Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

Gía trị lịch sử văn hóa di tích căn cứ ban an ninh trung ương cục miền nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (486.95 KB, 113 trang )

1

Bộ Giáo dục v đo tạo

Bộ Văn hóa, thể thao v du lịch

Trờng đại học Văn hóa H Nội

Trần Văn Nghị

Giá trị Lịch sử - văn hóa
di tích căn cứ Ban An ninh Trung ơng cục
miền nam
Chuyên ngành : Văn hóa học
M số
: 60 31 70

Luận văn Thạc sĩ văn hãa häc

Ng−êi h−íng dÉn khoa häc: PGS, TS Phan Khanh

Hμ néi - 2009


2

Lời cảm ơn
Xác định trách nhiệm của một chiến sĩ Công an hoạt động trong lĩnh vực văn hóa,
tác giả đà chọn đề tài: "Giá trị lịch sử - văn hóa Di tích Căn cứ Ban An ninh Trung
ơng Cục miền Nam" làm luận văn tốt nghiệp Cao học. Để hoàn thành công trình, ngoài
nỗ lực bản thân tác giả đà may mắn đợc sự giúp đỡ, hớng dẫn hết sức tận tình, chu đáo


của PGS, TS Phan Khanh. Thầy đà không quản ngại khó khăn khi hớng dẫn một học viên
mới chập chững bớc vào sự nghiệp khoa học; Bên cạnh đó là sự tản mát, hạn chế về t
liệu và địa bàn di tích ở xa cũng là những yếu tố làm cho công việc gặp nhiều trở ngại đối
với tác giả cũng nh Thầy hớng dẫn.
Trong quá trình thực hiện, tác giả cũng nhận đợc sự giúp đỡ, chỉ bảo nhiệt thành
của các vị Công an lÃo thành, lÃnh đạo cơ quan công tác, các đồng chí, đồng nghiệp trong
và ngoài Ngành Công an. Sự giúp đỡ ấy đà góp phần quan trọng động viên tác giả vợt qua
khó khăn để hoàn thành công trình. Các thầy cô và bạn bè kèm kặp, giúp đỡ cũng là nguồn
khích lệ to lớn đối với tác giả.
Nhân đây xin đợc bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với sự giúp đỡ, chỉ bảo chí tình
của Thầy hớng dẫn, các thầy cô, các vị công an lÃo thành, đồng chí đồng nghiệp trong và
ngoài Ngành đà giúp đỡ tác giả hoàn thành công trình, hoàn thành nhiệm vụ.
Với yêu cầu đặt ra của luận văn Thạc sĩ và những khó khăn về đặc thù của đề tài,
cùng với những hạn chế về kinh nghiệm trong nghiên cứu khoa học của tác giả sẽ không
tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Với tấm lòng trân trọng, rất mong nhận đợc sự góp ý
để luận văn đợc hoàn thiện hơn. Đó cũng là sự đóng góp cần thiết để bản thân tác giả
trởng thành hơn.
Xin trân trọng cảm ơn!


3

Bảng chữ cái viết tắt V CáC Ký HIệU

XHCN :

XÃ hội chủ nghĩa

DTGP


:

Dân tộc giải phóng

LLVT

:

Lực lợng vũ trang

CNH, HĐH

:

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

TW

:

Trung ơng

BCH TW

:

Ban Chấp hành Trung ơng

TWC


:

Trung ơng Cục

TWC MN

:

Trung ơng Cục miền Nam

CMLT :

Cách mạng lâm thời

CAND :

Công an nhân dân

CATW :

Công an Trung ơng

CBCS

:

ANVT :

Cán bộ chiến sĩ
An ninh vũ trang


Tp

:

Thành phố

Nxb

:

Nhà xuất bản

[33, tr. 464]

:

Tài liệu tham khảo số 33, trang 464

(Sơ đồ 1); (ảnh 18):

Xem phụ lục, sơ đồ số 1; Xem phơ lơc, ¶nh sè
18


4

Mục lục
Trang
Mở đầu ............................................................................................................................... 1


Chơng 1: Lịch sử hình thnh Di tích lịch sử - văn hóa căn cứ
Ban An ninh Trung ơng Cục miền Nam. .............................5
1.1. Vài nét về mảnh đất, con ngời Tây Ninh. ......................................................... 5
1.2. Tây Ninh, địa bàn chiến lợc, cái nôi của cách mạng miền Nam................. 9
1.3. Quá trình hình thành Di tích lịch sử - văn hóa Căn cứ Ban An ninh
Trung ơng Cục miền Nam. ................................................................................ 13
Chơng 2: giá trị lịch sử - văn hóa Di tích căn cứ Ban An ninh
Trung ơng Cục miền Nam ............................................................ 27
2.1. Thực trạng Di tích lịch sử - văn hóa Căn cứ Ban An ninh Trung ơng Cục
miền Nam. ................................................................................................................ 27
2.2. Giá trị lịch sử cách mạng. ..................................................................................... 33
2.3. Giá trị văn hóa. ........................................................................................................ 52
Chơng 3: giải pháp bảo tồn v phát huy Di tích lịch sử - văn hóa
căn cứ Ban An ninh Trung ơng Cục miền Nam ............... 75
3.1. Các giải pháp bảo tồn Di tích lịch sử - văn hóa Căn cứ Ban An ninh
Trung ơng Cục miền Nam. ................................................................................. 75
3.2. Các giải pháp phát huy Di tích lịch sử - văn hóa Căn cứ Ban An ninh
Trung ơng Cục miền Nam. ................................................................................. 88
KÕt ln ...................................................................................................................... 103
danh mơc tμi liƯu tham kh¶o....................................................................... 105
Phơ lôc


5

Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hơn 60 năm chiến đấu, xây dựng và trởng thành qua hai cuộc chiến
tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nớc và công cuộc xây dựng, bảo

vệ Tổ quốc, lực lợng CAND Việt Nam đà lập nên những chiến công vang
dội, góp phần bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng, vì bình yên cuộc sống,
vì hạnh phúc của nhân dân. Những cống hiến của họ ghi dấu ấn trên mọi nẻo
đờng quê hơng và Di tích lịch sử - văn hóa Căn cứ Ban An ninh TWC MN
là một địa điểm nh vậy.
Nằm cạnh trục lộ 792, thuộc địa phận ấp Bảy Bàu, xà Tân Lập - cách
cửa khẩu Xa Mát của huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh 2,5 km và cách trung
tâm thị xà Tây Ninh 50 km về phía tây bắc, Di tích lịch sử - văn hóa Căn cứ
Ban An ninh TWC MN là nơi để CBCS CAND ôn lại và học tập truyền thống
anh hùng cách mạng của các thế hệ cha anh; là một điểm du lịch hấp dẫn du
khách trong và ngoài nớc.
Lực lợng An ninh miền Nam, dới sự lÃnh đạo và chỉ đạo của Ban An
ninh TWC MN trong những năm tháng kháng chiến chống Mỹ đà vợt bao
gian khổ hy sinh hoàn thành xuất sắc sứ mệnh của mình, góp phần bảo vệ
cách mạng miền Nam đi tới thắng lợi cuối cùng. Nơi đây là địa điểm đóng
quân của Ban An ninh TWC MN trong thời kỳ từ năm 1973 - 1975.
Di tích lịch sử - văn hóa Căn cứ Ban An ninh TWC MN và các di tích lịch
sử - văn hóa CAND nói chung, là một bộ phận của Di sản văn hóa Việt Nam thể
hiện tinh thần yêu nớc quật cờng chống ngoại xâm, lòng dũng cảm, mu trí đối
chọi với mọi âm mu, thủ đoạn nham hiểm của kẻ thù, hun đúc nên những giá trị
và bản sắc văn hóa dân tộc. Nhiệm vụ bảo tồn và phát huy giá trị của những di sản
văn hóa ấy đà và đang đặt ra những yêu cầu không chỉ đối với những nhà quản lý,
nghiên cứu văn hóa, mà đó còn là trách nhiệm cho mỗi công dân. Đặc biÖt trong


6
thêi kú më cưa héi nhËp qc tÕ ngµy cµng sâu rộng nh hiện nay, đó sẽ là một
nguồn lực quan trọng góp phần thúc đẩy kinh tế xà hội phát triển.
Trong những năm qua Ngành Công an đà chú trọng đầu t khôi phục, tôn
tạo Di tích lịch sử - văn hóa Căn cứ Ban An ninh TWC MN. Những cố gắng đó

đà đem lại những hiệu quả tích cực trong việc bảo tồn và phát huy di tích, đồng
thời làm cho nơi đây trở thành một điểm du lịch hấp dẫn. Song vì nhiều nguyên
nhân khách quan và chủ quan mà quá trình đầu t tôn tạo, quản lý, bảo vệ và
phát huy tại di tích quan trọng này còn những vấn đề cần làm sáng tỏ cả về lý
luận và thực tiễn. Việc nghiên cứu tìm hiểu một cách hệ thống, đầy đủ quá trình
hình thành cùng những giá trị tiềm ẩn của di tích, đồng thời kiến nghị những giải
pháp phù hợp sẽ góp phần bảo tồn, phát huy giá trị của di tích ngày một tốt hơn.
Nhận thức rõ vai trò, trách nhiệm của một chiến sĩ CAND đợc đào tạo
chuyên ngành Văn hóa học tôi đà chọn đề tài: "Giá trị lịch sử - văn hóa Di tích
Căn cứ Ban An ninh Trung ơng Cục miền Nam" làm luận văn Thạc sĩ.
2. Mục đích của đề tài
2.1. Nghiên cứu, đánh giá giá trị lịch sử, văn hóa và lịch sử hình thành
Di tích lịch sử - văn hóa Căn cứ Ban An ninh TWC MN trong kháng chiến
chống Mỹ cứu nớc.
2.2. Nêu rõ thực trạng quản lý và hoạt động của Di tích lịch sử - văn hóa
Căn cứ Ban An ninh TWC MN.
2.3. Kiến nghị những giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy Di tích lịch
sử - văn hóa Căn cứ Ban An ninh TWC MN đạt hiệu quả cao hơn.
3. Tình hình nghiên cứu
Cho đến nay cha có một công trình nghiên cứu nào đợc công bố về Di
tích lịch sử - văn hóa Căn cứ Ban An ninh TWC MN cịng nh− hƯ thèng di tÝch
CAND nãi chung. Sau khi đợc Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể
thao và Du lịch) xếp hạng, cấp bằng công nhận Di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc
gia vào năm 1999 và sau đó năm 2000, tại đây khánh thành nhà trng bày bổ


7
sung (khoảng 300m2 trng bày) thì di tích đà trở thành một điểm nhấn quan
trọng trong hành trình du lịch trë vỊ chiÕn khu x−a - cơm di tÝch khu căn cứ địa
cách mạng của tỉnh Tây Ninh. Từ thực tế đó cũng có một số bài viết đợc đăng

trên các báo, tạp chí giới thiệu về di tích phục vụ bạn đọc và du khách.
Năm 2001, Nhà xuất bản CAND xuất bản tập sách ảnh, trong đó có một
số bài viết của các tác giả cùng với gần một trăm bức ảnh minh họa về di tích.
Nội dung các sách và tài liệu nói trên mới chỉ dừng lại trong việc giới thiệu
một cách sơ lợc về di tích này.
4. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tợng nghiên cứu
Đối tợng nghiên cứu của luận văn là Di tích lịch sử - văn hóa Căn
cứ Ban An ninh TWC MN và các điểm di tích khác có liên quan.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chủ yếu nghiên cứu tập trung vào địa bàn tỉnh Tây Ninh
(huyện Tân Biên), là khu vực mà Ban An ninh TWC MN đà đóng quân trớc
đây. Tây Ninh - miền Đông Nam bộ cũng chính là cái nôi của cách mạng
miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ.
4.3. Thời gian nghiên cứu
Từ năm 1954, Hiệp định Giơnevơ đợc ký kết, hòa bình đợc lập lại ở
miền Bắc Việt Nam, miền Nam tiếp tục cuộc đấu tranh giành độc lập, thống
nhất cho Tổ quốc. Đó cũng là bối cảnh hình thành lực lợng An ninh miền
Nam, với vai trò và sứ mệnh lịch sử của mình đà góp phần to lớn bảo vệ cách
mạng miền Nam đi đến thắng lợi cuối cùng.
5. Phơng pháp nghiên cứu
+ Vận dụng phơng pháp luận Mác - Lênin và t tởng Hồ Chí Minh.
+ Phơng pháp nghiên cứu liên ngành: Văn hóa học, Sử học, Dân tộc
học, Bảo tàng học và các phơng pháp khác của khoa học xà hội và nhân văn.
+ Phơng pháp khảo sát điền dÃ: quan sát, miêu tả, chụp ảnh, phỏng vấn,


8
6. Những đóng góp của luận văn
+ Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu, đánh giá một cách đầy đủ

có hệ thống về Di tích lịch sử - văn hóa Căn cứ Ban An ninh TWC MN.
+ Đánh giá thực trạng bảo tồn, phát huy, quản lý và khai thác Di tích
lịch sử - văn hóa Căn cứ Ban An ninh TWC MN.
+ Nghiên cứu, đánh giá những giá trị nổi bật của Di tích lịch sử - văn
hóa Căn cứ Ban An ninh TWC MN.
+ Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lợng công tác bảo tồn và
phát huy Di tích lịch sử - văn hóa Căn cứ Ban An ninh TWC MN.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung luận văn đợc chia thành 3 chơng:
Chơng 1: Lịch sử hình thành Di tích lịch sử - văn hóa Căn cứ
Ban An ninh Trung ơng Cục miền Nam.
Chơng 2: Giá trị lịch sử - văn hóa Di tích Căn cứ Ban An ninh
Trung ơng Cục miền Nam.
Chơng 3: Giải pháp bảo tồn và phát huy Di tích lịch sử - văn hóa
Căn cø Ban An ninh Trung −¬ng Cơc miỊn Nam.


9

Chơng 1
Lịch sử hình thnh Di tích lịch sử - văn hóa
căn cứ Ban An ninh Trung ơng Cục miền Nam
1.1. Vi nét về mảnh đất, con ngời Tây Ninh

Tây Ninh là tỉnh thuộc miền Đông Nam Bộ có tọa độ từ 10057 đến
11046 vĩ bắc và từ 105048 đến 106022 kinh đông. Phía tây và tây bắc giáp
vơng quốc Campuchia, phía đông giáp tỉnh Bình Dơng và Bình Phớc, phía
nam giáp Tp Hồ Chí Minh và tỉnh Long An. Tây Ninh có diện tích tự nhiên là
4.035,45 km2, dân số: 1.047.365 ngời (năm 2006), mật độ trung bình: 259,54

ngời/km2. Ngời Kinh chiếm 98% dân số toàn tỉnh, còn lại là dân tộc khác
(chủ yếu là Khơ me, Hoa và ngời Chăm).
Là một vùng đợc hình thành từ khá sớm. Khi các trấn ở xứ Nam Kỳ
hình thành Tây Ninh thuộc trấn Phiên An (dinh Gia Định đợc đặt làm Phiên
trấn năm 1779). Năm 1889 thực dân Pháp chia Nam kỳ thành 20 tỉnh và hai
thành phố, tỉnh Gia Định cũ đợc chia thành bốn tỉnh mới, trong đó có tỉnh
Tây Ninh trên đất phủ Tây Ninh cũ gồm 10 tổng và 50 làng [59, tr, 90].
Về địa giới hành chính giữa ta và địch có những điểm khác nhau. Từ
năm 1890, Tây Ninh có hai quận là Thái Bình và Trảng Bàng. Qua nhiều biến
động của lịch sử, đến thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, về cơ bản Tây Ninh có
các quận là: Phú Đức, Phớc Ninh, Phú Khơng, Khiêm Hanh và Hiếu Nghĩa
và là một trong 40 tỉnh cđa miỊn Nam ViƯt Nam. VỊ phÝa ta, qn Phó Đức
của Ngụy ta gọi là huyện Trảng Bàng; Quận Hiếu Thiện ta gọi huyện Gò Dầu
và Bến Cầu; quận Phớc Ninh là huyện Châu Thành và Tân Biên; quận Phú
Khơng là huyện Tòa Thánh và Dơng Minh Châu.
Từ sau giải phóng Tây Ninh có một thị xà (Tây Ninh) và 8 huyện là:
Trảng Bàng, Gò Dầu, Bến Cầu, Châu Thành, Tân Biên, Tân Châu, Dơng Minh
Châu và Hòa Thành (đổi tên từ huyện Tòa Thánh) cho đến nay [10, tr. 8 - 10].


10
Tơng tự nhiều địa phơng Nam Bộ khác, khí hậu Tây Ninh tơng đối
ôn hòa, mùa khô (nắng) từ tháng 12 đến tháng 4 và mùa ma, từ tháng 5 đến
tháng 11. Tây Ninh có 2 con sông lớn chảy qua là sông Sài Gòn và sông Vàm
Cỏ Đông cùng với hồ Dầu Tiếng (sức chứa 1,5 tỉ m3) là nguồn cung cấp tới
tiêu quan trọng của tỉnh và trong khu vực. Nhiệt độ tơng đối cao và ổn định,
trung bình sấp sỉ 270C, lợng ma hàng năm từ 1800 - 2200mm.
Nguồn tài nguyên thiên nhiên ở Tây Ninh tập trung vào diện tích rừng
và một số nhóm khoáng sản. Đại bộ phận rừng thuộc dạng rừng tha khô,
rừng hỗn giao tre nứa và gỗ. Khoáng sản chủ yếu thuộc nhóm phi kim loại

nh: than bùn, đá vôi, cuội, sỏi, cát... và đá xây dựng.
Về phơng diện lịch sử xà hội, các nhà nghiên cứu đều khẳng định đây
là vùng đất đợc khai phá sớm. Qua khai quật khảo cổ đà chứng minh có c
dân đến sinh sống tại đây từ thời kỳ đồ đá và theo dòng chảy của thời gian dần
định hình nên vùng đất Tây Ninh cùng với sự hình thành của đồng bằng sông
Cửu Long - cái nôi của nền văn hóa óc Eo nổi tiếng.
Cùng với sự phát triển chung của các quốc gia Đông Nam á cổ, đa
phần dân c vùng cao Tây Ninh rời ruộng rẫy đến châu thổ nhiều sông rạch
sinh sống. Vùng Tây Ninh trở nên hoang vắng, phải đến thế kû VI - VII míi
cã sù h−ng khëi trë l¹i do sự dịch chuyển dân c từ châu thổ sông Cửu Long
lên các vùng cao tránh thiên tai, địch họa. Tõ thÕ kû thø IX vỊ sau, Nam Bé lµ
vïng tranh giành ảnh hởng của các vơng quốc (Ăngco - Chămpa - Java), c
dân nơi đây lại phải lu tán để tránh nạn binh đao. Dấu tích còn lại về thời kỳ
này rất ít và có thể xem đó nh là một trong những đứt đoạn của văn hóa lịch
sử ở đây và kéo dài cho đến khi xuất hiện các cộng đồng dân c mới trên đất
Tây Ninh ngày nay
Theo nhiều nguồn sử liệu thì từ đầu thế kỷ XVII, ngời Việt đà đến
định c khai phá vùng Sài Gòn - Gia Định. Họ cùng với c dân bản địa khai
phá các khu vực Chợ Quán, Bà Chiểu, Gò Vấp kéo dài về phía Tây Ninh.


11
Thành phần chủ yếu là dân nghèo Đàng ngoài bị cùng cực, điêu đứng vì tai
họa chiến tranh và áp bức, bóc lột phải rời bỏ quê hơng và số khác là những
ngời trốn binh dịch, tù nhân bị lu đày, ngời Hoa xin tị nạn
Thời kỳ thực dân Pháp chiếm đóng, họ đà tiến hành khai thác Tây Ninh
một cách triệt để. Nguồn lợi mà giới t bản và chính quyền thực dân kiếm
đợc ở đây chủ yếu là từ khai thác và chế biến nguồn tài nguyên lâm, khoảng
sản. Song song với vơ vét về kinh tế, ngời Pháp đà thiết lập hệ thống chính
quyền tay sai với những chính sách cai trị hà khắc và ngu dân. Đời sống mọi

mặt của ngời lao động nghèo khổ ngày càng trở nên cùng quẫn và mẫu thuẫn
xà hội bị ®Èy lªn cao dÉn tíi bïng nỉ nhiỊu cc ®Êu tranh đòi quyền dân
sinh, dân chủ của quần chúng, đặc biệt là giai đoạn đầu thế kỷ XX.
Đảng ra đời trở thành ngọn đuốc soi đờng đấu trang của quần chúng
và ảnh hởng lan rộng tới mọi ngóc ngách trong đó có Tây Ninh. Phong trào
cách mạng đợc hình thành và ngày càng lan rộng, làm nòng cốt và hỗ trợ
quần chúng đấu tranh. Từ phong trào đấu tranh, các cơ sở đảng đợc hình
thành đặt nền móng quan trọng cho sự phát triển của cách mạnh Tây Ninh.
Tổng khởi nghĩa Tháng Tám bùng nổ, quần chúng nhân dân Tây Ninh
nổi dậy dới sự lÃnh đạo của Việt Minh chỉ trong một ngày đêm (25/8/1945)
chính quyền Ngụy từ tỉnh đến quận sụp đổ hoàn toàn, và 3 ngày sau chính
quyền ở các xà thuộc về tay nhân dân. Tổng khởi nghĩa Tháng Tám ở Tây
Ninh đà diễn ra nhanh chóng và thu đợc thắng lợi hoàn toàn.
Chín năm kháng chiến chống Pháp và hơn hai mơi năm kháng chiến
chống Mỹ, chiến trờng Tây Ninh là nơi khó khăn nhất của miền Đông gian
lao và anh dũng và cũng là những năm tháng hào hùng và ác liệt nhất trong
trang sử vẻ vang của Tây Ninh. Vị trí và địa thế quan trọng của Tây Ninh đÃ
thu hút kẻ thù tập trung mọi nguồn lực để giành giật. Song Đảng bộ Tây Ninh
đà dựa vào quần chúng, củng cố tổ chức, chính quyền, lÃnh đạo quân dân Tây
Ninh vợt qua những giai đoạn đen tối, tạo thế và lực cho cách mạng góp phần


12
đánh bại những kẻ thù xâm lợc hùng mạnh nhất. Quân dân Tây Ninh không
phụ niềm tin của cả nớc, xứng đáng là thủ đô của cách mạng miền Nam.
Đất nớc thống nhất, dới sự lÃnh đạo của Đảng bộ và chính quyền địa
phơng, nhân dân Tây Ninh nhanh chóng hàn gắn vết thơng chiến tranh,
đánh tan quân Khơ me đỏ, chung tay xây dựng quê hơng. Hiện nay, ở Tây
Ninh có 26 dân tộc anh em sinh sống. Mỗi dân tộc tuy có những phong tục,
tập quán sinh hoạt khác nhau nhng đều có truyền thống chung là sống đoàn

kết với cộng đồng, lao động cần cù, chiến đấu dũng cảm, tất cả đà tạo nên cho
Tây Ninh một nền văn hóa đa dạng, phong phú và đầy bản sắc.
Các tôn giáo ở Tây Ninh gồm Đạo Phật, Cao Đài, Thiên Chúa và một số
tôn giáo khác, trong đó Đạo Cao Đài giữ vị trí quan trọng trong đời sống tâm linh
ngời dân nơi đây. Ra đời từ năm 1926, trong bối cảnh lịch sử xà hội có nhiều
biến động, Tây Ninh chính là nơi phát nguyên của Đạo Cao Đài. Đạo Phật cũng
là một tôn giáo xuất hiện ở Tây Ninh khá sớm. Căn cứ vào các di chỉ khảo cổ và
sử liệu, các nhà chuyên môn cho rằng Đạo Phật có mặt ở Tây Ninh cùng với quá
trình khai phá đất đai của các c dân Bắc Bộ. Đạo Thiên Chúa thì đợc truyền
vào Tây Ninh cùng với quá trình di dân của các giáo sĩ phơng Tây trốn chạy
sự truy lùng triều đình nhà Nguyễn
Với bề dày lịch sử của hơn 300 năm khai phá và trải qua hai cuộc chiến
tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nớc, Tây Ninh luôn là địa phơng
giàu truyền thống cách mạng, là thủ đô của Chính phủ CMLT Cộng hòa
miền Nam Việt Nam, nơi trú quân của các LLVT miền Nam. Hiện nay, cùng
với Di tích Căn cø Ban An ninh TWC MN lµ cơm di tÝch gắn liền với cuộc
kháng chiến chống Mỹ nh Di tích TWC MN, Chính phủ CMLT, Mặt trận
DTGP, Căn cứ Bời Lời, Địa đạo An Thới, Chiến thắng Tua Hai... Bên cạnh đó
còn có các di tích về lịch sử văn hóa Tây Ninh nói chung, có thể kể đến những
di tích tiêu biểu nh: Tòa thánh Cao Đài, Núi Bà Đen.
Tòa thánh Cao Đài, một quần thể kiến trúc nghệ thuật nổi tiếng đợc
xây dựng vào khoảng năm 1936. Đây là một công trình nghệ thuật tổng hợp,


13
kết hợp hài hòa kiến trúc dân tộc và kiến trúc tôn giáo phơng Đông, phơng
Tây. Hàng năm, Tòa thánh Cao Đài Tây Ninh đón khoảng 10 vạn lợt khách
hành hơng về dự những nghi lễ quan trọng của Đạo Cao Đài
Quần thể di tích - danh thắng núi Bà Đen cũng là một điểm du lịch hấp
dẫn và nổi tiếng bậc nhất của cả Nam Bộ, từ lâu vốn là biểu tợng về đất và

ngời của quê hơng Tây Ninh. Cách trung tâm thị xà khoảng 11 km về
hớng đông bắc, trải rộng trên diện tích 24 km2, gồm 3 ngọn núi tạo thành là
núi Heo, núi Phụng và núi Bà Đen. Hàng năm Di tích lịch sử - văn hóa và
danh thắng Núi Bà Đen đón hơn 1,6 triệu khách đến hành hơng và tham
quan, thởng ngoạn.
Ngoài ra còn nhiều điểm di tích và danh thắng khác nh: Tháp Chót
Mạt (xà Tân Phong, Tân Biên), Tháp cổ Bình Thạnh (xà Bình Thạnh, Trảng
Bàng), Đền thờ Quan lớn Trà Vong (xà Trà Vong, Tân Biên), Vờn quốc gia
Lò Gò - Xa Mát (huyện Tân Biên), Hồ Dầu Tiếng...
Những năm gần đây, nền kinh tế Tây Ninh ngày càng có những bớc phát
triển rất đáng khích lệ. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hớng công nghiệp, dịch
vụ, từng bớc hình thành các khu công nghiệp thu hút nhiều nhà đầu t trong và
ngoài nớc, đời sống ngời dân ngày càng đợc nâng cao [53, tr. 21].
1.2. Tây Ninh, địa bn chiến lợc, cái nôi của cách mạng
miền Nam

Suốt chiều dài lịch sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm, đặc biệt trong
hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, mảnh đất Tây Ninh luôn là
một vị trí chiến lợc vô cùng quan trọng, có ý nghĩa quyết định trên cục diện
chiến trờng.
Nh chúng tôi đà trình bày, Tây Ninh là tỉnh thuộc miền Đông Nam Bộ,
là cầu nối Campuchia với Tp Hồ Chí Minh - Sài Gòn, thủ phủ của chính
quyền Ngụy, trung tâm kinh tế chính trị và văn hóa của cả miền Nam hiện
nay. Miền Đông trong chống Mỹ là chiến trờng trọng điểm của toàn miền
Nam và Tây Ninh chính là địa điểm trọng yếu nhất của miền Đông anh hùng.


14
Về tổ chức hành chính, tùy từng giai đoạn và đặc điểm tình hình miền
Đông Nam Bộ có những thay đổi. Trong kháng chiến chống Mỹ, miền Đông

thuộc chiến trờng B2 (gåm: Nam Bé, mét phÇn cùc Nam Trung Bé và Nam
Tây Nguyên). Năm 1972, Quân khu miền Đông Nam Bộ đợc thành lập, gồm
các tỉnh Long An, Biên Hòa, Bà Rịa, Long Khánh, Bình Long, Phớc Long,
Bình Dơng và Tây Ninh.
Tây Ninh hợp vào miền Đông là vùng đệm giữa cao nguyên với đồng
bằng sông Cửu Long, lng dựa vào dÃy Trờng Sơn và rừng Nam Đông
Dơng. Với 190 km đờng biên giới (chủ yếu là rừng rậm) tiếp giáp vơng
quốc Campuchia, Tây Ninh trở thành một địa bàn trú ngụ quan trọng cho
các LLVT cách mạng trong kháng chiến, vừa có thể chủ động trong tấn công
và phòng thủ, vừa có dễ dàng thể rút về bạt ngàn núi rừng miền Đông hay về
bên kia biên giới khi cần. Thực tế, năm 1970 các cơ quan TWC đà lùi sâu vào
lÃnh thổ Campuchia trên gần 100 km tránh địch càn quét. Phía đông giáp tỉnh
Bình Dơng và Bình Phớc - hai tỉnh tiếp nối cao nguyên với đồng bằng, tạo
thành thế liên hoàn trong việc triển khai chiến lợc quân sự. Phía Nam giáp Tp
Hồ Chí Minh, Tây Ninh trở thành cửa ngõ phòng thủ phía Bắc đối với đô
thành. Chính quyền Ngụy luôn xác định, khi còn các cơ quan cách mạng ở
Tây Ninh cũng có nghĩa là sự an nguy của Sài Gòn luôn bị đe dọa. Cũng bởi
vậy mà hàng trăm chiến dịch tấn công càn quét hòng tiêu diệt cơ quan đầu nÃo
TWC đà đợc chúng tiến hành, song đất rừng Tây Ninh vẫn che chở vững
chắc cho lực lợng cách mạng và quần chúng nhân dân. Không những thế, địa
thế này còn là địa bàn thuận lợi để đón nhận sự tiếp tế từ miền Bắc qua đờng
Trờng Sơn và qua Campuchia. Đây đợc coi là hành lang tiếp vận cực kỳ
quan trọng cđa miỊn Nam trong st cc kh¸ng chiÕn chèng Mü.
Nh− vậy, khi kiểm soát đợc Tây Ninh, quân đội Sài Gòn không chỉ
bình định đợc khu vực cửa ngõ biên giới phía bắc mà còn tạo bàn đạp để
tấn công và phòng thủ đối với các tỉnh miền Đông và Tây Nguyên. Về phía
chúng ta, khi giữ vững Tây Ninh, chúng ta có thể uy hiếp Sài Gòn bất cứ lóc


15

nào. Ngay cả hiện nay, vì là vùng nối liền với nớc bạn nên Tây Ninh là địa
bàn có nghĩa rất quan trọng cả về an ninh quốc phòng cũng nh đối với phát
triển kinh tế xà hội.
Tây Ninh có núi Bà Đen, là đỉnh nóc nhà Nam Bộ, là con mắt miền
Đông. Kiểm soát núi Bà Đen cũng có nghĩa là kiểm soát đợc cả vùng đồng
bằng Tây Ninh. Từ đỉnh núi Bà Đen dùng ống nhòm có thể quan sát đợc dải
rừng dọc biên giới Việt Nam - Campuchia; pháo 105 ly có thể bắn tới bất cứ
địa điểm nào của Tây Ninh, thậm chí cả sang Campuchia. Cũng vì vậy mà
trong kháng chiến Mỹ, địch đà đặt 14 trạm viễn thông, ra đa mắt thần để thu
tin tức tình báo phục vụ đánh phá căn cứ cách mạng TWC [56, tr. 312]. Nhiều
trận chiến ác liệt đà diễn ra tại đây nhằm kiểm soát đợc vị trí cốt tử này.
Một yếu tố quan trọng hàng đầu khác khiến cho Tây Ninh (đặc biệt là
vùng bắc Tây Ninh) trở thành vị trí chiến lợc trong quân sự, đó là bạt ngàn
rừng rậm nhiệt đới. Rừng rậm cùng với khí hậu nóng ẩm trở thành những cái
bẫy khổng lồ góp phần làm tê liệt sức chiến đấu của lính dù, thuỷ quân lục
chiến Mỹ Ngụy, với giày xăng đá, quần áo rằn ri cùng hàng chục kg vũ
khí, quân trang. Về phía lực lợng cách mạng thì rừng nh một mái nhà hết
sức an toàn, đó không chỉ là nơi che bộ đội, vây quân thù mà còn là nơi
cung cấp nguồn thực phẩm, rau xanh và những thảo dợc quan trọng chống
chọi với sốt rét, thú dữ, muỗi vắt và nhiều chứng bệnh quái ác khác.
Với sự phân bố và những đặc điểm tự nhiên vốn có, rừng miền Đông
nói chung và rừng Tây Ninh nói riêng đảm bảo cho ta thiết lập hoàn chỉnh hệ
thống căn cứ kháng chiến cả về chiến lợc lẫn chiến thuật. Về chiến lợc, đó
là dÃy rừng già bạt ngàn từ bắc Tây Ninh dọc biên giới sang tận vùng cực
đông, lng dựa vào dÃy Trờng Sơn tạo ra sự liên hoàn rộng lớn, hình thành
thế trận đứng trên đầu thù tạo điều kiện cho ta nhanh chóng tiếp cận và đánh
thẳng vào những trung tâm của địch. Về mặt chiến thuật, trong từng giai đoạn
cách mạng hay đối chọi trong mỗi trận chiến, Tây Ninh luôn tạo thành một
thế trận bàn đạp tiện lợi để tiếp cận và tấn công đối phơng, đồng thời nhanh



16
chóng trở thành hậu phơng vững chắc khi rút lui và phòng thủ. Ngoài rừng
liên hoàn (trong chiến tranh còn nhiều diện tích rừng nguyên sinh), Tây Ninh
còn có các vạt rừng lõm trồng cao su, cà phê và các vùng cây ăn trái tạo điều
kiện cho quân dân các địa phơng xây dựng các căn cứ vệ tinh, các lõm du
kích hình thành thế trận bao vây, áp sát địch.
Yếu tố cũng không kém phần quan trọng đó là hệ thống giao thông thuỷ
bộ. Đờng Xuyên á (quốc lộ 22 - trong chiến tranh là lộ số 1) chạy qua địa bàn
tỉnh Tây Ninh nối Tp Hồ Chí Minh với Campuchia thông qua 2 cửa khẩu quốc tế
Mộc Bài và Sa Mát là tuyến giao thông xơng sống chạy dọc tỉnh từ bắc xuống
nam. Đây cũng là những cung đờng huyết mạch và là nơi đụng độ ác liệt của
các bên trong kháng chiến chống Mỹ. Về đờng thuỷ, với hệ thống kênh rạch
phân bố rải rác khắp tỉnh cùng với hai con sông lớn là sông Vàm Cỏ Đông, sông
Sài Gòn và hồ Dầu Tiếng đà tạo cho Tây Ninh sự di chuyển cực kỳ cơ động với
các phơng tiện đa dạng. Sông Sài Gòn bắt nguồn từ vùng đồi Lộc Ninh (Bình
Phớc) chảy theo hớng đông bắc - tây nam, là ranh giới tự nhiên giữa Tây Ninh
với 2 tỉnh Bình Dơng, Bình Phớc và phía thợng lu là hồ Dầu Tiếng. Con
sông này nh một giao thông hào rộng lớn cho việc phòng thủ. Gắn liền với
nhiều chiến công vang dội trong cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc ta là
sông Vàm Cỏ Đông. Bắt nguồn từ Campuchia chảy theo hớng tây bắc - đông
nam, trong đó 151 km chảy trong địa phận Tây Ninh, đây là chính là con đờng
quan trọng mà địch đà sử dụng tàu chiến càn quét vùng căn cứ cách mạng, đồng
thời nó cũng là nơi che giấu, đa đờng cho các LLVT giải phóng. Nhiều vùng
sinh lầy rậm rạp và bạt ngàn lục bình dọc theo sông đà giúp sức không nhỏ cho
quân giải phóng và quần chúng cách mạng chiến đấu chống quân thù...
Những yếu tố trên đà tạo cho Tây Ninh trở thành một vị trí chiến lợc
về mọi mặt, đặc biệt là quân sự. Đối với cả ta và địch, làm chủ đợc Tây Ninh
là có thể kiểm soát đợc Sài Gòn. Cũng vì thế, trên mảnh đất Tây Ninh, cuộc
chiến tranh nhân dân của chúng ta đà phát huy tối đa thế trận để có thÓ tÊn



17
công địch cả về chính trị, quân sự và địch vận, với phơng châm hai chân, ba
mũi đà trở thành huyền thoại trong sử sách dân tộc và trong lịch sử chiến
tranh nhân loại.
Đó cũng là những lý do lý giải tại sao Tây Ninh trở thành căn cứ lÃnh
đạo và chỉ đạo của TWC MN, là cái nôi của cách mạng miền Nam và đi cùng
với những địa danh lịch sử ấy là căn cứ của Ban An ninh TWC MN.
1.3. Quá trình hình thnh Di tích lịch sử - văn hóa Căn cứ
Ban An ninh Trung ơng Cục miền Nam

1.3.1. Lịch sử hình thành Trung ơng Cục miền Nam và sự ra đời
Ban An ninh Trung ơng Cục miền Nam
Thất bại trong trận quyết chiến chiến lợc ở Điện Biên Phủ đà buộc
Pháp phải ký Hiệp định Giơnevơ ngày 20/7/1954, chấm dứt chiến tranh lập
lại hòa bình ở Đông Dơng. Theo đó, các bên tham gia hội nghị công nhận
về nguyên tắc sự độc lập thống nhất và toµn vĐn l·nh thỉ cđa ViƯt Nam, lÊy
vÜ tun 17 làm giới tuyến quân sự tạm thời để các bên thực hiện chuyển
quân tập kết và sẽ tiến hành hiệp thơng tổng tuyển cử vào tháng 7/1956 để
thống nhất đất nớc.
Hiệp định Giơnevơ đợc ký kết là thất bại nặng nề cho Mỹ trong mu đồ
đối với Việt Nam và Đông Dơng. Trong khi 7/9 thành viên tham gia đà ký
công nhận bản tuyên bố cuối cùng ngày 21/7/1954 thì Mỹ ra một bản tuyên bố
riêng đơn thuần là ghi nhận các thỏa hiệp quân sự. Ngày 23/10/1954 Tổng
thống Eisenhower gưi th− cam kÕt Mü sÏ cung cÊp viƯn trỵ kinh tế và quân sự
trực tiếp cho chính phủ và quân đội của Ngô Đình Diệm [28, tr. 855 - 856].
Trớc động thái trên của Mỹ và cũng do thực lực suy yếu, đến đây Pháp
hiểu rằng họ không còn vai trò gì trên chính trờng Đông Dơng. Ngày
13/12/1954 Pháp ký hiƯp −íc giao cho Mü tr¸ch nhiƯm hn lun, trang bị

quân Ngụy ở miền Nam Việt Nam. Ngày 19/12/1954, Pháp ký hiệp định trao
quyền hành chính, chính trị ở miền Nam cho Ngô Đình Diệm. Từ đây đánh
dấu quá tr×nh Mü trùc tiÕp can thiƯp, leo thang chiÕn tranh ë ViÖt Nam.


18
Về phía chúng ta, Đảng xác định, đế quốc Mỹ hiện đang là kẻ thù
chính, trực tiếp của nhân dân Đông Dơng. Ngày 22/7/1954, Chủ tịch Hồ Chí
Minh ra lời kêu gọi nhân dân cả nớc: Đấu tranh để củng cố hòa bình, thực
hiện thống nhất, hoàn thành độc lập dân chủ [41, tr. 12]. Đảng cũng chỉ rõ
âm mu thâm độc của địch là chia cắt lâu dài đất nớc ta, biến miền Nam
thành thuộc địa kiểu mới, làm căn cứ quân sự bàn đạp tấn công, ngăn chặn làn
sóng cách mạng trong khu vực và trên thế giới.
Trớc yêu cầu nhiệm vụ và diễn biến trong tình hình mới, tháng 10/1954,
tại căn cứ Chắc Băng (huyện Vĩnh Thuận, Cà Mau), Hội nghị Xứ ủy Nam Bộ
quyết định giải thể TWC MN, thành lập Xứ ủy Nam Bộ đại diện cho BCH TW
Đảng trực tiếp lÃnh đạo cuộc kháng chiến của quân và dân ta ở Nam Bộ [27, tr. 62].
Thực hiện chỉ đạo của Xứ uỷ, Công an Nam Bộ đà khẩn trơng chuyển hớng tổ
chức và hoạt động. Trớc khi giải thể lực lợng, ta tổ chức cất giấu vũ khí, thanh lý
trại giam, lập danh sách bọn phản động và bố trí lực lợng ở lại, chuyển vùng hoạt
động. Bộ phận tập kết gồm quốc vệ ®éi, c«ng an xung phong, c«ng an x·…; Bé
phËn ë lại gồm lực lợng trinh sát và cán bộ lÃnh đạo, chỉ huy cha bị lộ, đợc đa
vào hoạt động ở các Ban Địch tình, Ban Giao liên, một số đồng chí đợc phân
công chuyển vùng, thay đổi lý lịch, xà hội hóa để che mắt địch, xây dựng cơ sở...
Cùng thời điểm, Xứ uỷ quyết định thành lập Ban Bảo vệ Xứ uỷ và Ban
Bản vệ các cấp uỷ Đảng ở miền Nam, trong đó Ban Bảo vệ Xứ uỷ có bộ phận
địch tình, bộ phận bảo vệ và bộ phận thông tin liên lạc [56, tr. 20]. Tiếp theo
đó, đầu năm 1955 Ban địch tình Xứ uỷ Nam Bộ và Ban địch tình các cấp đợc
thành lập. Ban địch tình Xứ uỷ do các đồng chí Văn Viên, Xứ uỷ viên làm
Trởng ban và các đồng chí Mai Chí Thọ, Cao Đăng Chiếm (nguyên Phó

Giám đốc Sở Công an Nam Bộ), Hoàng Minh Đạo (nguyên Trởng Phòng
Quân báo Nam Bộ) là Phó ban. Ban địch tình các cấp đi vào hoạt động đà tổ
chức, xây dựng và chỉ đạo cơ sở điệp báo trong các cơ quan tổ chức địch, các
đảng phái ở miền Nam; triển khai nắm tình hình, bảo vệ Đảng và trấn áp
những tên tay sai ác ôn nguy hiểm. Một trong những trận đánh tạo bạo đợc


19
Ban địch tình Tây Ninh tổ chức thực hiện, đó là vụ ám sát hụt Ngô Đình
Diệm tại Buôn Ma Thuột tháng 2/1957. Tuy trận đánh không thành công
nhng đà gây đợc ảnh hởng chính trị to lớn trong nhân dân và làm cho
những mâu thuẫn nội bộ địch thêm gay gắt.
Lực lợng địch tình đợc hình thành là một yếu tố có tính chất nền
móng cơ bản cho việc ra đời các tổ chức An ninh miền Nam.
Trên bình diện toàn miền Nam, ta chủ trơng giữ gìn lực lợng và đẩy
mạnh đấu tranh chính trị, trong khi đó chính quyền Ngô Đình Diệm có sự hậu
thuẫn của Mỹ, ra sức thực hiện những chính sách tàn bạo của một cuộc chiến
đơn phơng. Với khẩu hiệu đả thực, bài phong, diệt cộng Diệm cho thực hiện
hàng loạt các chiến dịch tiêu diệt những phần tử cộng sản và t tởng cộng
sản nh: chiến dịch Trơng Tấn Bửu, Thoại Ngọc Hầu và đỉnh điểm là tố
cộng, diệt cộng chúng đà lê máy chém đi khắp miền Nam thà giết nhầm
còn hơn bỏ sót với những vụ thảm sát đẫm máu, tất cả hòng tiêu diệt cơ sở
cách mạng miền Nam và thủ tiêu phong trào đấu tranh của quần chúng.
Đây là thời kỳ cách mạng miền Nam vô cùng đen tối bởi sự đàn áp của
địch. Trớc tình hình đó, Đảng ta đà xác định nhiệm vụ của cách mạng miền
Nam là đoàn kết mọi ngời Việt Nam yêu nớc, tiến hành cuộc đấu tranh lâu
dài, gian khổ. Tháng 01/1959 BCH TW Đảng đà họp Hội nghị lần thứ 15 xác
định nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam và chỉ rõ: Con đờng phát
triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là khởi nghĩa giành chính
quyền về tay nhân dân và con đờng đó là: Lấy sức mạnh của quần chúng,

dựa vào lực lợng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với LLVT để
đánh đổ quyền thống trị của đế quốc và phong kiến, dựng lên chính quyền
cách mạng của nhân dân [27, tr. 206].
Dới ánh sáng của Nghị quyết 15, phong trào đấu tranh nổi dậy nổ ra ở
nhiều nơi trên khắp miền Nam và đỉnh điểm là đồng khởi ở Bến Tre, Trà
Bồng (Quảng NgÃi) và trận nội công ngoại kích vào căn cứ quân sự Tua Hai
của địch ở Tây Ninh giành thắng lợi là những bằng chứng khẳng ®Þnh tinh


20
thần quật khởi của quân dân miền Nam, đồng thời cịng cho thÊy mét thùc tÕ
lµ chóng ta cã thĨ đánh và thắng địch không chỉ trên mặt trận chính trị.
Trớc sức đấu tranh nổi dậy của quần chúng kẻ địch vô cùng hoang
mang lo sợ. Diệm đà ban bố tình trạng khẩn cấp trên toàn miền Nam và
thẳng tay đàn áp quần chúng đấu tranh, đồng thời liên tiếp càn quét khủng bố
hòng uy hiếp, khuất phục nhân dân. Yêu cầu cấp bách đặt ra lúc này là công
tác bảo vệ Đảng, lực lợng cách mạng, bảo vệ quần chúng nhân dân, và trớc
tình hình đó tháng 7/1960, Xứ uỷ ra chỉ thị số 01 thành lập Ban Bảo vệ an ninh
ở các cấp. Chỉ thị nhấn mạnh:
Trớc nay Đảng dựa vào quần chúng, lấy quần chúng làm nền
tảng để đấu tranh bảo vệ Đảng, điều đó rất đúng cần phải tiếp
tục, nhng đó mới chỉ là đấu tranh về bề rộng, cần phải đi vào
chiều sâu. ĐÃ đến lúc cần phải có một tổ chức chuyên trách đi
sâu điều tra nghiên cứu giúp Đảng nắm chắc tình hình để tổ chức
việc tấn công địch, bảo vệ Đảng, bảo vệ cách mạng [13, tr. 62].
Ban Bảo vệ an ninh Xứ uỷ đợc thành lập với mật hiệu là C93B. Nhiệm
vụ cơ bản của Ban Bảo vệ an ninh Xứ uỷ là xây dựng và chỉ đạo các cơ sở điệp
báo để nắm tình hình, tham mu cho cấp uỷ và chỉ đạo công tác bảo vệ căn cứ,
chống do thám gián điệp bảo vệ vùng giải phóng. Đồng thời tổ chức, chỉ đạo
lực lợng An ninh toàn Miền xây dựng, phát triển lực lợng và triển khai các

hoạt động tấn công tiêu diệt những đối tợng nguy hại cho cách mạng và nhân
dân. Cùng với ở Xứ uỷ, Ban Bảo vệ an ninh các cấp khu, tỉnh và huyện ở các
địa phơng cũng đợc thành lập. Cho đến cuối năm 1962, hệ thống tổ chức và
lực lợng An ninh ở miền Nam đà phát triển tơng đối hoàn chỉnh, nhiều nơi
hình thành đến cấp xÃ, (Sơ đồ 3).
Căn cứ Xứ uỷ lúc này đóng quân tại khu vực Đồng Rùm (huyện Tân
Biên). Để bảo vệ căn cứ Xứ uỷ lúc đó có một Tiểu đoàn. Đây cũng chính là
đơn vị hành chính - một tỉnh mới của vùng căn cø, mËt hiƯu lµ C1000. TØnh


21
C1000 cã mét hun cịng míi thµnh lËp lµ hun C105 (nay huyện Tân
Biên), huyện tập trung phần lớn các căn cứ cách mạng. Ban Bảo vệ an ninh
đóng quân tại khu vực Chàng Riệc, huyện C105.
Từ đây công tác bảo vệ Đảng, bảo vệ lực lợng cách mạng và quần chúng
đà có một lực lợng chuyên trách, làm nòng cốt, xung kích góp phần đa phong
trào cách mạng miền Nam vững vàng trong những giai đoạn lịch sử tiếp theo.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng
(1960), BCH TW đảng đà quyết định tái thành lập TWC MN để lÃnh đạo, chỉ
đạo công tác ở miền Nam. TWC thay mặt BCH TW Đảng quản lý và bố trí
cán bộ của Đảng ở miền Nam, tùy theo tình hình và yêu cầu công tác TWC
MN sẽ tổ chức ác cơ quan nh Ban Quân sự, Ban An ninh, Tuyên huấn, Kinh
tài... [27, tr. 282]. TWC MN có các phiên hiệu là "R", Chín Nam, Năm
Trờng, X97, dùng để bảo mật trong chiến trờng.
Thời điểm này căn cứ cách mạng khu vực bắc Tây Ninh bị địch đánh phá
ác liệt. Để bảo toàn lực lợng, tháng 4/1961, Xứ uỷ và các cơ quan của Xứ uỷ
dời về chiến khu MÃ Đà (chiến khu Đ - nay thc x· Phó Lý, hun VÜnh Cưu,
§ång Nai). Tại đây TWC MN họp phiên đầu tiên (tháng 10/1961) đà bầu ra
Ban Thờng vụ và quyết định thành lập các Khu T1 (miền Đông Nam Bộ), T2
(miền Trung Nam Bộ), T3 (miền Tây Nam Bộ), T4 (Sài Gòn - Gia Định) để

thay cho các liên tỉnh ủy trớc kia. Sau một thời gian tại căn cứ MÃ Đà có nhiều
điểm bất lợi, nhất là về mặt giao thông liên lạc và tiếp tế nên tháng 2/1962,
TWC đà di chuyển cơ quan đầu nÃo kháng chiến về lại Tây Ninh. Và từ đây cho
tới ngày giải phóng dù chuyển địa điểm nhiều lần, song chủ yếu cơ quan TWC
MN vẫn đóng trên địa bàn Tây Ninh.
1.3.2. Di tích lịch sử - văn hóa Căn cứ Ban An ninh Trung ơng Cục
miền Nam thời kỳ trớc năm 1973
Với 15 năm chiến đấu, xây dựng và trởng thành, Ban An ninh TWC
MN đà 8 lần phải di chuyển địa điểm đóng quân nhằm đảm bảo vai trò bảo vệ
TWC và tham mu, chỉ đạo trên mặt trận an ninh toàn miền Nam.


22
Tháng 7/1960, khi mới thành lập Ban Bảo vệ An ninh Xứ uỷ đóng tại khu
rừng Chàng Riệc và lÃnh đạo gồm các đồng chí: Phạm Thái Bờng, Xứ uỷ viên
phụ trách; Cao Đăng Chiếm, Phó Ban và Uỷ viên là đồng chí Huỳnh Việt Thắng.
Khi mới hình thành, ngoài cán bộ lÃnh đạo, chỉ có một số đồng chí làm công tác
tham mu, nghiên cứu, đánh máy và các đồng chí làm nhiệm vụ bảo vệ.
Năm 1961, cùng với cơ quan Xứ uỷ Nam Bộ, Ban Bảo vệ an ninh Xứ uỷ
cũng dời đến MÃ Đà và đầu năm 1962 lại chuyển về Tây Ninh. Trong thời gian
này, đoàn cán bộ đầu tiên của Bộ Công an chi viện cho An ninh miền Nam trên
100 đồng chí về tới trạm giao liên (C40) của TWC. Đồng chí Cao Đăng Chiếm
trực tiếp đến tiếp nhận, phân bổ về An ninh TWC và các đoàn về An ninh T1, T2,
T3, T4, T6 (cực Nam Trung Bộ) và T10 (gồm Bình Long, Phớc Long và Quảng
Đức). Sau đó vài tháng thì một đoàn khác về tới căn cứ An ninh TWC, trong đó
có một số cán bộ chuyên môn và một tổ điện đài. Bắt đầu từ đó, An ninh TWC
có phơng tiện liên lạc trực tiếp về Bộ Công an bằng ®iƯn ®µi, Bé lÊy bÝ sè lµ
C231, An ninh TWC là C13. Việc chỉ đạo của An ninh TWC xuống các khu, tỉnh
vẫn phải qua hệ thống liên lạc của các cấp uỷ Đảng.
Tới tháng 8/1962, cùng với quyết định phân công lÃnh đạo phụ trách

của Thờng vụ TWC, Ban Bảo vệ an ninh Xứ uỷ cũng đợc đổi tên thành Ban
Bảo vệ an ninh TWC MN. Với số cán bộ hiện có và lực lợng mới đợc chi
viện, một số tiểu ban trực thuộc đợc thành lập, gồm: Văn phòng (B1), Tiểu
ban Bảo vệ chính trị (B2), Tiểu ban Điệp báo (B3), Tiểu ban Bảo vệ nội bộ cơ
quan - Cảnh vệ (B4), Trung đội Bảo vệ vũ trang và Bộ phận sản xuất.
Nhằm tăng cờng công tác an ninh và từng bớc củng cố tổ chức, phát
triển lực lợng, Thờng vụ TWC chủ trơng tổ chức Hội nghị An ninh toàn
Miền. Thực hiện chủ trơng này, tháng 10/1962, lÃnh đạo Ban Bảo vệ an
ninh cử cán bộ về tỉnh Tây Ninh nghiên cứu thực tế và chỉ đạo triển khai Hội
nghị An ninh tỉnh, đồng thời chuẩn bị tài liệu nghiệp vụ để tổ chức Hội nghị
An ninh toàn Miền. Từ ngày 16/01/1963 - 21/01/1963, Hội nghị An ninh
toàn Miền lần thứ nhất đà diễn ra tại căn cứ Ban. Hội nghị đà thống nhất về


23
quan điểm, đờng lối, chính sách các mặt công tác đối với lực lợng an ninh
các cấp, đồng thời thống nhất tên gọi các tổ chức An ninh là BAN AN NINH
ở tất cả các cấp.
Trong thời gian từ 1962 - 1963, căn cứ An ninh TWC đóng tại khu vực
cầu bảy nhịp, gần sông Vàm Cỏ Đông (nay thuộc xà Hòa Hiệp, Tân Biên).
Tới tháng 9/1963, An ninh TWC thành lập thêm hai bộ phận mới là Trờng
đào tạo cán bộ An ninh khu, tỉnh và huyện (B6) đóng tại khu rừng Đội Thơ
(xà Hòa Hiệp) do đồng chí Phạm Văn Huấn phụ trách và Trại giam do đồng
chí Bảy Sang phụ trách [13, tr. 97]. Sang đầu năm 1964, An ninh TWC đề
nghị và đợc Bộ Công an chi viện một tổ giáo viên chuyên trách bổ sung cho
nhà trờng, và cùng trong năm Bộ còn tăng cờng 2 sĩ quan cao cấp là đồng
chí Nguyễn Tài và đồng chí Nguyễn Hoàn bổ sung làm Uỷ viên Ban.
Từ đầu năm 1965, nhờ có sự chi viện của Bộ (mỗi T một điện đài, một
tổ báo vụ và một tổ cơ yếu) việc liên lạc giữa Ban An ninh TWC với các T và
về Bộ đợc thực hiện theo hệ thống thông tin liên lạc riêng của Ngành. Đến

thời điểm này, đội ngũ CBCS cơ quan An ninh TWC đợc xây dựng và phát
triển mạnh, Ban đà mở rộng tổ chức sản xuất tự cấp tự túc lơng thực thực
phẩm. Bộ phận sản xuất đà phát hoang khu ruộng hàng chục ha, cấy trồng
khắc phục khó khăn.
Bớc sang năm 1966, chiến tranh diễn ra ngày càng ác liệt, thực hiện chủ
trơng của TWC về việc thu gọn khối văn phòng để thuận tiện di chuyển
chống địch đánh phá, lÃnh đạo An ninh TWC quyết định điều chuyển sang quân
chủ lực một Trung đội vũ trang và một Tiểu đội Trinh sát bảo vệ chính trị sang
Ban Căn cứ làm công tác chống do thám gián điệp, bảo vệ căn cứ địa TWC.
Trong các chiến dịch phản kích mùa khô 1966 và 1967 của địch, An ninh
TWC đà tổ chức phối hợp chiến đấu chống càn quét, bảo vệ lực lợng. Đặc biệt,
trong trận chiến chống cuộc phản kích lần hai vào Đông Xuân 1967 - 1968 của
chúng, Đoàn 180 ANVT (trởng thành từ Ban Bảo vệ căn cứ) là mét trong


24
những đơn vị nòng cốt phối hợp cùng các lực lợng tham gia chiến đấu kiên
cờng. Cơ quan An ninh TWC lúc này đóng quân tại khu rừng cạnh Trảng Tà
Xia (nay là xà Tân Bình, Tân Biên), đợc tổ chức thành 2 lực lợng, một sơ tán
lên sát biên giới, một bộ phận khác bám trụ chiến đấu bảo vệ cơ quan.
Đến cuối năm 1967, thực hiện chủ trơng tổng tiến công và nổi dậy, An
ninh TWC tích cực chuẩn bị lực lợng và vũ khí, phơng tiện tham gia chiến
đấu. Đội trinh sát Bảo vệ chính trị đợc rút về từ Ban Căn cứ, giải thể Ban An
ninh hun C105, mét sè c¸n bé vỊ An ninh TWC, số còn lại điều động xuống
Ban An ninh Tây Ninh. CBCS đợc tổ chức thành 6 đoàn xuống tham gia 6 mũi
An ninh các phân khu. Lực lợng thanh niên trẻ ở các tiểu ban tập trung thành
lập Đại đội ANVT do đồng chí Chín Dũng và Tám Kế chỉ huy.
Qua cuộc tổng tấn công Mậu Thân 1968, cùng với quân và dân trên
toàn Miền, tuy giành đợc những thắng lỵi cã ý nghÜa chiÕn l−ỵc nh−ng lùc
l−ỵng An ninh miền Nam trong đó có An ninh TWC cũng bị tổn thất đáng kể.

Nhiều CBCS đà anh dũng hy sinh, một số mất tích và bị địch bắt, bị thơng...
An ninh xà và trinh sát vũ trang của một số địa phơng phải lột xác nhiều
lần, lực lợng An ninh hợp pháp bị lộ không bám trụ đợc phải tróc khỏi địa
bàn. Tình hình đó khiến cho nhiều CBCS An ninh TWC tăng cờng xuống cơ
sở cha bị lộ đợc điều động về lại các đơn vị ở căn cứ.
Tháng 3/1968, Thờng vụ TWC bổ nhiệm 2 đồng chí làm Phó Trởng
Ban An ninh TWC là đồng chí Lâm Văn Thê từ T3 về và đồng chí Nguyễn
Quang Việt, Thứ tr−ëng do Bé chi viƯn. Tíi th¸ng 6, An ninh TWC đóng quân
ở Móc Câu (gần cơ quan của Thờng vụ TWC) dời về Trảng Dầu và sau đó về
Đập Đá, khu vực Bàu Lùng Tung (gần cửa khẩu Xa Mát, xà Tân Lập). Cùng
thời điểm đó, một đoàn cán bộ nghiệp vụ và trung cấp Công an vũ trang của
Bộ chi viện (khoảng 100 đồng chí) về tới căn cø An ninh TWC. Víi sè c¸n bé
rót vỊ tõ các chiến trờng và lực lợng chi viện, lÃnh đạo Ban chủ trơng chấn
chỉnh lại các tiểu ban trực thuộc. Một số cán bộ chi viện đợc đa xuống tăng


25
cờng cho các địa phơng, đặc biệt là cho An ninh Khu Trọng điểm (thuộc địa
bàn Sài Gòn - Gia Định) mới đợc thành lập.
Đầu năm 1969, Ban An ninh Khu Trọng điểm giải thể và nhập lại Ban An
ninh TWC. An ninh TWC cđng cè l¹i tỉ chøc bé máy, gồm: Văn phòng, Tiểu
ban Bảo vệ chính trị, Tiểu ban Bảo vệ nội bộ và Cảnh vệ, Tiểu ban An ninh đô
thị, Tiểu ban ANVT, Tiểu ban Chấp pháp - Trại giam, Tiểu ban Tuyên huấn,
Tiểu ban Chính trị (gồm cả tổ chức cán bộ), Tiểu ban Hậu cần và Nhà trờng.
Tới lúc này các đơn vị thuộc Ban An ninh TWC đóng từ Trảng Dầu
xuống lộ 1 kéo dài đến Tà Nốt, Tà Đạt phía tây lộ 1. Do đội hình các tiểu ban
và cơ quan chỉ huy An ninh TWC ở nhiều vị trí nên lÃnh đạo Ban quyết định
thiết lập hệ thống điện thoại dà chiến để liên lạc hữu tuyến trong phạm vi các
tiểu ban trực thuộc. Vào tháng 9, lÃnh đạo Ban An ninh đề xuất và đợc Bộ
Công an tăng cờng đồng chí Trần Quốc Hơng và đồng chí Lê Văn Đại,

phân công vào Uỷ viên Ban. Đến cuối năm Bộ bổ sung thêm đồng chí Nguyễn
Duy Hạc, Đoàn Văn Chi và đồng chí Phan Ân, đợc phân công phụ trách các
tiểu ban Bảo vệ chính trị, Bảo vệ nội bộ và Cảnh vệ, Chấp pháp - Trại giam.
Sau khi Chính phủ CMLT ra đời (tháng 6/1969), tổ chức bộ máy của
Chính phủ công khai đi vào hoạt động, Thờng vụ TWC chỉ đạo Ban An ninh
cử cán bộ tham gia trong ban lÃnh đạo Nha An ninh thuộc Bộ Nội vụ và điều
động CBCS phối hợp xây dựng bộ máy t pháp của Chính phủ. Cơ quan này
đóng quân bên cạnh căn cứ Ban An ninh TWC [13, tr. 238].
Từ năm 1970, căn cứ địa TWC bị uy hiếp mạnh từ 2 phía do lực lợng
quân sự Mỹ Ngụy áp sát biên giới và quân đội Lon Non gây xung đột buộc ta
không đợc đóng quân trên đất Campuchia. Sau khi tranh thủ Sihanouk thành
lập Mặt trận và Chính phủ kháng chiến Campuchia, chúng ta tạo đợc thế hợp
pháp nên TWC chủ trơng đánh vào quân đội Lon Non. ở khu vực căn cứ TWC,
Đoàn 180 phối hợp với bộ đội chủ lực tấn công cứ điểm Mi Mốt, Sê Rê Cốc,
Rùm Chếc mở đờng đa các đồng chí lÃnh đạo và cơ quan Văn phòng TWC
vợt xa biên giới khoảng 90 km. Trong khi ta vừa tấn công quân Lon Non võa di


×