Tải bản đầy đủ (.pdf) (141 trang)

Âm nhạc trong nghi lễ then cầu an giải hạn của người tày

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.08 MB, 141 trang )

1
Bộ giáo dục v đo tạo

Viện khoa học x hội việt nam

Viện nghiên cứu văn hoá

Trần Quang Hng

âm nhạc trong nghi lễ then
cầu an giải hạn của ngời Ty
(Qua khảo sát ở bản Pác So
XÃ Tô Hiệu - Huyện Bình Gia - tỉnh Lạng Sơn)

Luận văn thạc sĩ văn hoá học

Chuyên ngnh: Văn hoá học
M số : 603.170

Ngời hớng dẫn khoa học: Gs Ts. Phạm Minh Khang

Hà Nội - 2005


2

MC LC
mở đầu ........................................................................................................... 4
1Lý do chọn đề tài ......................................................................................... 4
2. lịch sử nghiên cứu vấn đề .......................................................................... 5
3. mục đích nghiên cứu ................................................................................. 7


4. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu ............................................................ 7
5. Phơng pháp nghiên cứu ........................................................................... 8
6. ý nghÜa khoa häc thùc tiƠn ........................................................................ 8
7. Bè cơc của luận văn ................................................................................... 9
Chơng 1 ..................................................................................................... 10
Khái quát về Then và âm nhạc trong Then ........................... 10
của ngời tày.......................................................................................... 10
1.1. Khái quát về ngời Tày ở Việt Nam .................................................... 10
1.1.1. Vài nét về lịch sử tộc ngời Tày .................................................... 10
1.1.2. Một số nét Đặc trng trong văn hoá của ngời Tày ...................... 11
1.2.1. Khái niệm về Then ........................................................................ 17
1.2.3. Ng−êi lµm Then ............................................................................. 19
1.2.4. DiƠn x−íng Then ........................................................................... 20
1.3.1. Vai trò của âm nhạc trong đời sống của dân tộc Tày .................... 21
1.3.2. Một số thể loại âm nhạc tiêu biểu của ngời Tày ......................... 24
1.3.3. Âm nhạc Then trong đời sống dân tộc Tày ................................... 32
1.3.4. Nhạc khí trong diƠn x−íng Then ................................................... 34
TiĨu kÕt ch−¬ng 1: ............................................................................. 39
Chơng 2 ..................................................................................................... 40
âm nhạc trong nghi lễ then cầu an giải hạn ....................... 40
của ngời tày .......................................................................................... 40
2.1. Then cầu an giảI hạn trong hệ thống nghi lễ
của ngời Tµy ..... 40
2.1.1. Mét sè nÐt chung vỊ tÝn ng−ìng dân gian ..................................... 40
2.1.2. Lễ cầu yên giải hạn trong hệ thống nghi lễ của ngời Tày ........... 41
2.2. công việc chuẩn bị ................................................................................ 44
2.2.1. Đón Then ....................................................................................... 44
2.2.2. Gia đình chuẩn bị .......................................................................... 45
2.2.3. Bài trí lễ vật và không gian hành lễ ............................................... 48
2.3. Diễn Trình nghi lễ và các dạng thức âm nhạc chủ yếu trong nghi lễ .. 49

2.3.1. Những thủ tục nghi lễ ban đầu ...................................................... 49
2.3.2. Lên đờng đi dâng lễ ..................................................................... 56
Chơng 3 ..................................................................................................... 77
Vai trò và giá trị của âm nhạc then ........................................ 77
3.1. Vai trò của âm nhạc trong nghi lễ Then ............................................... 77


3
3.2. các giá trị cơ bản của âm nhạc then .................................................... 79
3.2.3. Giá trị bảo lu văn hoá cổ truyền dân tộc ..................................... 80
3.2.4. Giá trị vui chơi giải trí ....................................................................... 81
3.2.1. Giá trị nghệ thuật ........................................................................... 82
3.4. Một số vấn đề về bảo tồn và phát huy âm nhạc Then trong giai đoạn
hiện nay ....................................................................................................... 90
Tiểu kết chơng 3 .............................................................................. 92
kết luận ..................................................................................................... 93
Tài liệu tham khảo ............................................................................... 95
PH LỤC LUẬN VĂN ................................................................................... 98


4

mở đầu
1. Lý do chọn đề ti
Dân tộc Tày c trú đông ở các tỉnh phía bắc: Cao Bằng, Bắc Kạn, Hà
Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn. Họ sống khá ổn định về kinh
tế, thờng xuyên tiếp xúc, giao lu với các dân tộc khác sống trong cùng một
quần thể, một số phong tục tập quán của ngời Tày ít nhiều đà bị ảnh hởng.
Vì vậy, nguy cơ mai một bản sắc văn hoá đối với tộc ngời Tày là không nhỏ.
Then là một hình thức diễn xớng dân gian mang đậm tính nguyên hợp

của ngời Tày. Trong các thành tố nghệ thuật cấu thành nên diễn xớng Then
thì âm nhạc là một trong những yếu tố quan trọng làm nên nét đặc sắc của
diễn xớng nghi lễ Then. Có lẽ vì vậy mà nói đến Then Tày là ngời ta nghĩ
ngay đến cây đàn tính và chùm xóc nhạc, những nhạc cụ chủ yếu của thầy Then.
Lâu nay đà có nhiều công trình su tầm, nghiên cứu giới thiệu về Then
và âm nhạc Then dới nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, việc khảo sát và
giới thiệu một nghi lễ Then (chẳng hạn nh nghi lễ Then giải hạn) từ góc độ
âm nhạc thì cha có công trình nào đi sâu thực hiện hoặc có những quan tâm,
tìm hiểu đúng mức. Chúng ta biết rằng, các hình thức nghi lễ là môi trờng
văn hoá đặc thù, chứa đựng những giá trị riêng biệt của nền văn hoá truyền
thống. Đây chính là nơi thể hiện rõ bản sắc văn hoá tộc ngời. Các nghi lễ này
đà phản ánh nhiều mặt của đời sống nh: tôn giáo, tín ngỡng, các phong tục
tập quán, văn hoá nghệ thuật, các trò chơi dân gian Đây cũng là môi trờng
sản sinh và lu truyền, bảo tồn các giá trị văn hoá truyền thống, trong đó,
nhiều giá trị vẫn còn phù hợp và cần thiết đối với đời sống xà hội hiện đại.
Vì vậy với việc thực hiện đề tài Âm nhạc trong nghi lễ Then cầu an
giải hạn (Qua khảo sát tại bản Pác Sào, x Tô Hiệu, huyện Bình Gia, tỉnh
Lạng Sơn), chóng t«i hy väng r»ng sÏ cung cÊp mét t− liệu sống động về âm
nhạc trong một nghi lễ Then cụ thể của ngời Tày. Từ đó góp phần khẳng
định giá trị của âm nhạc Then trong đời sống nghi lễ cũng nh trong đời sống
sinh hoạt văn hóa nghệ tht cđa ng−êi Tµy.


5
2. lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trớc năm 1945 hầu nh không có các su tầm, nghiên cứu trực tiếp về
Then. Tác giả Nguyễn Văn Huyên có hai bài thuyết trình tại Pháp về Thầy
phù thuỷ, một dạng thầy cúng có ảnh hởng đến Then về điện thờ. Quan điểm
khoa học và cách tiếp cận nghiên cứu của Nguyễn Văn Huyên đà đợc giới
học giả Pháp lúc bấy giờ đánh giá cao, nhất là về độ tin cậy của lợng thông

tin mà ông đa ra.
Từ sau cách mạng tháng Tám 1945: Trong khoảng từ 1945 đến 1970 là
thời gian Then đợc khai thác làm cơ sở cho việc cải biên, sáng tác phục vụ
công tác văn nghệ, bớc đầu đà giới thiệu và xuất bản đợc các trích đoạn văn
học Then Khảm Hải. Từ sau những năm 1970 phong trào su tầm, nghiên cứu
Then đợc dấy lên trong toàn Việt Bắc, đà xuất bản đợc cuốn Mấy vấn đề về
Then Việt Bắc của nhiều tác giả do Nhà xuất bản Văn hoá dân tộc xuất bản
năm 1978. Cuốn sách là tập hợp bài viết của nhiều tác giả đề cập đến nhiều
vấn đề liên quan đến Then: nguồn gốc, đặc điểm diễn xớng, các thành tố
nghệ thuật trong diễn xớng Then,v.vCuốn Lời hát Then của Dơng Kim
Bội do Sở văn hoá Thông tin Khu tự trị Việt Bắc xuất bản năm 1975 đà giới
thiệu khá đầy đủ về văn bản lời hát Then với các chơng, đoạn lời ca võa chi
tiÕt võa mang tÝnh phỉ biÕn cđa Then nh−: Đi sứ (pây sử); khảm hải (vợt
biển); bắt phu phen hoặc các khúc hát miêu tả cảnh sinh hoạt và lao động
nh: Lập cầu hào quang nói đến việc đúc đồng, đúc gang luyện thép để bắc
cầu; Thấu nạn quang nói đến cảnh Then cầm súng đi săn bắn Ngoài ra,
còn có các bài viết giới thiệu về giá trị văn học của lời hát Then của tác giả
Nông Minh Châu, Dơng Kim Bội. Cuốn Văn hoá Tày Nùng của Hà Văn Th
và Là Văn Lô bớc đầu đà giới thiệu đợc một cách khái quát về nghề làm
Then và bản chất tín ngỡng của Then.
Giai đoạn 1990 trở lại đây : Có các su tầm, giới thiệu văn bản Then của
các tác giả: Vi Hồng, Lục Văn Pảo, Triều Ân, Nguyễn Thiên TứTrong đó
có khá nhiều văn bản Then đợc su tầm ở Cao Bằng. Về bài viết, ở Cao Bằng
có tác giả Dơng Sách và Hoa Cơng, chủ yếu khai thác Then ở khía cạnh âm


6
nhạc. ở Trung ơng có các tác giả Nông quốc Thắng, Cung Khắc Lợc, Hà
Đình Thành, Đỗ Hồng Kỳ với các bài viết khai thác Then từ góc độ văn b¶n häc.
Tõ ci thËp kû 90 cđa thÕ kû XX đà xuất hiện các nghiên cứu Then với

các hớng tiếp cận mới, bớc đầu giải quyết đợc những vấn đề cơ bản của
Then, đặc biệt là vấn đề Shaman giáo trong Then. Các tác giả theo hớng này
có Ngô Đức Thịnh, Nguyễn Thị Hiền, Nguyễn Thị Yên, Đoàn Thị Tuyến với
các công trình nghiên cứu cấp Bộcác bài viết tham gia hội thảo quốc tế và
đăng trên các tạp chí, chuyên ngành
Năm 2006 sự ra mắt cuốn Then Tày của Nguyễn Thị Yên (Nhà xuất bản
Khoa học xà hội xuất bản) đợc coi là một nghiên cứu vừa cụ thể vừa mang
tính tổng thể về Then Tày đà đề cập và giải quyết đợc những vấn đề cơ bản
liên quan đến Then: bản chất tôn giáo tín ngỡng, sự hình thành biến đổi
(nguồn gốc), đặc điểm và trình tự diễn xớng, các giá trị văn hóa xà hội,v.v
Liên quan đến vấn đề âm nhạc và múa trong Then cũng đà có nhiều công
trình đợc giới thiệu. Đó là các tác phẩm nh: Xác định một cấp độ, cấu trúc
của Then của Nông Quốc Bình trong tạp chí văn hoá nghệ thuật tháng 91999; Đàn Then, tiếng nói tâm tình của dân tộc Tày của Lê Ngọc Canh ( Nhà
xuất bản Khoa học xà hội, Hà Nội, 1986) ; Âm nhạc Tày của Hoàng Tuấn
(Nhà xuất bản Văn hoá dân tộc, Hà Nội, 2000),v.v Các công trình này đà đề
cập đến những đặc trng sinh hoạt âm nhạc của đồng bào dân tộc Tày, những
thang âm và một số bài bản của Then. Đặc biệt, công trình Nét chung và
riêng của âm nhạc trong diễn xớng Then Tày Nùng của Nông Thị Nhình
(Nhà xuất bản Văn hoá dân tộc, Hà Nội, 2004) đà so sánh cảnh diễn xớng
âm nhạc và nghi lễ của đồng bào dân tộc Tày các tỉnh ở Việt Bắc, tìm ra sự
khác biệt giữa nơi này và nơi khác và tìm ra đợc những cái chung trong tổng
thể của Then. Công trình Múa tín ngỡng dân gian của Lê Ngọc Canh (Nhà
xuất bản Khoa học xà hội, Hà Nội, 1998) đà tập trung miêu tả các sinh hoạt
liên quan đến nghệ thuật múa của đồng bào dân tộc Tày trong đó có múa
Then, v.v


7
Ngoài ra còn một số luận văn, khoá luận chuyên ngành văn hoá dân gian
và âm nhạc dân gian. Tuy nhiên những công trình nghiên cứu kể trên chủ yếu

nghiên cứu các khía cạnh khác của Then, riêng nghiên cứu về âm nhạc trong
nghi lễ Then cầu an giải hạn của ngời Tày thì cha có công trình nào nghiên
cứu cụ thể và hệ thống.
Từ lịch sử su tầm nghiên cøu Then cã thĨ ®−a ra nhËn xÐt chung vỊ tình
hình su tầm nghiên cứu Then Tày ở Việt Bắc nh sau:
Từ năm 1990 trở về trớc là giai đoạn tập trung chủ yếu vào nghiên cứu
các khía cạnh nghệ tht trong Then. Mét sè vÊn ®Ị mÊu chèt trong Then
cha đợc giải quyết nh vấn đề bản chất tín ngỡng của Then, Then ở các địa
phơng khác nhau, phân biệt mối quan hệ giữa Then với các hình thức cúng
bái khác của ngời Tày nh: Tào; Mo; Pụt
Từ cuối những năm 1990 trở lại đây là giai đoạn đà có sự nhìn nhận
Then một cách tổng thể thông qua nghiên cứu diễn xớng Then; coi vấn đề tín
ngỡng là bản chất của Then, từ đó tìm hiểu bản chất tín ngỡng Then.
3. mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu chính của luận văn là dựng lên bức tranh toàn cảnh
về âm nhạc trong nghi lễ cầu an giải hạn của ngời Tày thông qua khảo sát
một nghi lễ cụ thể ở bản Pác Sào, xà Tô Hiệu, huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn.
Với sự phát triển của xà hội hiện đại, luận văn cũng hớng tới việc tìm ra giải pháp
bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá của âm nhạc Then trong thời hiện đại.
4. Đối tợng v phạm vi nghiên cứu
- Đối tợng nghiên cứu của luận văn là: âm nhạc trong nghi lễ cầu an
giải hạn qua khảo sát ở bản Pác Sào, xà Tô Hiệu, huyện Bình Gia, tỉnh Lạng
Sơn. Từ đó phần nào thấy đợc những đặc điểm về tôn giáo, tín ngỡng,
phong tục tập quán, đời sống văn hoá, nghệ thuật, các trò chơi dân gian.... của
tộc ngời Tày nói chung.


8
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn cũng bắt đầu từ việc tìm hiểu về diện
mạo văn hoá, lịch sử hình thành và phát triển, đời sống vật chất và tinh thần

cũng nh những nhu cầu thởng thức và sinh hoạt văn hoá, văn nghệ, nguyện
vọng của ngời Tày trong đó có Then. Tiếp đó luận văn đi vào việc giải mÃ
tính biểu tợng của nghi lễ và một số đề xuất cụ thể nhằm bảo tồn những giá
trị văn hoá của nghi lễ này. Luận văn cũng đa ra sự so sánh của âm nhạc địa
phơng này với địa phơng khác, để thấy sự khác nhau và giống nhau trong
chỉnh thể của nghi lễ.
5. Phơng pháp nghiên cứu
- Để nghiên cứu về lịch sử văn hoá của tộc ngời Tày, chúng tôi sử dụng
phơng pháp lịch sử - dân tộc học.
- Để khảo cứu tín ngỡng, phong tục và lễ hội chúng tôi dùng phơng
pháp so sánh tiếp cận.
Khâu thu thập tài liệu: Chúng tôi đà tổ chức nhiều đợt điền dà tại địa bàn
đợc chọn làm mẫu nghiên cứu, trực tiếp chứng kiến nghi lễ cầu an giải hạn
của đồng bào dân tộc Tày nơi đây.
Tài liệu thu thập đợc chủ yếu bằng các phơng pháp: Điều tra, phỏng
vấn, quan sát định lợng kết hợp với định tính... trong các đợt điền dà đó.
Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng những thiết bị kỹ thuật nh máy quay phim,
máy ảnh, máy ghi âm để có thể miêu tả, tái hiện nghi lễ một cách trung thực
và đầy đủ nhất.
Khâu xử lý tài liệu: Đợc tiến hành chủ yếu bằng phơng pháp so sánh,
phân tích tổng hợp dựa trên các công trình nghiên cứu đà công bố có liên quan
đến đề tài của các học giả.
6. ý nghĩa khoa học thực tiễn
Thông qua việc nghiên cứu một cách có hệ thống về âm nhạc trong nghi
lễ cầu an, giải hạn của đồng bào dân tộc Tày ở một địa phơng cụ thể, luận


9
văn có ý nghĩa bổ sung t liệu cho các nhà dân tộc học, cũng nh các nhà
nghiên cứu âm nhạc dân gian ở phơng diện lễ hội và bản sắc tộc ngời.

Luận văn cũng bớc đầu xác định giá trị văn hoá vật thể và giá trị văn
hoá phi vËt thĨ cđa nghi lƠ, ý nghÜa cđa nã trong đời sống của đồng bào dân
tộc Tày hiện nay và đề xuất những giải pháp mang tính định hớng đối víi
nghi lƠ nµy, nh»m gióp nghi lƠ nµy m·i lµ nét bản sắc riêng, độc đáo, đáng tự
hào và gìn giữ của đồng bào dân tộc Tày nơi đây.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
chính của luận văn đợc chia làm 3 chơng, cụ thể nh sau:
Chơng 1: Khái quát về Then và âm nhạc trong Then của ngời Tày
Chơng 2: Âm nhạc trong nghi lễ Then cầu an giải hạn
Chơng 3: Vai trò và giá trị của âm nhạc Then


10

Chơng 1

Khái quát về Then v âm nhạc trong Then
của ngời ty
1.1. Khái quát về ngời Tày ở Việt Nam
1.1.1. Vài nét về lịch sử tộc ngời Tày
Ngời Tày ở khắp các tỉnh thợng du và trung du Bắc Bộ, dọc biên giới
Việt Trung, tụ c trong các thung lũng, cánh đồng thuộc vùng thợng lu các
con sông Kỳ Cùng, Bằng Giang, Sông Cầu, Sông Thơng, Sông Lục Nam,
Sông Lô, Sông Chảy thuộc các tỉnh: Bắc Kạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên
Quang, Hà Giang.
Từ thời đồ đá mới, ngời Tày đà có mặt ở Đông Nam á cùng với ngời
Khơ Me cổ và Inđônêxia trong thành phần của khối Bách Việt. Di tích khảo
cổ học cho thấy, cách đây 5000 năm trên mảnh đất quê hơng của ngời Tày
đà có con ngời thời đại đồ đá mới. Theo t liệu sử học và văn học dân gian,

những bộ lạc đợc gọi là Âu Việt của ngời Tày cổ nằm trong nớc Văn Lang
do các Vua Hùng xây dựng sống ở miền trung du và miền núi Việt Bắc ngày
nay. Là dân c đà sớm biết sử dụng đồ sắt, làm cho kinh tế và văn hoá ở giai
đoạn lịch sử này ngày càng phát triển cao. Truyền thuyết Pú Lơng Quân,
Cẩu Chủa Cheng Vùa, nói về sự có mặt của ng−êi Tµy tõ thêi kú xa x−a ë
ViƯt Nam vµ những công tích của họ trong xây dựng đất nớc vẫn còn lu
truyền đến ngày nay.
Xa kia ngời Tày c trú trong một địa vực rộng lớn hơn ngày nay. Trong
quá trình lịch sử, ngời Tày ở vùng trung du đà hoà hợp với ngời Việt và
ngời Mờng thành những ngời Việt hiện đại, còn bộ phận những ngời Tày
cổ sống ở miền núi là tổ tiên ngời Tày hiện nay.
Trong tiến trình lịch sử của đất nớc, ngời Tày đà góp phần làm nên
những chiến công lịch sử vẻ vang chống giặc ngoại xâm của dân tộc:


11
Từ thế kỷ thứ III trớc công nguyên, các bộ lạc Âu Việt liên minh với
Lạc Việt, thuộc khối Việt- Mờng thành lập nớc Âu Lạc do Thục Phán đứng
đầu, sau xng là An Dơng Vơng đà đánh bại mấy chục vạn quân xâm lợc
nhà Tần hung hÃn nhất Châu á lúc bấy giờ.
Vào những năm 40 đầu công nguyên, trong công cuộc khởi nghĩa chống
ách thống trị của quân Hán xâm lợc do hai nữ anh hùng Trng Trắc, trng
Nhị lÃnh đạo, tổ tiên của ngời Tày đà tham gia tích cực mà ngày nay nhân
dân ở Việt Bắc vẫn còn lu truyền nhiều truyền thuyết về cha ông mình đÃ
tham gia cuộc khởi nghĩa này.
Dới triều Trần thế kỷ XIII, trong ba lần quân Mông Cổ xâm lợc nớc
ta, dới sự lÃnh đạo của các thủ lĩnh miền núi trong đó có Lơng Uờt ngời
Tày ở Cao Bằng đà giúp triều đình tiêu diệt sinh lực địch.
Sau khi nhà Minh đặt ách đô hộ trên đất nớc ta, ở Việt Bắc mùa thu năm
1407 nhân dân Tày ở biên giới đà vũ trang kháng chiến, giết chết đô đốc Cao

Sĩ Văn của giặc.
1.1.2. Một số nét Đặc trng trong văn hoá của ngời Tày
Văn hoá ẩm thực
Qua khảo sát ở huyện Bình Gia (Lạng Sơn) cho thấy ngời Tày và ngời
Nùng là c dân sống trong cùng một hệ sinh thái, có mối quan hệ lâu đời về
nguồn gốc, văn hoá và tâm lý tộc ngời. Vì vậy, trong một số mặt của đời
sống văn hoá khó phân biệt đợc rạch ròi sự khác nhau giữa dân tộc Tày và Nùng.
Lơng thực, thực phẩm chính của ngời Tày chủ yếu đều là sản phẩm thu
đợc từ hoạt động sản xuất nh: cấy trồng, chăn nuôi thu lợm đợc trong tự nhiên.
Ngời Tày ăn hai bữa chính, bữa tra (kin ngài) và bữa tối (kin piầu), gia
đình nào khá giả hơn thì thêm bữa phụ nữa (kin lèng). Khi ăn mọi thành viên
trong gia đình ngồi quanh mâm, con dâu không ngồi chung mâm với bố
chồng, con rể không ngồi chung mâm với mẹ vợ. Khi có khách, chủ gia đình
ngồi ăn cơm riêng với khách.
Các món ăn của ngời Tày chế biến rất đa dạng, ngoài cơm để ăn hàng
ngày bằng gạo tẻ ra, còn có gạo nếp đợc nấu thành nhiều loại xôi, điển hình


12
nhất là các loại xôi đợc nhuộm nhiều mầu từ lá cẩm, trám đen, trứng kiến,
xôi gừng... món đặc trng của ngời Tày là cơm lam (khẩu lam). Gạo tẻ và
gạo nếp còn đợc chế biến thành nhiều loại bánh nh: Bánh chng, bánh dày,
bánh vắt vai, bánh lẳng....
Các món ăn đợc chế biến từ rau, quả cũng rất phong phú, vừa phù hợp
với nhu cầu sử dụng khác nhau, vừa phù hợp với khí hậu, thời tiết và khả năng
cung cấp đầy đủ năng lợng cho con ngời.
Ngoài các món ăn ngời Tày còn có những đồ uống và thuốc hút đặc
trng. Rợu là đồ uống phổ biến, nổi tiếng là rợu đợc nấu từ các loại gạo
nếp và nớc suối cùng với men lá đặc trng của ngời Tày. Tục uống rợu thể
hiện sự hiếu khách đó là ng chÐo chÐn, hai tay ®an xen nhau thĨ hiƯn tình

đoàn kết giữa chủ nhà và khách. Bình Gia và Bắc Sơn là vùng trồng cây thuốc
lá nổi tiếng thơm ngon. ngời dân nơi đây có thể quấn thuốc lá bằng tay. Bên
cạnh đó thuốc lào cũng đợc sử dụng nhiều.
Văn hoá ẩm thực của ngời Tày thể hiện sự chế biến cầu kỳ, tinh xảo,
điều đó đà khẳng định sự phát triển về nhận thức của ngời Tày trong môi
trờng sinh thái cao hơn các tộc ngời khác cùng c trú.
Trang phục:
Trang phục của ngời Tày đợc cắt may từ vải bông tự dệt, nhuộm chàm.
Trang phục của nam giới có: áo, quần, mũ nồi. Nếu mặc trong các nghi lễ thì
nam giới mặc áo dài, đầu quấn khăn xếp, đặc biệt, để thể hiện sự giàu sang thì
ngời đàn ông trớc kia thờng bịt răng bằng vàng, hoặc bạc.
Trang phục của phụ nữ có áo cánh ngắn màu trắng mặc bên trong, áo dài
năm thân mặc bên ngoài, khi mặc áo dài họ thờng mặc theo từng cặp, tà áo
phủ gần hết gấu quần, ống tay áo bó chặt dần về phía bàn tay, quần của phụ
nữ Tày dài chấm gót. Phụ nữ Tày tôn thêm vẻ đẹp của thân hình bởi chiếc thắt
lng, thắt lng cùng màu với áo có độ dài bằng 10 vuông vải (mỗi vuông bằng
40cm) đợc dệt bằng sợi bông hay tơ tằm nhuộm chàm và đợc buộc ra bên
ngoài áo dài. Phụ nữ Tày ra ngoài trời thờng đội nón đan bằng giang, b»ng


13
nứa lợp lá. Phụ nữ tày chải tóc vấn khăn, chít khăn nh ngời Kinh. Đồ trang
sức chủ yếu bằng bạc nh: vòng cổ, vòng tay, dây xà tích và chiếc túi thổ cẩm
đeo bên hông.
Có thể nói, trang phục của ngời Tày, đặc biệt của phụ nữ Tày dù ở các
vùng miền, địa phơng khác nhau đều thống nhất cùng kiểu loại, tinh tế trong
cách chọn mầu, chọn vải. áo, quần, khăn đều đồng mầu, ít trang trí thêu thùa,
mà chỉ trang trí làm nổi bật bằng vòng cổ, vòng tay, xà tích làm cho trang
phục của phụ nữ Tày đạt tới độ thanh lịch và kín đáo, thể hiện tính cách mềm
mại và duyên dáng, cần cù chịu khó rất riêng của phụ nữ Tày.

Ngoài ra ngời Tày còn có những trang phục riêng cho trẻ em nh: Địu,
mũ, túi... đều đợc thêu thổ cẩm với những gam mầu, họa tiết hoa văn riêng
độc đáo. Một số trang phục riêng của các thầy cúng (Mo,Then): Tang phục, lễ
phục, đều có đặc điểm riêng phù hợp với công việc nghi lƠ.
Nhµ ë:
Nhµ sµn lµ kiĨu nhµ trun thèng vµ phỉ biÕn cđa ng−êi Tµy. Cã hai kiĨu
nhµ sµn, mét kiểu nhà bốn mái, (tứ thiết) và kiểu nhà hai mái. Việc xây dựng
một ngôi nhà sàn của ngời Tày đòi hỏi tốn rất nhiều công sức và thời gian
chuẩn bị. Chọn đất tìm hớng nhà là rất quan trọng đối với ngời Tày, theo họ
thì đất và hớng nhà có ảnh hởng rất lớn đến công việc làm ăn sinh sống của
cả đời ngời. Nguyên vật liệu chính để làm nhà sàn chủ yếu là gỗ, tre, nứa, lá
và ngói, thời gian chuẩn bị ít nhất một năm có khi tới vài năm.
Ngôi nhà sàn là một ngôi nhà tổng hợp, đợc ngời Tày bố trí sử dụng
hợp lý và tối đa để phục vụ đời sống sinh hoạt của con ngời. Nhà sàn thờng
cao từ 7 đến 8m, chiều sâu từ 5 đến 9 hàng cột. Trong nhà sàn, gác có thể làm
ở tất cả các gian và thờng là nơi cất trữ các sản vật nông nghiệp. Nhà sàn là
nơi tập trung mọi sinh hoạt của gia đình, gầm sàn là nơi để dụng cụ sản xuất
nh: cuốc, xẻng, cầy, bừa, cối xay. Có nhiều nơi còn để nuôi nhốt gia súc, gia
cầm. Sân phơi thờng đợc làm bằng gỗ ở trớc ngôi nhà, vừa để làm nơi chơi
của trẻ con, vừa là nơi phơi thóc, lúa, quần áo. Ngôi nhà sàn thể hiện rõ phong
tục tập quán, nề nếp, trật tự trong gia đình ngời Tày. Bố cục của ngôi nhà


14
thờng đợc chia theo chiều ngang hay chiều dọc (tính từ cửa chính), nửa trên
(phía trớc bàn thờ) gần cửa chính là nơi diễn ra mọi sinh hoạt của nam giới,
đồng thời là nơi tiếp khách, nửa dới (phía sau bàn thờ) dành cho phụ nữ.
Trong nhà sàn có hai bếp, bếp chính dùng để nấu nớng và ngồi sởi ấm mỗi
khi mùa đông về, bếp phụ xây bằng gạch mộc trát đất, dùng để nấu rợu, nấu
cám lợn, một số gian dùng để đựng đồ dùng gia đình nh: Chạn bát, xoong,

nồi, thúng, mẹt, chum nớc... ở những nơi có nguồn nớc thuận tiện thì ngời
dân dùng cây vầu làm máng nớc dẫn từ khe, từ suối về tận nhà.
Tập quán chung của ngời Tày là bố trí buồng ngủ của phụ nữ theo thứ
tự: buồng chị dâu cả ở gian đầu, rồi tiếp đến là thứ hai, ba. Con gái cha
chồng bao giờ cũng ở gian cuối, giữa các buồng đợc ngăn cách với nhau
bằng ván hoặc phên nứa. Tập quán còn quy định, bố chồng không đợc vào
buồng con dâu, em dâu. Nếu có khách là đàn bà thì con dâu tiếp khách ở bên
bếp lửa hoặc trong buồng của mình, không đợc tiếp khách là nữ ở trên nhà,
trớc bàn thờ tổ tiên. Cho đến bây giờ, nhiều nơi vẫn còn giữ tập quán con
dâu, em dâu không ngồi ăn cùng mâm với bố chồng, anh chồng; Con rể không
đợc ngồi với mẹ vợ, bữa cơm trong gia đình phải đợc dọn thành hai mâm.
đó là nét văn hoá độc đáo và riêng biệt của ngời chủ ngôi nhà sàn.
Quan hệ gia đình và dòng họ:
Cho tới Cách mạng tháng Tám, ở vùng ngời Tày không còn kiểu gia
đình lớn, con cháu nhiều đời sinh sống chung dới một mái nhà. Hình thái gia
đình của ngời Tày thuộc loại gia đình nhỏ, phụ hệ, tức là gia đình hạt nhân và
gia đình hạt nhân mở rộng. Cũng nh nhiều gia đình tộc ngời khác, gia đình
ngời Tày là một tế bào xà hội, là một đơn vị kinh tế độc lập. Ngời đàn ông
trong gia đình chiếm vị trí trụ cột và có vai trò quyết định các vấn đề tổ chức
sản xuất, các công việc trọng đại, là ngời điều hoà các mối quan hệ trong và
ngoài gia đình, có quyền thừa kế tài sản.
Hôn nhân ở ngời Tày đợc đặt ra khi con cái ®Õn ti 14, 15, cã khi sím
h¬n, nh−ng ®Õn ti 17, 18 mới tổ chức cới. Hôn nhân thờng phải đợc sự
đồng ý của cha, mẹ và số mệnh.


15
Ngời phụ nữ Tày, nhất là dâu trởng có vai trò đặc biệt quan trọng trong
gia đình, vừa lao động, vừa lo việc nhà, vừa lo mọi chi tiêu ăn uống trong gia
đình, sinh đẻ và giáo dục con cái. Về mặt xà hội, họ không đợc đề cao bằng

nam giới, nhng trong gia đình họ đợc coi trọng.
Trong giao tiếp, ứng xử gia đình ngời Tày vai trò thứ bËc nỉi lªn rÊt râ,
thÕ hƯ tr−íc, thÕ hƯ kÕ tiếp, thế hệ sau với các duy danh: ông, bà, cha, mẹ, con,
cháu...theo những quy định và nguyên tắc chặt chẽ nhng rất mạch lạc, không
chà đạp lên nhau, ít phđ qut lÉn nhau, céng víi nh÷ng phong tơc tËp quán
hết sức tốt đẹp đà tạo nên nét đẹp tiêu biểu của truyền thống văn hoá dân tộc.
Ngời Tày có nhiều họ, mỗi bản có một, hai, hoặc ba họ, trong quan hệ
dòng họ, có một trong những nguyên tắc phải thực hiện là ngoại hôn, không
đợc kết hôn với ngời cùng họ. Những ngời cùng họ, nhất là họ gần hoặc
cùng chi rất thơng yêu nhau, đùm bọc nhau trong lao động sản xuất và giao
tiếp xà hội. Ngời Tày có hai họ: nội và ngoại, trong đó họ nội đợc coi trọng
hơn, khi tính mối quan hệ thân tộc thì theo trực hệ họ cha, ngoài ra còn có các
mối quan hệ đồng tộc với họ mẹ, họ vợ, đó cũng là mối quan hệ chia đều về
thân tộc, thích tộc của ngời Tày.
Quan hệ làng bản:
Tổ chức xà hội truyền thống của ngời Tày là bản. Bất cứ gia đình của
ngời Tày nào cũng đều sinh sống ở một bản nào đó. Trớc hết, bản của ngời
Tày mang tính cộng mệnh về sở hữu đất đai và tôn thờ những biểu tợng về
tâm linh và sự che chở của thần bản mệnh chung của thôn bản: Thổ thần,
Thành hoàng, thần sông, thần núi, thần nông, Phật. Bản làng ngời Tày còn
còn là nơi cộng cảm văn hoá, trên cơ sở cộng c, cộng đồng sở hữu, đó là nơi
nơng tựa, đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau trong lao động sản xuất, thể hiện ở tục lệ
vần công, đổi công hoặc biểu hiện rất rõ ở các mặt văn hoá tinh thần nh
các dịp lễ tết, hội hè đình đám, cúng bái của cộng đồng làng bản hoặc của gia
đình, toàn bản mọi ngời đều tham gia đông đảo. Mỗi thành viên trong cộng
đồng nhập thân vào các hoạt động văn hoá chung, tiếp nhận những giá trị


16
văn hoá tiêu biểu. Tất cả những điều đó trải qua bao đời đà góp phần tạo nên

tính cộng đồng cao ở các bản của đồng bào dân tộc Tày nói chung.
Tín ngỡng, tôn giáo, phong tục:
Những hình thức vạn vật hữu linh, nh thờ thần đá, thờ thần cây, thờ thần
đất, thờ thần nớc, thần núi, thờ linh hồn các con vật, các vật dụng. Đây là
hình thức tín ngỡng rất cổ xa của loài ngời, là nhân tố cơ bản tạo nên tất cả
các hình thái tín ngỡng, tôn giáo của nhân loại, không kể ở trình độ thấp hay
phát triển cao. Tín ngỡng vạn vật hữu linh dới dạng nguyên thuỷ hay tàn d
của nó tồn tại trong tất cả các tộc ngời ở nớc ta.
ngời Tày hầu nh không có một tôn giáo nào chiếm vị trí thống trị,
cũng không có một vị thần chúa tể nào. Tiêu biểu trong tín ngỡng ngời Tày
là thờ cúng tổ tiên, trớc hết ngời Tày thờ thần gia đình là chính, bên cạnh
đó họ cũng thờ các vị thần khác với mục đích bảo vệ sức khoẻ và mùa màng.
Ngời Tày gói ghém tất cả thế giới thần linh và các loại yêu ma vào một
khái niệm chung đó lµ “phi” nghÜa lµ “ma”. Ng−êi Tµy cho r»ng con ngời
chết đi sẽ thành phi, nh thế tổ tiên và cha ông đà qua đời đều là phi. Nhng
trong quan niệm dân gian có phi thiện và phi ác đều ở cả ba thế giới: trên trời,
dới âm phủ, trên mặt đất. Mọi ngời dân trong cộng đồng có thể thông qua
cúng lễ, cầu khấn thần linh phù hộ mong sao không gặp những điều rủi ro
trong cuộc sống. Tuy nhiên, có nhiều trờng hợp làm tang ma, cúng chữa
bệnh, trừ tà ma, giải hạn phải nhờ đến những ngời hành nghề cúng bái, đó là
các thầy Tào, Thầy Mo, Then, Pụt... đặc biệt là các Then. Các loại Phi cáy
:ma gà, ma cà rồng, "ma xó... theo quan niệm dân gian cho rằng đó cũng
là ma thuật cá nhân nào đó, có thể gây tai hại nên bị cộng đồng xua đuổi, xa
lánh. Cũng có trờng hợp, dùng ma thuật kết hợp với thuốc nam chữa bệnh do
các thầy Tào, Mo, Pụt, Then sử dụng.
Bên cạnh các tín ngỡng dân gian bản địa, ngời Tày còn có những tôn
giáo khác ảnh hởng đến đời sống tâm linh đó là: Đạo giáo, Phật giáo, Nho
giáo. Ngời Tày không tiếp thu phần triết học đạo đức của Đạo giáo, không
tiếp thu từ bi bác ái của Đạo Phật, không theo tề tu trị bình của đạo Khổng,



17
mà chủ yếu tiếp thu khía cạnh mê tín dị đoan của tam giáo. Do đó ảnh hởng
của tam giáo khá đậm nét trong các tục lệ, nghi lễ cúng bái của ngời Tày.
hầu hết tất cả các vị thần đều khoác áo tam giáo.
Có thể nói rằng, tôn giáo của ngời Tày là một thứ tín ngỡng đa thần,
pha trộn giữa những tàn d của vật linh giáo nguyên thuỷ với những yếu tố
của Đạo giáo, đạo Phật, đạo Khổng.
Yếu tố tam giáo đợc thể hiện rõ nhất trong tang lễ của ngời Tày, quan
niệm siêu linh, tĩnh độ buộc ngời Tày phải tổ chức ma chay một cách phức tạp.
1.2. Khái quát về Then của ngời Tày
Một trong những sinh hoạt văn hoá truyền thống đợc thể hiện trong
những dịp lễ tết, các nghi lễ trong năm và các nghi lễ của chu kỳ đời ngời
của ngời Tày đó là hình thức sinh hoạt Then.
Then là một loại hình nghệ thuật, một sinh hoạt văn hoá tín ngỡng đà có
từ lâu đời và đợc quần chúng rất a thích. Then phổ biến trong các bản làng
ngời Tày, Nùng ở miền Bắc Việt nam, mà đặc biệt là ở Việt Bắc, trong đó có
Lạng Sơn. Tuỳ theo mỗi địa phơng mà Then có các tên gọi khác nhau nh:
Pụt, Bụt, Giàngnhng Then là tên gọi chung và phổ biến hơn cả.
1.2.1.KháiniệmvềThen

Cho đến nay vẫn cha có một định nghĩa thật rõ ràng, nhng tất cả mọi
cách giải thích đều ®i ®Õn mét quan niƯm chung gÇn thèng nhÊt: Then là trên
(có nơi gọi là Sliên), là con của trời. Họ là ngời giữ mối liên hệ giữa ngời
trần gian với Ngọc Hoàng và Long Vơng. Khi họ làm Then, họ là đại diện
cho ngời trời giúp cho ngời trần gian cầu mong đợc sự tốt lành, là làm điều
thiện cứu giúp cho ngời trần gian.
Theo quan niệm dân gian của ngời Tày, Nùng, thế giới tâm linh của
Then là một thế giới đa thần. Có thần sống ở dới đất, có thần sống ở trên trời
và lại có thần sống ở âm phủ. Trong đó, những ngời sống ở trên trời là có

quyền uy hơn cả. Ngời ta tin rằng, Then giữ vai trò trung gian giữa thế giới
thần linh víi thÕ giíi con ng−êi. Then giao tiÕp víi thÕ giíi thÇn linh, trun


18
nguyện vọng của con ngời đến với thần linh và thông qua Then, thần linh sẽ
giúp con ngời thực hiện những nguyện vọng đó. Mỗi khi thực hiện cuộc hành
trình từ mặt đất lên trên trời, Then cùng đội quân Then dùng lời hát, tiếng đàn
diễn tả cuộc hành trình qua nhiều cửa ải đầy khó khăn, vất vả của mình.
Trên thực tế, Then đem hết cho con ngời một niềm tin, cho dù không thể
giải thích bằng ngôn ngữ và lôgích thông thờng, cho dù niềm tin đó có hÃo
huyền và phi lí, xong nó vẫn là cứu cánh cho cuộc sống và là hạt nhân của mọi
quan hệ với sự tồn tại, cân bằng và ổn định của xà hội, cộng đồng và cá nhân.
Ngoài ra, Then còn đợc coi là thầy thuốc chữa bệnh là những nghệ sĩ
dân gian của bản làng. Với t cách là thầy thuốc chữa bệnh, Then đem đến
cho ngời bệnh liều thuốc tinh thần là chính. Còn với t cách là nghệ sĩ dân
gian, Then thực sự là một nghệ sĩ đa tài, đợc nhân dân ngỡng mộ và yêu
mến. Ngời làm Then vừa là một ca sĩ, vừa là một nhạc công điêu luyện, vừa
đánh đàn vừa hát, đồng thời họ cũng là một nghệ sĩ múa tài ba trớc đám đông
ngời hâm mộ.
Nguồn gốc của Then
Lâu nay trong giới su tầm, nghiên cứu đều có những ý kiến khác nhau
về nguån gèc cña Then. Cã ý kiÕn cho r»ng Then có từ rất lâu đời, nhng cũng
có ý kiến căn cứ vào các giai thoại ở Cao Bằng mà cho rằng Then có từ thời
nhà Mạc lên chiếm cứ ở Cao Bằng tức là trong khoảng các thế kỷ XVI, XVII.
Trong cuốn Lời hát Then xuất bản năm 1975 có giới thiệu nhiều giai thoại
trong dân gian với các cách giải thích khác nhau về nguồn gốc Then nhng
điều thống nhất trong cả 5 tỉnh Việt Bắc cho rằng Then có từ Cao Bằng.
Gần đây, trong cuốn Then Tày, bằng những t liệu thực địa và t liệu so
sánh về tôn giáo tín ngỡng giữa các nhóm Tày, giữa ngời Tµy vµ ng−êi

Nïng ë ViƯt Nam víi ng−êi Choang ë Trung Quốc, tác giả Nguyễn Thị Yên
lần đầu tiên đà đa ra giả thuyết về sự hình thành và biến đổi của Then. Theo
tác giả thì sự hình thành của Then là có liên quan đến quá trình giao lu biến
đổi của nhiều tầng, nhiều lớp tín ngỡng đến từ nhiều phía mà sự có mặt của


19
nhà Mạc ở Cao Bằng có thể coi nh là một cái mốc quan trọng đánh dấu sự
hình thành của Then Tày nh diện mạo hiện nay. [43 : 208-228]
1.2.3.NgờilàmThen

Theo tác giả Nguyễn Thị Yên, ngời làm Then bao gồm cả nam và nữ.
Điểm nổi bật của những bà Then, ông Then là họ phải biết đàn, hát, múa,
trong đó khả năng chơi đợc đàn Then là đặc điểm cơ bản để phân biệt cách
thức hành nghề của họ với các thầy cúng khác. Bên cạnh đó, họ còn là ngời
am hiểu văn hoá và các thủ tục tiến hành các nghi lễ tín ngỡng của dân tộc họ.
Trong quá trình vào nghề của ông Then, bà Then thờng đợc xuất thân
từ gia đình có truyền thống, nếu là phụ nữ có thể phải nối nghiệp làm Then
cho nhà chồng, số ít hơn trở thành Then đó là những ngời có căn Then (mỉnh
bang). Tiêu chuẩn của ngời làm Then phải là ngời nhẹ vía (minh mẩ), có
căn số làm thầy cúng. Ngời có căn số thờng mê Then, nhạy cảm với Then,
có thể múa một cách bản năng theo các trờng đoạn Then. [61. 43]
Ngời đợc lựa chọn trở thành Then không gắn liền với một lứa tuổi nhất
định, cã thĨ tõ 12 – 16 ti, cịng cã khi 50 tuổi mới vào nghề, thậm chí nhiều
tuổi hơn. Nổi bật của ngời làm Then đó là, họ đều có những biểu hiện bị ốp
làm nghề.
Có thể trong quy định chung của Then cũng nh trong hành lễ, giữa các
Then không có phân biệt về giới tính, các Then đều phải thực hiện các kiêng
kị, các nghi thức, nghi lễ tơng tự nh trong sinh hoạt đời thờng, họ hoàn
toàn không có biểu hiện giống nhau về phơng diện giới.

Trong phạm vi gia đình dòng họ có Then, ngời đợc lựa chọn có thể là
con trai, con gái, con dâu. Ngời đợc lựa chọn là con trai, thì ngời đó vẫn
lấy vợ, sinh con bình thờng, nhng nếu là con gái, thì ngời đó hiếm khi lấy
chồng để chuyên tâm vào công việc, sự trinh tiết sẽ cho ngời con gái đó giao
tiếp với thần linh đợc tốt hơnĐÃ có nhiều ông Then, bà Then là cán bộ nhà
nớc, có ngời còn giữ chức vụ quan trọng trong các cấp chính quyền, do bị
ốp đà phải miễn cỡng hành nghề, họ là ngững ngời phụ nữ đảm đang trong
công việc, là những ngời cán bộ năng động trong công tác tuyên truyền các


20
chính sách của Đảng và nhà nớc Tất cả họ đều có thể trở thành ông Then,
bà Then.
Muốn chính thức làm nghề, ngời làm Then phải nhận thầy và trải qua lễ
cấp sắc với ý nghĩa nhận chứng chỉ hành nghề, nhận mũ áo, binh mÃ, dụng cụ
hành nghề do Ngọc Hoàng ban cấp. Vì vậy với lễ cấp sắc ngời làm Then
chính thức trở thành một vị quan võ dới trớng của Ngọc Hoàng, thừa lệnh
Ngọc Hoàng đi cứu nhân độ thế.
1.2.4.DiễnxớngThen

Trong cuốn Then Tày, tác giả Nguyễn Thị Yên đà phân loại các nghi lễ
Then thành bốn loại mà tơng ứng với nó là bốn hình thức diễn x−íng tiªu
biĨu nh− sau:
1) DiƠn x−íng Then chóc tơng
2) DiƠn xớng Then bói
3) Diễn xớng Then đi hành nghề
4) Diễn xớng hội Then
Trong 4 hình thức diễn xớng trên thì diễn xớng Then đi hành nghề là
công việc chủ yếu của Then, nó bao gồm nhiều công việc liên quan đến nhu
cầu của các gia chủ: cầu yên giải hạn, chữa bệnh, chúc thọ, cầu con (Hất

Bjoóc), cúng ma cho ngời chết (Tháy phi),v.v
Diễn xớng hội Then còn gọi là LÈu Then hay LÈu Pùt lµ ngµy vui, ngµy
héi cđa Then. Thờng những ngời làm Then cứ ba năm một lần phải làm Lẩu
Then, đó là cái mốc đánh dấu b−íc tr−ëng thµnh cđa ng−êi lµm Then. Trong
lÈu Then cã hai loại: Trung lễ và đại lễ. Những ngời hoàn cảnh kinh tế khó
khăn, đến hạn phải làm trung lễ để khất đến ngày đại lễ, cũng có những trờng
hợp Then đà đợc cấp sắc, nhng vì điều kiện cha có đầy đủ binh mà cũng
phải làm trung lễ để tuyển thêm binh mÃ.
Đại lễ cấp sắc là cuộc đại hội của nhà Then. Nhà Then đem lễ vật, hơng
hoa, rợu trà, vàng bạc châu báucống dâng Ngọc Hoàng để đợc Ngài
thăng chức cho thêm uy quyền và cấp thêm binh mà tăng thêm sức mạnh. Lễ


21
này phải do nhiều ngời tham gia, gồm các thầy Then trong cùng dòng nghề
hoặc các con cháu đệ tử trong một gia đình Then.
Tiến trình của một cuộc Lẩu Then phải đi qua 12 cửa ải, bắt đầu từ công
tác dọn đờng (phát tàng); Giải uế; Cấm thế; Loạt lẩuphân bố một cách hợp
lý theo trình tự thời gian nh: Ngày thứ nhất: Mở đờng, trình việc; Ngày thứ
hai: Dâng lễ vật, cấp sắc; Ngày thứ ba: Đón tớng, vui ch¬i khao héi, kÕt thóc.
[90. 43].
Nh− vËy, vỊ c¬ bản Then có hai loại diễn xớng: diễn xớng tiểu lễ thuộc
các loại lễ Then đi hành nghề, chủ yếu một mình thầy độc diễn hoặc có thêm
một vài đệ tử tham gia và diễn xớng đại lễ với sự tham gia của nhiều thầy
Then. Dù dới hình thức độc diễn hay tập thể thì về cơ bản diễn xớng nghi lễ
Then cũng quy tụ khá đầy đủ các yếu tố nghệ thuật: nghệ thuật biểu diễn:
đàn, hát, múa, sân khấu; nghệ thuật trang trí (cắt giấy, bố trí không gian
hành lễ, v.v).
1.3. Khái quát về âm nhạc trong Then của ngời Tày
Liên quan đến âm nhạc Tày, trong cuốn Âm nhạc Tày, tác giả Hoàng

Tuấn đà đa ra đợc toàn cảnh về sinh hoạt âm nhạc của ngời Tày, không
phải chỉ ở lĩnh vực hát nghi lễ mà còn đề cập đến những vai trò của âm nhạc
tác động đến đời sống xà hội của ngời Tày nói chung.
1.3.1.VaitròcủaâmnhạctrongđờisốngcủadântộcTày

Bất kể dân tộc nào trên trái đất đều có một nền âm nhạc riêng, dù nó phát
triển cao hay cha phát triển cao, tất cả đều yêu thích âm nhạc, ham muốn ca
hát và xây dựng nên một đời sống âm nhạc đa dạng, gắn chặt chẽ với mọi sinh
hoạt tinh thần của dân tộc mình. Ngời Tày có những suy nghĩ, những cách
biểu lộ riêng của mình để nói lên lòng ham thích âm nhạc, nói nên cần thiết
phải ca hát để tô thắm cuộc đời. Âm nhạc không thể thiếu trong đời sống của ngời
Tày, họ thờng nghĩ Bấu lợn là bấu vùi nghĩa là Không lợn là mất vui.
Âm nhạc đối với ngời Tày, nh có một sức mạnh đặc biệt, một phép
màu kỳ diệu có thể cải lÃo hoàn đồng. Vì vậy họ lạc quan cho r»ng:


22
Ké qua tàng đẩy thỉnh lợn Then
Mừa rờn táng piến pền báo ón
Dịch nghĩa:
Già qua đờng nghe tiếng lợn Then
Về nhà tự biến thành trai trẻ
Chính vì vậy trong sự tích cây đàn tính, ngời Tày xây dựng nhân vật
Xiên Câm đà ba mơi tuổi mà vẫn cha lấy đợc vợ, anh ta cho rằng chỉ có
âm nhạc mới giải đợc nỗi buồn này nên đà tạo ra cây đàn tính để qua đó gửi
gắm nỗi u sầu của mình vào âm nhạc.
Ngời Tày thờng cho rằng, những ngời không biết ca hát là những
ngời thô bạo, vụng về, chạm vào đâu là làm đổ vỡ đấy, gây tác hại cho xung
quanh, nên không muốn những ngời này vào bản:
Bấu chắc lợn, giá khẩu bản mà

Nhẳm cằn nà khỏi biải
Nhẳm cáy phặc khỏi thai
Nhẳm coong khỉ vài khỏi biải
Dịch nghĩa:
Không biết lợn đừng vào bản em
Dẫm bờ ruộng em lở
Dẫm chết mái gà của em
Dẫm nát cả bÃi phân trâu
Ngời Tày đòi hỏi cuộc sống phải có âm nhạc, phải có ca hát để con trai,
con gái đợc mời nhau lợn cho bõ sống ở trên thế gian này:
Thặt cằm cạ đuổi bạn duyên phần
Trắc trở duyên thì, đảy kỷ xu©n


23
Nạy nẩy slơng căn, slơn bấu nọi
Sle tê đảng slổng, phạ sinh lồng
Dịch nghĩa:
Đôi lời tha với bạn tri ân
Phơi phới đơng thì đà mấy xuân
Thơng mến giờ đây nh sóng dậy
Để cho bõ sống ở thế gian này
Trong tất cả các loại hình nghệ thuật dân gian cổ truyền của ngời Tày,
âm nhạc là loại hình gắn liền chặt chẽ với cả cuộc đời con ngời. Âm nhạc đi
với con ng−êi Tµy theo st chiỊu dµi cđa sù lín lên của từng lứa tuổi, nó chia
sẻ mọi niềm vui, nỗi khổ, làm cho con ngời càng thêm yêu cái thiện và ghét
bỏ cái ác. Ngời Tày cho rằng âm nhạc gợi cho con ngời nhận ra núi non,
sông suối, ruộng đồng làng bản, quê hơng của mình, đâu đâu từ khóm cây,
ngọn cỏ xung quanh mình, đều vô cùng quý giá và thân thiết, mÃi mÃi tơi
đẹp và hùng vĩ.

khi con ngời vẫn đang trong bào thai của mẹ, thì đà đợc nghe những
tiếng nhạc từ bên ngoài và phần nào đà cảm nhận đợc những âm thanh đó. ở
ngời Tày, âm nhạc đến đầu tiên với con ngời chính là những tiếng hát ru êm
ái của ngời Mẹ, ngời Tày gọi là Vén lục, đó là những làn điệu trìu mến,
vang lên theo nhịp đu đa của chiếc nôi xinh xinh, vuốt ve, bao bọc đứa trẻ
trong giấc ngủ ngon lành.
Đối với những chàng trai, cô gái Tày trong ngày hội, hoặc những dịp gặp
gỡ nào khác, tiếng hát lại đa họ vào những rung cảm của lứa tuổi yêu đơng.
Tiếng hát giao duyên không chỉ là một sinh hoạt âm nhạc đối với họ, mà còn
là một bộ phận tinh thần của hôn nhân nữa, cũng nhờ tiếng hát giao duyên đó
mà bao nhiêu đôi trai gái nên vợ, thành chồng.
Cũng giống với nhiều dân tộc khác, ở ngời Tày khi có ai đó qua đời thì
âm nhạc đà chia sẻ nỗi đau thơng của gia chủ, âm nhạc đà góp phần vào các
nghi thức tang lễ để ngời quá cố đợc siêu linh tĩnh độ.


24
Trong những ngày đầu xuân năm mới, ngời Tày có nhiều ngày hội, ở đó
không thể thiếu những câu hát đối đáp cầu xin các vị thần bảo vệ mùa màng,
bảo vệ cho cộng đồng, ban cho một cuộc sống tơi đẹp, một mùa tình yêu
đằm thắm để bớc vào những ngày lao động tiếp theo hăng say hơn.
Giống nh những quan niệm của nhiều dân tộc trên thế giới, ngời Tày
xa cho rằng, nguồn gốc của ca hát là do trời, Phật, Thần Thánh sinh ra...
Pụt luông là Bụt lớn và các bà Tiên ở trên trời cao, tạo ra lêi ca tiÕng h¸t.
“Bơt lín” sai con g¸i cđa mình dạy cho loài ngời biết lợn và làm ra đàn
tính. Còn nếu ca hát có do con ngời làm ra đợc, thì con ngời cũng phải
tốn công lên tận trời cao mới học đợc lời hay, tiếng đẹp để tạo thành câu thơ,
tiếng lợn.[19. 37]
1.3.2. Một số thể loại âm nhạc tiêu biểu của ngời Tày
Trong nền âm nhạc cổ truyền dân tộc Tày, bộ phận ca hát chiếm một vị

trí hết sức quan trọng. Bên cạnh đó nhạc đàn chiếm một vị trí không đáng kể
trong vốn âm nhạc cổ truyền dân tộc Tày. Có thể phân loại vốn âm nhạc cổ
truyền của ngời Tày theo cách nh sau: Phân loại theo nội dung và hình thức
diễn tấu, diễn xớng.
Các thể loại âm nhạc tiêu biểu của ngời Tày đà đợc Hoàng Tuấn phân
loại nh sau:
Phân loại theo nội dung có các thể loại:
Ru con
Đồng dao
Giao duyên
Đám cới- đám ma
Chúc mừng
Kể chuyện
Cúng lễ- bói toán
Phân loại theo hình thức diễn xớng, diễn tấu có các thể loại:
Hát một mình trong nhà
Hát một mình khi trong nhà, khi ngoài trêi


25
Hát từ hai ngời hoặc từng nhóm đối đáp trong nhà
Hát không có nhạc khí đệm
Hát có nhạc khí đệm
Nhạc khí đơn tấu, hoà tấu
Ru con Vén Lục
Cũng giống trong các thể loại dân ca của các dân tộc trên cả nớc. Tính
chất của các bài ru con giai điệu nhẹ nhàng, mợt mà. Giai điệu của các bài
dân ca thờng chỉ ở trong phạm vi một quÃng 5 đúng La- Mi, cùng với những
âm thanh khác tạo nên những đờng tuyến giai điệu rất uyển chuyển, mềm
mại, đó là liên kết với các âm Si- Rê hoặc Đồ- Rê tạo thành chuỗi âm trong

phạm vi quÃng năm nh sau: Là- Si- Rê- Mí hoặc Là- Đô- Rê- Mí. Mở đầu
những bài hát ru thờng có các câu dạo đầu không lời, theo GS. Nguyễn Thị
Nhung thì đây là những tiếng đệm không có nghĩa, mục đích kéo dài khuôn
khổ của câu nhạc, tạo sự trôi chảy cho câu nhạc. những tiếng đệm trong các
bài hát ru của ngời Tày thờng ngân nga trên nguyên âm hoặc mở đầu
bằng câu éo,éo. Những tiếng đệm này thờng đợc đặt ở đầu bài, giữa bài
mà cũng có khi xuất hiện ở cuối bài. Cũng vì thế có nơi ru con,ngời Tày gọi
là ứ noọng, lấy câu dạo đầu của bài ca để trở thành cụm từ ám chỉ một
công việc.
Tiết tấu của các bài hát ru của ngời Tày phần lớn theo lối tự do, tiết
nhịp dàn trải, không phân chia tiết phách. sự nhấn nhá mạnh, nhẹ, có trọng
âm trong từng câu hát tởng nh phân ra tiết phách, nhng thực ra đó là những
lần đẩy chiếc nôi xinh xinh đi qua đi lại tạo thành những điểm nhấn tạm thời.
Còn những ngời địu con trên lng thì khi hát ru tiÕt tÊu hÕt søc tù do.
Lêi ca cđa c¸c bài hát ru của ngời Tày đều dùng thể thơ 5 từ hoặc pha
trộn giữa 5 từ và 7 từ . Nội dung của câu hát ru rất mộc mạc, nhng chan chứa
tình cảm của ngời bà, ngời mẹ, ngời chị, lấy những hình tợng quen thuộc,
thân thiết trong cuộc sống hàng ngày của ngời Tày là những con cá, con
chuồn, con trâu, con dê, cây đàn, áo hoa... vô cùng sống động, giầu mầu sắc,


×