1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI
KHOA BẢO TÀNG
LỤC THỊ MINH HẠNH
TÌM HIỂU GIÁ TRỊ CÁC LOẠI NHẠC CỤ TRUYỀN
THỐNG CỦA CÁC DÂN TỘC NHĨM NGƠN NGỮ
MƠNG – DAO TẠI BẢO TÀNG VĂN HÓA CÁC DÂN
TỘC VIỆT NAM
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
NGÀNH BẢO TÀNG HỌC
Người hướng dẫn: Ths. Trần Đức Nguyên
HÀ NỘI – 2011
108
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................................................................ 1
1.Lý do chọn đề tài ............................................................................................................................................. 1
2.Mục đích nghiên cứu của đề tài .................................................................................................................... 3
3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài................................................................................................ 3
4.Phương pháp nghiên cứu............................................................................................................................... 4
5.Bố cục của khóa luận...................................................................................................................................... 4
CHƯƠNG 1 ........................................................................................................................................................... 5
KHÁI QUÁT VỀ BẢO TÀNG VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC VIỆT NAM VÀ CÁC DÂN TỘC NHĨM
NGƠN NGỮ MƠNG - DAO Ở VIỆT NAM..............................................................................................5
1.1 KHÁI QUÁT VỀ BẢO TÀNG VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC VIỆT NAM ................................................................... 5
1.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển ........................................................................................................ 5
1.1.2 Chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức ........................................................................................... 10
1.2 KHÁI QUÁT VỀ CÁC DÂN TỘC NHĨM NGƠN NGỮ MƠNG – DAO Ở VIỆT NAM .................................................. 14
1.2.1 Tên gọi, nguồn gốc lịch sử và địa bàn cư trú ................................................................................... 14
1.2.2 Vài nét khái quát về kinh tế, văn hóa và xã hội của nhóm ngơn ngữ Mơng – Dao ở Việt Nam ... 23
1.3. NỘI DUNG TRƯNG BÀY VỀ CÁC DÂN TỘC NHĨM NGƠN NGỮ MƠNG- DAO TẠI BẢO TÀNG VĂN HĨA CÁC DÂN
TỘC VIỆT NAM...............................................................................................................................................................................................29
1.4. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VỀ NHẠC CỤ TRUYỀN THỐNG CỦA CÁC DÂN TỘC NHĨM NGƠN NGỮ MƠNG - DAO ...
TẠI BẢO TÀNG VĂN HĨA CÁC DÂN TỘC VIỆT NAM..........................................................................................................................32
CHƯƠNG 2 ......................................................................................................................................................... 36
GIÁ TRỊ CÁC LOẠI NHẠC CỤ TRUYỀN THỐNG CỦA CÁC DÂN TỘC NHĨM NGƠN NGỮ MƠNG
– DAO TẠI BẢO TÀNG VĂN HĨA CÁC DÂN TỘC VIỆT NAM ................................................................. 36
2.1. ÂM NHẠC TRONG ĐỜI SỐNG CÁC DÂN TỘC NHĨM NGƠN NGỮ MƠNG - DAO Ở VIỆT NAM.....................................36
2.2. TỔNG QUAN VÀ ĐẶC ĐIỂM CÁC LOẠI NHẠC CỤ CỦA CÁC DÂN TỘC NHĨM NGƠN NGỮ MƠNG - DAO LƯU
GIỮ TẠI VẢO TÀNG VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC VIỆT NAM..........................................................................................................51
2.2.1 Một số khái niệm liên quan ............................................................................................................... 51
2.2.2 Các loại nhạc cụ của các dân tộc nhóm ngơn ngữ Mơng – Dao tại Bảo tàng Văn hóa các dân tộc
Việt Nam ....................................................................................................................................................... 56
2.2.3 Một số nhận xét về các loại nhạc cụ truyền thống của các dân tộc nhóm ngơn ngữ Mơng – Dao tại Bảo
tàng văn hóa các dân tộc Việt Nam .............................................................................................................. 74
2.3. GIÁ TRỊ CÁC LOẠI NHẠC CỤ TRUYỀN THỐNG CỦA CÁC DÂN TỘC NHĨM NGƠN NGỮ MƠNG - DAO TẠI BẢO
TÀNG VĂN HĨA CÁC DÂN TỘC VIỆT NAM.............................................................................................................................................80
CHƯƠNG 3 ......................................................................................................................................................... 86
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ CÁC LOẠI NHẠC CỤ
TRUYỀN THỐNG CỦA CÁC DÂN TỘC NHĨM NGƠN NGỮ MƠNG – DAO TẠI BẢO TÀNG VĂN
HĨA CÁC DÂN TỘC VIỆT NAM ................................................................................................................... 86
3.1. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC KIỂM KÊ BẢO QUẢN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ CÁC LOẠI NHẠC CỤ TRUYỀN THỐNG
CỦA CÁC DÂN TỘC NHĨM NGƠN NGỮ MƠNG - DAO TẠI BẢO TÀNG VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC VIỆT NAM...................86
109
3.1.1 Thực trạng công tác kiểm kê bảo quản .............................................................................................. 86
3.1.2 Thực trạng phát huy giá trị ................................................................................................................. 92
3.2 MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ CÁC LỌAI NHẠC CỤ CỦA CÁC DÂN TỘC
NGƯỜI NHÓM NGÔN NGỮ MÔNG – DAO ............................................................................................................ 93
3.2.1 Tiếp tục nghiên cứu, sưu tầm hiện vật và hoàn thiện hồ sơ, bổ sung thông tin cho các hiện vật
nhạc cụ đã có ................................................................................................................................................ 93
3.2.2.Nâng cao chất lượng hoạt động kiểm kê - bảo quản ......................................................................... 94
3.2.3 Tiến hành xây dựng sưu tập các loại nhạc cụ truyền thống của các dân tộc nhóm ngơn ngữ Mơng
- Dao ............................................................................................................................................................. 96
3.2.4 Xây dựng phịng tìm hiểu âm nhạc truyền thống............................................................................... 99
3.2.5 In ấn, xuất bản tài liệu và quảng bá giới thiệu về các loại nhạc cụ của các dân tộc nhóm ngơn ngữ
Mông - Dao ................................................................................................................................................. 101
KẾT LUẬN.......................................................................................................................................................... 103
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................................................................. 105
3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đối với bất kỳ một quốc gia, một dân tộc nào, hay một thời đại nào, âm
nhạc luôn luôn là một trong những yếu tố quan trọng không thể thiếu trong cuộc
sống của con người. Âm nhạc với những lời ca tiếng hát, với những nhạc cụ
truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc khơng chỉ là phương tiện để giải trí sau
những ngày lao động vất vả, mệt nhọc mà ở bất cứ nơi đâu, bất cứ khi nào trong
đời sống của họ cũng có sự tham gia của âm nhạc.
Âm nhạc cịn là sợi dây tâm tình, truyền đi những lời yêu thương của các
đôi trai gái, là những bài ca mời nhau ăn cơm bên mâm bát, mời nhau hút thuốc
bên bếp lửa. Đặc biệt, âm nhạc cịn có mặt trong cả các nghi lễ, tập tục quan
trọng của các dân tộc người như: ma chay, cưới xin, lễ cấp sắc… Chính vì vậy,
âm nhạc là một phần khơng thể thiếu để tạo nên nền tảng vững chắc cho việc
hình thành bản sắc văn hóa, là nguồn ni dưỡng vơ tận cho tâm hồn cho mỗi
người. Tạo nên những đặc trưng văn hóa riêng của mỗi dân tộc, để mỗi người
khi nhìn vào đó sẽ thấy được cả một kho tàng văn hóa đã được hình thành và
phát triển theo dịng chảy của thời gian.
Là một bộ phận quan trọng trong hệ thống văn hóa dân tộc, âm nhạc được
Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam – nơi lưu giữ, bảo quản và trưng bày các
tài liệu hiện vật về văn hóa của 54 dân tộc trên lãnh thổ Việt Nam rất quan tâm
và chú ý hướng đến trong các hoạt động của mình. Trong mỗi phần trưng bày về
văn hóa của từng dân tộc, đều dành một phần trong hệ thống trưng bày của mình
để trưng bày về âm nhạc, nhạc cụ của các dân tộc. Đặc biệt là trong hệ thống
4
trưng bày về văn hóa các dân tộc nhóm ngơn ngữ Mông – Dao, các nhạc cụ
truyền thống chiếm một vị trí quan trọng.
Nhạc cụ các dân tộc Mơng – Dao tại Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam
với tư cách là một nguồn sử liệu đầu tiên của kiến thức, hàm chứa lượng thơng tin
gốc, có khả năng biểu cảm cao đã cung cấp nhiều thông tin bổ ích và quan trọng đối
với cơng chúng và các nhà nghiên cứu khi tìm hiểu về văn hóa các dân tộc nhóm
ngơn ngữ Mơng – Dao đặc biệt là văn hóa tinh thần.
Là một phần khơng thể thiếu trong âm nhạc, nhạc cụ không những thể
hiện đời sống tinh thần phong phú và đa dạng của các dân tộc mà qua đó cịn
thấy được những nét văn hóa riêng, những quan niệm và cách nghĩ, phong tục và
tập quán riêng của họ. Đặc biệt, mỗi nhạc cụ đều có những âm thanh độc đáo,
thể hiện những sắc thái riêng ẩn chứa trong đó là một nền văn hóa đa dạng đã
được hình thành trong suốt một chặng đường dài của lịch sử.
Ngày nay, cùng với dòng chảy của thời gian, sự thâm nhập ồ ạt của các
luồng văn hóa bên ngoài và sự phát triển của xã hội hiện đại, âm nhạc và nhạc cụ
của các dân tộc nhóm ngơn ngữ Mơng - Dao khơng cịn khép kín trong cộng
đồng mà có sự giao thoa với các nền văn hố khác. Sự xâm lăng trên lĩnh vực
văn hóa đang diễn ra một cách tinh vi, luồn lách tới từng làng, từng bản, từng gia
đình làm cho văn hố truyền thống có nguy cơ bị mai một. Đặc biệt, trước sự du
nhập của nhiều loại nhạc nước ngồi, thì u cầu bảo vệ và phát huy giá trị của
nhạc cụ dân tộc truyền thống, là một việc làm hết sức cấp thiết và cần được quan
tâm. Đây cũng chính là một trong những hoạt động thực hiện theo định hướng
của Hội nghị lần thứ V Ban chấp hành Trung ương khóa VIII của Đảng “Xây
dựng nền văn hóa Việt Nam tiến tiến đậm đà bản sắc dân tộc”.
5
Xuất phát từ vị trí, tầm quan trọng của các nhạc cụ dân tộc truyền thống
trong xã hội hiện nay và ý thức bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc, tơi đã chọn đề
tài: “Tìm hiểu giá trị các loại nhạc cụ truyền thống của các dân tộc nhóm ngơn
ngữ Mơng – Dao tại Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam” để làm khóa luận
tốt nghiệp.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
- Nghiên cứu khái quát về Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam.
- Giới thiệu về đời sống âm nhạc của các dân tộc nhóm ngơn ngữ Mơng –
Dao.
- Nghiên cứu tổng quan về các loại nhạc cụ truyền thống của các dân tộc
nhóm ngơn ngữ Mơng – Dao
- Nghiên cứu giá trị các loại nhạc cụ truyền thống của các dân tộc nhóm
ngơn ngữ Mơng – Dao
- Từ thực trạng bảo quản và phát huy giá trị các loại nhạc cụ truyền thống
của các dân tộc nhóm ngơn ngữ Mơng - Dao lưu giữ tại Bảo tàng Văn hóa các
dân tộc Việt Nam đề ra các giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy giá trị các loại
nhạc cụ truyền thống đó.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu: Các loại nhạc cụ truyền thống của các dân tộc
nhóm ngơn ngữ Mơng – Dao đang được lưu giữ tại Bảo tàng Văn hóa các dân
tộc Việt Nam.
6
Phạm vi nghiên cứu: Các loại nhạc cụ truyền thống của các dân tộc nhóm
ngơn ngữ Mơng - Dao đang được lưu giữ tại Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt
Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận thực hiện trên cơ sở:
- Phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề dân tộc và văn hóa.
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Dân tộc học, bảo tàng học, xã hội
học, văn hóa học, âm nhạc…
- Các phương pháp nghiên cứu, thống kê, phân tích, so sánh và tổng hợp
các tài liệu, hồ sơ liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
5. Bố cục của khóa luận
Ngồi phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung
chính của khóa luận được chia thành 3 chương:
Chương 1: Khái quát về Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam và các
dân tộc nhóm ngơn ngữ Mơng – Dao ở Việt Nam
Chương 2: Giá trị các loại nhạc cụ truyền thống của các dân tộc nhóm
ngơn ngữ Mơng – Dao tại Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam
Chương 3: Thực trạng và giải pháp nhằm bảo tồn, phát huy giá trị các
loại nhạc cụ truyền thống của các dân tộc nhóm ngơn ngữ Mơng – Dao tại Bảo
tàng văn hóa các dân tộc Việt Nam
7
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ BẢO TÀNG VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC VIỆT NAM
VÀ CÁC DÂN TỘC NHĨM NGƠN NGỮ MƠNG - DAO
Ở VIỆT NAM
1.1 Khái quát về Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam
1.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển
Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam nằm ở số 1 đường Đội Cấn, thành
phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên, cách Thủ đô Hà Nội 80 km về phía Bắc.
Và là một trong bảy Bảo tàng Quốc gia của Việt Nam
Tiền thân của Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam là Bảo tàng Việt
Bắc được ra đời năm 1960. Sau 50 năm xây dựng và trưởng thành Bảo tàng Văn
hóa các dân tộc Việt Nam đã trải qua các giai đoạn phát triển khác nhau.
1.1.1.1 Giai đoạn 1960 - 1975
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc với 54 tộc người, cư trú trên nhiều
vùng địa hình khác nhau. Đê phát huy sức mạnh của cộng đồng các dân tộc và
của mỗi vùng, miền gìn giữ khối đồn kết dân tộc, năm 1956 Khu tự trị dân tộc
được thành lập. Nhân cuộc triển lãm thành lập Khu tự trị Việt Bắc tháng 08 năm
1956 một lượng lớn kỷ vật của các dân tộc Việt Bắc, Tây Bắc và Bảo tàng Lịch
sử Việt Nam chuyển giao, bao gồm những tài liệu, hiện vật quý báu được Sở
Văn hóa Khu tự trị thu nhận, tổng hợp với ý thức để bảo tồn và lưu giữ lâu dài.
Do vậy, phịng quản lý các kỷ vật đó đã ra đời, có thể coi đây chính là tiền thân
của kho cơ sở hiện nay của Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam.
Với quyết tâm của Khu ủy, Hội đồng nhân dân và Sở văn hóa Khu tự trị
8
Việt Bắc, ngày 19 tháng 12 năm 1960 tại thị xã Thái Nguyên (nay là thành phố
Thái Nguyên), thủ phủ Khu tự trị, trung tâm căn cứ địa Việt Bắc, đã diễn ra lễ
khởi công xây dựng nhà Bảo tàng Việt Bắc. Một cơng trình xây dựng quy mơ
gần như mở đầu cho một cơng trình văn hố lớn ở khu vực Đơng Bắc tổ quốc.
Năm 1963, hồn thành và khai trương phòng Lịch sử căn cứ địa Việt Bắc.
Ngày 01 tháng 01 năm 1964, Bảo tàng Việt Bắc vinh dự được Bác Hồ đến thăm
và ghi bút tích trong sổ vàng lưu niệm. Thời kỳ chống chiến tranh phá hoại của
đế quốc Mỹ (1965 - 1975) chỉ với số lượng cán bộ ít ỏi, song tồn bộ tài liệu
hiện vật, kho tàng, tài sản cũng được chuyển tới nơi sơ tán an toàn. Các địa danh:
Cúc Đường, Văn Hán, Minh Lập, Yên Lãng… được ghi nhận trong quá trình
phát triển của Bảo tàng. Thời kỳ này ngoài phần trưng bày căn cứ địa Việt Bắc,
cịn có thêm một phịng giới thiệu về thiên nhiên và con người Khu tự trị, ngồi
ra Bảo tàng cịn tiến hành các cuộc triển lãm lưu động, sưu tầm hiện vật bổ sung
cho kho cơ sở và trưng bày.
1.1.1.2 Giai đoạn 1976 – 1990
Năm 1976, Khu tự trị hoàn thành xứ mệnh lịch sử của mình, Bảo tàng Việt
Bắc chuyển giao về Bộ Văn hố - Thơng tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du
lịch) quản lý. Đây là giai đoạn chuyển hướng nội dung hoạt động, từ Bảo tàng
tổng hợp sang Bảo tàng chuyên ngành văn hoá dân tộc, phạm vi hoạt động khắp
cả nước với các chức năng, nhiệm vụ mới: Nghiên cứu, sưu tầm, bảo tồn và phát
huy, tuyên truyền và giáo dục di sản văn hoá 54 tộc người Việt Nam.
Các cuộc sưu tầm tài liệu, hiện vật, được tiến hành khẩn trương, các phòng
trưng bày giới thiệu văn hoá dân tộc từng bước điều chỉnh, bổ sung, kịp thời đón
khách thăm quan vào các dịp lễ, tết, hội hè ở khu vực. Công tác triển lãm lưu
9
động đến vùng cao, biên giới. Thời kỳ này Bảo tàng cũng được đón nhiều vị lãnh
đạo Đảng, Nhà nước tới thăm quan và động viên như: cố Thủ tướng Phạm Văn
Đồng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Phó Thủ tướng Trần Hữu Dực, Bộ trưởng Bộ
Văn hố - Thơng tin Trần Hoàn,…
Ngày 31 tháng 03 năm 1990 - Bảo tàng Việt Bắc được đổi tên là Bảo tàng
Văn hoá các dân tộc Việt Nam, với quyết định số 508/QĐ-BVH-TT do Bộ
trưởng Bộ Văn hóa – Thơng tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) phê
duyệt.
1.1.1.3 Giai đoạn từ năm 1990 đến nay
Trong thời gian đổi mới từ 1990 – 2000, Bảo tàng Văn hoá các dân tộc
Việt Nam thực sự nâng cao các hoạt động theo đúng chức năng, nhiệm vụ của
mình. Về kiến trúc cơng trình, sau mấy chục năm xây dựng và do ảnh hưởng của
bom đạn đã xuống cấp, nay được Bảo tàng bảo dưỡng duy tu, chống xuống cấp.
Năm 1996, kiến trúc nghệ thuật này đã được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh đợt
I. Đây là một cơng trình văn hố nghệ thuật dành cho đồng bào nói riêng, đại gia
đình các dân tộc Việt Nam nói chung.
Thực hiện trương trình hợp tác tài trợ của quỹ phát triển văn hoá SIDA Thụy Điển: nâng cao các hoạt động Bảo tàng 1993 – 1998, cải tạo sắp xếp hợp lý
các khu làm việc và hệ thống các phòng trưng bày. Hệ thống kho cơ sở được cải
tạo và nâng cấp với các trang thiết bị hiện đại, bảo đảm chế độ bảo quản tài liệu
hiện vật lâu bền. Hệ thống trưng bày giới thiệu, tuyên truyền giáo dục đã thay
đổi bằng giải pháp trưng bày mỹ thuật, kỹ thuật và các trang thiết bị hiện đại
được ba phịng với tổng diện tích trên 1.000 m2.
Thời kỳ 2001 – 2009, Bảo tàng được đầu tư rất lớn về cơ sở vật chất. Quy
10
mô các cuộc sưu tầm cũng lớn hơn, mở rộng hơn, thu thập về kho cơ sở của Bảo
tàng số lượng lớn các tài liệu hiện vật. Sớm hình thành các bộ sưu tập quý hiếm
có giá trị khoa học, lịch sử và nghệ thuật.
Công tác kiểm kê, bảo quản dần hoàn thiện hệ thống hồ sơ ghi chép khoa
học, bước đầu quản lý hiện vật bằng tin học. Hiện vật được bảo quản bằng những
trang thiết bị hiện đại.
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống trưng bày trên cơ sở các nhóm ngơn ngữ
kết hợp với văn hóa vùng để giới thiệu bản sắc văn hóa các dân tộc Việt Nam
thơng qua hệ thống các phịng trưng bày:
- Phịng trưng bày văn hóa nhóm ngơn ngữ Việt - Mường (bao gồm 4
dân tộc : Kinh, Mường, Thổ, Chứt).
- Phòng trưng bày văn hóa nhóm ngơn ngữ Tày – Thái (bao gồm 8 dân
tộc: Tày, Thái, Nùng, Giáy, Lào, Lự, Sán Chay, Bố Y).
- Phịng trưng bày văn hóa nhóm ngôn ngữ Mông – Dao (bao gồm 3 dân
tộc: Mông, Dao, Pà Thẻn), Ka Đai (bao gồm 4 dân tộc: La Chí, Cờ Lao, Pu Péo,
La Ha), Tạng – Miến (bao gồm 6 dân tộc: Hà Nhì, Phù Lá, La Hủ, Lơ Lơ, Cống,
Si La).
- Phịng trưng bày văn hóa nhóm ngơn ngữ Mơn – Khơ me ( bao gồm 21
dân tộc: Ba Na, Brâu, Bru – Vân Kiều, Chơ Ro, Co, Cơ Ho, Cơ Tu, Gié Triêng,
H`rê, Kháng, Khơ me, Khơ Mú, Mảng, Xinh Mun, Mnông, Ơ Đu, Mạ, Rơ Măm,
Tà Ơi, Xơ Đăng, Xtiêng).
- Phịng trưng bày văn hóa nhóm ngơn ngữ Nam Đảo (bao gồm 5 dân
tộc: Chăm, Gia Rai, Ê Đê, Raglai, Chu Ru), nhóm ngơn ngữ Hán (bao gồm 3
dân tộc: Hoa, Ngái, Sán Dìu).
11
Bên cạnh đó, hệ thống các phịng trưng bày cịn được nâng cấp kết hợp với
giải pháp mỹ thuật, kỹ thuật và các trang thiết bị hiện đại như: Hệ thống màn
hình cảm ứng; Hệ thống âm thanh kỹ thuật số hỗ trợ các tổ hợp trưng bày; Hệ
thống ánh sáng mỹ thuật càng làm nổi bật các tổ hợp trưng bày, góp phần thu hút
cơng chúng và đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hoá ngày càng cao của nhân dân.
Ngồi ra, Bảo tàng cịn tổ chức rất nhiều cuộc triển lãm trên khắp mọi miền của
Tổ quốc phục vụ những ngày lễ lớn của đất nước.
Công tác nghiên cứu khoa học có nhiều khởi sắc, tạo điều kiện nâng cao
trình độ hoạt động chun mơn nghiệp vụ của đơn vị. Trong giai đoạn này bảo
tàng đã tạo được sự liên kết, phối hợp nhiều mặt với các bảo tàng quốc gia, các
bảo tàng chuyên ngành, bảo tàng địa phương trong phạm vi cả nước và một số
bảo tàng nước ngồi. Bảo tàng cịn mời các chun gia trong lĩnh vực bảo tàng tổ
chức nhiều cuộc hội thảo, tập huấn nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ trong
đơn vị.
Quy hoạch dự án tổng thể khuôn viên Bảo tàng và các đề án trưng bày
ngoài trời với các vùng văn hố được xây dựng và hồn thiện. Ngày 18 tháng 05
năm 2010 cùng với khai mạc tuần lễ Văn hóa du lịch Thái Nguyên, lễ khánh
thành dự án trưng bày ngoài trời đã được tổ chức long trọng. Nội dung trưng bày
gồm sáu vùng văn hóa với những đặc trưng riêng biệt: Vùng văn hóa núi cao
phía Bắc; Vùng văn hóa thung lũng, Vùng văn hóa Trung du - Đồng bằng Bắc
Bộ; Vùng văn hóa miền Trung – ven biển; Vùng văn hóa Trường Sơn – Tây
Nguyên; Vùng văn hóa đồng bằng Nam Bộ. Tại mỗi khơng gian văn hóa có một
kiến trúc tiêu biểu làm điểm nhấn cho các hoạt động văn hóa vật thể và phi vật
thể của các tộc người. Đây là một bước tiến vượt bậc của Bảo tàng Văn hóa các
dân tộc Việt Nam trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa của 54 dân
12
tộc Việt Nam.
Phát huy truyền thống, phấn đấu của các thế hệ đống góp cho sự phát triển
Bảo tàng trong 50 năm qua, hiện nay Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam
tiếp tục bồi dưỡng, nâng cao nghiệp vụ chun mơn, nhận thức chính trị cho đội
ngũ cơng chức, viên chức Bảo tàng để đảm đương trọng trách lớn và vinh quang
mà Đảng, Nhà nước và đồng bào các dân tộc giao phó.
1.1.2 Chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức
Bảo tàng được xây dựng từ năm 1960, thời kỳ đầu mang tên Bảo tàng Việt
Bắc, thực hiện chức năng, nhiệm vụ nghiên cứu khoa học và giáo dục truyền
thống văn hoá, lịch sử đấu tranh cách mạng của nhân dân các dân tộc Việt Bắc.
Đến ngày ngày 31 tháng 03 năm 1990, Bảo tàng Việt Bắc chính thức được đổi
tên là Bảo tàng Văn hố các dân tộc Việt Nam, với quyết định số 508/QĐ-BVHTT do Bộ trưởng Bộ Văn hóa – Thơng tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du
lịch) phê duyệt. Chuyển hướng nội dung hoạt động, từ Bảo tàng tổng hợp sang
Bảo tàng chuyên ngành văn hoá dân tộc, phạm vi hoạt động khắp cả nước với
chức năng, nhiệm vụ mới: Nghiên cứu, sưu tầm, bảo tồn và phát huy, tuyên
truyền và giáo dục di sản văn hoá 54 tộc người Việt Nam.
Theo Quyết định số 2492/ QĐ - BVHTTDL ngày 02 tháng 06 năm 2008
của Bộ trưởng Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch Quy định về chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bảo tàng Văn hoá các dân tộc Việt Nam cụ
thể như sau:
* Chức năng:
13
“Bảo tàng Văn hoá các dân tộc Vệt Nam là đơn vị sự nghiệp văn hố có
thu, trực thuộc Bộ Văn hố, Thể thao và Du lịch có chức năng bảo quản và trưng
bày các sưu tập, hiện vật có giá trị tiêu biểu về di sản văn hoá các dân tộc Việt
Nam. Bảo tàng Văn hoá các dân tộc Việt Nam là Bảo tàng Quốc gia, có con dấu
riêng, được mở tài khoản tại kho bạc nhà nước.”1
* Nhiệm vụ và quyền hạn:
“1. Trình Bộ trưởng Bộ Văn hố, Thể thao và Du lịch quy hoạch phát
triển, kế hoạch hoạt động dài hạn và hàng năm của Bảo tàng; Tổ chức thực
hiện sau khi được Bộ trưởng phê duyệt;
2. Sưu tầm, kiểm kê, bảo quản và trưng bày các sưu tập, hiện vật về văn
hoá các dân tộc Việt Nam;
3. Nghiên cứu khoa học về bảo vệ và phát huy giá trị các sưu tập di sản
văn hoá các dân tộc Việt Nam phục vụ việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ
được giao; Tư vấn dịch vụ khoa học và công nghệ, dịch vụ về thông tin, bồi
dưỡng, phổ biến và ứng dụng khoa học, công nghệ, kinh nghiệm thực tiễn
theo quy định của pháp luật;
4. Thực hiện các biện pháp bảo vệ và tổ chức phát huy giá trị các sưu tập,
hiện vật thuộc quyền quản lý theo.quy định; tham gia bảo vệ và phát huy giá
trị di sản văn hoá dân tộc theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
hoặc theo đề nghị của các tổ chức, cá nhân có liên quan;
5. Tổ chức các hoạt động văn hố có tính hướng dẫn nhu cầu hưởng thụ
văn hố nghệ thuật của cơng chúng; Tổ chức các hoạt động kinh doanh dịch
1
Trích điều 1, Quyết định số 2492/QĐ-BVHTTDL ngày 02 tháng 6 năm 2008 Quy định chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bảo tàng văn hoá các dân tộc Việt Nam.
14
vụ văn hoá phục vụ yêu cầu nghiên cứu, giáo dục, tham quan, giải trí, vui
chơi;
6. Phục chế và cung cấp bản sao di vật, cổ vật, bảo vật theo chức năng,
nhiệm vụ được giao và quy định của pháp luật;
7. Tiếp nhận, bảo quản sưu tập di sản gửi giữ theo quy định của pháp
luật, hướng dẫn nghiệp vụ và hỗ trợ việc lưu giữ, bảo quản di sản văn hoá theo
đề nghị của chủ sở hữu di sản; Trao đổi thông tin và kinh nghiệm trong việc
bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá;
8. Hỗ trợ các hoạt động phổ biến, truyền dậy những kỹ thuật, kỹ năng
nghề nghiệp các nghề thủ công truyền thống có giá trị tiêu biểu; Hỗ trợ trưng
bày, giới thiệu sản phẩm của nghệ nhân, nghệ sĩ nắm giữ bí quyền nghề
nghiệp và có cơng bảo tồn, phổ biến nghệ thuật truyền thống, nghề thủ công
mỹ nghệ truyền thống;
9. Thực hiện các hoạt động hợp tác quốc tế theo kế hoạch của Bộ Văn
hoá, Thể thao và Du lịch và phân cấp của Bộ;
10. Thu phí, lệ phí, quản lý sử dụng theo quy định của pháp luật;
11. Đảm bảo an toàn, an ninh trong khu vực do Bảo tàng quản lý;
12. Quản lý nhân sự; Thực hiện các chế độ, chính sách đối với viên chức,
người lao động thuộc phạm vi quản lý của Bảo tàng theo quy định của nhà
nước và phân cấp của Bộ;
13. Quản lý, sử dụng tài chính, tài sản được giao và ngân sách được phân
bổ theo quy định của pháp luật;
15
14. Thực hiện các nhiệm vụ khác được Bộ trưởng giao.”2
* Cơ cấu tổ chức:
Bảo tàng Văn hoá các dân tộc Việt Nam là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Bộ
Văn hoá, Thể thao và Du lịch, đã được bổ sung đầy đủ và hoàn thiện bộ máy tổ
chức. Tổ chức bộ máy đã được phát triển các phòng chuyên môn phù hợp với
chức năng, nhiệm vụ của Bảo tàng Văn hoá các dân tộc Việt Nam. Trong giai
đoạn hiện nay, cơ cấu tổ chức của bảo tàng gồm:
- Ban giám đốc Bảo tàng gồm có: 1 giám đốc và 3 phó giám đốc.
- Các phịng chun mơn, nghiệp vụ (gồm có 07 phịng): Phịng Tổ chức –
Hành chính, Phịng Kế tốn - Tài vụ, Phịng Nghiên cứu - Sưu tầm, Phòng Kiểm
kê - Bảo quản, Phòng Trưng bày - Tun truyền, Phịng Bảo tàng ngồi trời,
Phịng bảo vệ.
- Tổ chức trực thuộc Bảo tàng Văn hoá các dân tộc Việt Nam: Có trung
tâm dịch vụ Bảo tàng. Là đơn vị có con dấu riêng, được mở tài khoản tại Ngân
hàng Nhà nước.
Sau 50 năm xây dựng và phát triển bộ máy Bảo tàng Văn hoá các dân tộc
Việt Nam từ chỗ đội ngũ cán bộ chỉ có hơn 10 đến nay đã có một đội ngũ chun
mơn nghiệp vụ cao với gần 90 cán bộ. Trong đó, có 1 tiến sĩ, 8 thạc sĩ và trên
80% cán bộ có trình độ đại học, cao đẳng trở lên.
Trong quá trình cơng nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, việc bảo tồn và
phát triển văn hóa dân tộc có ý nghĩa to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
2
Trích điều 2, Quyết định số 2492/QĐ-BVHTTDL ngày 02 tháng 6 năm 2008 Quy định chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bảo tàng văn hoá các dân tộc Việt Nam
16
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Do vậy, đội ngũ cán bộ của Bảo tàng Văn
hóa các dân tộc Việt Nam luôn nhận thức sâu sắc nhiệm vụ chính trị theo tinh
thần Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về “Xây dựng và phát triển nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, không ngừng bồi dưỡng về tư
tưởng, đạo đức, trình độ chuyên môn nghiệp vụ và chú trọng đào tạo bồi dưỡng
đội ngũ cán bộ tiếp nối. Trên cơ sở đó, Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam
hồn thành tốt nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó đó là bảo tồn
và phát huy vốn di sản văn hóa, tăng cường khối đại đồn kết dân tộc, chống mọi
âm mưu phá hoại chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc của các thế lực thù địch.
1.2 Khái qt về các dân tộc nhóm ngơn ngữ Mơng – Dao ở Việt Nam
1.2.1 Tên gọi, nguồn gốc lịch sử và địa bàn cư trú
Nhóm ngơn ngữ Mơng – Dao ở Việt Nam bao gồm ba dân tộc, đó là: Dân
tộc Mông, dân tộc Dao và dân tộc Pà Thẻn. Đây là những dân tộc vốn có cùng
nguồn gốc với các dân tộc thuộc nhóm ngơn ngữ Miêu – Dao ở Trung Quốc, từ
miền núi rừng Hoa Nam Trung Quốc thiên di vào nước ta.
1.2.1.1 Dân tộc Mông
Mông là tên gọi chính thức của cộng đồng dân tộc Mơng ở Việt Nam ngày
nay (trước đây gọi là Mèo). Tộc danh Mèo theo âm Hán Việt là Miêu, có thể là
tên dùng để chỉ những người biết trồng lúa sớm ở vùng Bành Lãi (thuộc Giang
Tây), Động Đình (thuộc Hồ Nam) ở Trung Quốc trong các thiên kỷ II – I TCN.
Ở Việt Nam, dân tộc Mơng gồm năm nhóm: Mơng Trắng, Mông Hoa,
Mông Xanh, Mông Đen, Mông Đỏ. Người Mông là một trong những dân tộc thiểu
số có số dân tương đối đông ở nước ta. Theo số liệu tổng điều tra dân số ngày 1 tháng
17
04 năm 2009, dân tộc Mơng có khoảng 1.068.189 người, phân bố chủ yếu ở hầu hết
các tỉnh miền núi phía Bắc trong một địa bàn khá rộng lớn, dọc theo biên giới Việt Trung và Việt - Lào từ Lạng Sơn đến Nghệ An. Người Mông cư trú tập trung tại các
tỉnh thuộc Đông và Tây Bắc Việt Nam. Một số tỉnh có đơng người Mơng sinh sống,
như: Hà Giang (231.464 người), Sơn La (157.253 người), Lào Cai (146.147 người),
Lai Châu (83.324 người), Yên Bái (81.921 người), Cao Bằng (51.373 người), Nghệ
An (28.992 người), Đắc Lắc (22.760 người), Đắc Nông (21.951 người), Bắc Kạn
(17.470 người), Tuyên Quang (16.974 người), Thanh Hóa (14.799 người). 3
Người Mơng ở nước ta thường nhắc đến tổ tiên họ di cư sang sinh sống ở
Việt Nam. Vì Việt Nam đất hoang nhiều, màu mỡ, ít bị ràng buộc trong khai khẩn,
nhưng chủ yếu là tránh áp bức, bóc lột, hà khắc và tránh sự khủng bố của triều đình
phong kiến Trung Quốc sau mỗi lần khởi nghĩa thất bại.
Xưa kia, đồng bào Mông ở Đồng Văn, Hà Giang còn lưu truyền một bài ca
buồn thảm rằng: “Quý Châu là quê hương yêu dấu của đồng bào Mèo ta ở. Vì
người Mèo ta phải đói rách, vì dân Mèo ta khơng có chữ thua kiện người Hán nên
phải mất nương, vì người Mèo ta khơng có chữ nên phải rời q”.
Người Mơng đến nước ta có thể gồm nhiều đợt quy mơ lớn nhỏ khác
nhau, gần từ Vân Nam sang, xa từ Quý Châu qua Vân Nam hoặc Quảng Tây
sang cư trú ở các vùng biên giới phía Bắc. Theo tài liệu điền dã dân tộc học thu
thập được ở một số vùng người Mông ở Việt Bắc và Tây Bắc, cùng việc nghiên
cứu tình hình biến động của tộc Miêu ở Trung Quốc trong lịch sử, có thể người
Mơng thiên di đến Việt Nam với ba đợt có quy mơ lớn.
3
Ban chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở Trung ương, (2010), Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm
2009: Kết quả toàn bộ, Nhà xuất bản thống kê, Hà Nội.
18
Miền đất Tương Tây (Tây Hồ Nam) và Kiềm Đông (Đông Quý Châu) là
vùng đất khởi nguồn của tộc người Miêu. Thời Minh, chính quyền phong kiến
thống trị đã ra sức đẩy mạnh việc thơn tính đất đai vùng Miêu, làm cho tộc Miêu
và các dân tộc rơi vào cảnh cơ cực và cuối cùng buộc phải nổi dậy khởi nghĩa.
Làn sóng khởi nghĩa nổ ra liên tiếp, nhưng cuối cùng đều bị trấn áp, dìm trong bể
máu.
Sử sách cịn ghi lại sau cuộc khởi nghĩa của Can Bá Chu ở Kiềm Trung
thất bại (năm 1459), có tới 4.490 người bị giết, 5.500 phụ nữ Miêu phải trôi dạt
đi các nơi, hoặc vào năm Vạn Lịch (1569 - 1617), sau khi bình định xong cuộc
nổi dậy của Thổ ty vùng Bá Châu là Dương Ưng Long, nhiều tộc Miêu, tộc Cờ
Lao bị giết hại, số sống sót chỉ cịn hai phần mười. Để tránh sự trả thù, một bộ
phận người Miêu phải rời bỏ quê hương di cư đến nơi khác. Một bộ phận đến
Vương Tây bộ Quý Châu và một bộ phận đến các vùng Đông Nam Vân Nam.
Về sau, vào những năm 80 của thế kỷ XVII để tránh tai họa của cuộc hỗn chiến
giữa triều đình Thanh và Ngô Tam Quế, một bộ phận tộc Miêu ở Vân Nam đã
thiên di tới các vùng biên cương miền tây Vân Nam và vào Lào Cai nước ta. Đây
chính là đợt thiên di đầu tiên vào nước ta của dân tộc Mơng.
Từ đầu thế kỷ XVIII, triều đình nhà Thanh (1644 – 1911) thực hiện chế độ
“Cải tổ quy lưu” (tức bỏ chế độ thổ quan, phái cả các quan lại từ nơi khác đến
cai trị trực tiếp). Mục đích “Cắt bỏ người địa phương, điều tra lại ruộng đất để
tăng thuế khóa, đẩy mạnh việc bình trị”, đối với những khu vực trước đây chưa
chịu quy phục, nhà Thanh đã dùng bạo lực bắt quy phục.
Sử sách còn ghi, vào giữa năm Khang Hy thứ 43 (năm 1704), triều đình
nhà Thanh đã phái cử đại thần bộ lễ là Tịch Nhi Đạt đến các thôn trại của tộc
19
Miêu ở Tây Hồ Nam, công bố lệnh quy phục để thiết lập chế độ quận huyện, đối
với các thôn trại khơng tn theo vũ trang tự vệ thì triệt hạ. Cùng với việc thực
hiện chính sách “Cải tổ quy lưu”, nhà Thanh đã mở rộng cánh cửa cho địa chủ
Hán tộc tràn vào các vùng Miêu, chấp chiếm nhiều ruộng đất của các tộc vốn
sống ở địa phương, như vùng Đào Tùng (Quý Châu) trước đấy “Chỉ có vùng Tây
Nam thuộc Hán dân, xung quanh không đâu là không phải đất đai của người
Miêu. Nhưng cũng chẳng bao lâu đều bị (người Hán) chiếm đoạt” (“Đào Tùng
Đình Chí”). Khơng những thế, chính quyền nhà Thanh cịn thực hiện chính sách
“Đồn điền dưỡng dũng, thiết ca phòng Miêu”, đã đưa đên hậu quả là ruộng đất
của người Miêu thì loại thượng đẳng điền đều thuộc đồn điền, phần còn lại của
dân là đất núi, góc đất nước dễ rị rỉ, hạn hán khơ cằn.
Tổng hịa của các mối quan hệ xã hội nêu trên, không cam chịu cuộc sống
tủi nhục, bất công của chế độ áp bức dân tộc, người Miêu đã vùng dậy khởi
nghĩa.
Năm Ung Chính thứ 12 – 14 (1735 - 1736), dưới khẩu hiệu “Vua Miêu
xuất thế”, Bao Lộc và Hồng Ngân đã lãnh đạo nhân dân Miêu tộc ở Đông Bắc
Quý Châu liên tiếp khởi nghĩa, sau bị trấn áp thảm khốc, người Miêu phải chạy
trốn.
Cuộc khởi nghĩa Càn Gia (1795 - 1806) nổ ra vào cuối đời Càn Long - đầu
thời Gia Khánh ở vùng Vương Tây và Đông Bắc Kiềm dưới sự lãnh đạo của
Trương Bá Nguyệt, nghĩa quân đưa ra khẩu hiệu “Trục khác gia phục cổ địa”
(đuổi dân Khách - tức Hán, giành lại đất xưa), “Quyết đánh đến tận Hoàng Hà,
chưa đến Hồng Hà lịng chưa ngi!”. Nhưng cuộc khởi nghĩa cuối cùng lại bị
trấn áp, khơng ít người Miêu tại đây đã phải chạy vào Kiềm Trung và xuống phía
20
Nam. Có thể một bộ phận đến các vùng biên giới phía Bắc Việt Nam, trong đó
có Hà Giang.
Đến giữa thế kỷ XIX, các cuộc khỏi nghĩa của người Miêu nổ ra liên tiếp.
Năm 1846, có cuộc khỏi nghĩa ở Cân Châu (Hồ Nam). Năm 1849, có cuộc khởi
nghĩa ở Kiềm Đông Nam. Và đặc biệt là cuộc khởi nghĩa Hàm Đồng nổ ra vào năm
1853 dưới sự lãnh đạo của Trương Tú Mi xuất phát từ Đông Nam Quý Châu, sau lan
rộng sang Hồ Nam và Vân Nam, kéo dài 18 năm ròng rã. Đây là cuộc khởi nghĩa lớn
nhất trong lịch sử chống áp bức của dân tộc Miêu. Vương triều Thanh đã tàn sát có
tính chất hủy diệt đối với những người tham gia khởi nghĩa. Một bộ phận đã thiên di
chạy trốn xa hàng trăm dặm biệt vơ tăm tích, trong đó có một bộ phận đã đến vùng
Kiềm Tây, một số qua Hưng Nghĩa (Quý Châu) vào Văn Sơn (Vân Nam) rồi thiên di
vào Lào Cai và Hà Giang. Đây có thể là đợt thiên di lớn lần thứ ba, người Miêu thiên
cư vào Việt Nam. Đối với vùng Tây Bắc thì đợt đồng bào Mông tới sớm nhất và
đông nhất cách đây trên dưới 200 năm. Một số tập truyện kể bản mường của các
dịng họ q tộc Thái có ghi chép về sự có mặt của người Mơng và Dao ở vùng núi
phía Tây – Tây Bắc khoảng cuối thế kỷ XVIII, từ Lào Cai vào Tây Bắc theo hai
hướng:
Một hướng từ Lao Xá Phình (Lào Cai) qua Giào San (Phong Thổ) đến Tủa
Chùa, Tuần Giáo, về Long Hẹ sang Điện Biên. Một hướng từ vùng núi phía Nam
Lào Cai đến Mù Cang Chải, Trạm Tấu, Bắc Yên rồi sang vùng núi Mộc Châu.
Có những nhóm lại từ Mù Cang Chải chuyển thẳng đến Tủa Chùa, Thuận Châu,
Điện Biên…
Những chặng đường di cư đó của người Mèo Tây Bắc được phản ánh
trong những bài cúng đưa hồn người chết về với tổ tiên. Nhiều vùng đồng bào
21
Mèo Tây Bắc hiện nay vẫn coi Lồng Cống, Lồng Mù (Mù Cang Chải) như một
vùng đất tổ. Khi có người chết, họ phải cúng đưa hồn về Lồng Cống, Lồng Mù
(Mù Cang Chải) để từ đó về quê hương cũ bên Trung Quốc, rồi lên trời về với tổ
tiên. 4
Do những nguyên nhân lịch sử, chính trị, xã hội của vùng Miêu Trung
Quốc đã phân tích đưa tới những đợt thiên di lớn có tính chất ào ạt của người
Miêu đến các vùng biên giới phía Bắc nước ta.
Bên cạnh đó cịn có nhiều đợt với quy mơ nhỏ hay lẻ tẻ nữa mà nguyên
nhân chính là do nguyên nhân kinh tế - tìm đất canh tác mới theo lối du canh du
cư. Và mặc dầu người Mơng có mặt ở nước ta muộn hơn so với nhiều tộc người
khác, nhưng trong quá trình cộng cư trên đất Việt Nam người Mơng đã hịa nhập
và cùng tham gia vào các mối quan hệ kinh tế, chính trị, văn hóa của đại gia đình
các trị dân tộc Việt Nam.
1.2.1.2 Dân tộc Dao
Dao là tên gọi chính thức của cộng đồng dân tộc Dao ở Việt Nam. Trước
đây dân tộc Dao mang nhiều tên gọi khác như: Mán, Động, Trại, Dạo, Xá,…
Cịn người Dao tự gọi mình là Dìu Miền hay Kiềm Miền (nghĩa là người của núi
rừng). Căn cứ vào sự khác biệt về phong tục tập quán và đặc điểm y phục trang
sức, dân tộc Dao chia thành bảy nhóm: Dao Đỏ, Dao Quần Chẹt, Dao Thanh Y,
Dao Lơ Gang, Dao Tiền, Dao Quần Trắng, Dao Làn Tiển. Và trong mỗi nhóm lại
có nhiều ngành nhỏ khác.
Theo số liệu tổng điều tra dân số ngày 01 tháng 04 năm 2009, dân tộc Dao
4
Đỗ Đức Lợi, (2002), Tập tục chu kỳ đời người của các tộc người – ngôn ngữ Mơng – Dao ở Việt Nam, Nxb.
Văn hóa dân tộc, Hà Nội, tr11.
22
là một trong những dân tộc thiểu số có số dân đông ở nước ta với khoảng
751.067 người, cư trú tại 61 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Dao cư trú
tập trung tại các tỉnh: Hà Giang (109.708 người), Tuyên Quang (90.618 người),
Lào Cai (88.379 người), Yên Bái (83.888 người), Quảng Ninh (59.156 người),
Bắc Kạn (51.801 người), Cao Bằng (51.124 người), Lai Châu (48.745 người),
Lạng Sơn (25.666 người), Thái Nguyên (25.360 người),…5
Người Dao có mặt sớm nhất ở nước ta từ thời Lê trở đi cho đến thế kỷ
XX. Nguyên nhân chủ yếu thiên di vào Việt Nam là tìm đất sinh sống. Sự nhập
cư khơng mang tính chất ào ạt về không gian cũng như thời gian như người
Mơng, mà theo từng nhóm lẻ tẻ, hướng thiên di trước sau cũng khơng đồng nhất.
Có số từ Quảng Đơng sang, có số từ Quảng Tây sang, có số lại từ Vân Nam sang.
Ngay thành viên trong một nhóm dân tộc học cũng vậy, có thể vì thế mà các nhóm
Dao Việt Nam khơng có một nhóm nào có một lãnh thổ cư trú đơng đặc, mà các
nhóm đều cư trú rải rác trên một địa bàn rộng thuộc nhiều tỉnh, huyện thuộc địa
khu Đông Bắc Bắc Bộ và Tây Bắc Bắc Bộ.
Cũng có thể do cuộc sống thường xuyên phải di cư, phân cư rộng, tạo ra
môi trường tiếp xúc thuận lợi giữ tộc Dao với các dân tộc khác (Tày, Nùng, Hán,
Mông,…) như sống xen kẽ, lân cận, trao đổi kinh tế, văn hóa trong trường kỳ
lịch sử, nên đã hình thành trong tâm lý dân tộc Dao. Một mặt vẫn giữ ý thức rõ
rêt về cộng đồng dân tộc của mình, mặt khác khơng mặc cảm, xa lánh mà dễ hòa
đồng với các tộc. Điều này được thể hiện rõ nhất trong tục nhận con nuôi xuất
5
Ban chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở Trung ương (2010), Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm
2009: Kết quả toàn bộ, Nhà xuất bản thống kê, Hà Nội.
23
thân từ dân tộc khác hay tục “Kết tồng” (kết bạn) với các dân tộc khác là hiện
tượng phổ biến trong dân tộc Dao.6
1.2.1.3 Dân tộc Pà Thẻn
Nằm trong một quốc gia đa dân tộc, dân tộc Pà Thẻn được coi là một
thành viên quan trọng trong cộng đồng các dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Người
Pà Thẻn tự gọi mình là người Pà Hưng7. Trong các thư tịch xưa, người Pà Thẻn
còn được đề cập đến với tên gọi là “Bát tính tộc” (tộc người 8 họ). Sống tập
trung ở một số xã thuộc tỉnh Hà Giang và Tuyên Quang.
Theo số liệu tổng điều tra dân số ngày 01 tháng 04 năm 2009, dân tộc Pà
Thẻn có số dân là 6.811 người, có mặt tại 32 trên tổng số 63 tỉnh thành phố.
Trong đó, tập trung chủ yếu ở các tỉnh Hà Giang (5.771 người), Tuyên Quang
(877), Đồng Nai (27 người) Thái Nguyên (25 người)…8
Ở Trung Quốc, người Pà Thẻn có tên là Hoa Lan Dao là một trong năm
ngành Dao của Trung Quốc. Nhưng ở Việt Nam, Pà Thẻn được coi là một dân
tộc người riêng biệt. Cũng có nhiều cách giải thích tên tộc người này, cho là do
có 8 họ: Trần, Phùng, Đới, Lưu, Đặng, Lan, Vãn, Lãnh – nên gọi là Pà Thẻn, đọc
trệch của âm bát tính. Đặc biệt, trong đó có các họ: Phùng, Đặng, Trần, Đới,
Lưu, Lan giống với tộc người Dao.
Theo truyện kể, xưa họ ở vùng La Thành – vùng đất thuộc Bắc Bộ Quảng
Tây, gần các trung tâm tụ cư chính của tộc Miêu Bắc Quảng Tây và Đông Nam
Quý Châu; Đây xưa nay vẫn là khu vực cư trú xen kẽ của nhiều tộc người:
6
Đỗ Đức Lợi (2002), Tập tục chu kỳ đời người của các tộc người – ngôn ngữ Mông – Dao ở Việt Nam, Nxb. Văn
hóa dân tộc, Hà Nội, tr21.
7
Viện Dân tộc học (1983), Sổ tay về các dân tộc ở Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr54.
8
Ban chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở Trung ương (2010), Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm
2009: Kết quả toàn bộ, Nxb. Thống kê, Hà Nội.
24
Choang, Dao, Miêu. Người Pà Thẻn đến Việt Nam các đây khoảng trên dưới 200
năm, từ biên kia biên giới tràn sang. Họ đến Hà Giang, sau đó xuống Tuyên
Quang cách đây khoảng trên dưới một trăm năm.9
Về địa bàn cư trú của các dân tộc nhóm ngơn ngữ Mơng – Dao là vùng
cao, vùng giữa và vùng thấp. Trong đó, nơi cư trú của người Mơng chủ yếu là
vùng cao. Những nơi có sườn núi dốc cao, trung bình từ 800 mét đến 1.500 –
1.700 mét trên mặt biển, đại hình hiểm trở, vách đá dựng đứng trên những thung
lũng hèm vực. Tây Bắc địa hình cao hơn và sự chia cắt theo chiều đứng mạnh
hơn so với Đông Bắc. Khí hậu nằm trong vành đai khí hậu cận nhiệt đới. Nhiệt
độ trung bình hàng năm 15 – 20oC. Độ ẩm cao do mưa nhiều. Đất feralit vàng đỏ
có mùn và đất mùn núi cao. Và trong vành đai độ cao từ 800 – 1.000 mét cũng
có một bộ phận người Dao cư trú.
Vùng giữ thuộc thượng du Bắc Bộ và Trung Bộ có núi đá vơi xen lẫn núi
đất có độ cao trung bình khoảng 400 mét đến 600 – 700 mét. Đây là khu vực
phân cư chủ yếu của dân tộc Dao và Pà Thẻn.
Vùng thấp có độ cao từ 200 – 300 mét trở xuống là vùng thung lũng miền
núi có một bộ phận người Dao cư trú xen kẽ với các tộc thuộc nhóm ngơn ngữ
Tày – Thái.
Có thể thấy rằng, bản sắc văn hóa của các dân tộc nhóm ngơn ngữ Mơng –
Dao vơ cùng phong phú và đa dạng thông qua các biểu hiện của văn hóa vật thể
và phi vật thể
9
Đỗ Đức Lợi (2002), Tập tục chu kỳ đời người của các tộc người – ngôn ngữ Mông – Dao ở Việt Nam, Nxb. Văn
hóa dân tộc, Hà Nội, tr23.