
những thương hiệu chế biến, rang xay cà phê nổi tiếng, đáp ứng nhu cầu của mọi
người với những sở thích, phong cách khác nhau.
1.3. Ở Đắc Lắc, một số vấn đề liên quan đến cà phê đã trở thành bản sắc văn
hóa, như việc mời đi uống cà phê đã là một nét văn hóa rất đặc trưng của vùng này. Ở
Buôn Ma Thuột không chỉ việc trồng cây cà phê là phổ biến mà việc uống cà phê
cũng trở nên quen thuộc với hầu hết người dân nơi đây như nhu cầu ăn cơm, uống
nước, tạo nên nét văn hóa riêng ở nơi đây, văn hóa cà phê.
Uống cà phê là cái thú và cũng là một nét văn hóa khơng thể thiếu của người dân
thành phố Bn Ma Thuột. Thật tuyệt khi được ngồi cùng với những người thân yêu,
bạn bè cùng nhau nhâm nhi ly cà phê đá mát lạnh ngày hè hay vào những đêm đôngg rét
mướt được thưởng thức ly cà phê nóng ấm trong một qn cóc ven đường ngồi nhìn
dịng người xi ngược hay ngồi trong những quán cà phê sang trọng, không gian êm
đềm, xinh xắn và ấm cúng để thưởng thức âm nhạc với những giai điệu lúc trữ tình êm
6
dịu, lúc sôi động trẻ trung. Thưởng thức cà phê đã trở thành cái thú của những người dân
thành phố Bn Ma Thuột và cái thú ấy là thói quen của hầu hết người dân nơi đây.
Với đa số người dân nơi đây, đi uống cà phê là những khoảnh khắc
được thư giãn, giải trí, được nghỉ ngơi, lấy lại tinh thần sảng khoái sau
những căng thẳng mệt mỏi. Chỉ với ly cà phê, đĩa hạt dưa là có thể tạo nên
những cuộc hội ngộ. Chính vì vậy qn cà phê đã trở thành điểm hẹn, nơi
giao lưu, hôi tụ đủ phong cách.
Vậy, văn hóa cà phê ở thành phố Buôn Ma Thuột đã được khai thác như
thế nào và việc giới thiệu nét văn hóa này của người dân thành phố Buôn Ma
Thuột đến với bạn bè gần xa đã được thực hiện như thế nào, và vị thế của nó
đã thực sự được khẳng định trong chiến lược phát triển du lịch hay chưa?
Làm thế nào để góp phần thiết thực trong việc phát huy và giới thiệu một giá
trị văn hóa đặc sắc nơi đây đến với khách du lịch và bạn bè gần xa.
Để tìm hiểu rõ và giải đáp những vấn đề trên, tôi đã chọn đề tài: “Văn hóa cà
phê của người dân thành phố Buôn Ma Thuột” làm nội dung nghiên cứu của bài
luận văn tốt nghiệp ở bậc cao học.
2. Tình hình nghiên cứu
Ở Việt Nam, những nghiên cứu về văn hóa ẩm thực nói chung, cà phê
nói riêng đã được nhiều học giả nghiên cứu trong những năm gần đây, những
công trình nghiên cứu đó đã phần nào đi sâu vào những khía cạnh của văn hóa
ẩm thực và trong đó có đề cập đến văn hóa cà phê. Điều đó được thể hiện
thông qua một số nghiên cứu như sau:
- Luận án tiến sĩ ngành dân tộc học; Luận văn tốt nghiệp thạc sĩ, cử nhân các
nghành Dân tộc học, Văn hóa dân gian, Văn hóa học, Văn hóa du lịch,…
- Một số tạp chí khoa học như: Dân tộc học, Văn hóa nghệ thuật, Văn hóa dân
gian, Văn hóa nghệ thuật ăn uống, Bếp Việt,…
7
- Những báo cáo khoa học của hội thảo văn hóa ẩm thực; những cuốn sách dạy
nấu ăn, cách pha chế các loại đồ uống và một số bài báo in trên báo như: Hà Nội mới,
Nhân Dân, Văn hóa, Khoa học đời sống, báo sức khỏe,...
- Các trang web, diễn đàn điện tử được các tác giả là các cộng tác viên, phóng
viên của trung ương và địa phương đã giới thiệu về cây cà phê và văn hóa cà phê của
vùng đất đỏ ba ran này.
Nhìn chung, văn hóa cà phê ở thành phố Bn Ma Thuột đã được các
tác giả trong và ngoài nước quan tâm, nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác
nhau, nhưng chủ yếu chỉ dừng lại ở việc giới thiệu về một khía cạnh nào đó
của văn hóa cà phê. Nhìn lại tình hình nghiên cứu vấn đề, có thể thấy các
nghiên cứu về văn hóa cà phê ở thành phố Bn Ma Thuột và đóng góp của
chúng trong việc quảng bá hình ảnh văn hóa cà phê hầu như cịn tản mạn và
chưa có cơng trình nào nghiên cứu một cách cụ thể, chi tiết và sâu sắc. Bên
cạnh đó, là người con sinh ra và lớn lên trên vùng đất cao nguyên đại ngàn
này - nơi sinh trưởng và phát triển của cây cà phê đã làm nảy sinh trong tôi
một ý định nghiên cứu một cách toàn diện và sâu sắc về cây cà phê và văn
hóa thưởng thức cà phê tại q hương mình. Chính vì lẽ đó, tơi đã lựa chọn
đề tài “Văn hóa cà phê ở thành phố Bn Ma Thuột” làm cơng trình nghiên
cứu cho luận văn cao học của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích của đề tài: Tìm hiểu về những nét đặc sắc trong văn hóa cà phê ở
thành phố Bn Ma Thuột và đóng góp của nó trong đời sống xã hội của người dân
nơi đây. Từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm khai thác, giới thiệu nét văn hóa này
một cách có hiệu quả trong thời đại quốc tế hóa nền kinh tế hiện nay.
- Nhiệm vụ:
+ Nghiên cứu về thành phố Buôn Ma Thuột và cây cà phê nơi đây.
8
+ Nghiên cứu về văn hóa và văn hóa cà phê; những đặc trưng trong cách pha
chế, phục vụ và thưởng thức cà phê của người dân thành phố Buôn Ma Thuột.
+ Xem xét sinh hoạt văn hóa của các tầng lớp dân cư tại các tiệm quán cà phê và
các sinh hoạt văn hóa liên quan đến cà phê.
+ Đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng văn hóa cà phê trong đời sống
của người dân thành phố Buôn Ma Thuột.
4. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Tìm hiểu các hoạt động của các tiệm quán cà
phê và sinh hoạt văn hóa ở thành phố Buôn Ma Thuột, bao gồm: cách pha chế cà phê,
cách phục vụ cà phê, không gian thưởng thức cà phê, đối tượng thưởng thức cà phê,…
- Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu các sinh hoạt văn hóa cà phê
ở thành phố Bn Ma Thuột qua nghiên cứu tại các quán cà phê.
- Địa bàn khảo sát: Thành phố Buôn Ma Thuột, tập trung vào địa bàn nội thành
thành phố Buôn Ma Thuột, mà cụ thể là tại một số tiệm quán cà phê nổi tiếng ở thành
phố Buôn Ma Thuột.
5. Phương pháp nghiên cu
- Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để xem xét, đánh giá khách
quan và chân thùc vỊ văn hóa cà phê ở Bn Ma Thuột.
- Phương pháp liên ngành Văn hoá học nh: Lịch sử hc, Dân tộc học, XÃ hội học...
- Phương pháp khảo sát điền dÃ: quan sát, khảo tả, chụp ảnh, phỏng vấn sõu
khỏch hng v ch tim
- Phương pháp thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp tư liệu từ sách, báo, tạp chí
6. úng gúp ca lun vn
- Lun vn là cơng trình đầu tiên nghiên cứu về nét đặc sắc trong văn hóa cà phê
của người dân thành phố Bn Ma Thuột và đóng góp của nó trong việc phát triển
kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương.
9
- Kết quả nghiên cứu của luận văn là một trong những tài liệu hữu ích cho các
doanh nghiệp kinh doanh cà phê, kinh doanh du lịch ở thành phố Buôn Ma Thuột.
Đây cũng là tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy với sinh viên chuyên nghành Văn
hóa du lịch, quản trị nhà hàng, khách sạn tham khảo.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn được chia
làm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về thành phố Buôn Ma Thuột và đặc điểm cà
phê ở nơi đây
Chương 2: Sinh hoạt cà phê của người dân ở thành phố Buôn Ma Thuột
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng văn hóa cà phê trong đời sống cư
dân thành phố Bn Ma Thuột hiện nay
10
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT
VÀ ĐẶC ĐIỂM CÀ PHÊ Ở NƠI ĐÂY
1.1. TỔNG QUAN VỀ THÀNH PHỐ BN MA THUỘT
1.1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên Đắc Lắc
Đắc Lắc nằm ở trung tâm của 5 tỉnh Tây Nguyên, tọa độ 107030- 109000 kinh
Đông, 12015- 13030 vĩ bắc, diện tích tự nhiên 13.085km2, phía bắc giáp tỉnh Gia Lai,
phía nam giáp hai tỉnh Đắc Nơng và Lâm Đồng, phía tây giáp nước Cộng hịa nhân
dân Campuchia, phía đơng giáp miền núi hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa. Với hệ
thống đường quốc lộ bao gồm đường 21 theo hướng đông tây nối đồng bằng Nam
Trung Bộ với thành phố Buôn Ma Thuột, đường 14 và đường 27 chạy theo hướng
Bắc - Nam và Đông Bắc - Tây Nam, nối thủ phủ Buôn Ma Thuột với các tỉnh Tây
Nguyên và Đông Nam Bộ, Đắc Lắc có điều kiện thuận lợi để giao lưu với các đơ thị
lớn trong vùng và trong nước. Địa hình Đắc Lắc có đặc trưng nổi bật là sự tồn tại mờ
nhạt của vùng trũng giữa núi và sự hiện diện đậm nét của các cao nguyên, bình
nguyên bên cạnh các sơn khối nhỏ. Địa hình núi chiếm diện tích khơng lớn, ở phía
tây và tây nam, bao gồm các dãy núi vừa và nhỏ có cao độ 500m đến trên 1000m như
các sơn khối Đan Sna Ta Đung, Tây Khánh Hịa, Bon Non, Chư Bơ Ra In.
Địa hình cao ngun chiếm diện tích chủ yếu, bao gồm hai cao nguyên chính
là Đắc Lắc ở phía Tây và Ma Đrắc ở phía Đơng, có bề mặt tương đối bằng phẳng,
thường là các đồi rộng liên tiếp, độ dốc 0 - 200. Địa hình bình ngun gồm huyện Ea
Sup ở phía tây bắc, có độ phẳng hầu như tuyệt đối, dốc dần từ đơng sang tây. Địa
hình trũng giữa núi chiếm diện tích khơng lớn, chủ yếu là vùng trũng Krơng Pách Lắc. Với sự hiện diện của các cao nguyên, bình nguyên, bình sơn, địa hình Đắc Lắc
nhìn chung tương đối bằng phẳng. Có thể gọi các cao ngun, bình ngun Đắc Lắc
là những đồng bằng trên núi.
11
Khí hậu ở Đắc Lắc thuộc loại nhiệt đới ẩm gió mùa, nhưng do bị
chắn bởi gờ Trường Sơn Nam nên ảnh hưởng của gió mùa khơng đậm nét.
Một năm chia thành hai mùa rỗ rệt. Mùa mưa bắt đầu trong vòng tháng 4
và chấm dứt vào đầu tháng 10, với một thời gian tạm lắng giữa tháng 8 và
tháng 9. Tiếp theo là 4 tháng khơ hạn, khi đó đất đỏ do từ sự phân hủy của
nền bazan, trở nên cứng lại rồi bửa ra, bùn dày từ những tháng trước đó
biến thành một lớp bụi dày mà gió thổi thành các cơn lốc. Về phần nhiệt
độ, nếu độ cao làm dịu đi một cách dễ chịu những tác động cảu vĩ độ nhiệt
đới thì nó lại có khuynh hướng làm nổi bật những thay đổi mùa: Đêm tháng
mười hai và tháng giêng trời lạnh, những ngày tháng tư, trước các cơn mưa
đầu mùa ngược lại, thường oi ả. Mùa mưa nhiệt độ trung bình 25,7oC. Mùa
khơ nhiệt độ trung bình là 20 08. Lượng mưa bình qn tồn tỉnh năm 2004
là 1.346mm, chiếm 90% lượng mưa/năm, tập trung vào các tháng 7
(358mm), tháng 9 (302mm), tháng 8 (257mm). Độ ẩm trung bình năm 2004
là 80%, đặc biệt ẩm vào các tháng mùa mưa (85% - 89%). Số giờ nắng năm
2004 là 2.490 giờ, tập trung vào các tháng mùa khô (53 giờ - 269 giờ), thấp
vào các tháng mùa mưa (104 giờ - 224 giờ). Tuy nhiên, thời tiết ở Bn Ma
Thuột thường khơng nóng q 35 độ, không lạnh quá 15 độ, sáng mặc áo
len, trưa mặc áo thun, tối lại mặc áo khoác, ở Ban Mê Thuột chỉ có 2 mùa
nhưng một ngày bạn có thể cảm nhận được cả 4 mùa.
Về tài nguyên nước: Các sơng chính ở Đăc Lăc gồm:
- Hệ thống sơng chảy vào sông Mê Kông:
+ Sông Sê rê pốc do sông EaTu Krông vào EaTu H’leo hợp thành.
+ Sông EaTu krông- theo tên Ê Đê, EaTu Krông tức “sông”, hợp thành
từ 2 chi lưu, nhánh quan trọng hởn phía Bắc gọi là Krơng Ana hay “sơng cái”,
trong khi nhánh phía Nam được gọi là Krông KNô “ sông đực”.
+ Sông EaTu H’ leo có 2 chi lưu là: EaTu Đăng và EaTu Soup.
12
- Hệ thống sơng chảy về phía Đơng gồm đầu nguồn của sông Krông
H’năng - một chi nhánh của sông Ba và sông Đồng Nai.
Đầm hồ tự nhiên chiếm 2000 ha, trong đó nổi tiếng nhất là hồ Lăk rộng
500 ha, là một cảnh đẹp ở Đắc Lắc.
Về tài nguyên đất: Trên địa bàn Đắc Lắc có 8 nhóm đất chính gồm: đất
đỏ vàng, đất phù sa, đất xám bạc màu, đất xám đen, đất mùn vàng, đất dốc tụ
trong các thung lũng, đất pốt dơn và đất phong hóa đã bị feralit. Lấy độ phì
nhiêu làm tiêu chí, có ba nhóm đất chính: đất bazan, đất phù sa và đất mùn
xám. Nhóm đất bazan có diện tích lớn nhất, phân bố chủ yếu ở hai cao nguyên
Đắc Lắc và Ma Đrắc, thuận lợi cho phát triển các loại cây cơng nghiệp hàng
hóa dài ngày như hồ tiêu, cao su, cà phê, đào lộn hột… Nhóm đất phù sa phân
bố chủ yếu ở Ea Súp, Krông Pách - Lắc, thuận lợi cho phát triển cây lương
thục. Nhóm đất mùn xám chiếm diện tích khơng nhiều, phân bố trên các sơn
khối, thích hợp cho phát triển lâm nghiệp. Chính là một tỉnh cao nguyên có
điều kiện tự nhiên thuận lợi cho việc phát triển nơng nghiệp tồn diện với gần
2 triệu ha đất trong đó có gần 1 triệu ha đất đỏ bazan. Vì vậy ngồi thế mạnh
về cây lương thực, Đăk Lăk cịn là nơi thích hợp với nhiều loại cây ăn trái
như cam, quýt, xoài, dứa, chuối, đu đủ, mẵng cầu, bơ, chơm chơm, mít, sầu
riêng… Đặc biệt là các loại cây công nghiệp như cao su, chè, hồ tiêu… trong
đó nổi tiếng nhất là cà phê [15, tr.17-19].
1.1.2. Điều kiện lich sử
Buôn Ma Thuột là thành phố lớn nhất ở Tây Nguyên nằm ở độ cao 536m,
nhiệt độ trung bình hàng năm 23 độ C, là tỉnh lỵ của tỉnh Đắc Lắc. Tên gọi
Buôn Ma Thuột được bắt nguồn từ tiếng Ê-đê: Buôn Ama Y Thuot (Buôn:
làng, Ama: cha), gọi tắt là Bn Ma Thuột, có nghĩa là làng của cha Thuột,
tên vị tù trưởng có cơng lập ra buôn làng đầu tiên bên bờ suối Ea Tam. Tháng
3/1975, quân và dân ta mở cuộc tiến công đánh chiếm thành phố Tây Nguyên
này, mở màn cho chiến dịch Hồ Chí Minh, từ đó Bn Ma Thuột đã đi vào
13
lịch sử. Vùng đất cao nguyên này trước đây thuộc tỉnh Phú Yên và Khánh
Hòa, ngày 22/11/1904, thực dân Pháp đã tách ra để thành lập tỉnh Đắc Lắc.
Đến ngày 5/6/1930, Buôn Ma Thuột được nâng lên thành thị xã.
Buôn Ma Thuột có một thời là thủ phủ của Tây Ngun có số dân đơng
nhất, sầm uất nhất ở đây, là trung tâm hành chánh, văn hóa và kinh tế của tồn
vùng. Bn Ma Thuột là đầu mối huyết mạch giao thông tỏa ra các hướng,
nối với thành phố Đà Lạt qua huyện Lăk bằng quốc lộ 27, nối liền với Khánh
Hòa qua Ninh Hòa bằng quốc lộ 26, nối với TP.HCM bằng quốc lộ 14 qua
Đăc Nơng, Bình Phước, nối liền với Yok Đôn Buôn Đôn bằng tỉnh lộ số 1 và
nối với Pleiku, Kontum bằng quốc lộ 14. Bn Ma Thuột nổi tiếng có nhiều
loại trái cây, khoai sắn, rau củ, đặc biệt là cà phê Buôn Mê đã từ lâu chiếm
lĩnh trên thị trường và cho đến nay chưa có nơi đâu sánh bằng.
Với lợi thế là trung tâm của Đắc Lắc cũng như toàn Tây Nguyên, một vị
trí có tầm chiến lược về qn sự và kinh tế của cả vùng, lại nằm gọn trên một
cao nguyên đất đỏ màu mỡ và bằng phẳng, năm 1904, khi tỉnh Đắc Lắc được
thành lập, Buôn Ma Thuột được chọn làm cơ quan hành chính của tỉnh này
thay cho Bản Đôn. Ngày 5 tháng 6 năm 1930, Khâm sứ Trung Kỳ ra nghị
định thành lập thị xã Buôn Ma Thuột. Dưới thời Việt Nam Cộng hịa thị xã
này có tên là Ban Mê Thuột. Ngày 10 tháng 3 năm 1975, Quân đội nhân dân
Việt Nam bất ngờ tiến đánh Bn Ma Thuột, mở đầu cho chiến dịch Hồ Chí
Minh, tiến tới việc đánh bại Quân lực Việt Nam Cộng hịa.Năm 1995, Bn
Ma Thuột được cơng nhận là đơ thị loại 3, năm 2005 là đô thị loại 2 và đến
tháng 3 năm 2010 được công nhận là đô thị loại 1. Diện tích của thành phố
khoảng 377 km², trong đó diện tích đã đơ thị hóa là 100km2. Bn Ma Thuột
là thành phố đơ thị loại 1; có 13 phường, 8 xã. Đặc biệt có 7 bn (làng) nội
thành với gần chục nghìn người Êđê, họ vẫn giữ kiến trúc nhà ở và lối sản
xuất riêng ngay trong lòng thành phố. Kết quả phân định 3 khu vực của thành
14
phố Buôn Ma Thuột theo quyết định số 03/2009/QĐ-UBND của UBND Tỉnh
Đắc Lắc ngày 13/01/2009 như sau:
Khu trung tâm, gồm các phường: Tân Tiến, Thắng Lợi, Thống Nhất,
Thành Công, Tân Lợi, Tự An, Tân Lập, Tân Thành.
Khu cận trung tâm, gồm các phường: Khánh Xuân, Tân Hòa, Thành
Nhất, Ea Tam, Tân An;
Khu ven nội, gồm các phường, xã: Cư Êbur, Hòa Thắng, Hòa Khánh,
Hòa Thuận, Ea Tu, Ea Kao, Hòa Phú, Hòa Xuân.
Ngã 6 Ban Mê là trung tâm thành phố Bn Ma Thuột. Ở đây có
Tượng đài chiến thắng Buôn Ma Thuột được coi như biểu tượng của thành
phố. Trước đây, khi mới giải phóng nơi đây chỉ là một bùng binh đầy cỏ
dại với một cột đèn ba ngọn và vài tấm áp phích. Sau này một tượng đài
được dựng lên với điểm nhấn chính chiếc xe tăng bằng sắt thép đã mở đầu
trận đánh vào Buôn Ma Thuột. Đến những năm cuối thế kỷ trước thì tượng
đài chiến thắng đã được xây dựng hòang tráng như hiện nay. Nơi đây từng
có một chiếc xe tăng T34 của Nga nhưng nó được đưa vào bảo tàng năm
1997 và thay thế vào đó là một chiếc xe mơ hình. Ngã sáu Ban Mê đã đi
vào thơ ca qua nhiều bài hát đi cùng năm tháng và giờ đây nó chính là một
trong những địa chỉ mà du khách rất u thích, thường tìm đến để chụp ảnh
kỷ niệm cho chuyến đi Đắc Lắc của mình.
Năm 1975, Bn Ma Thuột là một thị xã miền núi bé nhỏ, nghèo nàn với
vài con đường nhựa quanh Ngã 6 trung tâm, công nghiệp hầu như khơng có
gì. Nay, Bn Ma Thuột đã trở thành thành phố năng động và phát triển
nhanh nhất Tây Nguyên, năm 2010 trở thành đô thị loại 1 trực thuộc tỉnh là
một điểm mốc lịch sử quan trọng để thành phố tiếp tục phấn đấu, phát triển
thành đô thị loại 1 trực thuộc Trung ương vào năm 2015 theo tinh thần kết
luận 60 của Bộ Chính trị.
15
1.1.3. Dân cư
Đắc Lắc là một tỉnh miền núi, nằm ở cao nguyên Nam Trung Bộ. Thành
phố Buôn Ma Thuột là đơ thị trung tâm vùng Tây Ngun, có tiềm năng phát
triển kinh tế nên số người di chuyển từ các tỉnh phía Bắc, miền Trung vào đây
sinh sống ngày càng nhiều [14,tr 17].
Dân số: Tính đến 6/2009, thành phố Bn Ma Thuột có 18 đơn vị xã,
phường nội thị và ngoại ô, với tổng dân số 325.378 người, cư trú trong 246
thơn bn. Xin xem bảng sau.
Bảng diện tích, dân số 18 xã phường thuộc thành phố Buôn Ma Thuột (1999)
Diện
STT
Đơn vị hành chính
tích
(km2)
Dân số
Số thơn
(người)
bn
1
Phường Ea Tam
1.378
23.080
11
2
Phường Tân Lợi
1.428
16.491
17
3
Phường Tân Tiến
251
15.837
13
4
Phường Tân Hịa
537
11.585
10
5
Phường Thành Cơng
113
18.244
13
6
Phường Thắng Lợi
87
10.519
7
7
Phường Thống Nhất
1.040
7.650
7
8
Phường Khánh Xuân
2.184
25.059
16
9
Phường Thành Nhất
34
10.891
8
10
Phường Tân An
1.087
16.579
12
16
11
Phường Tân Thành
516
14.716
13
12
Phường Tự An
526
18.331
11
13
Phường Tân Lập
969
19.647
10
14
Xã Hòa Thuận
1.690
14.411
8
15
Xã Hòa Thắng
3.163
17.708
11
16
Xã Hòa Khánh
3.394
16.552
22
17
Xã Ea Tu
2.862
14.782
12
18
Xã Cư Ê Bur
4.245
14.783
7
Tổng số
37.718
325.378
246
Đến thời điểm đầu năm 2010, dân số toàn thành phố là khoảng 340.000 người,
với 85% là người Kinh, còn lại người dân tộc thiểu số chiếm khoảng 15%, đông nhất
là dân tộc Ê Đê, tiếp đến là các dân tộc di cư từ miền núi phía bắc vào như Tày,
Nùng, Mnơng, Mường. Ngoài dân tộc Ê Đê, cư trú tại thành phố cịn số ít người dân
tộc tại chỗ Mnơng. Gần 80% dân số thành phố sống tại khu vực nội thành.
1.1.4. Thực trạng kinh tế - xã hội, văn hóa
Bn Ma Thuột năm 1975 còn là một thị xã miền núi bé nhỏ, nghèo nàn với vài
con đường nhựa quanh Ngã 6 trung tâm, cơng nghiệp hầu như khơng có gì. Ngày
nay, Bn ma Thuột đã trở thành thành phố năng động và phát triển nhanh nhất Tây
Nguyên, năm 2010 trở thành đô thị loại I trực thuộc tỉnh, là một điểm mốc lịch sử
quan trọng để thành phố tiếp tục phấn đấu, phát triển thành phố đô thị loại I trực
thuộc Trung ương vào năm 2015 theo tinh thần kết luận 60 của Bộ chính trị.
Hiện nay, Bn Ma Thuột được chính phủ cơng nhận là thành phố có quy
hoạch tốt nhất Việt Nam. Cùng với thành phố Bắc Ninh, Đà Lạt, Hịa Bình,
17
Huế, Thái Nguyên, Sơn La, Vinh, Việt Trì, Hà Nội, Buôn Ma Thuột đã được
chọn là 10 đô thị sạch trên cả nước và được tuyên dương trong lễ kỷ niệm
Ngày đô thị Việt Nam (8/11).
Thực trạng kinh tế - xã hội: Thực trạng kinh tế- xã hội thành phố Buôn
Ma Thuột hiện nay khái quát như sau:
Tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm bình quân: 20%.
Tổng thu ngân sách nhà nước: gần 1500 tỷ đồng, trong đó thu ngân
sách theo phân cấp: 747 tỷ đồng.
Huy động tổng vốn đầu tư tồn xã hội: 3.067 tỷ đồng.
Thu nhập bình quân đầu người: 1.326 USD/người/năm.
Tỷ trọng các ngành: 42% công nghiệp - xây dựng, 47% thương mại -
dịch vụ, 11% nông - lâm nghiệp.
Giao thông: 98% đường nội thành được nhựa hóa, là đầu mối giao
thơng cấp vùng và quốc gia.
Tỷ lệ hộ nghèo: 2,3%.
Tỷ lệ cây xanh đô thị: 18m²/người.
Cấp điện: 100% đường phố chính và 80% đường hẻm đã được chiếu sáng
Cấp - thoát nước: 80% dân số được dùng nước sạch với định mức 137
lít/người/ngày. Ngồi ra Bn Ma Thuột có hệ thống xử lí nước thải do Đan
Mạch tài trợ được đánh giá tiên tiến nhất Việt Nam hiện nay mà chưa có
thành phố nào ở Việt Nam đạt được.
Văn hóa - giáo dục: đã có 21/21 xã, phường hoàn thành phổ cập trung
học cơ sở. Bình qn cứ 2,5 người thì có 1 người đi học.
Y tế: 21/21 xã, phường đã có y, bác sĩ túc trực. Tuổi thọ bình quân: 70 tuổi.
Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên: 1,3%.
18
Thông tin liên lạc: 124 máy điện thoại/100 dân (vượt chuẩn đô thị loại
1 là 40 máy/100 dân).
Giao thông gồm đường bộ, đưịng hàng khơng. Đường bộ hiện có
397,5km đường quốc lộ, trong đó: Quốc lộ 14 nối về phía phía bắc đi
Pleiku (195km), đi Kon Tum (244km), nối với Đà Nẵng, về phía nam đi
Đăk Nơng, Bình Phước, Bình Dương, Tp Hồ Chí Minh (350km). Quốc lộ
26 đi Ninh Hòa, Nha Trang (198km). Quốc lộ 27 đi Đà Lạt (193km). Quốc
lộ 14C: từ ranh giới tỉnh Gia Lai đến ranh giới tỉnh Đăk Nông(68,5km).
Quốc lộ 29: Tổng cục Đường bộ Việt Nam đã đề nghị Bộ GT - VT chuyển
2 tuyến đường ĐT645 (Phú Yên) và ĐT633 (Đắk Lắk) thành quốc lộ (QL)
29. Tuyến ĐT645 xuất phát từ QL1A qua các huyện: Đơng Hịa, Tây Hịa
và Sơng Hinh (Phú Yên) lưu thông với ĐT633 (Đắc Lắc). Nếu đây trở
thành QL 29 sẽ là QL thứ 2 nối các tỉnh Tây Nguyên (280km) Dự kiến quy
hoạch xây dựng trên địa bàn thành phố Bn Ma Thuột có 3 bến xe khách,
1 bến xe buýt ở trung tâm thành phố, hình thành mạng lưới các điểm đỗ xe
buýt nội thị và đến các điểm ven đô, các huyện lân cận, 3 bãi đỗ xe tải các
bãi đỗ xe con, xe du lịch ở những nơi tham quan, du lịch, khu vui chơi giải
trí, trung tâm thương mại, chợ. Tại ở mỗi thị xã, mỗi huyện có từ 1 - 2 bến
xe khách . Bn Ma Thuột cịn có cảng hàng khơng Buôn Ma Thuột, trực
thuộc cụm cảng hàng không miền Nam. Các tuyến bay gồm có: Bn Ma
Thuột - Sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất, Thành phố Hồ Chí Minh; Buôn Ma
Thuột - Sân bay quốc tế Đà Nẵng, Đà Nẵng; Buôn Ma Thuột - Sân bay
quốc tế Nội Bài, Hà Nội. Sân bay Buôn Ma Thuột (IATA: BMV, ICAO:
VVBM) là một sân bay hỗn hợp quân sự và dân sự tại thành phố Bn Ma
Thuột. Sân bay có đường băng dài 3000m, rộng 45m có thể tiếp nhận
những máy bay tầm ngắn như ATR72, F70, tầm trung như A320, A321,
B767 và có đèn chiếu sáng phục vụ bay đêm, trong khi đó cơng suất nhà ga
19
150.000 hành khách/năm. Đến năm 2010 phục vụ 300.000 hành khách/năm
(dự kiến năm 2020 là 800.000 hành khách) và 3.000 tấn hàng hóa/năm…
Bên cạnh những kiến trúc cổ, phần lớn là nhà gỗ được xây cất công phu,
người Buôn Ma Thuột ngày nay đang tích cực xây dựng những cơng trình mới
mẻ và hiện đại, đường phố rộng rãi, sạch đẹp phủ bóng cây xanh mở rộng hệ
thống giao thơng ra vùng ngoại thành nhằm nâng cao mức sống của nhân dân
qua các kế hoạch nông lâm, công nghiệp và đầu tư xây dựng các khu dân cư. Bộ
mặt đô thị không ngừng được chỉnh trang, mở rộng, thành phố đang hình thành
các khu dân cư mới; đặc biệt là khu đơ thị Đơng Bắc có diện tích 172 ha, được
đầu tư xây dựng với nhiều nhà cao tầng hiện đại, được xem như trung tâm kinh
tế - tài chính của thành phố Buôn Ma Thuột trong tương lai. Sau 10 năm xây
dựng, đến nay các cơng trình hầu như đã hoàn chỉnh với nhiều kiến trúc đẹp, đáp
ứng yêu cầu phát triển của thành phố, đồng thời làm thay đổi bộ mặt không gian
kiến trúc đô thị, mỗi vùng và khu dân cư đều có bản sắc riêng, phù hợp với điều
kiện kinh tế, xã hội và tự nhiên nhưng được cách tân, tạo cho thành phố vừa
mang tính truyền thống mà cũng vừa mang tính hiện đại.
Từ một thị xã mà cơng nghiệp hầu như khơng có gì, nay Buôn Ma
Thuột thật sự là một trung tâm kinh tế lớn ở Tây Nguyên đang thu hút nhiều
nhà đầu tư trong và ngồi nước. Nhiều cơng ty thương mại chuyên xuất nhập
khẩu, chế biến nông, lâm sản ra đời, đặc biệt là cà phê, cao su.
Thực trạng văn hoá: Nói đến văn hóa Bn Ma Thuột và các dân tộc
bản địa ở đây trước hết là nói đến khơng gian văn hóa cồng chiêng của dân
tộc tại chỗ Ê Đê. Cồng chiêng đóng vai trị hết sức quan trọng trong sinh hoạt
văn hóa cộng đồng. Con người từ khi sinh ra đã nghe tiếng chiêng trong lễ đặt
tên, lễ thổi tai; đến khi lìa đời về với thế giới của các vị thần linh, tiếng chiêng
ngân dài tiễn biệt trong lễ bỏ mả. Thông qua tiếng chiêng, các tộc người Bn
Ma Thuột như gửi gắm tâm hồn mình, ước nguyện của mình với các đấng
thần linh, tiếng chiêng thực sự đã gắn với đời sống của dân tộc, gắn với tâm
20
linh của mỗi người. Khơng gian văn hóa cồng chiêng Ê Đê và Tây Nguyên
được thể hiện qua ngôn ngữ, phong cách diễn tấu, tài bản... riêng biệt và độc
đáo, chính vì thế đã được UNESCO cơng nhận là Kiệt tác truyền khẩu và Di
sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.
Loại hình văn học dân gian truyền miệng cũng là di sản văn hóa phi vật
thể phong phú của các dân tộc trong thành phố, trong đó sử thi, trường ca là
đại diện tiêu biểu nhất. Sử thi có mặt ở các tộc người Ê Đê, Mnơng, dân tộc
Êđê gọi là khan, M’nông là Ot Ndrong. Sử thi Ê Đê. Mnông được tập trung
nghiên cứu, sưu tầm nhờ sự hỗ trợ của Chính phủ với Dự án Điều tra, sưu
tầm, bảo quản, biên dịch và xuất bản kho tàng sử thi Tây Nguyên mà Viện
Khoa học xã hội Việt Nam phối hợp với các tỉnh Tây Nguyên và phụ cận như
Bình Phước, Khành Hịa, Phú n thực hiện trong nhiều năm qua. Nhờ đó,
chúng ta đã sưu tầm được hàng trăm sử thi, xuất bản nhiều sử thi có giá trị,
trong đó sử thi của dân tộc M’nơng chiếm số lượng nhiều nhất. Các loại hình
văn học dân gian khác của đồng bào Tây Nguyên như lời nói vần, thần thoại,
truyện cổ... cũng được sưu tầm, biên soạn và xuất bản.
Tượng gỗ dân gian, chủ yếu là tượng nhà mồ một yếu tố không thể
thiếu trong đời sống tâm linh của người dân bản địa.
Ngoài những giá trị tiêu biểu nêu trên là kho tàng di sản văn hóa phi vật
thể khác, đó là kiến trúc nhà dài truyền thống Ê đê, nghề dệt và trang phục, tri
thức dân gian, ẩm thực, nghệ thuật diễn xướng, lễ hội. Đồng bào Ê Đê có
nhiều hình thức lễ hội liên quan đến chu kỳ canh tác nương rẫy; lễ nghi vịng
đời người; lễ hội cộng đồng... Trong lễ nghi nơng nghiệp, đáng chú ý nhất là
lễ ăn mừng lúa mới, lễ cúng hồn lúa, mẹ lúa. Lễ hội cộng đồng phải kể đến lễ
kết nghĩa, lễ mừng nhà rông mới… Trong thành phố có Bn AKơ Đhơng
hay Bn Cơ Thơn, làng Ma Rin là một buôn làng người Ê Đê, là làng văn
hố đặc sắc. Đhơng theo tiếng Ê Đê có nghĩa là bn đầu nguồn vì nó ở đầu
nguồn một con suối lớn ở Buôn Ma Thuột là suối Ea Nuôl. Ở đây nguồn suối
21
bắt đầu cũng chính là bến nước cũ của bn, một bến nước rất đẹp nhưng hiện
tại khơng cịn được sử dụng do bị ơ nhiễm vì ở ngay trung tâm thành phố.
Buôn nằm ở cuối đường Trần Nhật Duật, thành phố Bn Ma Thuột. Đây là
một bn lớn có lịch sử lâu đời được quy hoạch rất đẹp và giữ được nhiều giá
trị truyền thống, hiện tại là một điểm du lịch hấp dẫn của thành phố. Nằm
trong quy hoạch khu trưng bày lịch sử của Buôn Ma Thuột.
Về danh lam thắng cảnh và di tích lịch sử - văn hố, Bn Ma Thuột có hệ
thống các điểm đến cho du khách trong ngoài nước, gồm: Biệt điện Bảo Đại ở
Bn Ma Thuật, đình Lạc Giao, chùa Sắc tứ Khải Đoan, Nhà tù Buôn Ma Thuột,
Bia Lạc Giao, Khu Biệt điện Bảo Đại - hiện tại là Bảo tàng các dân tộc Việt Nam
tại Đắc Lắc, Tòa Giám mục Đắc Lắc. Du khách cũng có thể đến với làng văn hóa
bn AKơ Đhơng, ngắm cây Kơnia cổ thụ giữa lòng thành phố sát Ngã 6 Ban Mê,
thưởng thức hương vị cà phê Ban Mê... Với vị trí trung tâm và giao thông thuận
tiện Buôn Ma Thuột là trung tâm du lịch lớn nhất của Đắc Lắc nối các điểm du
lịch quan trọng trong tỉnh như Bản Đôn, Hồ Lắk, cụm thác Đray Sáp... Du khách
đến thăm Buôn Ma Thuột có thể đến tham quan các danh lam thắng cảnh như thác
Đray Sap, Đray Anour, Đray H’linh, hồ Lăk hoặc ghé thăm các buôn làng của
người Êđê, M’nông để cùng thưởng thức những đêm rượu cần với các lễ hội cồng
chiêng, hay cưỡi voi vào rừng săn bắn cùng cư dân địa phương, đi thuyền độc
mộc dạo chơi trong khung cảnh núi rừng êm ả...
Buôn Ma Thuột cũng là trung tâm văn hóa, giáo dục quan trọng. Năm
1977, đại học Tây Nguyên được thành lập và trở thành trung tâm đào tạo các
con em dân tộc ít người.
1.2. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CÂY CÀ PHÊ Ở BUÔN MA THUỘT
1.2.1. Lịch sử phát triển của cây cà phê
Cà phê (gốc từ café trong tiếng Pháp) là một loại thức uống màu đen có
chứa chất caffein, được chế biến và sử dụng rộng rãi từ những hạt cà phê rang
22
lên. Cà phê được sử dụng lần đầu tiên vào thế kỉ thứ 9, khi nó được khám phá
ra từ vùng cao nguyên Ethiopia. Từ đó, nó lan ra Ai Cập, Yemen, và tới thế kỉ
thứ XV thì đến Armenia, Persia, Thổ Nhĩ Kỳ và phía Bắc Châu Phi. Từ thế giới
Hồi giáo, cà phê đến Ý, sau đó là phần còn lại của Châu Âu, Indonesia và Mỹ.
Ngày nay, cà phê là một trong những thức uống thông dụng toàn cầu.
Lịch sử của cây cà phê thực sự cũng đa dạng như cách pha chế nó. Trong
quyển sách “Câu chuyện cà phê” của Saigon times book phối hợp cùng cà phê
Trung Nguyên do nhiều nhà chuyên môn về cà phê có viết: “Quay lại trên
một nghìn năm trước, những cây cà phê đầu tiên được cho là xuất hiện từ
vùng vịnh của châu Phi trên bờ Biển Đỏ”.
Ban đầu, hạt cà phê được xem như là đò thực phẩm chứ khơng
phải là đồ uống. Các bộ lạc phía Đơng châu Phi đã nghiền quả cà phê
sau đó trộn lẫn với mỡ động vật, vê lại thành những viên nhỏ. Hỗn
hợp này được truyền tụng là đã cung cấp cho các chiến binh rất nhiều
năng lượng cần thiết cho chiến tranh. Sau đó vào khoảng năm 1000
sau cơng ngun, người Ethiopia đã pha chế một loại rượu từ những
hạt cà phê bằng cách lên men những hạt cà phê khô trong nước. Cây
cà phê cũng đã được mọc tự nhiên trên bán đảo Ai Cập và từ đó,
trong suốt thế kỷ XI, cà phê đã được phát triển thành một dạng đồ
uống nóng” [22, tr.18].
Được bao phủ trong sự bí ẩn và kết hợp với các thầy tu và bác sỹ nên
khơng có gì ngạc nhiên khi có đến hai truyền thuyết nổi tiếng để lý giải về
việc tìm ra loại hạt thần bí này.
Một truyền thuyết kể rằng: Một người chăn dê nhận thấy đàn gia súc của
mình trở nên nghịch ngợm hơn bình thường sau khi ăn những quả màu đỏ từ
bụi cây cà phê dại. Tò mò, anh ta đã nếm thử loại quả này và anh ta đã thích
thú vì sự ảnh hưởng như tiếp thêm sinh lực của nó. Và anh cịn nhìn thấy một
23
nhóm thầy tu bắt đầu đun những hạt này và sử dụng chất lỏng này để thức
suốt đêm trong các lễ hội.
Câu chuyện khác lại kể về một thầy tu Đạo Hồi - người đã bị kết tội
bởi kẻ thù của mình. Hình phạt là phải đi lang thang trong sa mạc và cuối
cùng là chết đói. Trong cơn mê sảng, chàng trai trẻ đã nghe thấy âm thanh
hướng dẫn mình ăn những quả từ cà phê gần đó. Lúng túng, anh ta đã cố
làm mềm những hạt quả bằng nước Chúa, anh ta đã sống xót và khỏe
mạnh và quay lại với cộng đồng của mình, cơng bố rộng rãi kinh nghiệm
và công thức.
Việc trồng cà phê bắt đầu rải rác từ thế kỉ XV và tiếp tục trong nhiều thế
kỉ, tỉnh Yemen của Ai Cập là nguồn cà phê đầu tiên của thế giới. Nhu cầu về
nguồn cà phê của vùng Trung Đông là rất lớn. Những hạt cà phê đã rời cảng
Yemeni của Mocha để buôn bán với Alexandria và Constantinople.
Trong thực tế những giống cây tốt không được phép mang khỏi đất nước.
Bất chấp sự cấm đoán, những người Đạo Hồi hành hương từ khắp thế giới đã
tìm mọi cách để lấy trộm những cây cà phê mang về quê hương mình trong
các chuyến hành hương về vùng Mecca và sau đó những mùa thu hoạch cà
phê đã nhanh chóng bắt đầu từ Ấn Độ.
Cà phê cũng đã du nhập vào châu Âu trong khoảng thời gian này thơng
qua thành phố Venice - nơi có nhiều đội tàu bn nước hoa, trà, thuốc nhuộm
và vải vóc với các thương gia Ai Cập. Thứ đồ uống này thậm chí trở thành đồ
uống phổ biến khi mà những người bán dạo nước chanh bắt đầu bán thêm nó
vào các đồ uống lạnh.
Rất nhiều những thương gia châu Âu trong những chuyến cơng tác của
mình đã biết đến cà phê và quen với việc uống cà phê nên đã mua nó mang về.
Vào giữa thế kỷ XVII, người Hà Lan chiếm được ưu thế trong nghành
công nghiệp tàu buôn và họ đã giới thiệu việc trồng cà phê ở cấp độ rộng lớn
24
tới các thuộc địa của họ trên đảo Java, Sumatra, Sulaweisi và Bali ở Indonesia.
Cà phê đã đến châu Mỹ La Tinh sau đó nhiều thập kỷ, khi một người Pháp mua
một cành cà phê đến Martinique, Brazil đã nổi lên như một nơi sản xuất cà phê
đứng đầu thế giới và là danh hiệu đó vẫn cịn đến hơm nay [39, tr.22-23].
Cà phê là một trong những mặt hàng xuất khẩu quan trọng của nhiều nước
và chiếm một tỷ lệ khá lớn trong cán cân thương mại thế giới. Hiện tại có trên 75
nước trồng cà phê với diện tích khoảng 10 triệu ha, năng xuất từ 0,6 - 0,7 tấn/ha
và sản lượng hàng năm dao động trên dưới 6,0 tấn, với giá trị xuất khẩu cà phê
trên 10 tỷ USD. Tuy nhiên thu nhập và lợi nhuận lại tập trung ở một số nhà đầu
cơ, rang xay và tiêu thụ trên thế giới. Có ba dịng cây chính là cà phê chè
(Arabica), cà phê vối (Robusta), và cà phê mít (Excelsa). Khơng giống như các
loại đồ uống khác, chức năng chính của cà phê khơng phải là giải khát. Nhiều
người uống nó với mục đích tạo cảm hứng hưng phấn.
1.2.2. Sự du nhập của cây cà phê vào thành phố Buôn Ma Thuột
Cây cà phê du nhập vào Việt Nam khá sớm (từ năm 1857) thông qua một
số linh mục thừa sai người Pháp. Đầu tiên là giống cà phê chè (coffee arabica)
được trồng thử nghiệm tại các nhà thờ Thiên Chúa giáo ở một số tỉnh phía
Bắc sau đó mới được phát triển dần vào Nam Tây Nguyên và Đông Nam Bộ.
Nhưng cho đến nay, cả về quy mô và danh tiếng, không nơi nào ở Việt Nam
có cà phê nổi tiếng trong và ngồi nước, đồng thời gắn với một vùng địa danh
mang nhiều huyền thoại như cà phê Buôn Ma Thuột.
Với lợi thế là một vùng đất đỏ bazan màu mỡ, có những ưu thế đặc trưng
về điều kiện tự nhiên, cao nguyên Buôn Ma Thuột không những là nơi cây cà
phê sinh trưởng tốt, mà còn tạo nên hạt cà phê chất lượng cao, hương vị khác
biệt so với nhiều vùng đất khác. Chính sự khác biệt đó là yếu tố quyết định lợi
thế cạnh tranh của cà phê Buôn Ma Thuột và nơi đây đã sớm trở thành “tâm
điểm” của ngành cà phê tồn vùng Tây Ngun nói riêng, Việt Nam nói
chung, đặc biệt là với cà phê vối (coffee robusta).
25
Tuy nhiên, bên cạnh những lợi thế về tự nhiên thì các yếu tố lịch sử của nghành
cà phê Đắc Lắc nhân tố góp phần làm nên danh tiếng của cà phê Bn Ma Thuột.
Ngay từ lúc thăm dị để chuẩn bị xâm chiếm Tây Nguyên, các nhà thám
hiểm và truyền giáo Pháp đã sớm nhận ra vùng đất này khơng chỉ có vị trí địa lý
chiến lược ở miền Nam Đơng Dương, mà cịn có những tài ngun hết sức q
giá có thể khai thác phục vụ cho chính quốc. Trước hết là đất và rừng, đặc biệt
nơi đây có loại đất mà các nhà thám hiểm như Yersin, giám mục Cassaigne, linh
mục Pierre Dourisboure,… đều nhận định là loại đất tốt nhất thế giới, rất thích
hợp cho việc mở các đồn điền trồng cây công nghiệp, đặc biệt là cà phê.
Vì vậy, để độc chiếm Tây Nguyên về chính trị và kinh tế, năm 1893
khâm sứ trung kỳ Buloso (Boulloche) ra lệnh đặt vùng đất này “dưới sự bảo
hộ đặc biệt” của Pháp, nhằm mục tiêu nắm toàn bộ vấn đề an ninh, tiến tới
khai thác tài nguyên đất đai phục vụ chính quốc. Ngày 02 tháng 11 năm
1901, tồn quyền Đơng Dương ra nghị định về “quyền bảo hộ và khai thác
Tây Nguyên”, mở đường cho tư bản Pháp vào lập đồn điền. Ngay sau đó đã
có 8 trong số 12 đơn xin phép đã được công sứ Đắc Lắc chuẩn y trình lên
khâm sứ trung kỳ duyệt đợt đầu, chủ yếu là xin khai thác khu vực lân cận
phía Đơng thị xã Bn Ma Thuột. Tuy nhiên, do những điều kiện cụ thể
(thiếu phương tiện và nhân công) nên Buôn Ma Thuột lúc bấy giờ chưa hình
thành những đồn điền lớn, chủ yếu là lập một số nông trại quy mô vài chục
mẫu để trồng thử nghiệm cây cà phê, trong đó cà phê chè (coffee arabica) là
loại cây được đưa vào trồng thử nghiệm đầu tiên tại Bn Ma Thuột, trước
thời điểm tồn quyền Đơng Dương ra nghị định thành lập đơn vị hành chính
tỉnh Đắc Lắc vào ngày 22 tháng 11 năm 1904.
Đến những năm 1912- 1914, cây cà phê chè mới thực sự ghi dấu ấn tại
Buôn Ma Thuột. Trong khoảng thời gian này hai công ty nông nghiệp lớn
nhất Đắc Lắc đã được chính quyền Pháp cho phép thành lập, đó là công ty
Cao Nguyên Đông Dương (compagnie des hauts plateaux indochinois-