1
Khóa luận tốt nghiệp
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HĨA HÀ NỘI
KHOA BẢO TÀNG
*********
ĐÀO THỊ HỒNG NHUNG
TÌM HIỂU SƯU TẬP HIỆN VẬT ĐỒNG
VĂN HĨA ĐƠNG SƠN TRƯNG BÀY TẠI
BẢO TÀNG LỊCH SỬ VIỆT NAM
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
NGÀNH BẢO TÀNG
NGƯỜI HƯỚNG DẪN:
HÀ NỘI - 2011
Đào Thị Hồng Nhung
Lớp: Bảo tàng 27B
Khóa luận tốt nghiệp
2
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................... 4
2. Mục đích nghiên cứu ................................................................................. 5
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................. 5
4. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................... 6
5. Đóng góp của khóa luận ............................................................................ 6
6. Bố cục của khóa luận ................................................................................. 6
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỂ BẢO TÀNG LỊCH SỬ VIỆT NAM VÀ
VĂN HĨA ĐƠNG SƠN................................................................................................ 7
1.1. Bảo tàng Lịch sử Việt Nam .................................................................... 7
1.1.1.Sự hình thành và phát triển ............................................................... 7
1.1.2.Vài nét về hệ thống trưng bày ......................................................... 11
1.2. Văn hóa Đơng Sơn ................................................................................ 17
1.2.1.Q trình phát hiện và nghiên cứu .................................................. 17
1.2.2.Những đặc trưng cơ bản của văn hóa Đơng Sơn ............................ 19
CHƯƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ TIÊU BIỂU CỦA SƯU
TẬP HIỆN VẬT ĐỒNG VĂN HĨA ĐƠNG SƠN TRƯNG BÀY TẠI
BẢO TÀNG LỊCH SỬ VIỆT NAM ....................................................................... 29
2.1. Khái niệm sưu tập hiện vật bảo tàng .................................................... 29
2.2. Nội dung và không gian trưng bày sưu tập hiện vật đồng văn hóa Đơng
Sơn tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam ............................................................. 30
2.3. Đặc điểm hiện vật trong sưu tập ........................................................... 34
2.3.1. Nhạc khí ........................................................................................ 34
2.3.2. Vũ khí ............................................................................................. 37
2.3.3. Đồ dùng sinh hoạt .......................................................................... 43
2.3.4. Công cụ sản xuất ............................................................................ 48
Đào Thị Hồng Nhung
Lớp: Bảo tàng 27B
Khóa luận tốt nghiệp
3
2.3.5. Đồ trang sức ................................................................................... 50
2.3.6. Tượng nghệ thuật ........................................................................... 51
2.4. Những giá trị tiêu biểu của sưu tập ....................................................... 51
2.4.1. Giá trị lịch sử .................................................................................. 51
2.4.2. Giá trị văn hóa ................................................................................ 57
2.4.3 Giá trị kỹ thuật................................................................................. 67
2.4.4 Giá trị nghệ thuật ............................................................................. 69
CHƯƠNG 3: VẤN ĐỀ BẢO QUẢN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ CỦA
SƯU TẬP HIỆN VẬT ĐỒNG VĂN HĨA ĐƠNG SƠN TRƯNG BÀY
TẠI BẢO TÀNG LỊCH SỬ VIỆT NAM .............................................................. 73
3.1. Hiện trạng bảo quản sưu tập trên hệ thống trưng bày của bảo tàng ........... 74
3.2. Bảo quản và phát huy giá trị của sưu tập .............................................. 75
3.2.1. Quán triệt và thực hiện hệ thống văn bản pháp quy của Đảng, Nhà
nước về bảo quản Di sản văn hóa............................................................. 75
3.2.2. Tăng cường cơng tác bảo quản hiện vật trên hệ thống trưng bày ..... 81
3.2.3. Sưu tầm, bổ sung hiện vật cho sưu tập........................................... 82
3.3. Các giải pháp khác ................................................................................ 83
3.3.1. Có kế hoạch ln chuyển hiện vật văn hóa Đơng Sơn từ kho cơ sở
lên hệ thống trưng bày .............................................................................. 83
3.3.2. Phối hợp với các bảo tàng trong và ngoài nước để tổ chức trưng
bày ............................................................................................................ 84
3.3.3. Thông qua các phương tiện truyền thơng giới thiệu về bảo tàng và
văn hóa Đơng Sơn .................................................................................... 86
3.3.4. Tổ chức hội thảo khoa học ............................................................. 87
KẾT LUẬN ..................................................................................................................... 90
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................. 93
PHỤ LỤC
Đào Thị Hồng Nhung
Lớp: Bảo tàng 27B
Khóa luận tốt nghiệp
4
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ba nền văn hóa của thời đại kim khí được biết đến trên lãnh thổ Việt Nam
hiện nay là văn hóa Đơng Sơn, văn hóa Sa Huỳnh và văn hóa Dốc Chùa.
Trong đó thì nền văn hóa Đơng Sơn được nghiên cứu tường tận hơn cả. Cách
đây 87 năm văn hóa Đông Sơn được phát hiện lần đầu tiên tại Thanh Hóa do
một người câu cá ngẫu nhiên tìm được một số đồ đồng ở bờ sông Mã thuộc xã
Đông Sơn, huyện Đơng Sơn, tỉnh Thanh Hóa ( nay là phường Hàm Rồng,
thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa). Từ đó nền văn hóa Đơng Sơn đã
được các nhà khoa học trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu. Mặc dù văn
hóa Đơng Sơn được phát hiện và nghiên cứu đến nay đã lâu nhưng nhiều vấn
đề của văn hóa này khơng phải vì thế mà đã được giải quyết trọn vẹn. Vì vậy
mà sưu tập hiện vật đồng văn hóa Đông Sơn là nguồn sử liệu đặc biệt quan
trọng để tìm hiểu văn hóa Đơng Sơn nói riêng và lịch sử nguồn gốc dân tộc
Việt nói chung.
Đặc trưng về di vật của văn hóa Đơng Sơn hết sức phong phú, đa dạng được
làm bằng nhiều chất liệu khác nhau ( đá, đồng, sắt, gốm, thủy tinh, xương,
sừng, gỗ…) với nhiều kích cỡ khác nhau. Song tiêu biểu nhất, tạo nên diện
mạo văn hóa Đơng Sơn là các di vật được làm bằng chất liệu đồng được chế
tác ở trình độ cao về kỹ thuật và mỹ thuật. Các nhóm hiện vật phát triển mạnh
như vũ khí gồm: rìu, lao, giáo, dao, mũi tên, qua, tấm che ngực…Về công cụ
sản xuất có lưỡi cày, rìu, hái, nhíp, cuốc, thuổng…Dụng cụ sinh hoạt thì có:
thạp, thố, bình, âu, lọ…Nhóm nhạc cụ gồm trống, chng, vịng ống tay, vịng
ống chân gắn chng…Đồ trang sức có số lượng và loại hình phong phú như
vịng tay, vịng chân, khun tai, nhẫn, trâm cài…Ngồi ra cịn có các loại
tượng người và động vật…Sự đa dạng về loại hình, độc đáo về phong cách
Đào Thị Hồng Nhung
Lớp: Bảo tàng 27B
Khóa luận tốt nghiệp
5
nghệ thuật mà các hiện vật đồng văn hóa Đơng Sơn ln chứa đựng những bí
ẩn của lịch sử mà chúng ta vẫn không ngừng nghiên cứu.
Hiện vật đồng văn hóa Đơng Sơn mang tính thống nhất và đa dạng.
Tính thống nhất tạo nên bản sắc riêng đồng thời cũng thể hiện được sự giao
lưu những yếu tố mới để tốt lên tính đa dạng, phong phú của văn hóa Đơng
Sơn. Chính vì vậy mà sưu tập hiện vật đồng văn hóa Đơng Sơn là nguồn sử
liệu vô cùng quý giá cho việc xác định giá trị lịch sử, văn hóa của nền văn hóa
nước ta thời tự lập nguyên khai. Đồng thời đóng góp vào việc nghiên cứu, sưu
tầm, bảo quản, trưng bày và phát huy những giá trị của nền văn hóa này. Như
vậy, nghiên cứu sưu tập hiện vật đồng văn hóa Đơng Sơn là một việc làm có ý
nghĩa thiết thực
Bên cạnh đó, được thực tập tốt nghiệp tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam
cũng là điều kiện rất thuận lợi để tác giả khóa luận tiếp cận khảo sát nghiên
cứu đề tài. Với một sinh viên học chuyên ngành bảo tàng thì những hiện vật
bảo tàng luôn là nguồn tư liệu học tập thiết thực và hiệu quả. Vì vậy, việc lựa
chọn đề tài “Tìm hiểu sưu tập hiện vật đồng văn hóa Đơng Sơn trưng bày
tại Bảo tàng lịch sử Việt Nam” làm khóa luận tốt nghiệp là rất cần thiết.
Nghiên cứu đề tài tác giả khóa luận sẽ được nâng cao trình độ chun mơn
nghiệp vụ và hiểu biết về một nền văn hóa thời dựng nước và hi vọng khi ra
trường sẽ góp phần tích cực vào sự nghiệp bảo tồn di sản văn hóa dân tộc.
2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu đặc điểm và giá trị của sưu tập hiện vật đồng văn hóa Đơng
Sơn trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam
Nghiên cứu thực trạng trưng bày sưu tập đồng văn hóa Đơng Sơn, trên
cơ sở đó, đưa ra giải pháp bảo quản, phát huy giá trị của sưu tập.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu khóa luận nghiên cứu Sưu tập hiện vật đồng văn
hóa Đơng Sơn trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam.
Đào Thị Hồng Nhung
Lớp: Bảo tàng 27B
Khóa luận tốt nghiệp
6
Phạm vi nghiên cứu khóa luận nghiên cứu sưu tập hiện vật đồng văn
hóa Đơng Sơn trong mối tương quan tổng thể với hệ thống trưng bày tại Bảo
tàng Lịch sử Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận sử dụng phương pháp thống kê, tổng hợp, phân loại, so
sánh. Phương pháp khảo sát, miêu tả, chụp ảnh và xử lý thơng tin tư liệu…
Khóa luận sử dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành như: khảo cổ
học, sử học, bảo tàng học, nghệ thuật học, văn hóa học…
Vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của
chủ nghĩa Mác - Lênin khi xem xét phân tích, đánh giá những vấn đề liên
quan của đề tài.
5. Đóng góp của khóa luận
Khóa luận cung cấp tư liệu tham khảo cho sinh viên Trường Đại học
Văn hóa nói chung và sinh viên ngành bảo tàng nói riêng.
Phân tích những giá trị lịch sử văn hóa của hiện vật đồng văn hóa Đơng
Sơn tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam từ đó khẳng định vị trí và vai trị của hiện
vật văn hóa Đơng Sơn trong kho tàng di sản văn hóa dân tộc.
Đề xuất một số giải pháp nhằm bảo quản, khai thác và phát huy giá trị
của sưu tập hiện vật đồng văn hóa Đơng Sơn trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử
Việt Nam
6. Bố cục của khóa luận
Ngồi phần mở đầu và kết luận, nội dung khóa luận gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát về Bảo tàng Lịch sử Việt Nam và văn hóa Đông
Sơn
Chương 2: Đặc điểm và những giá trị tiêu biểu của sưu tập hiện vật
đồng văn hóa Đơng Sơn trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam
Chương 3: Vấn đề bảo quản và phát huy giá trị của sưu tập hiện vật
đồng văn hóa Đơng Sơn trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam
Đào Thị Hồng Nhung
Lớp: Bảo tàng 27B
7
Khóa luận tốt nghiệp
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT VỂ BẢO TÀNG LỊCH SỬ VIỆT NAM
VÀ VĂN HĨA ĐƠNG SƠN
1.1. Bảo tàng Lịch sử Việt Nam
1.1.1.Sự hình thành và phát triển
Từ hoạt động của Trường Viễn Đông Bác cổ, năm 1910 bảo tàng đầu
tiên ở Việt Nam được thành lập tại Hà Nội đó là Bảo tàng Nghệ thuật Đơng
Phương . Các nhà khảo cổ học của trường đã mang về bảo quản trong kho của
bảo tàng hàng trăm sưu tập hiện vật.
Năm 1909, bảo tàng tiến hành chỉnh lý, phân loại, sắp xếp, phân loại
các sưu tập hiện vật để tổ chức trưng bày và đến ngày 06/11/1910, Bảo tàng
Nghệ thuật Đông Phương bắt đầu mở cửa hoạt động. Nội dung trưng bày của
bảo tàng bao gồm các sưu tập khảo cổ học, dân tộc học và một số trang phục
triều Nguyễn.
Do các sưu tập ngày càng được bổ sung phong phú địi hỏi phải có địa
điểm trưng bày mở rộng hơn cho nên ngày 28/02/1925, Tồn quyền Đơng
Dương cho chuẩn y xây dựng một nhà bảo tàng mới và từ năm 1926 bắt đầu tiến
hành xây dựng, hoàn thành vào năm 1932 với tổng diện tích trưng bày là
1.835m2. Lúc này Bảo tàng Nghệ thuật Đông Phương được đổi tên thành Bảo
tàng Louis – Finot ( mang tên nhà dân tộc học, người giám đốc đầu tiên của
Trường Viễn Đông bác cổ Pháp). Bảo tàng chính thức mở cửa hoạt động vào
năm 1933 và trưng bày giới thiệu các bộ sưu tập cổ vật thuộc các nền văn hoá
Việt Nam, Lào, Campuchia, Trung Quốc, Ấn Độ, Miến Điện, Nhật Bản,
Indonesia, Thái Lan, Tây Tạng…Có thể nói đây là một bảo tàng khơng chỉ đẹp
về kiểu dáng kiến trúc mà cịn đẹp ở cả phong cách nghệ thuật trưng bày cổ vật.
Đào Thị Hồng Nhung
Lớp: Bảo tàng 27B
Khóa luận tốt nghiệp
8
Sau cách mạng tháng Tám năm 1945 thành cơng, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã ký sắc lệnh 65 đổi tên Bảo tàng Louis Finot thành Quốc gia bảo tàng
viện. Tháng 12/1946 kháng chiến toàn quốc bùng nổ, bảo tàng lại trở về thuở
ban đầu thuộc Pháp.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ ( 07/5/1954) cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp của nhân dân ta thắng lợi, miền Bắc được hồn tồn giải
phóng, nhưng mãi đến ngày 22/04/1958 nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
mới tiếp nhận được cơ sở Bảo tàng từ tay chính phủ Pháp và xúc tiến nghiên
cứu, sưu tầm, bổ sung tài liệu, hiện vật, chuyển đổi nội dung từ Bảo tàng nghệ
thuật Đông Phương thành Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, thực hiện chức năng xã
hội đích thực của mình. Sau một thời gian ngắn, hệ thống trưng bày của bảo
tàng đã được chỉnh lý phù hợp với nội dung tính chất của một Bảo tàng Lịch
sử Quốc gia
Ngày 03/09/1958 Bảo tàng Lịch sử Việt Nam chính thức khánh thành
và mở cửa đón khách tham quan
Trong hồn cảnh khó khăn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, công tác
nghiên cứu khoa học của bảo tàng đã được xúc tiến làm cơ sở cho các mặt
công tác khác của bảo tàng, góp phần nghiên cứu lịch sử chung của cả nước.
Nhiều cơng trình nghiên cứu được xuất bản như: “ Những hiện vật tàng trữ tại
Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam về ngôi mộ cổ Việt Khê” (1965); “Những
hiện vật tàng trữ tại Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam về văn hóa Hịa Bình” (
năm 1967); “Tìm hiểu một số vấn đề về thời kỳ Hùng Vương (năm 1969);
“Những trống đồng Đông Sơn đã phát hiện ở Việt Nam” (năm 1975).
Công tác nghiên cứu sưu tầm, điều tra khảo sát, khai quật hiện vật khảo
cổ học được tiến hành ở nhiều địa phương trong cả nước, từ những miền rừng
núi hẻo lánh đến những vùng hải đảo xa xơi, tìm ra nhiều di tích có giá trị
thuộc các thời tiền sử, sơ sử cho đến thời phong kiến nhằm không ngừng bổ
Đào Thị Hồng Nhung
Lớp: Bảo tàng 27B
Khóa luận tốt nghiệp
9
sung hiện vật cho kho cơ sở, phục vụ công tác trưng bày thường xuyên và các
cuộc trưng bày chuyên đề, lưu động.
Hệ thống trưng bày chính của bảo tàng - cuốn sử sống của dân tộc Việt
Nam từ thời Tiền sử (cách ngày nay khoảng 30 - 40 vạn năm) đến Cách mạng
Tháng Tám - 1945. Với diện tích trưng bày hơn 2.200 m2, gần 7.000 tư liệu
hiện vật, hệ thống trưng bày chính của bảo tàng được thể hiện theo nguyên tắc
trưng bày niên biểu, lấy sự phong phú của sưu tập hiện vật làm ngơn ngữ biểu
đạt chính, kết hợp giữa trưng bày phản ánh giai đoạn và sự kiện lịch sử với
trưng bày sưu tập theo hướng trưng bày mở, tạo điều kiện để có thể cập nhật
những tư liệu hiện vật mới do công tác nghiên cứu sưu tầm đem lại, làm cho
"diện mạo" trưng bày luôn mới mẻ, hấp dẫn người xem. Khơng chỉ có trưng
bày cố định mà bảo tàng còn tổ chức các cuộc trưng bày chuyên đề hợp tác
với bảo tàng các nước khác trên thế giới như:
- Trưng bày: Đồ đồng Việt Nam – Truyền thống và bản sắc từ tháng
10/2007 đến tháng 03/2008 tại Bảo tàng Khu tự trị Dân tộc Choang tỉnh
Quảng Tây và Bảo tàng Thủ đô Bắc Kinh, Trung Quốc.
- Tổ chức trưng bày: Việt Nam! Từ huyền thoại đến hiện đại nhân kỷ
niệm 35 năm quan hệ hợp tác Việt Nam- Singapore từ tháng 4-7 năm 2008.
- Trưng bày chuyên đề: Con đường tơ lụa trên biển – Đồ gốm, sứ từ
những con tàu đắm dưới đáy biển Việt Nam tại Nam Ninh- Trung Quốc vào
tháng 12 năm 2008.
- Trưng bày chuyên đề: Nghệ thuật cổ Việt Nam: Từ châu thổ ra biển
lớn tại Mỹ từ tháng 9/2009 đến tháng 5/2010.
- Trưng bày chuyên đề: 2.500 năm giao lưu Á –Âu tại Trung tâm Mỹ
thuật Vương quốc Bỉ từ ngày 25/6/2010- 10/10/2010 chào mừng Hội nghị cấp
cao ASEM 8 tại Vương quốc Bỉ vào năm 2010.
Đào Thị Hồng Nhung
Lớp: Bảo tàng 27B
Khóa luận tốt nghiệp
10
Hệ thống kho cơ sở của bảo tàng hiện lưu giữ hơn 100.000 tiêu bản
hiện vật, gồm nhiều chất liệu, nhiều sưu tập hiện vật quý hiếm: Sưu tập hiện
vật thuộc các nền văn hóa Núi Đọ, sưu tập văn hóa Đơng Sơn, sưu tập gốm
men cổ Việt Nam, sưu tập điêu khắc đá Chămpa, sưu tập đồ đồng thời Lê Nguyễn... Trong những năm vừa qua, kho cơ sở của bảo tàng đã được bổ sung
nhiều sưu tập mới có giá trị, đặc biệt là từ khu vực miền Trung, Tây Nguyên,
Nam Bộ và ngoài biển Đông từ các con tàu đắm cổ. Hệ thống kho cơ sở được
sắp xếp khoa học, trang thiết bị hiện đại, đạt được chuẩn mực của kho lưu giữ
hiện vật bảo tàng.
Cơng tác giáo dục Trong q trình xây dựng và trưởng thành Bảo tàng
Lịch sử Việt Nam đã trở thành một trung tâm văn hoá - khoa học lớn của đất
nước. Hàng chục triệu người ở khắp mọi miền đất nước và hàng trăm ngàn
khách quốc tế từ mọi châu lục đã đến tham quan, trong đó có nhiều vị nguyên
thủ quốc gia, các nhà lãnh đạo cao cấp... đã ghi lại những tình cảm tốt đẹp của
mình đối với lịch sử dân tộc Việt Nam trong những trang sổ vàng lưu niệm.
Đặc biệt là từ năm 2006, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam đã xây dựng trang
website của bảo tàng với cả ba thứ tiếng: Việt- Anh- Pháp. Đây là kênh thông
tin vô cùng quan trọng trong thời đại công nghệ thông tin bùng nổ. Trong
những năm qua, bảo tàng thực hiện việc nâng cấp, thay đổi giao diện trang tin
được đánh giá cao trong các trang tin của hệ thống bảo tàng Việt Nam. Số
lượng độc giả truy cập website của bảo tàng ngày càng tăng. Con số thống kê
ngày 14/12/2010 là 2.156.049 người. Tính đến thời điểm hiện tại (30/3/2011)
là 2.796.938 lượt người truy cập.
Công tác đối ngoại luôn được chú trọng, mở rộng giao lưu, hợp tác với
các bảo tàng, các tổ chức văn hóa trên thế giới. Bảo tàng thường xuyên trao
đổi các ấn phẩm chuyên ngành với hơn 100 bảo tàng và tổ chức văn hóa.
Tham gia các cuộc hội thảo khoa học quốc tế: "Sự phát triển văn hóa - xã hội
Đào Thị Hồng Nhung
Lớp: Bảo tàng 27B
Khóa luận tốt nghiệp
11
trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế Châu Á, 1994"; "Bảo tồn hiện vật khảo cổ,
1996"; "Vai trò của bảo tàng trong thế kỷ XXI, 1997" ... Tiếp nhận, triển khai
các dự án: Tổ chức các nước có sử dụng tiếng Pháp về giảng dạy đại học và
nghiên cứu (AUPELF-UREF) tài trợ cho việc làm các phụ đề; phương tiện
nghe nhìn phục vụ cho cơng tác tun truyền giáo dục, qua quỹ Viện trợ Văn
hóa (ODA) của Chính phủ Nhật Bản ... Bảo tàng cũng đã tổ chức nhiều đoàn
cán bộ đi tham quan, khảo sát tại một số bảo tàng ở Trung Quốc, Singapore,
Indonesia, Malayxia, Laos, Brunei...
Hơn 50 năm qua, với những kết quả khả quan trong công tác nghiên
cứu, tuyên truyền giáo dục, phổ biến khoa học và các hoạt động khác đã đem
lại uy tín và tầm vóc cho Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, góp phần thúc đẩy q
trình phát triển, hội nhập của hệ thống bảo tàng trong nước và quốc tế.
1.1.2.Vài nét về hệ thống trưng bày
Phần 1: Việt Nam thời tiền sử
Nội dung phần này trưng bày những di tích thời tiền sử tương đương
với giai đoạn thời đại đồ đá cũ với hậu kỳ thời đại đá mới. Tiến trình này bắt
đầu cách ngày nay khoảng 30 – 40 vạn năm đến khoảng 4000 – 5000 năm.
Phần trưng bày này gồm hai giai đoạn:
Mở đầu phần trưng bày là những di tích sơ kỳ thời đại đồ đá cũ và
những di vật phát hiện ở các di chỉ khảo cổ học Núi Đọ, Quan n (Thanh
Hố), Hàng Gịn, Dầu Giây (Xn Lộc - Đồng Nai) như: rìu tay, cơng cụ chặt
thô, mảnh tước.v.v... .
Tiếp theo là phần trưng bày những di tích thuộc thời đại đồ đá mới, tiêu
biểu là văn hố Hồ Bình (Hồ Bình) - một nền văn hố khảo cổ nổi tiếng ở
khu vực Đơng Nam Á và thế giới (cách ngày nay khoảng 10.000 - 16.000
năm). Hiện vật được trưng bày ở phần này gồm: rìu ngắn, cơng cụ hình đĩa,
cơng cụ hình hạnh nhân, bắt đầu xuất hiện rìu mài lưỡi và buộc ghép cán.
Đào Thị Hồng Nhung
Lớp: Bảo tàng 27B
Khóa luận tốt nghiệp
12
Phần 2: Việt Nam từ thời dựng nước đầu tiên đến triều Trần
Thời dựng nước đầu tiên
Văn hóa Tiền Đơng Sơn bao gồm: Văn hố Phùng Ngun, văn hố
Đồng Đậu, văn hố Gị Mun. Với một khối lượng di vật lớn phong phú về
chất liệu, đa dạng về loại hình đã được phát hiện cho thấy nền kinh tế thời kỳ
này khá phát triển. Đặc biệt sự phát triển của kỹ thuật luyện kim đúc đồng
văn hóa Gò Mun là tiền đề cho sự ra đời của nền văn hố Đơng Sơn - cơ sở
vật chất chủ yếu của nhà nước Văn Lang sau này.
Văn hóa Đơng Sơn
Văn hố Đơng Sơn được phát hiện năm 1924 tại Thanh Hoá, ra đời và
phát triển rực rỡ dựa trên nền tảng của một quá trình hội tụ lâu dài của những
nền văn hố trước đó. Nền văn hố này có phạm vi phân bố rộng nhưng chủ
yếu ở lưu vực 3 con sông lớn: sông Hồng, sông Mã, sông Cả. Kỹ thuật luyện
kim và đúc đồng thời kỳ này đạt đến trình độ cao, đa dạng về loại hình, đặc
biệt với hệ thống hoa văn trang trí phong phú thể hiện trên trống và thạp
đồng... Đã phản ánh chân thực và sinh động diện mạo xã hội Việt cổ trong
buổi đầu dựng nước.
Bên cạnh đó là văn hóa Đồng Nai, văn hóa Sa Huỳnh, văn hóa Ĩc Eo.
Loại hình di vật phát hiện ở những di chỉ của những nền văn hóa này rất đa
dạng nhưng chủ yếu là đồ gốm, công cụ lao động bằng sắt, đồ trang sức với
các loại chất liệu quý hiếm như vàng, ngọc, mã não…
Thời kỳ chống Bắc thuộc
Phòng trưng bày tập trung giới thiệu những sưu tập hiện vật đặc sắc và
những hình ảnh về cuộc đấu tranh kiên cường, bất khuất của dân tộc Việt
Nam chống phong kiến phương Bắc trong suốt 10 thế kỷ (thế kỷ 1 TCN – thế
kỷ 10) trên hai phương diện sau:
Đào Thị Hồng Nhung
Lớp: Bảo tàng 27B
Khóa luận tốt nghiệp
13
- Q trình đấu tranh bền bỉ của dân tộc Việt chống âm mưu đồng hoá
của phong kiến phương Bắc trên lĩnh vực văn hóa, gìn giữ bản sắc và tiếp thu
văn minh nhân loại, làm giàu cho văn hoá dân tộc.
- Các phong trào đấu tranh quật cường chống phong kiến phương Bắc
xâm lược giành độc lập dân tộc mà mở đầu là cuộc khởi nghĩa của Hai Bà
Trưng (40 - 43 SCN).
Triều Ngô - Đinh - Tiền Lê
Mở đầu thời kỳ này là các triều đại Ngô, Đinh và Tiền Lê (nửa sau thế
kỷ 10). Đây là các triều đại phong kiến đã góp phần đáng kể trong sự nghiệp
xây dựng và phát triển đất nước. Hiện vật trưng bày giới thiệu ở phần này chủ
yếu được phát hiện trong các đợt nghiên cứu và khai quật khảo cổ ở khu thành
cổ Hoa Lư (Ninh Bình) năm 1970.
Nước Đại Việt thời Lý (1010-1225)
Bằng những sưu tập hiện vật phong phú, phòng trưng bày giới thiệu
thời kỳ phục hưng của văn hoá dân tộc: nền văn minh Đại Việt. Sự phát triển
rực rỡ của nền văn hoá này được phản ánh qua những sưu tập hiện vật sau: Bộ
sưu tập gốm men độc sắc gồm men trắng ngà, men ngọc, men xanh lục, men
nâu.. . Đồ gia dụng gồm: bát, đĩa, ấm, bình, chậu, thố thạp… Đồ trang trí gồm
tượng người, thú như vẹt, mèo, sư tử, bùa đầu người...
Nước Đại Việt thời Trần (1226- 1400)
Thông qua nhiều sưu tập hiện vật qúy kết hợp tư liệu và hình ảnh
của các cơng trình tơn giáo thời Trần, phòng trưng bày giới thiệu những thành
tựu phát triển rực rỡ của nước Đại Việt thế kỷ 13 - 14 trên nhiều lĩnh vực:
chính trị, kinh tế, văn hố, nghệ thuật, tôn giáo ... Đây là thời kỳ nhà nước
phong kiến Đại Việt đã trở thành một quốc gia cường thịnh trong khu vực.
Nhiều di vật lịch sử thời Trần đang được lưu giữ và trưng bày gồm vật liệu
Đào Thị Hồng Nhung
Lớp: Bảo tàng 27B
Khóa luận tốt nghiệp
14
trang trí kiến trúc và hình ảnh hiện trạng của các khu di tích nổi tiếng như
chùa, tháp Phổ Minh (Nam Định), đền Kiếp Bạc (Hải Dương), tháp Bình Sơn
(Vĩnh Phúc), chng Vân Bản (Hải Phịng), mộc bài Đa Bối (Thái Bình)...
Đặc biệt, võ cơng hiển hách ba lần chống Mơng - Ngun và những chính
sách phát triển kinh tế, xã hội, kiện toàn hệ thống tổ chức nhà nước... thời
Trần đều được trưng bày.
Phần 3: Việt Nam từ triều Hồ đến cách mạng thánh Tám năm 1945
Triều Hồ (1400 - 1407)
Những sưu tập hiện vật và tư liệu hình ảnh giới thiệu trong phần trưng
bày này gồm vật liệu kiến trúc khai quật ở Ly Cung (Thanh Hóa) như gạch,
ngói, trang trí kiến trúc; bức ảnh chụp thành Tây Đô; sử liệu về việc phát hành
tiền giấy... đã góp phần chứng tỏ rằng tuy tồn tại ngắn ngủi (1400-1407),
nhưng triều Hồ đã để lại một dấu ấn khó phai về những cải cách tiến bộ của
triều đại này. Đó là chủ trương về cải cách tiền tệ, những chính sách về thuế
khố, hạn điền, hạn nơ, tổ chức thi tuyển Thái học sinh, khuyến khích sử dụng
chữ Nơm…
Triều Lê Sơ, Mạc, Lê Trung Hưng
Bằng những hình ảnh, tư liệu và hiện vật với nhiều chất liệu khác nhau,
phần trưng bày này đã thể hiện một cách khái quát diễn biến của cuộc kháng
chiến chống quân xâm lược Minh ở thế kỷ 15 và tình hình kinh tế, văn hoá xã
hội thời Lê sơ.
Sau 10 năm trường kỳ kháng chiến, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê
Lợi và Nguyễn Trãi lãnh đạo đã giành được thắng lợi, nền độc lập dân tộc
được khôi phục, đất nước được giải phóng. Triều đại Lê Sơ ra đời và phát
triển đến giai đoạn cực thịnh. Ngoài những tư liệu lịch sử về việc cải cách chế
độ ruộng đất, thi cử, pháp luật … chúng ta còn thấy được sự phát triển của
Đào Thị Hồng Nhung
Lớp: Bảo tàng 27B
Khóa luận tốt nghiệp
15
một số nghề thủ cơng cổ truyền như nghề làm gốm, làm đồ gỗ, đồ đồng
qua các sưu tập hiện vật đang được trưng bày.
Triều Tây Sơn
Đến thế kỷ 18, chế độ phong kiến Việt Nam bước vào giai đoạn khủng
hoảng toàn diện, mâu thuẫn giai cấp trong lòng xã hội Việt Nam diễn ra hết
sức gay gắt. Nội chiến liên miên, đời sống nông dân vô cùng cực khổ, phong
trào nông dân khởi nghĩa nổ ra liên tiếp mà đỉnh cao là cuộc khởi nghĩa của
nông dân Tây Sơn năm 1771 đã phát triển mạnh mẽ, tiến tới dẹp tan các thế
lực phong kiến cát cứ của các chúa Nguyễn, lật đổ chính quyền hủ bại nhà Lê,
bước đầu thực hiện thống nhất đất nước. Người tổ chức và lãnh đạo cuộc
kháng chiến chống quân xâm lược Thanh, làm nên chiến thắng oanh liệt mùa
xuân năm Kỷ Dậu (1789) là anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ.
Tài liệu hiện vật đáng chú ý ở đây là bức thư do chính Nguyễn Huệ viết
gửi La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp nói về việc chọn đất đóng đơ và chiếc trống
đồng niên hiệu Cảnh Thịnh 8 (1800)…
Triều Nguyễn (1802 - 1883)
Đầu thế kỷ 19, triều đại Tây Sơn chấm dứt, triều Nguyễn lên thay
(1802). Đây là triều đại cuối cùng trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam.
Mặc dù ra đời và tồn tại trong một bối cảnh đầy biến động của tình hình trong
nước và quốc tế nhưng những thành tựu về kinh tế, văn hoá, xã hội thời kỳ
này vẫn tiếp tục phát triển, thể hiện qua một số tư liệu hình ảnh về kinh đơ
Huế, Văn Miếu Huế, bức bản đồ Đại Nam nhất thống toàn đồ vẽ năm 1838;
bức tranh vẽ lục bộ triều Nguyễn, các bản trích về khoa cử, luật pháp, quan
chế... Những sưu tập quý lần đầu tiên được trưng bày như chuông đồng, ấn,
triện giàu sức biểu cảm, gây ấn tượng sâu sắc cho người xem. Ngồi ra cịn
nhiều sưu tập khác như khánh đồng, đồ đồng và đồng khảm tam khí, gỗ khảm
Đào Thị Hồng Nhung
Lớp: Bảo tàng 27B
Khóa luận tốt nghiệp
16
trai, gỗ sơn thếp, tiền đồng, bạc đĩnh, sắc phong và phẩm phục triều Nguyễn.
Đặc biệt hai khẩu súng săn nạm vàng của vua Minh Mạng, Tự Đức cũng như
khẩu thần công đồng được phong tước dưới đời Nguyễn Gia Long (1816).
Năm 1858, thực dân Pháp bắt đầu nổ súng xâm lược Việt Nam. Sau 80 năm
phụ thuộc, năm 1884, nhà Nguyễn đã hoàn toàn đầu hàng thực dân Pháp.
Nước Việt Nam trở thành một quốc gia thuộc địa nửa phong kiến. Năm 1885
đánh dấu một mốc lịch sử quan trọng ở Việt Nam. Thực dân Pháp hồn tất
cơng cuộc xâm lược Việt Nam và một phong trào chống Pháp sôi nổi rộng
khắp trong cả nước đã bùng nổ.
Phong trào chống Pháp và Cách mạng Tháng Tám 1945
Một số tư liệu, hiện vật và hình ảnh tiêu biểu được trưng bày như: la
bàn của Hoàng Hoa Thám, bút tích của Phan Đình Phùng, mảnh tàu Hy vọng
bị nghĩa quân Nguyễn Trung Trực đánh đắm trên sông Vàm Cỏ năm 1861,
tranh sơn dầu "Lễ phong soái Trương Định"… là những minh chứng sống
động cho phong trào chống Pháp trên đất nước Việt Nam thời kỳ thuộc Pháp
(1883-1945), nổi bật là những cuộc khởi nghĩa của một số văn thân yêu nước
trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời như: Phan Đình Phùng, Hồng Hoa
Thám, Phan Bội Châu, Lương Văn Can… Ngồi ra, khách tham quan cịn
cảm nhận được khí thế sục sơi của cuộc kháng chiến chống ngoại xâm qua
một sưu tập vũ khí thơ sơ gồm lưỡi lê, giáo, mác, chông, bom tự tạo...
Song do nhiều sai lầm và hạn chế, các phong trào chống Pháp này lần lượt bị
thất bại. Chỉ đến khi Đảng Cộng sản Việt Nam do đồng chí Nguyễn Ái Quốc
sáng lập và lãnh đạo theo đường lối Mác - Lê nin thì cơng cuộc cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân mới thành công. Phần trưng bày giới thiệu những
mốc lịch sử quan trọng trong cuộc đời hoạt động của Bác Hồ trên trường quốc
tế, quá trình thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, diễn biến và kết quả của
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Đào Thị Hồng Nhung
Lớp: Bảo tàng 27B
Khóa luận tốt nghiệp
17
Kết thúc hệ thống trưng bày chính là bức tranh hồnh tráng Chủ tịch
Hồ Chí Minh đọc bản tun ngơn độc lập tại quảng trường Ba Đình ngày
2/9/1945, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà
Phần 4: Trưng bày điêu khắc đá Chăm pa
Phần này được trưng bày theo niên đại từ thế kỷ VII đến thế kỷ XIII.
Là một trong 54 tộc người sinh sống trên đất nước Việt Nam, người
Chăm đã xây dựng và để lại một kho tàng nghệ thuật quý giá, đó là những
tháp Chăm cổ kính, uy nghi và những điêu khắc gắn liền với kiến trúc tháp.
Hiện vật tiêu biểu gồm tượng Siva Tháp Mẫm trong vịm tháp, đơi sư
tử với hình khối lớn đang quỳ. Hai tấm bia đá Mỹ Sơn và Ponagar, niên đại
thế kỷ 7 đến thế kỷ 8. các phần trưng bày kế tiếp được sắp xếp theo niên đại:
thế kỷ 7-8, thế kỷ 9-10, thế kỷ 11 và kết thúc là nhóm hiện vật thuộc thế kỷ
12- 13.
Ngoài ra, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam cịn tiến hành trưng bày ngồi
trời trong một khn viên rộng, đẹp với những hiện vật độc đáo gây được sự
quan tâm chú ý của công chúng khi đến tham quan bảo tàng.
1.2. Văn hóa Đơng Sơn
1.2.1.Q trình phát hiện và nghiên cứu
Nền văn hóa đồng thau nổi tiếng này mang tên một làng nhỏ, làng
Đông Sơn thuộc huyện Đơng Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Năm 1924, một ơng lão
đánh cá ở q Đơng Sơn ngẫu nhiên tìm thấy những di vật đồ đồng ở bên bờ
sơng Mã, sau đó phát hiện ra di chỉ và mộ táng Đông Sơn. Địa điểm Đông
Sơn từ khi khai quật đã được phát hiện nhiều lần:
Năm 1924 – 1932 được trường Viễn Đông bác cổ ủy nhiệm, L. Pajot đã
tiến hành khai quật nhiều lần tại đây và phát hiện được khá nhiều di vật bằng
đá. Đồng, sắt, mộ táng và nơi cư trú. Ngồi hiện vật đào được Pajot cịn mua
Đào Thị Hồng Nhung
Lớp: Bảo tàng 27B
Khóa luận tốt nghiệp
18
lại của dân , hoặc chiếm đoạt từ tay các quan lang người Mường một số đồ
đồng, kể cả trống đồng. Riêng trống đồng, Pajot đã đào được ở Đông Sơn 20
chiếc, nhưng chủ yếu là trống nhỏ, chỉ có một số trống lớn như: Đơng Sơn 1
và Đông Sơn 2 đươc V.Goloubew công bố vào năm 1932.
Năm 1929 V.Goloubew công bố kết quả khai quật của Pajot trong tác
phẩm Thời đại đồng thau ở Bắc kỳ và Bắc Trung kỳ, sau đó là cơng bố các
nghiên cứu về văn hóa Đơng Sơn: Nguồn gốc và sự phân bố của trống đồng
kim loại ( 1932), Khai quật ở Đông Sơn (1932), Cư dân Đông Sơn (1936),
Nhà Đông Sơn (1938)…
Năm 1934 nhà khảo cổ học người Áo Heine-Geldern đề nghị gọi tên
nền văn hóa đồ đồng này là nền văn hóa Đơng Sơn.
Năm 1935-1939 Olov Janse nhà khảo cổ học Thụy Điển tiến hành khai
quật di tích Đơng Sơn. Năm 1935 thu được 700 hiện vật đồng thau. Năm
1936 phát hiện được dưới độ sâu 2m đồ gốm, thạp đồng, xương răng trâu và
tàn tích nhà sàn. Ở độ sâu 1m là mộ táng chồng nhau, trong đó có cả mộ
Đường và mộ Hán.
Năm 1959 Vụ Bảo tàng thuộc Bộ Văn hóa khai quật tại Đơng Sơn có
sự tham gia của chuyên gia Trung Quốc ( Vương Trọng Thù).
Bắt đầu từ năm 1960 – 1967 công tác thăm dị khai quật các di tích văn
hóa Đơng Sơn được triển khai trên lưu vực các con sông lớn như : lưu vực
sơng Hồng, phát hiện các di tích Đào Thịnh, Yên Hưng, Yên Hợp ( Yên Bái);
Vạn Thắng, Chính Nghĩa, Thanh Đình, Phú Hậu ( Phú Thọ), Phượng Cách,
Nam Chính, Châu Can ( Hà Tây); Việt Khê ( Hải Phịng); trên lưu vực sơng
Mã phát hiện di tích Phà Cơng, Núi Nấp, Núi Sỏi, Hồng Lý, quỳ Chử (Thanh
Hóa); trên lưu vực sơng Cả, phát hiện di tích Xn An ( Hà Tĩnh).
Năm 1969 – 1970 Viện khỏa cổ học và trường Đại học Tổng hợp Hà
Nội khai quật 932m2.
Đào Thị Hồng Nhung
Lớp: Bảo tàng 27B
Khóa luận tốt nghiệp
19
Các lần khai quật này phát hiện di vật bằng đá, bằng đồng, bằng sắt,
các loại mộ đất, mộ gạch, loại hình cũng giống các phát hiện trước đó nhưng
số lượng hết sức phong phú.
1.2.2.Những đặc trưng cơ bản của văn hóa Đơng Sơn
1.2.2.1.Địa bàn phân bố
Địa danh Đông Sơn được dùng để đặt tên một nền văn hóa khảo cổ thời
đại kim khí nổi tiếng ở Việt Nam đó là nền văn hóa Đơng Sơn. Các địa điểm
của nền văn hóa này thường được phân bố trên các vùng đất chân đồi, nằm
cạnh ven sông, ven suối, các ngã ba sông lớn, vùng đồng bằng hẹp giữa các
chi lưu sông, suối, thành từng cụm ở các tỉnh miền núi, đồng bằng ven biển,
thuộc các tỉnh Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Di tích tập trung đậm đặc ở các lưu
vực sông: sông Hồng, sông Cả và sông Mã. Kết quả thống kê ở 28 tỉnh thành
cho biết văn hóa Đơng Sơn có 379 di tích, trong đó Thanh Hóa có 104 di tích,
Hà Tây 52 di tích, Nghệ An 25, Hà Nội 20, Nam Định và Cao Bằng mỗi tỉnh
có 1 di tích…
1.2.2.2. Loại hình di tích
Di chỉ cư trú
Loại hình này nằm trên các cồn đất nổi lên giữa đồng bằng cách sông
khoảng 1-5km, hoặc trên các sườn đồi, sườn núi ven sơng suối, có diện tích
vài trăm đến hàng vạn m2. Tầng văn hóa dày trung bình từ 0,6-1,50m.
Di chỉ mộ táng
Di tích làng Cả: cũng có tên gọi Chính Nghĩa, thuộc TP. Việt Trì. Di
tích này nằm trên đồi cao so với mặt ruộng 10m. Chân đồi nằm sát mép nước
sông Hồng về tả ngạn, cách ngã ba Hạc 2,5km, cách sông Lô 3,7km. Diện tích
ước chừng hàng chục vạn m2. Di tích này trước là nơi cư trú, sau đó chơn mộ
vào. Có 311 mộ, tìm thấy rất nhiều đồ đồng hình loại phong phú, điển hình
của văn hóa Đơng Sơn.
Đào Thị Hồng Nhung
Lớp: Bảo tàng 27B
Khóa luận tốt nghiệp
20
Di tích Vinh Quang: ở làng Cát Quế huyện Hồi Đức, Hà Tây , nằm
trên một gị đất cao hơn mặt ruộng 1m, cách sông đáy 1,5km, cách sông
Hồng 5 km. Lớp cư trú rất dày 1,5m-5,50m.
Di tích Đình Tràng: thuộc xã Dục Tú, Đơng Anh.Hà Nội, có diện tích
khoảng 20.000m2, nằm cách sơng Hồng 600m, chạy dọc theo nhánh sông Ngũ
Huyện Khê, ngoại thành Cổ Loa. Lớp đất cư trú dày 1,50-2,15m, lớp cư trú
biểu hiện liên tục Phùng Ngun, Đồng Đậu, Gị Mun, mộ Đơng Sơn.
Di tích Đơng Sơn: thuộc huyện Đơng Sơn, Thanh Hóa, nằm dọc bờ hữu
ngạn sơng Mã. Di tích này đã có nhiều đợt khai quật. Kết quả cho thấy một di
chỉ vừa cư trú vừa mộ táng và có địa tầng rõ ràng: dưới cùng là lớp trước
Đông Sơn ( thuộc giai đoạn Quỳ Chử), lớp Đông Sơn sớm và trên cùng là lớp
Đơng Sơn muộn. Độ dày trung bình của tầng văn hóa này là 1,0-1,4m.
Di tích mộ táng
Loại hình di tích mộ táng được tách ra như một nghĩa trang. Các di tích
mộ táng Đơng Sơn thường có nhiều loại mộ chôn cất khác nhau: Loại mộ
thuyền là loại quan tài bằng một thân cây khoét rỗng tức là loại thuyền độc
mộc thường gặp nhiều ở những vùng đồng bằng chiêm trũng như ở Hà Nam,
Hà Tây, Hải Dương, Hải Phòng…
Loại mộ đất là loại gặp phổ biến nhất trong các di tích Đơng Sơn
thường khơng có quan tài, chôn trực tiếp xuống đất như ở Núi Thấp ( Thiệu
Dương, Thanh Hóa), có một kè đá ở Đồng Mỏm ( Làng Vạc, Nghệ An), một
kè gốm hay lát gốm ở Đồng Mỏm ( Diễn Châu, Nghệ An).
Có loại mộ chôn trong thạp đồng như ở Thiệu Dương ( Thanh Hóa) và
trong một số đồ đồng phát hiện ngẫu nhiên như trong chiếc thạp đồng Vạn
Thắng ( Phú Thọ), thạp đồng Đào Thịnh, thạp Hợp Minh, trống đồng Đào
Thịnh (Yên Bái)…Trong những đồ đồng này đều phát hiện thấy xương, răng
Đào Thị Hồng Nhung
Lớp: Bảo tàng 27B
Khóa luận tốt nghiệp
21
của tử thi. Hình thức mai táng trong đồ đồng hiếm thấy nhưng không loại trừ
dạng chôn cất ấy.
Có loại mộ quan tài bằng mành tre, nứa ( Đọi Sơn, Hà Nam ). Có loại
mộ chơn nồi gốm, đặt nằm hay đặt đứng. có loại chơn trong chậu nồi, thường
là những mộ được cải táng.
Tất cả những loại mộ nói trên, phần lớn đều có các loại hiện vật chôn
theo là đồ tùy táng. Những hiện vật ấy đều mang đặc trưng văn hóa Đơng
Sơn. Đồ tùy táng bằng đồng phổ biến là đồ minh khí, các đồ dùng được chôn
theo thường trải qua nghi lễ hạ sát: bẻ cong, gãy các hiện vật đồng, đập vỡ
hay bẻ gãy miệng các đồ đựng bằng gốm. Đại bộ phận tử thi nằm ngửa, có
loại chơn nằm co, hoặc hỏa táng nhưng hiếm.
Di chỉ xưởng
Loại hình này được phát hiện rất ít. Cho đến nay mới phát hiện 3 di tích
thuộc xã Đơng Lĩnh, huyện Đơng Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Đó là những địa điểm
Bái Tê, Cồn Cấu, Mả Chùa. Những di vật, phác vật ở đây cho thấy di chỉ
mang tính chất của một cơng xưởng chế tạo đồ trang sức.
Di tích phát hiện lẻ tẻ
Những di tích loại này thường khơng phát hiện vết tích cư trú, mộ táng,
khơng có dấu hiệu của văn hóa khảo cổ. Đáng chú ý là nơi cất dấu mũi tên
đồng Cầu Vực ( Cổ Loa, Hà Nội) được phát hiện năm 1959 có hàng vạn
chiếc, nặng 93kg. Cũng tại đây năm 1982 phát hiện một chiếc trống đồng ở
Mả Tre nằm giữa khu vực thành trung và thành nội Cổ Loa. Trong chiếc trống
loại I này có 200 hiện vật đồng thau: trong đó có 100 chiếc lưỡi cày,ngồi ra
có xẻng, cuốc, đục, rìu, giáo, chơn trong một hố nhỏ ở sườn gị, có tên là
giếng Sãi. Hoặc ở xã An Lão (Bình Lục, Hà Nam) người ta đã phát hiện ra
một chiếc trống đồng cỡ lớn trong đó có 3 chiếc thố lồng vào nhau.
Đào Thị Hồng Nhung
Lớp: Bảo tàng 27B
Khóa luận tốt nghiệp
22
Loại di tích được phát hiện lẻ tẻ này ngày càng thấy ở nhiều nơi. Loại
hình này không phải ngẫu nhiên mà là hiện tượng cất giấu các vật quý hiếm
trong các trường hợp xã hội có sự bất ổn..
1.2.2.3. Đặc trưng di vật
Đồ đồng
Nói đến văn hóa Đơng Sơn là nói đến sưu tập đồ đồng. Các di vật bằng
đồng hết sức phong phú vê số lượng và đa dạng về loại hình mang sắc thái và
diện mạo của một nền văn hóa riêng khơng giống bất kỳ một nền văn hóa nào
trong nước và trên thế giới.
Cơng cụ sản xuất: rìu có lưỡi khơng cân xứng thường được gọi là rìu
lưỡi xéo bao gồm: rìu lưỡi xéo hình bàn chân gót vng và gót trịn, gót cao;
rìu hình dao xén. Rìu vai ngang vai kép như rìu đá, rìu hình chữ nhật, rìu xịe
cân hình cung, rìu xịe cân hình bán nguyệt. Lưỡi cày đồng có các kiểu sau:
Lưỡi cày hình tam giác, lưỡi cày hình quả tim, lưỡi cày hình cánh bướm, lưỡi
cày hình chân vịt.Cuốc đồng có vai hình chữ U. Ngồi ra cịn có các loại vên,
thuổng, liềm, dùi, đục, giũa, lưỡi câu, kim, đinh ba, móc, dao…
Vũ khí: Có giáo hình lá mía, hình búp đa. Lao cũng giống giáo nhưng
kích cỡ nhỏ. Dao găm có nhiều kiểu, phân biệt chủ yếu là phần cán và lá
chắn, kiểu đốc như củ hành, hình thấu kính, hình động vật, hình người, lá
chắn quặp vào như sừng trâu, lá chắn thẳng. Dao găm có nhiều kích cỡ, lớn
thường xếp vào trường kiếm, ngắn gọi là đoản kiếm. Vũ khí cịn có các loại
rìu chiến, búa chiến, mũi tên, tấm che ngực, bao chân bao tay, qua, nỏ…
Đồ dùng trong sinh hoạt: Có thạp, bình, bát, khay, đĩa, lọ, ấm, mi,
thìa, quả cân, bàn chải…
Nhạc cụ: Cư dân Đông Sơn sử dụng các loại nhạc cụ như trống đồng,
cồng chiêng, thanh la, lục lạc, khèn nhưng mới chỉ phát hiện được trống,
chuông đồng và lục lạc; nổi bật nhất là trống đồng. Trống đồng cổ ở Việt
Đào Thị Hồng Nhung
Lớp: Bảo tàng 27B
Khóa luận tốt nghiệp
23
Nam có nhiều loại, những trống đồng của văn hóa Đơng Sơn đều thuộc loại I
Heger và hiện nay các nhà khoa học đều thống nhất gọi chúng là trống đồng
Đông Sơn. Đến nay đã phát hiện được hơn 150 trống lớn và 100 trống minh
khí.Đại biểu cho trống Đong Sơn là trống đòng Ngọc Lũ.
Đồ trang sức, tượng nghệ thuật
Đồ trang sức bằng đồng đã xuất hiện từ giai đoạn trước, nhưng đến văn
hóa Đơng Sơn đồ trang sức phong phú hơn. Có thể kể đến các loại vòng ( đeo
cổ, tay, chân, tai), vật đeo, khóa thắt lưng, trâm cài, tượng trịn hình người,
động vật. Ngồi ra cịn có đồ trang sức làm bằng đá, thủy tinh…
Do tính chất của vật liệu nên các đồ trang sức bằng đồng có loại được
đúc liền, có loại được uốn, gị từ các thanh đồng, dây đồng, có loại được tết
bằng nhiều sợi đồng nhỏ, có móc hoặc khóa ở hai đầu. Mặt cắt của vịng có
thể là hình trịn, hình bầu dục, hình bán nguyệt, lịng máng, chữ V, hình tam
giác, hình chữ T. Có loại mới xuất hiện như vịng tay, vịng chân hình ống và
chúng thường được gắn đeo các nhạc đồng ( lục lạc). Các vịng tay, chân
thường được trang trí hoa văn các đường chỉ chìm, các hoa văn khắc vạch,
hoa văn hình bơng lúa, khun tai cũng vậy, có loại tiết diện trịn đơn giản, có
loại tiết diện dẹt có khe hở và bốn mấu, trang trí hoa văn các vạch song song
trên nền các hình tam giác. Ở làng Vạc có loại khun tai trịn dẹt, có khe hở
đặc biệt ở một mặt có bốn quai hình chữ U để gắn bốn nhạc đồng. Việc gắn
các nhạc đồng kèm theo đồ trang sức hình như là phổ biến, chẳng hạn người
ta gắn 2 nhạc đồng lên một vòng đồng nhỏ như chiếc nhẫn ( có người gọi là
nhẫn) và xâu chúng lại để đeo vào cổ ( di chỉ lang Vạc).
Khoá thắt lưng được cho là loại hiện vật có ảnh hưởng từ cư dân du
mục, song một trong 3 chiếc tìm thấy ở Làng Vạc có đúc nổi 8 tượng rùa. Rõ
ràng các đồ trang sức Đông Sơn mang nhiều yếu tố kế thừa từ các giai đoạn
trước ( mặt cắt chữ T, khuyên tai bốn mấu, tượng rùa).
Đào Thị Hồng Nhung
Lớp: Bảo tàng 27B
Khóa luận tốt nghiệp
24
Tượng đúc trong văn hóa Đơng Sơn không nhiều, chúng thường được
đúc liền với các vật dụng, vũ khí như trên cán dao găm, nắp thạp, cán mi,
các tượng đúc riêng rẽ nhưng ít.
Các đối tượng được thể hiện là người, chim, cóc, voi, rùa, hổ, rắn,
chó,hươu, trâu, gà, cá, ốc…Các tượng mang phong cách tả thực cuộc sống
thường nhật của con người, động vật và đôi khi nhấn mạnh ý nghĩa phồn thực
( tượng nam nữ trên nắp thạp đồng Đào Thịnh, tượng cóc cõng nhau trên mặt
trống, rắn quấn nhau trên cán dao găm làng Vạc). Những tượng trên ngồi ý
nghĩa nghệ thuật, cịn cung cấp cho chúng ta tư liệu về trang phục, sinh hoạt
vật chất và tinh thần của người Việt cổ.
Đồ sắt
Đồ sắt chủ yếu là cơng cụ và vũ khí, gồm các loại: nồi nấu đồng, cuốc,
lưỡi mai, liềm, dao, đục, rìu, kiếm, giáo, lao, dao găm…Có loại cuốc hình
dáng có vai rất giống cuốc bằng đồng, có loại hình chữ U. Giai đoạn muộn
của văn hóa Đơng Sơn có loại hiện vật được chế tạo lưỡng kim, nửa sắt, nửa
đồng như giáo lưỡi sắt chi đồng. Đồ gia dụng ít khi làm bằng sắt, nhưng
cũng có một chiếc cối sắt nhỏ ở di chỉ làng Vạc. Tuy nhiên, có lẽ do sắt là kim
loại quý buổi đầu, nên người Đông Sơn cũng chế tạo các đồ trang sức từ sắt
như vịng tay, vịng cổ, khun tai.
Đồ sắt trong văn hóa Đông Sơn không nhiều bằng đồ đồng, nhưng kỹ
thuật khai mỏ luyện quặng theo thực nghiệm thì bằng phương pháp hồn
ngun hoặc phương pháp thổi sống. Người Đơng Sơn đã biết đúc gang và
biết các phương pháp gia công chế tạo đồ sắt trong q trình rèn.
Đồ đá
Trong văn hóa Đông Sơn tuy không phải đại diện cho lực lượng sản
xuất như các thời đại trước, nhưng đồ đá vẫn cịn tồn tại. Rìu tứ giác, rìu có
Đào Thị Hồng Nhung
Lớp: Bảo tàng 27B
Khóa luận tốt nghiệp
25
vai bằng đá vẫn thường gặp. Các loại hịn kê, hịn ghè, đặc biệt là bàn mài,
khn đúc bằng đá bên cạnh khuôn đúc đất, quả cân, chày nghiền hạt là
những hiện vật đá hay gặp trong di chỉ. Xu hướng chung là vào giai đoạn văn
hóa Đông Sơn đồ đá giảm sút về số lượng và đơn giản về loại hình, tuy nhiên
đồ trang sức bằng đá vẫn được quý trọng; bằng chứng là sự tồn tại của trung
tâm chế tác đồ trang sức đá ở Đơng Lĩnh (Đơng Sơn, Thanh Hóa) với các di
chỉ xưởng như Bái Tê, Bái Khuynh, Cồn Cấu, Mả Chùa.
Đồ thủy tinh
Đây là loại nguyên liệu mới dùng trong chế tác đồ trang sức.Vào
khoảng giữa thiên nhiên kỷ I trước Công nguyên, người Đông Sơn biết chế
tạo đồ trang sức từ thủy tinh. Hiện đã phát hiện hơn 5000 đồ trang sức bằng
loại nguyên liệu này, với 3 loại hình là vòng tay, khuyên tai, hạt chuỗi. Tất cả
các đồ thủy tinh trên phần lớn đều là đồ thủy tinh nhân tạo, có một số ít là
được làm từ thủy tinh núi lửa và chúng được sản xuất tại chỗ. Mặc dù màu sắc
của chúng khá phong phú: trắng đục, xanh đen, xanh lơ, xanh lá mạ, dâu,
cam, đen, đỏ,tím…nhưng chưa có kỹ thuật phối màu, cũng như một số chiếc
cịn bọt khí bên trong.
Đồ gốm
Đồ gốm vẫn là loại di vật thu được nhiều trong các đợt khai quật. Rõ
ràng đồ gốm vẫn là vật dụng phổ biến và thường xuyên trong sinh hoạt của
người Đông Sơn. Hơn thế trong mai táng đồ gốm không chỉ là đồ tùy táng, là
quan tài mà người ta còn sử dụng các mảnh gốm vỡ để kè, lát mộ.
Về loại hình có cơng cụ sản xuất như khn đúc, nồi nấu đồng, chì
lưới, dọi xe chỉ; đồ gia dụng như chõ, bình, vị, chậu, bát, và các loại chạc
gốm, bi, tượng động vật còn chưa rõ lắm về chức năng. Những đồ gốm của
giai đoạn Đơng Sơn sớm thường ít nhiều bảo lưu phong cách gốm Gò Mun,
Đào Thị Hồng Nhung
Lớp: Bảo tàng 27B