Tải bản đầy đủ (.pdf) (124 trang)

Lễ hội bơi chải truyền thống làng đăm ( xã tây tựu huyện từ liêm hà nội)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (584.49 KB, 124 trang )

-1Bộ Giáo dục v Đo tạo

bộ văn hóa , thể thao v du lịch

trờng đại học văn hóa h nội

đặng thị huyền

Lễ hội bơi chải TRUyền thống lng đăm
xà tây tựu Huyện từ liêm tp h nội
Chuyên ngành : Văn hóa học
MÃ số : 603170

luận văn thạc sĩ văn hoá học

Ngời ngời dẫn khoa học: TS. Nguyễn
thị việt h−¬ng

hμ néi - 2011


-2-

Mục lục
TRANG
2

Mở ĐầU

Chơng 1. tổng quan về x tây tựu
1.1. Lịch sử hình thnh v phát triển



7

1.2. Cơ cấu kinh tế văn hóa x hội

9

1.2.1. Cơ cấu kinh tế

10

1.2.2. Cơ cÊu tỉ chøc

13

1.2.3. Trun thèng khoa b¶ng

14

1.2.4. Phong tơc tËp quán

16

1.3. Các di tích lịch sử

25

1.3.1. Đình trung ( Đình Đăm)

25


1.3.2. Miếu Thợng

29

1.3.3. Đình Hạ

30

1.3. 4. Chùa Hng khánh

32

1.3.5. Nhà thê hä Ngun
Ti u k t ch

ng 1.

Ch−¬ng 2. LƠ hội bơi chải lNg Đăm Trong

33
34
36

truyền thống
2.1. Nguồn gốc của lễ hội bơi chải lng Đăm x Tây
Tựu

36
2.1.1. Nguồn gốc tục bơi chải làng Đăm

2.1.2. Nguồn gốc nhân vật đợc phụng thờ

2.2. Thời gian tổ chức lễ hội
2.3. Công tác chn bÞ lƠ héi

36
38
42
43


-32.3.1. Chuẩn bị thuyền bơi

43

2.3.2. Chuẩn bị địa điểm và nguồn nớc

45
47

2.3.3. Chuẩn bị lễ vật
2.3.4. Chuẩn bị nhân lực
2.3.4.1. Cử cai đám

48
49
49

2.3.4.2. Chọn chủ tế


50

2.3.4.3. Chọn trai bơi và ®éi r−íc kiƯu

50

2.4. DiƠn tr×nh lƠ héi

52

2.4.1. LƠ tÕ tiỊn cáo
2.4.2. Lễ rớc kiệu Thánh

54
59

2.4.3. Hội bơi
2.4.3.1. Luật lệ thi bơi
2.4.3.2. Cách tính điểm và cơ cấu giải thởng

59
61
62

2.4.3.3. Đua thuyền

62

2.4.4. Rớc Thánh hồi cung


65

2.4.5. Các sinh hoạt văn hóa dân gian khác trong lễ hội

65

2.5. Lễ hội bơi chải lng Đăm trong tơng quan với

67

tục thờ nớc

2.5.1. Nớc trong quan hệ với hoạt động sản xuất nông nghiệp
2.5.2. yếu tố nớc trong lễ hội bơi chải làng Đăm
Tiểu kết chơng 2

67
63
71
77

Chơng 3. bảo tồn v phát huy các giá trị văn
hóa trong lễ hội bơi chải lng Đăm

78


-43.1. Những giá trị văn hóa của lễ hội bơi chải

78


lng Đăm

79

3.1.1.Nâng cao ý thức trân trọng và bảo vệ nguồn nớc

80

3.1.2. Giá trị cố kết cộng đồng

82

3.1.3.ý thức hớng về cội nguồn

82

3.1.4. Giá trị cân bằng đời sống tâm linh

83

3.2. Lễ hội bơi chải lng Đăm hiện nay

83

3.2.1. Thời gian tổ chức lễ hội

84

3.2.2.Công tác chuẩn bị lễ hội


88

3.2.3. Diễn trình lễ hội
3.2. 4. Hội bơi

93
100

3.2.5. Các sinh hoạt văn hóa dân gian khác trong lễ hội
3.3. những thay đổi trong công tác tổ chức lễ hội

103

hiện nay

104

3.3.1. Những thay đổi tích cực

3.3.2. Những hạn chế trong công tác tổ chức lễ hội hiện nay

106

3.4. Giải pháp nhằm bảo tồn v phát huy các giá trị

106

văn hóa của lễ hội bơi chải lng Đăm


108

3.4.1. Giải pháp về kinh tế

110

3.4.2. Giải pháp về công tác quản lý tổ chức
3.4.3. Giải pháp về bảo tồn các di tích văn hóa lịch sử

112

3.5. Một số kiến nghị với các cấp, các ngnh trong

112

việc khôi phục lại lễ hội truyền thống lng Đăm

113

3.5.1. Với ngành văn hóa thể thao và du lịch

113

3.5.2. Với ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội và UBND

117


-5Huyện Từ Liêm
3.5.3. Với UBND xà Tây Tựu.

Kết luận.
Tài liệu tham kh¶o
Phơ lơc

119
123


-6-

Mở đầu
1. Lí DO CHN TI

1.1.T hng ngn nm qua, lễ hội diễn ra như là một hoạt động tập
trung nhất trong đời sống văn hóa của người Việt. Lễ hội ở nước ta rất phong
phú và đa dạng. Theo các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian thì Việt Nam có
khoảng 500 lễ hội cổ truyền lớn nhỏ trải khắp đất nước. Mỗi lễ hội mang một
nét tiêu biểu và có một giá trị riêng nhưng bao giờ nó cũng hướng tới một đối
tượng linh thiêng cần được suy tôn. Lễ hội diễn ra ở khắp các địa phương đã
phản ánh những nét văn hóa đặc sắc của từng vùng miền, là một bộ phận của
nền văn hóa dân tộc.
Ở Việt Nam, các lễ hội cổ truyền đều xuất phát từ nhu cầu tín ngưỡng
của nhân dân, thường diễn ra như một cơ hội để con người thể hiện lịng sùng
kính của mình vào một đức tin mà mình lựa chọn. Sự thăng trầm của lễ hội
dân gian trong những năm qua đã cho chúng ta thấy sức sống bền bỉ của lễ hội
dân gian cổ truyền. Xã hội càng phát triển, càng hiện đại thì lễ hội dân gian cổ
truyền càng có điều kiện để phát triển về hình thức và nội dung, tạo ra những
giá trị mới mang tính thời đại.
Lễ hội truyền thống là di sản văn hóa của các tộc người, cần được bảo
tồn và phát huy. Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII của Đảng Cộng sản Việt

Nam đã khẳng định: xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân ta trong thời kỳ
hội nhập kinh tế quốc tế. Điều đó đã đặt ra trọng trách lớn cho những người
làm cơng tác văn hóa đó là: làm thế nào để giữ gìn và phát huy truyền thống
văn hóa dân tộc, phát huy những yếu tố tích cực phục vụ cuộc sống hiện tại và
hạn chế những tiêu cực nảy sinh
1.2. Làng Đăm xã Tây Tựu có một truyền thống văn hóa lâu đời gắn
liền với các truyền thuyết và thần tích. Nét văn hóa tín ngưỡng tiêu biểu nhất
của làng là lễ hội làng. Cũng giống như các lế hội cổ truyền của cư dân nông


-7nghiệp, lễ hội bơi chải làng Đăm xã Tây Tựu khơng vượt ra ngồi hằng số
lịch sử văn hóa cổ truyền là nông nghiệp – nông thôn – nông dân. Đó là hình
thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng gắn liền với đời sống tinh thần của người
làm nông nghiệp nên lễ hội bơi chải làng Đăm là lễ hội của nền văn minh
nông nghiệp, của những nghi lễ và tín ngưỡng nơng nghiệp mà thơng qua đó
người dân cầu mong tới thần linh để có một vụ mùa bội thu, cây cối sinh sôi
nảy nở, cầu cho mưa thuận gió hịa…. Đằng sau việc mơ tả lại cách rèn luyện
thủy quân đánh giặc thì lễ hội bơi chải truyền thống làng Đăm mang một ý
nghĩa khác đó là thơng qua việc khuấy động con nước, con người đã chuyển
lời cầu xin tới thần nước để ngài không quên nhiệm vụ của mình là làm mưa.
Lễ hội bơi chải truyền thống tại làng Đăm là một sinh hoạt văn hóa
cộng đồng đặc sắc của người Việt hiện nay còn lưu giữ khá đầy đủ. Đây là
một sinh hoạt văn hóa cổ truyền cần được nghiên cứu, bảo tồn và phát huy
trong đời sống văn hóa đương đại.
1.3. Là một người con sinh ra và lớn lên tại vùng quê giàu truyền thống
văn hóa lịch sử, tác giả chọn đề tài: “Lễ hội bơi chải truyền thống làng Đăm
xã Tây Tựu – Từ Liêm – Hà Nội” làm luận văn tốt nghiệp, với mong muốn
đóng góp một phần nhỏ vào việc nghiên cứu, bảo tồn vốn văn hóa truyền
thống trong thời kỳ đổi mới hiện nay tại xã Tây Tựu – huyện Từ Liêm – Hà

Nội.
2. Mơc ®Ých, nhiƯm vơ cđa đề ti

2.1. Mục đích: thông qua việc nghiên cứu lễ hội bơi chải làng Đăm, đề
tài nhằm khẳng định giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể của lễ hội này trong
đời sống xà hội hiện nay đồng thời đề xuất các giải pháp nhằm bảo tồn và phát
huy những giá trị văn hóa đó.
2.2. Nhiệm vụ: Xuất phát từ mục đích trên, nhiệm vụ của việc nghiên
cứu đề tài này đợc xác định nh sau:


-82.2.1. Khảo sát, đánh giá những tiền đề văn hóa xà hội của vùng đất
Tây Tựu trong quá khứ và hiện tại hình thành nên tục bơi chải ở làng Đăm.
2.2.2. Cung cấp cho những ngời làm công tác nghiên cứu, bảo tồn,
quản lý di tích, quản lý văn hóa, các cấp lÃnh đạo địa phơng những t liệu
chính xác, khoa học về diễn trình lễ hội.
2.2.3. Đề xuất các phơng án bảo tồn và phát huy giá trị lễ hội bơi chải
Làng Đăm trong tình hình mới.
3. Tình hình nghiên cứu

Có nhiều công trình nghiên cứu khác nhau về tÝn ng−ìng, lƠ héi nãi
chung nh−: Phan KÕ BÝnh (ViƯt Nam phong tục), Đào Duy Anh (Việt Nam
Văn hóa sử cơng), Toan ánh (Tín ngỡng Việt Nam), Thu Linh - Đặng Văn
Lung (lễ hội truyền thống),. Đây là nguồn tài liệu tra cứu hữu ích cho tác
giả khi viết luận văn.
Viết về lễ hội làng Đăm có các tác giả: Lê Hồng Lý, Phạm Thị Thủy
Chung (những sinh hoạt văn hoạt văn hóa dân gian của một làng ven đô (làng
Đăm) [37], Nguyễn Yên Chi: ghi chép về xà Tây Tựu huyện Từ Liêm Hà
Nội bằng ảnh [14], Nguyễn Ngọc Nam luận văn tốt nghiệp đại học ngành bảo
tàng di tích đình miếu làng Đăm [27]. Lê Thị Nhâm Tuyết (hội lễ đua

thuyền ở Việt Nam và Đông Nam á) [42], Giang Quân báo Hà nội mới có
bài: làng cổ và lễ hội bơi Đăm [40], ... Tuy nhiên các t liệu trên chỉ tập
trung mô tả một cách rất khái quát , sơ lợc về lễ hội làng Đăm trong truyền
thống và hiện tại, cha có bài viết, công trình nào nghiên cứu về lễ hội làng
Đăm một cách hệ thống trong tơng quan với lớp ý nghĩa bản chất của nó là
tục thờ nớc.
4. Đối tợng v phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tợng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu lễ hội bơi chải
truyền thống làng Đăm và các sinh hoạt tín ngỡng, lễ hội, các di tích lịch sử
văn hóa gắn liền với lễ héi.


-94.2. Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi nghiên cứu tập trung trong làng Đăm xà Tây Tựu huyện Từ
Liêm Hà Nội. Trong những mức độ nhất định, đề tài có một số liên hệ với
một số địa danh có tính chất tơng đồng ở khu vực phụ cận nh làng Yên Nội;
vùng Bạch Hạc...
5. Phơng pháp nghiên cứu

Luận văn vận dụng phơng pháp nghiên cứu liên ngành: văn hóa học, sử
học, dân tộc học, xà hội học. Các phơng pháp cụ thể là điền dà (quan sát thực
tế, khảo tả chi tiết, tập hợp t liệu) đợc sử dụng kết hợp với các tài liệu đà có
để phân tích, đánh giá rút ra những kết luận cần thiết.
6. Dự kiến những đóng góp của luận văn

6.1. Luận văn sẽ là một trong các nguồn t liệu đầy đủ về lễ hội bơi
chải làng Đăm giúp các cấp lÃnh đạo, các cán bộ nghiệp vụ văn hóa xà Tây
Tựu nhìn nhận rõ hơn về một số sinh hoạt tín ngỡng, sinh hoạt văn hóa cộng
đồng của nhân dân xà Tây Tựu nói riêng và nhân dân huyện Từ Liêm nói

chung.
6.2. Luận văn đa ra một số nhận xét, đánh giá khách quan về những
cái đợc, cái cha đợc trong việc tổ chức, nội dung sinh hoạt văn hóa tín
ngỡng liên quan tới lễ hội.
6.3. Luận văn đa ra một số giải pháp về việc bảo tồn, phát huy tác
dụng của lễ hội bơi Đăm và một số sinh hoạt văn hãa tÝn ng−ìng trong ®êi
sèng x· héi hiƯn nay.
7. Bè cục của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
văn gồm ba chơng đợc bố cục nh sau:
Chơng 1. Tổng quan về xà Tây Tựu huyện Từ Liêm Hà Nội.
Chơng 2. Lễ hội bơi chải truyền thống làng Đăm - xà Tây Tựu.
Chơng 3. Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa trong lễ hội bơi chải
làng Đăm.


- 10 Chơng 1
tổng quan về x tây tựu

1.1. Lịch sử hình thnh v phát triển
Tây Tựu là một xà ven đô, nằm ở phía Tây Bắc huyện Từ Liêm Thành
phố Hà Nội. XÃ có địa bàn giáp ranh:
Phía Bắc giáp xà Thợng Cát
Phía Đông giáp xà Liên Mạc, Minh Khai
Phía Nam giáp xà Xuân Phơng
Phía Tây Nam giáp xà Kim Chung Hoài Đức Hà Nội.
Phía Tây giáp xà Đức Giang Hoài Đức
Phía Tây Bắc giáp xà Tân Lập - Đan Phợng
Trên xà có đờng quốc lộ 70 chạy qua thôn Thợng (Hà Nội- Sơn Tây),

phía bắc là đờng đê sông Hồng số 23, xà có chiều dài khoảng 2km, chiều
ngang 500m.
Tây Tựu có diện tích đất trồng hoa màu cao và tập trung. Đây là
vùng đợc phân bố trên loại đất phù sa sông Hồng cổ, không đợc bồi đắp
thờng xuyên, có địa hình bằng phẳng, thấp so với khu vực. Khí hậu nhiệt đới
gió mùa, nhiệt độ trung bình cao nhất trong năm từ 30,9 32,80c (tháng
5,6,7,8,9), nhiệt độ trung bình cao nhất trong năm từ 37,1 42,80c, thấp nhất
13,8 150c (tháng 1, 2), lợng ma trung bình năm 1.680mm, lợng ma
phân bố không đều giữa các tháng trong năm. Ma tập trung vào mùa hè (từ
tháng 5 đến tháng 10), lợng ma chiếm 85% so với lợng ma trung bình từ
123 323 mm. Lợng ma tháng 6 vào mùa đông (từ tháng 11 đến tháng 4)
chỉ chiếm 15% lợng ma cả năm với lợng ma trung bình từ 18 81mm.
XÃ Tây Tựu xa gồm 3 thôn : Thôn Thợng (ngày nay nhân dân vẫn
quen gọi là thôn 1), thôn Trung (thôn 2), thôn Hạ (thôn 3). Địa danh này xa
còn đợc gọi là 3 miền: miền Thợng, miền Trung, miền Hạ hay Dâu Thợng,
Dâu Trung, Dâu Hạ. Cuối Tháng 12 năm 2010, xà thành lập thêm tổ dân phè


- 11 sè 1 gåm 159 hé d©n trong khu tập thể quân đội đóng trên địa bàn. XÃ Tây
Tựu có c dân sống ở hai bên bờ sông Pheo. Phía Nam và phía Bắc. Có một
xóm ở phía bắc sông Pheo (xóm Lẻ). Sông Pheo xa xa có tên là sông Từ
Liêm bắt nguồn từ đầm Bát Lang xà Hạ Mỗ (huyện Đan Phợng tỉnh Hà
Tây) rất nhỏ sau to dần trông dáng tựa nh một cái dùi nên gọi là sông Nhuệ,
dòng sông chảy theo hớng Tây Bắc - Đông Nam. Đoạn sông khoảng 1 km
chảy qua thôn Thợng và thôn Trung Tây Tựu gọi là sông Pheo. Nhân dân
Tây Tựu thờng gọi là Đầm.
Tây Tựu là vùng đất cổ có c dân sinh sống từ lâu đời. Kết quả khảo
cổ học ở các làng cách Tây Tựu từ 1 đến 3 km cho thấy ở đây có di chỉ Bá
Hội (nay là xà Hồng Hà), di chỉ Kim Ngọc (nay là xà Tân Lập) huyện Đan
Phợng tỉnh Hà Tây. Di chỉ ở thôn Ngoạ Long (Minh Khai Từ Liêm)

thuộc văn hoá Phùng Nguyên cách ngày nay 4000-3500 năm. Di chỉ thuộc
nền văn hoá Vinh Quang khai quật đợc ở các xà Di Trạch, Cát Quế huyện
Hoài Đức tỉnh Hà Tây, với những dụng cụ sản xuất đồ trang sức thuộc văn
hoá gỗ mun cách ngày nay khoảng 3046 120 năm trớc công nguyên.
Những ngôi mộ cổ phát hiện dới lòng đất ở làng Chèm Vẽ (Thuỵ Phơng Đông Ngạc) là khu mộ Hán có niên đại từ thế kỷ I đến thế kỷ IV (sau công
nguyên) cùng di vật cho thấy lúc đó vùng đất này đà có c dân sinh sống và tổ
chức làng xÃ. [51].
Tơng truyền, vào những năm 40-43 của thế kỷ thứ nhất sau công
nguyên trai làng Tây Tựu đà hởng ứng cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trng đánh
đuổi quân xâm lợc nhà Hán.
XÃ Tây Tựu có nhiều dòng họ định c lâu đời nh : Họ Nguyễn Hữu
vốn nguồn gốc phơng bắc sang Việt Nam từ lâu đến nay khoảng trên 600 năm;
họ Chu Hữu, Chu Trần, Chu Đăng, Đặng Trần, Nguyễn Ngọc, Nguyễn Tự.v.v...
gần 400 năm và các họ Nguyễn Đình, Nguyễn Công. Cũng có một số dòng họ mới
về tụ c sau. Mỗi dòng họ tuy có nguồn gốc khác nhau nh−ng ®Ịu cã ý thøc chung


- 12 là xây dựng khối đoàn kết trên cơ sở tình làng nghĩa xóm. Đến giữa thế kỷ thứ
XVIII Tây Tựu có 12 giáp: Tiền Đông, Tiền Tây, Nội Đông, Nội Tây (thôn
Thợng), Nhạn Đông, Nhạn Tây, Tự Đông, Tự Tây (thôn Trung), Liễu Đông, Liễu
Tây, Trung Đông, Trung Tây (thôn Hạ) và các xóm: Hoa Mai, Vờn Dăm, Hoà
Bình, Cổng Độc, Thạch Khê, xóm Chợ, xóm Lẻ, xóm Chùa, xóm Đầm.v.v...
Sau đó Trung Đông, Trung Tây và 7 dòng họ vì mâu thuẫn với Tây
Đam đà tách ra lËp mét x· míi Trung §am (Trung Tùu) x· tån tại cho đến sau
cách mạng tháng tám năm 1945.
Đầu thế kỷ XIX Tây Đam thuộc tổng Tây Đam huyện Từ Liêm
phủ Quốc Oai, trấn Sơn Tây. Tổng Tây Đam gồm 7 xà thôn là: Tây Đam,
Trung Đam, Phúc Đam, Phúc Lý (Tây Tựu và thôn Phúc Lý xà Minh Khai
huyện Từ Liêm). Ngọc Kiệu, Đam Hội, Hạ Hội thuộc Hạnh Đàm xà Ngọc
Hiệu (tơng đơng với xà Tân lập huyện Đan Phợng H Nội ngày nay).

Đầu công nguyên Tây Tựu thuộc quận Giao Chỉ (bắc bộ). Giữa thế
kỷ thứ V (năm 454 - 456) thuộc quận Tống Bình. Năm 621 thuộc huyện Từ
Liêm. Thời Lý, Trần thuộc quận Vĩnh Khang. Đời Lê, Tây Sơn và đầu thời
Nguyễn Tây Tựu thuộc phủ Quốc Oai trấn Sơn Tây. Năm Minh Mệnh thế kỷ
12 (1831) thuộc huyện Vĩnh Thuận phủ Hoài Đức tỉnh Hà Nội. Năm 1915
thuộc phủ Hoài Đức tỉnh Hà Đông [34].
Sau cách mạng Tháng 8/1945 tháng 7/1948 Tây Tựu thuộc huyện
Liên Bắc tỉnh Hà Đông. Đến năm 1953 thuộc Nam Liên Bắc (tức huyện Đan
Phợng) tỉnh Hà Đông. Ngày 31/5/1961 Tây Tựu thuộc huyện Từ Liêm ngoại
thành Hà Nội cho đến ngày nay.
1.2. Cơ cấu kinh tế - văn hóa x hội

1.2.1. Cơ cấu kinh tÕ
Theo lêi kĨ cđa c¸c cơ cao ti trong làng thì từ xa xa ngời dân Tây
Tựu sống chủ yếu bằng nghề sản xuất nông nghiệp. Cây lơng thực chÝnh lµ


- 13 cây lúa. Trải qua hàng ngàn năm vật lộn đấu tranh với thiên nhiên để xây dựng
và cải tạo đồng ruộng, ngời dân Tây Tựu đà tạo nên những cánh đồng bằng
phẳng tốt tơi: Đồng trong, đồng ngoài, đồng Đăm và các xứ đồng A, Đội
Gạo, Cầu Khu, Cửa Đống Chay, Yên Ngựa, đồng Rợu, đồng Trôi, đồng
Nhổn, cửa Chùa.v.v...
Bên cạnh cây lúa, ngời dân nơi đây đà biết sử dụng đất để trồng thêm
các cây ngô, khoai, sắn... Họ đà biết phân vùng đất phù hợp với từng loại cây
cho năng xuất, chất lợng cao nh : đồng Trong và đồng Đăm quanh năm cấy
lúa một vụ. Đồng Ngoài chủ yếu trồng mầu: ngô, khoai, xen canh đậu, vừng.
Ngời Tây Tựu vốn cần cù chịu khó đà tạo ra giống ngô Đăm nổi tiếng nhân
dân thờng gọi là ngômũi quay có chất lợng và năng xuất cao. Ngô Đăm
ngon nổi tiếng. Năm 1938 ngô Đăm đà đợc chọn làm đặc sản tham dự hội
chợ ở Hà Nội do thực dân Pháp tổ chức.

Ngời làng Đăm thờng trồng xen canh, gối vụ trồng ngô xen lẫn đậu
trắng, đậu đen, đậu vàng. Trồng cà chua xen với ngôViệc xen canh nh vậy
đà tạo ra thu nhập hàng chục triệu đồng, giúp nhân dân có điều kiện để quay
vòng vốn.
Tây Tựu có điều kiện tự nhiên thuận lợi để phát triển nền kinh tế nông
nghiệp. Dòng sông Nhuệ chảy qua cung cấp nguồn nớc ngọt quanh năm
phục vụ nông nghiệp. Từ lâu ngời dân Tây Tựu đà chuyển từ thâm canh lúa
sang trồng rau quả cung cấp cho thị trờng Hà Nội và các vùng xung quanh.
Sản phẩm chủ yếu rau quả của Tây Tựu là các loại rau xanh, rau cải, bắp cải,
xu hào, xúp lơ, củ cảiRau thơm, hành, thì là, rau mùi.v.vVề quả có da
hấu, da hồng, da gang, ớt, da chuột, cà chuaĐó là các loại rau quả
truyền thống. Về sau này các giống bắp cải từ nớc ngoài đợc đa về Tây
Tựu do sự phù hợp với tập quán và vùng đất Tây Tựu nên đà mang lại năng
suất và giá trị kinh tế cao nh: Bắp cải KK, da lê, da hồng, da kim, da lê
vỏ mỏng, ruột ròn ăn mát thơm vị quả lê đợc thị trờng Hà Nội và các nơi a


- 14 chuộng. Ngời Tây Tựu đà có kỹ thuật đa cây cà chua thả trên đất cho cây cà
chua leo lên giàn vừa dễ chăm sóc mà cho năng suất cao.
Ngời Tây Tựu chất phát cần cù, chịu khó vốn có nghề trồng rau quả
nên sớm đợc tiếp cận gắn bó với kinh tế thị trờng, điều này khiến cho t duy
của ngời Tây Tựu nhạy bén cải tiến kỹ thuật, giống cây quả, chuyển đổi cơ
cấu cây trồng thích ứng với thị trờng hàng hóa rau quả.
Dới chế độ phong kiến nền sản xuất nông nghiệp chủ yếu của Tây Tựu là
tự cung, tự cấp. Từ đầu thế kỷ 19 chợ Đăm (Tây Tựu) đợc thành lập và trở thành
trung tâm giao lu, trao đổi hàng hóa nông sản, đồ dùng gia đình, hàng thủ công,
phơng tiện sản xuất của nhân dân Tây Tựu và các vùng xung quanh. Chợ Đăm
nằm trong khuôn viên đình Đăm. Chợ họp mỗi tháng 6 lần (phiên ) vào các ngày
mùng 4, 9, 14, 19, 24 và 29 âm lịch. Chợ họp trong sân đình bên dòng sông Pheo
(sông Nhuệ). Chợ Đăm là trung tâm giao lu hàng hóa đông vui của nhân dân

quanh vùng. Năm 2005 chợ Hoa Tây Tựu đợc khánh thành và đa vào sử dụng.
Chợ Đăm trong khu đình đợc chuyển ra họp tại chợ hoa Tây Tựu, toàn bộ khu
đình Đăm trả lại cho khuôn viên di tích. Nền sản xuất hàng hóa sớm hình thành
và điều kiện tự nhiên thuận lợi đà giúp cho ngời Tây Tựu phát huy thế mạnh
chuyển đổi cơ cấu cây trồng đáp ứng nhu cầu thị trờng ở quanh vùng và Thủ đô.
Từ năm 1995 trở lại đây, đợc sự chỉ đạo của Đảng ủy Hội đồng nhân
dân ủy ban nh©n d©n x· T©y Tùu, ng−êi d©n T©y Tùu đà chuyển đổi cơ cấu
cây trồng từ trồng rau màu sang trång hoa chÊt l−ỵng cao nh−: hoa hång, hoa
cóc, hoa ly, hoa loa kèn, lay ơn, hoa đồng tiền vì thế đời sống nhân dân
đợc cải thiện rõ rệt, nhân dân giàu lên trông thấy. Nghề trồng hoa ở Tây Tựu
nhờ vậy mà ngày càng phát triển, trở thành một làng hoa mới nổi của thủ đô
Hà Nội. Trung tâm chợ hoa Tây Tựu đợc xây dựng góp phần thúc đẩy thị
trờng tiêu thụ hoa không ngừng mở rộng. Đây chính là điều kiện cần thiết để
Tây Tựu phát triển nghề trồng hoa. Đặc biệt, Tây Tựu đang thực hiƯn dù ¸n


- 15 của Thành phố Hà Nội về mô hình trồng hoa chất lợng cao, đến năm 2012 sẽ
đa dự án vào hoạt động. Với sự quan tâm, đầu t của Thành phố, của huyện
Từ Liêm chắc chắn nhân dân Tây Tựu sẽ có điều kiện thuận lợi để phát triển
kinh tế và quảng bá hình ảnh của quê hơng mình ra các tỉnh bạn.
Với nghề trồng hoa, giá trị kinh tế 1ha hoa của ngời dân đà lên tới 360
triệu/1ha. Toàn xà có hơn 3000 hộ, thì 70% hộ gia đình có nhà 2 tầng trở lên,
không có hộ đói, tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 2,1%. Hệ thống đờng giao thông
trong làng đợc bê tông hóa 100%, 98% hộ gia đình có các phơng tiện nghe
nhìn, 70% số hộ có điện thoại Thu nhập bình quân đầu ngời năm 6 tháng
đầu năm 2011 đạt 18 triệu/1 ngời/năm.
Khi đời sèng kinh tÕ kinh tÕ ph¸t triĨn, thu nhËp cđa ngời dân ổn định
thì các thiết chế văn hóa xà hội cũng dần đợc cải thiện. Trong những năm
gần đây, các di tích lịch sử văn hóa thờng xuyên đợc tu bổ: Đình Trung
đợc Thành phố Hà Nội đầu t gần 16 tỷ để sửa chữa, nâng câp đà hoàn thành

xong giai đoạn 1.., các công trình phúc lợi xà hội đà đợc chính quyền xÃ
quan tâm, đầu t xây dựng. Nhân dân xà Tây Tựu ngày nay càng tự hào và
tuyệt đối tin tởng vào chủ trơng, chính sách của Đảng và nhà nớc.
1.2.2. Cơ cấu tổ chức
Tây Tựu có 1 Đảng bộ với gần 200 đảng viên đợc chia thành 9 chi bộ.
Trong nhiều năm qua Đảng bộ xà luôn đợc Đảng bộ huyện Từ Liêm công
nhận là Đảng bộ trong sạch, vững mạnh. Bên cạnh đó, các ngành đoàn thể
cũng đợc đánh giá cao. 11 năm liền đợc Thành phố tặng danh hiệu lá cờ đầu
về mọi phong trào kinh tế, chính trị, an ninh, quốc phòng, văn hóa xà hội.
Tính đến năm 2011, xà Tây Tựu có khoảng 3500 hộ với 21000 nhân
khẩu đợc tổ chức thành 3 thôn và 1 tổ dân phố. Mỗi một thôn có 4 cụm dân
c và đợc bố trí 1 trởng thôn, 4 phó thôn (4 phó thôn kiêm nhiệm luôn chức
danh cụm trởng cụm dân c). Trởng thôn, phó thôn và cụm trởng cụm dân


- 16 c do nhân dân bầu ra và làm việc theo nhiệm kỳ 2 năm rỡi, đợc chính
quyền xà ra quyết định công nhận. Trong mỗi thôn đều có chi bộ lÃnh đạo, có
các đoàn thể chính trị xà hội nh: chi hội phụ nữ, chi đoàn thanh niên, chi hội
Nông dân, chi hội cựu Chiến binh, chi hội Chữ thập đỏ, chi hội cựu Thanh
niên xung phong, chi hội Ngời cao tuổi.
Trởng thôn là ngời đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân
trong thôn, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ngời dân đồng thời, trởng
thôn còn là ngời đại diện cho chính quyền giải quyết các vấn đề có liên quan
tới ngời dân trong phạm vi thẩm quyền của mình, là ngời điều hành, tổ chức
các hoạt động lễ hội, tín ngỡng, vui chơi giải trí của ngời dân trong thôn
mình trong các dÞp lƠ, tÕt, héi hÌ. Kinh phÝ phơ cÊp cho trởng, phó thôn lấy từ
ngân sách hoạt động của xÃ.
Cũng nh nhiều làng ở đồng bằng Bắc Bộ, để đảm bảo duy trì trật tự an
toàn xà hội, sinh hoạt của đời sống nhân dân trong thôn xóm, đảm bảo cơ cấu
tổ chức làng xÃ, từ xa ngời dân làng Đăm xà Tây Tựu cũng xây dựng đợc

cho mình một bộ hơng ớc của làng. Sau quá trình thăng trầm của lịch sử,
việc thực hiện quy ớc, hơng ớc của ngời dân nơi đây đà dần trở thành
tiềm thức trong mỗi ngời. Theo cuốn phong tục thể lệ khoán ớc của xÃ
còn lu lại thì hơng ớc của làng đợc quy định rất cụ thể, chặt chẽ về đời
sống, sinh hoạt cá nhân và cộng đồng nh: quy định về các mối quan hệ xÃ
hội, các sinh hoạt văn hóa, viƯc tang lƠ, ma chay, c−íi xin, lƠ héi, an ninh trật
tự, chế độ thởng phạt
Những hơng ớc từ xa đến nay căn cứ vào điều kiện thực tế đà đợc
sửa đổi bổ sung cho phù hợp. Hơng ớc thôn Thợng, thôn Trung, thôn Hạ
đà đợc xây dựng năm 1996, sửa đổi bổ sung năm 2006. Đây là một văn bản
quan trọng, là cơ sở để ngời dân trong làng, xà thực hiện đờng lối của Đảng,
chính sách pháp luật của nhà nớc về thực hiện quy chế dân chủ ë c¬ së.


- 17 Hơng ớc làng văn hóa đồng thời thực hiện các quy ớc của làng nhằm bảo
vệ quyền và lợi ích chính đáng của ngời dân trong làng, xà góp phần xây
dựng quê hơng Tây Tựu văn minh, giàu đẹp.
1.2.3. Truyền thống khoa bảng
Trong quá trình tạo dựng và phát triển làng xÃ, Tây Tựu không những
đà hun đúc nên một truyền thống văn hóa dân gian phong phú mà còn xây
dựng nên một truyền thống học tập và khoa bảng nổi tiếng. Hiếu học, ham học
vì khát vọng tri thức, vì phát triển kinh tế là nét đặc trng điển hình của ngời
dân nơi đây. Nhiều dòng họ đà có những biện pháp nhằm tôn vinh, khuyến
khích con cháu trong dòng họ mình ham học tập phục vụ đất nớc. Khi một
ngời đỗ đạt thành danh thì đó không chỉ là niềm hạnh phúc riêng của gia
đình, dòng học mà còn là của cả làng. Bởi chính sự đỗ đạt đó làm rạng danh
quê hơng. Từ việc đón rớc những ngời đỗ đạt vinh quy đến việc rớc ngôi
thứ đều thể hiện việc khuyến học của làng.
Trên cơ sở những tài liệu hiện còn lu giữ tại xà thì đây là một địa danh
tiêu biểu cho truyền thống hiÕu häc cđa ng−êi Trµng An x−a. Trun thèng

hiÕu häc này sẽ tiếp nối sức mạnh cho ngời dân Tây Tựu vững bớc trong
thời đại nền kinh tế tri thức phát triển. Ngời dân Tây Tựu có thể tự hào với
ông Nguyễn Minh Điến đỗ Tiến sỹ khoa Canh tuất (1490) đời vua Lê Thánh
Tông và làm quan đến chức Tự Khanh; Ông Nguyễn Kiêm (tức Nguyễn Huy
Đản) đỗ Tiến sỹ khoa Kỷ hợi (1779) đời vua Lê Hiển Tông làm quan đến
Đông các Hiệu th viện Hàn lâm sau đó ông làm đốc học Tuyên Quang và
Nam Định; ông Chu Đăng Long đỗ Hơng cống khoa Quý dậu (1753) rồi vào
học trờng Quốc Tử Giám sau đó ông đỗ Tiến sỹ và làm quan thời Lê Mạt.;
họ Vũ Đình có ông Vũ Đình Giai làm quan đến Tiền thị Nội th Tả công
phiên Phó sở sứ. Đời Nguyễn có ông Đặng Trần Hanh đỗ cử nhân làm quan
dới quyền Hoàng Cao Khải, con ông Đặng Trần Hanh là Đặng Trần Vỹ đỗ


- 18 thủ khoa thi hơng cử nhân, ông Đặng Trần Huân( cháu ông Hanh) đỗ cử
nhân khoa Bính Tý (1876); Ông Nguyễn Phan LÃng là nhà thơ yêu nớc thể
hiện ở các bài thơ viết đả kích quân Pháp.
Thời Lê Trung Hng có ông Nguyễn Hữu Liêu là một võ tớng đà có
công phù Lê tả Mạc đợc phong Dơng Quốc Công thái úy. Trong họ Nguyễn
Hữu của ông có 3 ngời đợc phong Nguyên soái, 7 ngời đợc phong Quận
công (toàn xà lúc này có 9 Quận công). Trong phủ thờ ông hiện nay vẫn còn
câu đối:
Dĩ tham Lê chiếu tam Nguyên súy
Kế phát tây đình chín Quận công
(thời Lê ba ngời đợc phong Nguyên soái
Đất Tây Tựu nối tiếp có chín Quận công)
Ba Nguyên soái là:
Nguyễn Hữu Liêu: Dơng quốc công Thái úy
Nguyễn Hữu Nghiễm: Bắc quân đô đốc phụ quốc Thợng tớng quân
Nguyễn Hữu Tế: đô đốc phủ, đô đốc đồng tri
Bảy Quận công là:

Dơng Quốc công Nguyễn Hữu Liêu
Quế Quận công Nguyễn Hữu Nghiễm
Bích Quận công Nguyễn Hữu Tộ
Vân Quận công Nguyễn Hữu Tự
Đặng Quận công Nguyễn Hữu Thọ
Tuân Quận công Nguyễn Hữu Tế
Giao Quận công Nguyễn Hữu Khuê


- 19 Truyền thống hiếu học cuả làng Đăm xà Tây Tựu đang đợc kế tục,
phát huy tốt trong thời đại ngày nay. Mỗi gia đình, mỗi dòng họ đều đặt việc
học hành của con cháu lên hàng đầu, chăm lo động viên thế hệ trẻ để truyền
thống khoa bảng, hiếu học còn tiếp nối mÃi mÃi tới các thế hệ sau.
1.2.4. Phong tục tập quán
Làng Đăm xà Tây Tựu vốn là một làng cổ, do đợc hình thành từ lâu
đời nên phong tục tập quán, tín ngỡng của nhân dân nơi đây mang đậm nét
văn hóa cổ truyền vùng đồng bằng Bắc Bộ. Có thể nêu ra đây một số phong
tục tập quán đợc lu truyền từ đời này qua đời khác đó là các phong tục: tang
ma, cới hỏi, giỗ tết, khao vọng, hội hè.
Về tập tục cới hái: viƯc c−íi xin x−a ë x· T©y Tùu th−êng đợc tiến
hành với rất nhiều nghi lễ. Vì quan niệm cới hỏi là một trong ba việc lớn của
đời ngời nên việc tổ chức cới xin khá rình ràng, tốn kém tiền của. Những
gia đình nhà nào có con gái gả chồng trong làng thì phải nộp cheo cới 1
đồng 5 hào bạc, rợu 2 chai, trầu 50 khẩu [39]. Những gia đình mà gả con
gái sang làng khác thì phải nộp bạc gấp 2 lần cho thủ từ nếu hai bên gia
đình tổ chức cho con cái lấy nhau mà không nộp treo cới gì thì thôn bắt phạt
cả hai bên. Mỗi bên gia đình phải nộp một đồng bạc và nộp tiền cheo
cới[39]. Nhiều nhà nghèo sau khi tổ chức đám cới cho con bỗng trở thành
con nợ cđa nhiỊu ng−êi.
ViƯc tỉ chøc c−íi th−êng lµm trong 3 ngày. Ngày hôm trớc lễ cới gọi

là ngày dựng rạp bi chiỊu ngµy nµy, nhµ trai th−êng mang mét lƠ vật
gồm vàng, tiền, trầu cau, thuốc lá và một số lễ vật dâng lên tổ tiên tới nhà cô
gái với mục đích nhắc lại ngày giờ xin dâu, nhà gái mời họ hàng, làng xóm
thân thiết tới ăn cỗ dựng rạp.
Ngày thứ 2 là ngày cới chính: sau khi nhà trai đến, chàng rể đợc mời
đến trớc bàn thờ tổ tiên lạy 4 lạy sau đó chú rể vào đón cô dâu ra cùng làm lễ


- 20 khấn tổ tiên rồi ra chào quan viên hai họ. Cha mẹ cô gái dặn dò con cái phải
ăn ở có đức, có lễ sau đó, gia đình bên gái cho quà và tiền chú rể. Sau khi
sang nhà chú rể thì gia đình nhà trai lại cho tiền cô dâu. Khi mọi thủ tục đÃ
xong, nhà gái xin phép cho cả cô dâu cùng về nhà mẹ đẻ. Đến tối chú rể mới
đến đón cô dâu về nhà mình.
Ngày cuối cùng là ngày hạ rạp (hay còn gọi là ngày lại mặt. Trong
ngày này, cô dâu và chú rể đến nhà gái để gặp mặt họ hàng anh em thân thiết
nên đợc gọi là lại mặt.
Ngày nay, trong viƯc c−íi hái, ng−êi d©n T©y Tùu cã nhiỊu cách ứng xử
cởi mở hơn so với nhiều nơi. Các nghi lễ, tập tục không nhất thiết tuân thủ
theo nghi lễ truyền thống mà nếu cần thiết vẫn có thể lợc bỏ cho phù hợp với
gia cảnh hai bên. Vấn đề môn đăng hậu đối ở đây cũng không nặng nề nh
một số vùng nông thôn khác. Một số đám cới đợc sự vận động của chính
quyền địa phơng đà tổ chức theo nếp sống mới, đơn giản hơn giúp đôi vợ
chồng trẻ có đợc niềm vui thực sự.
Có một nét riêng của ngời làng Đăm còn giữ đến ngày nay đó là họ
muốn cho con cái lập gia đình sớm để tự lập, tự lo cho mình trên mảnh ruộng
mà bố mẹ cho hoặc đi chợ buôn bán đế sớm bỏ ra một khoản tiền vốn cho
mình. Họ cho rằng càng tích lũy sớm càng tốt nên muốn cho con cái ra ngoài
tự bơn chải kiếm sống. Vì thế, tỷ lệ cới xin sớm ở làng Đăm là khá lớn. Con
gái chỉ chớm tuổi 18 là lấy chồng, nhiều trờng hợp cới tảo hôn. Ngày nay,
tỷ lệ cới tảo hôn đà không còn nhng việc con cái lấy vợ, lấy chồng sớm nh

là một thông lệ của các gia đình có con cái lớn.
Việc tang ma: việc ma chay ở làng Đăm xa vẫn còn hủ tục ăn uống
trong 3 ngày lễ tang, có tục lệ con gái phải lăn đờng từ nhà đến nơi chôn cất.
Ngày nay, việc tang ma ở xà Tây Tựu đà bỏ đợc tục lăn đờng, con cháu vẫn
đội khăn, chống gậy, nhng linh cữu đà đợc đa ra nghĩa trang nhân dân của


- 21 làng. Những thủ tục xem giờ, phát tang, phúng viếng vẫn còn giữ. Sự khá giả
của các hộ gia đình và sự ảnh hởng của nền kinh tế thị trờng đà làm thay
đổi cách phúng viếng trong đám tang. Thay bằng việc phúng viếng bằng câu
đối, bức trớng, vàng hơng, vòng hoa thì nay họ chuyển thành phong bì.
Lệ làng cho biết anh em thân thiết thì phúng ván xôi, con gà và phúng thêm
phong bì. Ngời đến phúng viếng đợc gia chủ mời lại ăn cỗ chia buồn cùng
gia đình. Đây là một hủ tục mà Đảng ủy, chính quyền xà đang có nhiều biện
pháp để hạn chế nhng tình trạng ăn uống trong 3 ngày lễ tang vẫn còn.
Để phục vụ cho việc tang ma, ngày nay ở mỗi thôn có một phờng bát
âm riêng, chuyên phục vụ nhạc tang cho các gia đình tang chủ của từng thôn.
Phờng bát âm là những ngời biết sử dụng nhạc cụ và thông hiểu luật lệ
trong đám tang, hä cã tõ 5 ®Õn 6 ng−êi, cã trang phơc riêng. Phờng bát âm
phục vụ gia đình tang chủ đợc họ cho ăn uống và đợc tiền bồi dỡng tùy
theo thêi gian phơc vơ cđa ph−êng.
Cïng víi sù ph¸t triĨn của nền kinh tế thị trờng, ngoài các phong tục
truyền thống đợc đổi mới thì cũng xuất hiện nhiều sinh hoạt khác nh: các
nhóm bạn đồng niên, đồng ngũ, nhóm làm ăn kinh tế. Và các cuộc lễ mừng
nh: mừng sinh nhật, mừng con cái đỗ đạt học hành, mừng lên lÃo. điều này
có những mặt tích cực đó là thông qua các buổi giao lu, gặp mặt họ có điều
kiện trao đổi thông tin lẫn nhau, giúp nhau phát triển kinh tế hộ gia đình, bàn
cách làm giàu góp phần xây dựng làng văn hóa, xà văn minh.
Tuy nhiên nó cũng có một số mặt tiêu cực đó là nếu tổ chức quá nhiều
các cuộc vui ăn uống thì tệ nạn xà hội sẽ nảy sinh. Thờng thì sau khi tụ tập

ăn uống xong, các hội thờng tụ tập nhau để chơi bài lúc đầu là vui, sau đó
chơi bằng tiền. Tính ăn thua sẽ gây mất đoàn kết nội bộ và ảnh hởng tới công
tác an ninh của x·.
Khao väng: lƯ khao väng lµ tËp tơc l−u trun rộng rÃi trong các làng
quê Việt Nam và tồn tại trong suốt thời phong kiến. Lệ khao vọng còn đợc


- 22 hiĨu lµ viƯc nép tiỊn vµ lµm tiƯc mời dân làng ăn nhân dịp đỗ đạt, hoặc thăng
chức theo lệ cũ.
Vọng gồm vọng lÃo và vọng ngôi. Theo sách phong tục thể lệ khoán
ớc xà Tây Tựu có ghi về vọng lÃo nh sau: trong làng ông nào tuổi đến bảy
mơi thời sửa ba đồng bạc, sửa một chai rợu, năm mơi khẩu giầu cứ ngày
12 tháng giêng ra đình làm lễ yết xong rồi giầu rợu kính dân. [39].
Trong làng ai đến tuổi năm năm thời lên lÃo hội, các ông chức sắc
đợc dự biếu thời sửa tám đồng bạc, 160 miếng giầu, một chai rợu cứ ngày
12 tháng giêng đem ra đình làm lễ yết kính dân.. [37].
Nh vậy, vọng lÃo là lễ trình làng lên lÃo của những ngời thuộc nam
giới trong xà độ tuổi từ 55 trở lên. Thờng trừ vọng lÃo còn vọng ngôi thứ đều
có khao. Khao và vọng ngôi thứ ở làng có những quy định cụ thể nh: hễ ai
ơn dân, ơn nớc mà đợc đỗ đạt hoặc phẩm trật hoặc làm chánh phó tổng phải
lễ yết thần, trình dân và khao tất cả 5 hàng thời đồng dân, mừng 15
đồng.[39]
Với những ngời đỗ đạt chức càng lớn thì việc khao càng to. ông nào
thi đỗ Đại trung khoa Tây Nam ngày nào về vinh quy thời lý dịch họp cả dân
đi đón rớc về đến nhà thì sửa cơm rợu cho dân ăn uống. Ông Đại khoa Tây
Nam sửa một con lợn phỏng mời đồng bạc, rợu một chai, xôi một àn, giầu
20 khẩu [37]
Tuy nhiên khoán ớc cũng ghi những ai khao chức sắc mà không muốn
khao thì dân cũng không bắt. Nhng đối với vọng t văn và vọng hơng mục
thì việc khao là bắt buộc theo quy định nghiêm ngặt. [39]

Nh vậy, ngời dân làng Đăm từ xa đà có những quy định khá mềm
dẻo trong viƯc khao väng chøc s¾c.


- 23 Lệ khao vọng đến nay ở xà không còn tồn tại mà chuyển thành tục lên
lÃo. Nghi thức ngày nay rất đơn giản, nhà nào có kinh tế thì làm cơm mời con
cháu, dân làng đến dự. Nhà nào nghèo thì chỉ cần sửa lễ mang lên đình là
đợc. Hàng năm, cứ đến ngày mùng 9, mùng 10 tháng giêng âm lịch, ngời
dân nơi đây lại nô nức lên đình thôn Trung làm lễ lên lÃo cho các cụ ông, cụ
bà đà đến tuổi thợng thọ (những cụ từ 70 trở lên) còn những ông, bà lên lÃo
tuổi từ 55 đến 60 thì thờng lên đình làm lễ từ ngày 12 đến 15 tháng giêng âm
lịch.
Lễ lên lÃo cũng có những quy định về sắc phục riêng. Theo hơng ớc
của làng, các cụ thợng thọ 70 sẽ đợc mặc áo thụng vàng, quần vàng, đi hia
(hài) vàng, đội khăn vàng. Các cụ 80 đến 90 mặc áo thụng đỏ, quần đỏ, đi hia
(hài) đỏ đội khăn đỏ. Các ông, bà 55 đến 60 tuổi chỉ sửa lễ cùng con cháu lên
đình lễ Thánh.
Vào ngày lên lÃo, Ban T văn đình thôn Trung phối hợp với hội Ngời
cao tuổi tổ chức làm lễ tế long trọng để báo cáo với Thành hoàng làng . Đây
cũng là dịp các cụ lên lÃo đợc làm lễ tạ ơn nhà thánh đà bảo hộ cho mình sức
khỏe, sống thọ cùng con cháu.
Ngoài việc dâng lễ lên đình, các cụ lên lÃo còn dâng lễ lên đền thờ
Thông Mẫn Công, nhà văn chỉ thờ các vị tiên hiền, chùa Hng Khánh, đền thờ
Mẫu và miếu thôn Thợng.
Tục lệ này đợc coi là một nét đẹp của làng và cũng thể hiện sự tôn
trọng của mọi ngời với bậc lÃo. Vì vậy, ai đà đến tuổi lên lÃo đều cảm thấy vị
trí xứng đáng của mình đợc nâng lên.
Kiêng kỵ: với t duy nông nghiệp, ngời dân địa phơng luôn tâm
niệm: có thờ có thiêng, có kiêng có lành. Đó có thể coi là một tín ngỡng vô
hình nhng thiêng liêng ảnh hởng rất lớn đến đời sống văn hóa xà hội của



- 24 ngời nông dân. Chính điều này đà góp phần lu tồn những kiêng kỵ cho đến
ngày nay.
Từ thực tế cuộc sống của ngời dân địa phơng, có một số kiêng kỵ cụ
thể nh: con cháu kiêng không nói tên ông bà, cha mẹ. Nếu trong cuộc sống
hàng ngày có những tiếng trùng với tên của các bậc này, con cháu sẽ gọi tránh
đi hoặc tìm một tiếng đồng nghĩa để thay vào. Đối với các ông bà, tổ tiên đÃ
mất khi con cháu làm một việc gì đó không phải mà bị ngời khác réo tên
chửi thì bị coi là một điều sỉ nhục cho cả gia đình và dòng họ. Do vậy, mọi
ngời đều giữ gìn lời ăn, tiếng nói tránh không để ngời khác xúc phạm đến tổ
tiên của mình.
Trớc khi đặt tên cho các con cháu nhỏ mới sinh ra, bố mẹ phải tìm
hiểu tên của tổ tiên hai bên nội ngoại và kiêng không đợc đặt tên của tổ tiên
cho con trẻ, vì nh vậy là phạm tội bất kính, gây điều bất hiếu cho cha mẹ.
Trong các giai đoạn lịch sử, đối với Thành hoàng làng, với các vị Vua
chúa, hoàng tộc ngời ta kiêng gọi thẳng tên, tránh đặt tên trùng của Thánh,
của Vua chúa, hoàng tộc vì nh vậy là phạm húy phải chịu quở trách, hoặc
nặng hơn thì phạt theo luật.
Còn trong các ngày đầu năm ngời dân địa phơng còn có một số kiêng
kỵ đó là:
Kỵ mai táng ngời chết: nếu nhà ai không may có ngời qua đời vào
ngày 30 hay mùng một tết thì phải để thi hài ở trong nhà, không đợc phát
tang. Phải đợi đến ngày mùng 3 hoặc mùng 4 thì mới đợc đa tang và mai
táng. Họ cho rằng khởi đầu một năm mới mà đà có sự lạnh lẽo của đám tang
thì làng sẽ không gặp may mắn trong làm ăn cả năm đó.
Sáng mùng một tết, ngời ta kiêng vào nhà ai đó mà cha có ngời
xông nhà (xông đất), ngời xông nhà (xông đất) phải hợp với tuổi của chủ
nhà. Th−êng ng−êi ta kÐn mét ng−êi “dÔ vÝa” trong gia đình ra khỏi nhà trớc



- 25 giê trõ tÞch, råi sau lƠ trõ tÞch thì xin hơng lộc hoặc hái cành lộc ở đình, chùa
mang về. Lúc trở về đà sang năm mới và ngời này sẽ tự xông nhà cho nhà
mình, mang lại sự tốt đẹp quanh năm cho gia đình. Nếu không có ngời dễ
vía trong nhà thì phải nhờ ngời khác tốt vía để sớm mùng một đến xông
nhà trớc khi có khách tới chúc tết.
Ngày mùng một tết, ngời địa phơng rất kiêng kỵ ngời khác tới xin
lửa nhà mình vì quan niệm lửa là đỏ, cho ngời khác cái đỏ thì cả năm đó gia
đình sẽ không gặp may mắn. Trong ngày này, ngời ta còn kiêng quét nhà,
kiêng đổ rác vì nếu quét nhà thì năm đó cả gia đình sẽ nghèo túng, hốt rác
trong nhà đổ đi thì thần Tài sẽ đi mất. Ngày đầu năm cũng nh ngày đầu
tháng, ngời ta rất kiêng kỵ việc vay mợn hoặc trả nợ, cho vay
Trong ăn uống, ngời ta kiêng ăn thịt chó, thịt vịtnếu ăn những thứ
này vào đầu năm sẽ gặp xúi quẩy, kiêng cho nớc đầu năm Ngoài ra, ngời
ra cũng khuyên con cháu trong ngày này không đợc đánh vỡ bát đĩa, ấm
chén, cÃi nhau, chửi nhau, kiêng những điều không vui xảy ra với gia đình.
Hội hè, lễ tết : về lễ hội, ở làng có lễ hội lệ hàng năm đợc tổ chức vào
ngày mùng 9,10,11 tháng 3 âm lịch. Hội chính đợc tổ chức 5 năm một lần.
Đây là một lễ hội có quy mô lớn nhất huyện Từ Liêm. Nét nổi bật của lễ hội
ngoài các nghi lễ rớc Thánh còn là việc tổ chức cuộc thi bơi chải giữa 3 thôn.
Đây là cuộc thi có sức cuốn hút hàng ngàn cổ động viên của 3 đội. Dới sông
các tay chèo ra sức thi bơi thì trên bờ các cổ động viên cũng ra sức cổ vũ cho
đội mình. Đội chiến thắng sẽ vinh dự đợc rớc Đức Thánh Bạch Hạc Tam
Giang hồi cung theo đờng thủy.
Trong những năm gần đây, mét sè ngµy kû niƯm, ngµy héi do nhµ n−íc
tỉ chức ổn định hàng năm đà bắt đầu ăn sâu vào tiềm thức của ngời dân địa
phơng và trở thành một ngày hội mới khá nhộn nhịp nh: lễ Quốc khánh
mùng 2 tháng 9, ngày Quốc tế phụ nữ mùng 8 tháng 3, ngày Quốc tế lao động



×