Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Sản phẩm lưu niệm tại bảo tàng dân tộc học việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.67 MB, 110 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI
KHOA DI SẢN VĂN HÓA
----------------***----------------

PHAN VÕ DIỆU AN

SẢN PHẨM LƯU NIỆM
TẠI BẢO TÀNG DÂN TỘC HỌC VIỆT NAM

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
NGÀNH BẢO TÀNG HỌC
MÃ SỐ: 52320205

NGƯỜI HƯỚNG DẪN: PGS.TS NGUYỄN THỊ HUỆ

HÀ NỘI, NĂM 2012

1


MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................................... 5
2. Mục đích nghiên cứu ........................................................................................................ 7
3. Đối tượng nghiên cứu ....................................................................................................... 8
4. Phạm vi nghiên cứu .......................................................................................................... 8
5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................................. 8
6. Bố cục khóa luận ............................................................................................................... 8
CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO TÀNG DÂN TỘC HỌC VIỆT NAM VÀ


SẢN PHẨM LƯU NIỆM TRONG BẢO TÀNG .................................................... 10
1.1 Một số khái niệm có liên quan ................................................................................... 10
1.1.1 Khái niệm bảo tàng và quản lý bảo tàng. .......................................................... 10
1.1.2 Nhận thức về công tác giáo dục của bảo tàng. ................................................ 14
1.1.3 Khái niệm marketing trong bảo tàng .................................................................. 16
1.1.4 Sản phẩm lưu niệm trong bảo tàng ...................................................................... 18
1.1.5 Vai trò của sản phẩm lưu niệm trong bảo tàng ................................................ 19
1.2 Khái quát chung về Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam ........................................ 23
1.2.1 Quá trình hình thành và phát triển của Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam ... 23
1.2.2 Cơ cấu tổ chức của Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam ..................................... 24
1.2.3

Nội

dung

trưng

bày

thường

trực

tại

Bảo

tàng............................................22
1.2.4 Công tác giáo dục tuyên truyền của Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam ....... 28

CHƯƠNG II
CÁC LOẠI SẢN PHẨM LƯU NIỆM TẠI BẢO TÀNG DÂN TỘC HỌC
VIỆT NAM ........................................................................................................................... 30
2.1 Tầm quan trọng của sản phẩm lưu niệm tại Bảo tàng Dân tộc học Việt
Nam……………………………………………………………………………30

2


2.2 Công tác tổ chức, quản lý các cửa hàng lưu niệm tại Bảo tàng Dân tộc học
Việt Nam ................................................................................................................................ 34
2.2.1 Cửa hàng lưu niệm của Bảo tàng .......................................................................... 35
2.2.2 Cửa hàng lưu niệm của công ty tư nhân tại bảo tàng ...................................... 36
2.3 Đặc điểm các loại sản phẩm lưu niệm tại Bảo tàng Dân tộc hoc Việt Nam .. 37
2.3.1 Nguồn gốc, xuất xứ của sản phẩm lưu niệm ....................................................... 37
2.3.2 Các loại hình sản phẩm lưu niệm .......................................................................... 40
2.3.3 Thiết kế, chất liệu, đóng gói sản phẩm lưu niệm ............................................... 42
2.3.4 Chất lượng, giá cả của sản phẩm lưu niệm ........................................................ 45
2.3.5 Đối tượng khách tham quan tiêu thụ sản phẩm lưu niệm của Bảo tàng ..... 51
2.3.6 Bản quyền sản phẩm lưu niệm tại Bảo tàng ....................................................... 52
2.3.7 Marketing sản phẩm lưu niệm ................................................................................ 53
2.4 Giá trị của sản phẩm lưu niệm tại Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam ................ 58
2.4.1 Giá trị văn hóa ........................................................................................................... 58
2.4.2 Giá trị giáo dục .......................................................................................................... 61
2.4.3 Giá trị sử dụng ........................................................................................................... 63
2.4.4 Giá trị thẩm mỹ .......................................................................................................... 64
2.4.5 Giá trị lưu niệm .......................................................................................................... 65
2.5 Kết quả điều tra xã hội học ......................................................................................... 67
CHƯƠNG III
CÁC GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN SẢN PHẨM LƯU NIỆM TẠI

BẢO TÀNG DÂN TỘC HỌC VIỆT NAM .............................................................. 69
3.1 Một số ý kiến nhận xét, đánh giá về sản phẩm lưu niệm tại Bảo tàng Dân
tộc học Việt Nam ................................................................................................................. 69
3.1.1 Ưu điểm ........................................................................................................................ 69
3.1.2 Hạn chế ........................................................................................................................ 71
3.2 Giải pháp nhằm phát triển các sản phẩm lưu niệm tại Bảo tàng Dân tộc
học Việt Nam ........................................................................................................................ 73
3.2.1 Tăng cường công tác tổ chức, quản lý các cửa hàng lưu niệm tại Bảo tàng. . 73
3.2.2 Phát triển đa dạng hóa các loại hình sản phẩm lưu niệm tại Bảo tàng. ..... 76

3


3.2.3 Nâng cao chất lượng sản phẩm lưu niệm tại Bảo tàng.................................... 80
3.2.4 Nâng cao chất lượng phục vụ trong cửa hàng lưu niệm tại Bảo tàng. ........ 82
3.2.5 Nâng cao chất lượng cơ sở vật chất cho cửa hàng lưu niệm tại Bảo tàng . 83
3.2.6 Mở rộng chiến lược marketing sản phẩm lưu niệm .......................................... 84
KẾT LUẬN .......................................................................................................................... 91
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

4


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay, công chúng đến với bảo tàng, ngồi mục đích nghiên cứu,
tìm hiểu lịch sử, văn học và nghệ thuật họ cịn có nhu cầu khám phá, gặp gỡ,
thư giãn, vui chơi giải trí, mua sắm hàng lưu niệm… đây đều là những nhu
cầu thiết yếu và chính đáng. Vì thế trong quan niệm về bảo tàng hiện đại, các

chức năng của bảo tàng cũng cần được bổ sung nhiều vai trò mới, cung cấp
các hoạt động dịch vụ phục vụ khách tham quan. Nhiều nước trên thế giới,
các hoạt động dịch vụ tại bảo tàng rất phổ biến, đặc biệt là nhiều nước phát
triển như Mỹ, Pháp, Anh, Hà Lan… hay những quốc gia trong khu vực như
Trung Quốc, Singapo, Thái Lan…Các hoạt động dịch vụ trong bảo tàng nói
chung và sản phẩm lưu niệm trong bảo tàng nói riêng đã mang lại những hiệu
quả thiết thực, góp phần khơng nhỏ trong việc phát huy tác dụng và duy trì
đối với các bảo tàng đồng thời tạo ra những nguồn thu chính đáng. Ở Việt
Nam, bảo tàng được biết đến là một thiết chế văn hóa hoạt động theo nguyên
tắc phi lợi nhuận, nhưng khơng thể vì ngun tắc phi lợi nhuận mà không
thực hiện các hoạt động dịch vụ. Ở đây chúng ta thấy yếu tố văn hóa và yếu tố
kinh tế đan xen nhau vì yếu tố văn hóa là mục tiêu, bản chất hoạt động của
bảo tàng còn yếu tố kinh tế là công cụ, phương tiện để hỗ trợ các mục tiêu văn
hóa của bảo tàng và nhu cầu của con người khi đến với bảo tàng.
Trong Luật Di sản văn hóa được sửa đổi và bổ sung năm 2009 ở điều
48 đã bổ sung khoản 7, quy định nhiệm vụ của bảo tàng trong đó có nhiệm vụ
“Tổ chức hoạt động dịch vụ phục vụ khách tham quan phù hợp với nhiệm vụ
của bảo tàng”. Tại điều 12 trong thông tư số 18/2010/TT – BVHTT - DL
“Quy định về tổ chức và hoạt động của bảo tàng” cũng đã quy định rõ về nội
dung và yêu cầu về hoạt động dịch vụ của bảo tàng như sau “Tổ chức phát
triển sản phẩm lưu niệm, xuất bản ấn phẩm của bảo tàng”.

5


Bảo tàng ở nhiều nước trên thế giới đều có cửa hàng “Museum shop”
(cửa hàng bảo tàng) bán đồ lưu niệm cho khách tham quan, ở Việt Nam cửa
hàng loại này gọi là Souvenir shop (cửa hàng lưu niệm). Đây là cách thức phổ
biến nhất trong hoạt động dịch vụ ở các bảo tàng nước ngoài. Trong những
năm gần đây, bảo tàng ở một số nước như: Trung Quốc, Thái Lan, Mỹ, Anh,

Pháp…khơng bảo tàng nào khơng có cửa hàng này, thậm chí, một số bảo tàng
lớn có hai, ba cửa hàng như vậy, tạo điều kiện thuận lợi phục vụ khách tham
quan. Họ quan niệm cửa hàng lưu niệm không chỉ là nơi các tổ chức hoặc cá
nhân thuê mặt bằng để kinh doanh mà còn là nơi để bảo tàng giới thiệu các
“mặt hàng” có liên quan đến các hiện vật bảo tàng hay đề tài trong hệ thống
trưng bày của bảo tàng. Đồng thời, các cửa hàng của bảo tàng cho dù nhỏ
cũng là một phần quan trọng trong sự cảm nghiệm về chuyến tham quan của
khách và là một một điểm để bảo tàng tiếp xúc với khách tham quan. Việc
bán hàng tại cửa hàng trên ở bảo tàng cịn góp phần hỗ trợ một nguồn tài
chính quan trọng cho bảo tàng.
Là một bảo tàng quốc gia với nội dung trưng bày hết sức phong phú và
hấp dẫn, trong một khơng cửa rộng rãi hiếm có giữa lịng thủ đơ, Bảo tàng
Dân tộc học Việt Nam là một điểm đến thường xuyên của cả du khách trong
và ngoài nước. Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam không chỉ là không gian riêng
cho những nhà khoa học, những người đến để nghiên cứu hoặc đến tham quan
học tập mà đây còn là nơi giao lưu, gặp gỡ, giải trí có mục đích và hiệu quả
cao đối với nhiều người dân Việt Nam và du khách quốc tế. Cơng chúng đến
với bảo tàng ngồi mục đích tìm hiểu, học hỏi cịn để thư giãn và trải nghiệm.
Vì vậy ngồi nội dung trưng bày và khơng gian thu hút cơng chúng thì Bảo
tàng cịn cần thiết phải tổ chức các hoạt động dịch vụ để đáp ứng nhu cầu của
khách tham quan mà trong đó mua sắm tại một cửa hàng lưu niệm là một
phần trải nghiệm độc đáo tại bảo tàng. Hiện nay, Bảo tàng Dân tộc học Việt

6


Nam đang từng bước hoàn thiện, phát triển các sản phẩm lưu niệm có tại bảo
tàng để đáp ứng hơn nữa nhu cầu của khách tham quan đến với Bảo tàng.
Làm thế nào để tổ chức phát triển các sản phẩm lưu niệm của bảo tàng
trở thành một hoạt động đúng hướng, có những sản phẩm lưu niệm phản ánh

được nội dung giá trị của hiện vật bảo tàng và các sưu tập hiện vật trong hệ
thống trưng bày của bảo tàng, đảm bảo chất lượng và phù hợp với nhu cầu
của khách tham quan cũng đang là một vấn đề mà bảo tàng quan tâm trong
thời điểm hiện nay. Bên cạnh đó cơng tác quản lý và tổ chức các hoạt động
liên quan tới sản phẩm lưu niệm cũng đặt ra yêu cầu cấp bách cho việc thực
hiện chức năng giáo dục, đảm bảo nhu cầu của khách tham quan và tạo nguồn
lực tài chính cho bảo tàng hiện nay.
Xuất phát từ việc tiếp cận về mặt cơ sở lý luận bảo tàng học mới và
thực tiễn của việc tổ chức quản lý các cửa hàng lưu niệm tại Bảo tàng dân tộc
học Việt Nam, em chọn đề tài “ Sản phẩm lưu niệm tại bảo tàng Dân tộc
học Việt Nam” làm nội dung nghiên cứu cho Khóa luận tốt nghiệp chuyên
ngành Bảo tàng.
2. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu nội dung lý luận về sản phẩm lưu niệm và sản phẩm lưu
niệm tại bảo tàng và cứu vai trò, ý nghĩa của sản phẩm lưu niệm tại Bảo tàng
Dân tộc học Việt Nam.
- Nghiên cứu thực trạng các loại hình sản phẩm lưu niệm được kinh
doanh tại Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam và công tác quản lý các cửa hàng
lưu niệm tại Bảo tàng.
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm lưu niệm
của Bảo tàng và công tác tổ chức quản lý các sản phẩm lưu niệm tại Bảo tàng
Dân tộc học Việt Nam.

7


3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là sản phẩm lưu niệm tại Bảo tàng
Dân tộc học Việt Nam và những hoạt động kinh doanh sản phẩm lưu niệm tại
Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam.

4. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu các cửa hàng kinh doanh sản phẩm lưu niệm của Bảo tàng
Dân tộc học Việt Nam và các cơng ty tư nhân có tại Bảo tàng Dân tộc học
Việt Nam do Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam quản lý.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Vận dụng phương pháp luận khoa học chủ nghĩa Mác – Lênin; Tư
tưởng Hồ Chí Minh về Văn hóa, Dân tộc và Bảo tàng.
- Sử dụng phương pháp khảo sát các cửa hàng lưu niệm của Bảo tàng
Dân tộc học Việt Nam.
- Dựa vào một số tài liệu và nghiên cứu các kênh thông tin của Bảo
tàng Dân tộc học và một số bảo tàng khác để tham khảo, bổ sung cho khóa
luận.
- Sử dụng một số phương pháp nghiên cứu của các bộ mơn khoa học có
liên quan, cần thiết cho quá trình triển khai đề tài: Bảo tàng học, Dân tộc học,
Văn hóa học, Khoa học quản lý, Xã hội học, Kinh tế học…
- Sử dụng phương pháp phân tích, đánh giá và tổng hợp các thơng tin
phục vụ cho đề tài khóa luận tốt nghiệp.
6. Bố cục khóa luận
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, khóa
luận được chia làm 3 chương:

Chương 1: Khái quát chung về Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam và
sản phẩm lưu niệm trong bảo tàng

8


Chương 2: Các loại sản phẩm lưu niệm tại Bảo tàng Dân tộc học
Việt Nam
Chương 3: Các giải pháp nhằm phát triển sản phẩm lưu niệm tại

Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam
Để hồn thành được khóa luận tốt nghiệp, bản thân em đã cố gắng
nỗ lực thực hiện hết sức mình, tuy nhiên khơng thể thiếu sự hướng dẫn
và hỗ trợ của các thầy cô giáo và các cô chú cán bộ Bảo tàng Dân tộc
học Việt Nam.
Trước hết em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của mình đến PGS.
TS Nguyễn Thị Huệ đã ln quan tâm hướng dẫn em một cách tận tình
trong suốt quá trình thực hiện khóa luận.
Em cũng xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Bảo
tồn Bảo tàng đã cho em những kiến thức quý báu trong suốt thời gian em
học tập tại trường. Đồng thời em cũng gửi lời cảm ơn đến TS.Bùi Ngọc
Quang – Trưởng phòng hành chính tổng hợp Bảo tàng Dân tộc học Việt
Nam đã nhiệt tình giúp đỡ và cung cấp tài liệu giúp em thực hiện khóa
luận một cách tốt nhất. Cuối cùng em xin được gửi lời cảm ơn đến gia
đình, người thân và bạn bè đã ủng hộ em rất nhiều trong q trình em
thực hiện đề tài của mình.
Là cơng trình khoa học đầu tay nên khóa luận khơng tránh khỏi
những sai sót. Em kính mong nhận được sự góp ý của các thầy cơ giáo
để khóa luận của mình được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

9


CHƯƠNG I

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO TÀNG DÂN TỘC HỌC
VIỆT NAM VÀ SẢN PHẨM LƯU NIỆM
TRONG BẢO TÀNG
1.1 Một số khái niệm có liên quan

1.1.1 Khái niệm bảo tàng và quản lý bảo tàng.
* Khái niệm bảo tàng
Bảo tàng là một thiết chế văn hóa – giáo dục đặc biệt. Bảo tàng ra đời
không phải là hoạt động ngẫu nhiên hay do ý muốn chủ quan của những cá
nhân trong xã hội. Bảo tàng chỉ xuất hiện khi sự phát triển kinh tế, văn hóa
đạt đến một trình độ nhất định của lịch sử nhân loại, khi mà xã hội đã có sự
phân chia giai cấp và nhà nước hình thành. Với lịch sử lâu đời như vậy, các
bảo tàng là những ngôi nhà cất giữ những báu vật của lồi người. Nó lưu giữ
ký ức của các dân tộc, của các nền văn hóa, những ước mơ và hy vọng của
con người trên khắp thế giới.
Ở mỗi quốc gia cùng với sự phát triển thực tiễn của ngành bảo tàng học
đã nghiên cứu tìm hiểu và làm rõ khái niệm bảo tàng cùng nội dung, bản chất
của nó. Cơng việc nghiên cứu này đã thu hút, lôi cuốn không chỉ các nhà bảo
tàng học ở khắp các quốc gia trên thế giới mà còn thu hút rất nhiều các nhà
khoa học ở các lĩnh vực khoa học khác có liên quan. Cho đến nay, kết quả
nghiên cứu đã được thể hiện trong rất nhiều cơng trình nghiên cứu và tạp chí
về bảo tàng. Và mỗi quốc gia đều đưa ra những khái niệm riêng về bảo tàng
thông qua sự phát triển thực tiễn của ngành bảo tàng học của quốc gia đó.
Với cách tiếp cận mới về bảo tàng học, các nhà bảo tàng học ở Cộng
hòa Liên bang Nga đã đưa ra khái niệm như sau: “Bảo tàng là thể chế đa
chức năng được hình thành một cách lịch sử của ký ức xã hội, nhờ đó thực
hiện được nhu cầu xã hội về tuyển chọn, bảo quản và miêu tả nhóm đặc biệt

10


các đối tượng văn hóa và tự nhiên, được xã hội công nhận là một giá trị được
kế truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác”1
Theo định nghĩa mới nhất về bảo tàng của ICOM được thông qua trong
kỳ họp thứ 20 tại Seoul (Hàn Quốc) tháng 10 năm 2004 như sau: “Bảo tàng

là một thiết chế phi lợi nhuận, hoạt động thường xun, mở cửa đón cơng
chúng đến xem, phục vụ cho xã hội và sự phát triển của xã hội. Bảo tàng sưu
tầm, bảo quản, nghiên cứu, thông tin và trưng bày các bằng chứng vật thể và
phi vật thể về con người và môi trường của con người vì mục đích nghiên
cứu, giáo dục và thưởng thức”2
Đây là một khái niệm chuẩn về bảo tàng của ICOM đã phản ánh được
đối tượng của bảo tàng bao hàm cả di sản vật thể và phi vật thể về con người
và môi trường, bổ sung về chức năng mới cho bảo tàng đó là phục vụ cơng
chúng, phục vụ cho xã hội và sự phát triển của xã hội khơng lấy lợi nhuận làm
mục đích, bảo tàng phải thực hiện chức năng nghiên cứu giáo dục và thưởng
thức của công chúng.
Ở Việt Nam, nhiều năm trước đây chủ yếu vận dụng khái niệm bảo
tàng và bảo tàng học của Liên xô (Cũ) và các nước Đông Âu vào thực tiễn sự
nghiệp bảo tàng. Cho đến nay, khái niệm về bảo tàng ở nước ta lần đầu tiên
được khẳng định và ghi trong Luật Di sản văn hóa như sau: “Bảo tàng là thiết
chế văn hóa có chức năng sưu tầm, bảo quản, nghiên cứu, trưng bày, giới
thiệu di sản văn hóa, bằng chứng vật chất về thiên nhiên, con người và môi
trường sống của con người nhằm phục vụ nhu cầu nghiên cứu, học tập, thăm
quan và hưởng thụ văn hóa của cơng chúng”3
Tuy có nhiều định nghĩa khác nhau nhưng các nhà bảo tàng học đều
khẳng định:

1 +2

Nguyễn Thị Huệ (chủ biên). Cơ sở bảo tàng học. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. Hà Nôi,
2010,tr.108+110

3

Luật di sản văn hóa được sửa đổi, bổ sung năm 2009. NXB CTQG. Hà Nội, 2009


11


Bảo tàng là một thiết chế văn hóa đặc thù, một cơ quan văn hóa, khoa
học và giáo dục.
Đối tượng nghiên cứu, giới thiệu của bảo tàng là những di sản văn hóa
vật thể và phi vật thể, các mẫu vật tự nhiên cùng môi trường tồn tại xung
quanh con người.
Các hoạt động của bảo tàng là nghiên cứu, sưu tầm, thu thập, bảo quản,
gìn giữ và trưng bày giới thiệu các sưu tập hiện vật về lịch sử xã hội, tự nhiên
cho công chúng.
Ngày nay, trong xu thế nhập hội nhập và phát triển đã và đang diễn ra
sự phát triển mạnh mẽ của tri thức khoa học, bảo tàng ngày càng khẳng định
được vị thế của mình trong sự phát triển xã hội. Bảo tàng phải là một thiết chế
phi lợi nhuận, bao giờ cũng lấy mục tiêu phục vụ lợi ích cơng chúng là chính
dù rằng bảo tàng vẫn cung cấp các loại dịch vụ mà người tiêu dùng có nhu
cầu sẽ mua bằng tiền.
Khái niệm hiện nay về bảo tàng có phần được mở rộng và đa dạng hơn.
Thông thường, bảo tàng được hiểu theo nghĩa truyền thống là một cơ
quan, thiết chế văn hóa đặc thù gồm 4 không gian: Không gian trưng bày
trong và ngồi bảo tàng; Khơng gian bảo quản và xử lý hiện vật; Không gian
dành cho các thiết bị kỹ thuật; Không gian dành cho cán bộ chuyên môn và
cán bộ hành chính làm việc. Đến nay, nhận thức mới về bảo tàng đã được bổ
sung, ngồi 4 khơng gian truyền thống trên bảo tàng cịn phải có khơng gian
dành cho các loại hình dịch vụ phục vụ khách tham quan như không gian bán
các sản phẩm lưu niệm, không gian dành cho các dịch vụ ăn uống giải khát
hay vui chơi giải trí…; Khơng gian dành cho các hoạt động tự thân, hoạt động
giao tiếp, trình diễn và sáng tạo các giá trị văn hóa mới; Khơng gian dành cho
tuổi trẻ học đường, dành cho người khuyết tật…

Đây cũng chính là những yêu cầu mới đối với các bảo tàng hiện đại.

12


* Khái niệm quản lý bảo tàng
Không chỉ riêng bảo tàng mà bất kỳ một cơ quan tổ chức nào thì cơng
tác quản lý cũng là một cơng tác quan trọng hàng đầu, cho dù có một nguồn
nhân sự dồi dào ưu việt, tài sản và nguồn tài chính lớn mà cơng tác quản lý
thực hiện khơng tốt thì cơ quan tổ chức đó chắc chắn sẽ thất bại. Vì thế mà
quản lý bảo tàng là vấn đề trọng yếu trong sự nghiệp của bảo tàng. Quản lý
bảo tàng có trình độ tốt, xấu sẽ quyết định đến tương lại phát triển của bảo
tàng. Một bảo tàng có khoa học quản lý tốt sẽ tạo điều kiện cho các nguồn lực
trong bảo tàng phát triển. Vì thế quản lý là khoa học hữu hiệu để phát triển sự
nghiệp bảo tàng. Xa rời quản lý thì những chức năng cơ bản của bảo tàng khó
mà thực hiện được.
Quản lý học là một bộ môn khoa học nghiên cứu lý luận hoạt động
quản lý, phương pháp và quy chế quản lý. Vì xã hội là hệ thống các bộ phận,
muốn hiệu suất tối cao, tất nhiên phải nghiên cứu quản lý học. Bảo tàng cũng
khơng nằm ngồi hệ thống đó. Bảo tàng học chủ yếu vận dụng tri thức và lý
luận của quản lý học để nghiên cứu thể chế quản lý bảo tàng, cơ cấu tổ chức,
các phương thức tổ chức hoạt động của nhân viên, nghiên cứu mục tiêu quản
lý bảo tàng, quá trình quản lý, nguyên tắc và phương pháp quản lý bảo tàng.
Từ lý luận của khoa học quản lý và chức năng của bảo tàng, chúng ta
có thể hiểu công tác quản lý bảo tàng như sau:
Theo nghĩa rộng: “Quản lý bảo tàng là sự tác động bằng thể chế và tổ
chức nhằm bảo vệ, bảo quản các di sản văn hóa vật thể, các bộ sưu tập của
các sở hữu khác nhau và phát huy các di sản ấy phục vụ giáo dưỡng và
nghiên cứu công chúng.”1
Theo nghĩa hẹp: “Quản lý bảo tàng là sự tác động tới sự chăm sóc bảo

quản các hiện vật trong bảo tàng và sử dụng chúng trong việc giáo dục khoa
học và phục vụ nghiên cứu.”2

1+2

Nguyễn Thịnh. Quản lý bảo tàng. Trường Đại học Văn hóa Hà Nội. Hà Nội, 2004,tr.38

13


Trong phạm vi hoạt động của một bảo tàng cụ thể, công tác quản lý tạo
nền tảng và là “xương sống” xuyên suốt trong các hoạt động của bảo tàng,
giúp cho bảo tàng hoạt động một cách có hiệu quả, phù hợp và gắn bó với xã
hội.
Tại điều 12 trong thông tư số 18/2010/TT – BVHTTDL Quy định về tổ
chức và hoạt động của bảo tàng cũng đã quy định rõ về nội dung và yêu cầu
về hoạt động dịch vụ của bảo tàng, trong đó có nội dung “Tổ chức phát triển
sản phấm lưu niệm, xuất bản ấn phẩm của bảo tàng” bảo tàng cịn có thêm
nhiệm vụ và chức năng tổ chức và phát triển các cửa hàng lưu niệm trong bảo
tàng. Đối với việc tổ chức phát triển sản phẩm lưu niệm, xuất bản ấn phẩm
của bảo tàng, quản lý là công tác cần thiết vừa để xác định vị trí, vừa để điều
chỉnh mối quan hệ với các bộ phận khác, chức năng khác của bảo tàng.
1.1.2 Nhận thức về công tác giáo dục của bảo tàng.
Bảo tàng là cơ quan giáo dục cộng cộng, là nơi lưu giữ những ký ức
của các dân tộc, các nền văn hóa. Là cơ quan văn hóa – giáo dục thực hiện
chức năng giáo dục, tuyền truyền, bảo tàng đã, đang và sẽ góp phần nâng cao
dân trí, tăng cường sự hiểu biết, khơi dậy niềm tự hào về truyền thống u
nước, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và xây dựng đất nước giàu đẹp. Cùng
với nhà văn hóa, câu lạc bộ, thư viện, rạp hát, chiếu phim và các khu vui chơi
giải trí khác, bảo tàng thuộc hệ thống văn hóa giáo dục ngồi nhà trường có

chức năng, nhiệm vụ giáo dục tuyên truyền góp phần hoàn thiện nhân cách
con người.
Lúc sinh thời V.I.Lênin đã chỉ rõ: “Bảo tàng phải thực hiện chức năng
của nhà nước là giáo dục”. Cũng như mọi cơ quan giáo dục khác, bảo tàng
phải làm công tác giáo dục tuyên truyền với những nội dung, hình thức riêng
và đặc điểm riêng của mình.

14


Luật Di sản văn hóa của nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
cũng đã khẳng định vai trò, chức năng giáo dục của bảo tàng trong đời sống
xã hội, đồng thời khẳng định nhiệm vụ của bảo tàng “phải tổ chức phát huy
giá trị di sản văn hóa phục vụ lợi ích của xã hội”.
Chức năng giáo dục của bảo tàng là một trong những chức năng cơ bản
quan trọng, thơng qua các hình thức hoạt động của mình để chuyển giao có
mục đích rõ ràng các thơng tin, những tri thức khoa học, lịch sử, văn hóa giúp
cho việc hình thành thế giới quan, giáo dục tư tưởng đạo đức, thẩm mỹ cho
con người phát triển toàn diện.
Ở nước ta, mỗi bảo tàng đều có những nội dung hoạt động và đặc trưng
riêng tùy vào từng loại hình bảo tàng, vì thế mà có nhiều ý kiến khác nhau
xoay quanh công tác giáo dục của bảo tàng như sau:
Đối với các bảo tàng thuộc lực lượng vũ trang thì: “Cơng tác tun
truyền giáo dục của bảo tàng là một bộ phận quan trọng nhất của sự giao tiếp
bảo tàng, kế thừa và phát huy tất cả các mặt, nhiệm vụ đến với công chúng
trong nước và quốc tế, góp phần giáo dục về mặt tư tưởng, thẩm mỹ, đạo đức,
củng cố những thông tin nhận thức về con người.”1
Nhà bảo tàng học người Pháp Yvan Mathevat khẳng định: “Cơng tác
tun truyền phổ biến văn hóa vừa là con đường tiếp cận với sưu tập, vừa là
việc xây dựng các sách lược giáo dục và văn hóa của bảo tàng có vai trị

trung gian văn hóa giữa cơng chúng với các hoạt động của bảo tàng.”2
Tuy có nhiều định nghĩa khác nhau nhưng đều khẳng định:
- Công tác giáo dục là khâu công tác nghiệp vụ cuối cùng trong chu trình
hoạt động nghiệp vụ của bảo tàng.

1+2

Trích từ bải giảng môn “Công tác giáo dục của bảo tàng” của Th.s Phạm Thu Hằng

15


- Cơng tác giáo dục thực hiện các hình thức tiếp cận với cơng chúng là
mục đích cao nhất.
- Cơng tác giáo dục có mối quan hệ chặt chẽ gắn bó, kế thừa và phát huy
kết quả của các khâu cơng tác nghiệp vụ khác. Bản thân có một vị trí hết sức
quan trọng trong bảo tàng
- Cơng tác giáo dục của bảo tàng lấy tư liêu hiện vật gốc có giá trị lịch sử
văn hóa khoa học được tổ chức trưng bày làm phương tiện và thơng qua hình
thức tiếp cận để chuyển giao có mục đích những tri thức, đạo đức, khoa học,
thẩm mỹ cho công chúng.
Ngày nay, công tác giáo dục của bảo tàng không chỉ thể hiện thơng qua
hình thức tham quan trải nghiệm mà cịn tổ chức phát triển các sản phẩm lưu
niệm, xuất bản ấn phẩm cũng là một hoạt động quan trọng trong chuỗi hoạt
động của bảo tàng. Thông qua sản phẩm lưu niệm là cách học tập trực quan
nhất và sinh động nhất để khách tham quan có thể nhớ và cảm nhận được
những gì đã trải qua trong chuyến thăm quan bảo tàng của họ. Đối với chức
năng giáo dục bảo tàng, sản phẩm lưu niệm là “sự kéo dài” của hiệu quả giáo
dục sau tham quan.


1.1.3 Khái niệm marketing trong bảo tàng
Tiếp thị - marketing là một thuật ngữ hiện đại, xuất hiện trong điều kiện
cơ chế thị trường và cách mạng thơng tin. Cho đến nay có nhiều sách, nhiều
quan điểm nói về tiếp thị, nhưng một lý luận riêng về tiếp thị bảo tàng thì vẫn
chưa được làm sáng tỏ, ít nhất là ở Việt Nam. Một định nghĩa được thừa nhận
rộng rãi là: Tiếp thị là các hoạt động nắm bắt nhu cầu thị trường để xác lập
các biện pháp nhằm thỏa mãn tối đa các nhu cầu đó, qua đó mang lại lợi
nhuận tối đa cho doanh nghiệp. Từ đó cũng có thể hiểu: “Marketing bảo tàng
là các hoạt động nhằm nắm bắt nhu cầu khách tham quan để xác lập các biện

16


pháp nhằm thỏa mãn tối đa nhu cầu đó, qua đó thực hiện một cách tốt nhất
mục đích cơ bản của bảo tàng”.1
Từ định nghĩa này ta hiểu tiếp thị bảo tàng có những nội dung cần phải
quan tâm như sau:
Một là phân tích nhu cầu khách tham quan tiềm năng, những điều kiện
kinh tế, văn hóa, xã hội của từng nhóm khách để có chiến lược và chiến thuật
khác nhau. Nghĩa là xã hội có nhu cầu, sở thích gì mà bảo tàng có thể đáp
ứng.
Hai là có chiến lược phù hợp và thích ứng của bảo tàng để đáp ứng nhu
cầu của khách tham quan bằng nội dung chun mơn, các dịch vụ và chính
sách ưu tiên. Tức là bảo tàng phải có sản phẩm gì để đáp ứng và nâng cao nhu
cầu người sử dụng. Chiến lược thu hút khách tham quan là nhiệm vụ sống còn
của bảo tàng. Vì vậy tiếp thị bảo tàng phải là một quá trình liên tục năng động
và linh hoạt.
Ba là quá trình tiếp thị là quá trình nghiên cứu và phân tích nhu cầu
khách tham quan, nghiên cứu, phân tích và chiếm lĩnh thị trường thị phần,
nghiên cứu hành vi khách tham quan và truyền thông, quảng bá bảo tàng.

Như vậy marketing – tiếp thị bảo tàng là sự tác động cân bằng 4 yếu tố:
sản phẩm, giá cá, địa điểm và truyền thông quảng bá.
Tổ chức phát triển sản phẩm lưu niệm, xuất bản ấn phẩm của bảo tàng
nằm trong chuỗi hoạt động của bảo tàng và dĩ nhiên cũng khơng nằm ngồi
nội dung quản lý của bảo tàng. Vì vậy, sản phẩm lưu niệm cũng chính là một
trong những yếu tố hình thành nên thương hiệu của bảo tàng, do đó chiến
lược trong marketing của bảo tàng cũng là một phần quan trọng cần phải
thông qua các sản phẩm lưu niệm, ấn phẩm của bảo tàng.

1

Nguyễn Thịnh. Quản lý bảo tàng. Trường Đại học Văn hóa Hà Nội. Hà Nội, 2004,tr.129

17


1.1.4 Sản phẩm lưu niệm trong bảo tàng
Theo từ điển bách khoa tồn thư Việt Nam thì “Sản phẩm là kết quả
của các hoạt động hoặc các quá trình. Sản phẩm bao gồm dịch vụ, phần
cứng, vật liệu đã chế biến, phần mềm hoặc tổ hợp của chúng. Sản phẩm có
thể là vật chất (vd, các bộ phận lắp ghép hoặc vật liệu đã chế biến), hoặc phi
vật chất (vd, thông tin, khái niệm hoặc tổ hợp của chúng). Sản phẩm có thể
được làm ra có chủ định (vd, để dành cho khách hàng), hoặc khơng có chủ
định (vd, chất ô nhiễm hoặc kết quả không mong muốn)”1.
Từ khái niệm về “sản phẩm” nêu trên có thể thấy rằng, sản phẩm của
bảo tàng khác những sản phẩm thông thường khác vì mang tính tổng hợp thể
hiện ở việc kết hợp những yếu tố nhằm thỏa mãn nhu cầu của khách tham
quan, bao gồm cả sản phẩm vật chất và phi vật chất. Vì vậy có thể hiểu “Sản
phẩm bảo tàng là toàn bộ những tạo phẩm đã được đầu tư, chế tạo ra sản
phẩm cuối cùng có giá trị sử dụng và chất lượng cao, thỏa mãn được nhu cầu

đa dạng của khách tham quan”2
Qua quá trình nghiên cứu về các tài liệu, các cơng trình của các nhà
nghiên cứu đi trước và quá trình tự nghiên cứu tìm hiểu về sản phẩm lưu niệm
trong các bảo tàng có thể nhận thức được khái niệm về sản phẩm lưu niệm
trong bảo tàng như sau: “Sản phẩm lưu niệm trong bảo tàng là tồn bộ những
tạo phẩm có tính chất lưu niệm đã được đầu tư, chế tạo (bởi bảo tàng hoặc
các công ty kinh doanh sản phẩm lưu niệm) ra sản phẩm cuối cùng có giá trị
sử dụng và chất lượng cao”. Sản phẩm lưu niệm của bảo tàng là sản phẩm
mang những nội dung văn hóa mà bảo tàng muốn truyền tải tới du khách đến
tham quan bảo tàng, ngồi ra sản phẩm lưu niệm của bảo tàng cịn tạo ra được
thương hiệu riêng cho bảo tàng ấy.

1
2

Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam. NXB Từ điển bách khoa, 2003, tr.723
Nguyễn Thịnh. Quản lý bảo tàng. Trường Đại học Văn hóa Hà Nội. Hà Nội, 2004,tr.138

18


Hiện nay sản phẩm lưu niệm trong bảo tàng được chia thành 3 loại
chính đó là:
1. Loại ấn phẩm: bao gồm các ấn phẩm mang tính học thuật và loại có
tính tun truyền, cụ thể là loại học thuật bao gồm những sách báo nghiên cứu
về học thuật của bảo tàng, các tài liệu học thuật có liên quan đến các bảo tàng
như cơng trình nghiên cứu của bảo tàng…Và các bưu thiếp, sách ảnh, sách
bảo tàng bỏ túi, catalog và hình ảnh sưu tập hiện vật bảo tàng
2. Loại hình băng đĩa gồm có đĩa CD, đĩa VCD, băng video, băng
audio…

3. Loại hình sản phẩm lưu niệm gồm có các hiện vật phục chế từ mẫu
nguyên gốc có giá trị độc đáo và tiêu biểu của bảo tàng; Các tác phẩm nghệ
thuật và các tác phẩm thư pháp…; Sản phẩm thủ công mỹ nghệ như các bức
chạm khắc gỗ, đá, khảm trai, các sản phẩm từ gốm, sứ, thổ cẩm…; Sản phầm
là hàng dệt may như quần áo, khăn, mũ, túi xách…; Và đồ chơi trẻ em, dụng
cụ văn phòng…
Các sản phẩm lưu niệm bán tại các cửa hàng lưu niệm trong bảo tàng
phải gắn với nội dung chủ đạo của bảo tàng, đặc biệt là các phần trưng bày
thường trực của bảo tàng, sản phẩm lưu niệm phải có chất lượng và thích ứng
với các nhu cầu khác nhau của khách khách tham quan và giá cả phải phù hợp
với túi tiền của họ. Ngoài ra, bảo tàng và các công ty kinh doanh sản phẩm
lưu niệm thông qua các sản phẩm lưu niệm mà tuyền truyền, giáo dục và tạo
ra thương hiệu cho bảo tàng cũng như cơng ty đó.

1.1.5 Vai trị của sản phẩm lưu niệm trong bảo tàng
Mỗi loại hình dịch vụ tại bảo tàng đều có vai trị nhất định trong sự
phát triển của bảo tàng đó. Tổ chức phát triển sản phẩm lưu niệm cùng với
xuất bản ấn phẩm của bảo tàng là một hoạt động dịch vụ làm cho bảo tàng trở

19


nên hấp dẫn hơn, thu hút được nhiều khách tham quan hơn. Vì vậy, việc xác
định được vai trị của hoạt động này tại bảo tàng có ý nghĩa rất quan trọng vì
đó là phương hương phát triển của một bảo tàng hiện đại.
Trước đây, trong thời kỳ bao cấp, các bảo tàng chưa nghĩ đến việc “ tự
nuôi sống mình”. Sự bao cấp này dẫn đến tình trạng trì trệ trong các bảo tàng,
làm mất đi tính năng động trong các bảo tàng. Giờ đây, các bảo tàng khơng
cịn đứng ngoài quy luật linh tế thị trường nữa. Bảo tàng khơng thể coi nhẹ
đối tượng phục vụ của mình mà phải vận động, lôi kéo công chúng đến với

bảo tàng bởi vì chính họ mang lại nguồn thu quan trọng cho bảo tàng để nâng
cao chất lượng các hoạt động nghiệp vụ cũng như tăng thu nhập cho cán bộ
công nhân viên bảo tàng – động lực cho sự nỗ lực làm việc của cán bộ công
nhân viên bảo tàng.
Sản phẩm lưu niệm trong bảo tàng cần gắn với các bộ sưu tập, các hiện
vật trưng bày của bảo tàng. Mỗi bảo tàng tùy theo sưu tập hiện vật của mình
mà tạo ra vơ số các sản phẩm lưu niệm mang đậm tính chất của bảo tàng và
có ý nghĩa văn hóa giáo dục. Những sản phẩm hàng hóa không tự nhiên mang
ý nghĩa giáo dục, từ lâu các nhà bảo tàng học cũng đã nhận ra rằng, các sự vật
khơng tự bộc lộ hết được bản thân nó mà phải trải qua một q trình truyền tải
thơng tin giáo dục tới cộng đồng. Việc bày bán các sản phẩm lưu niệm kèm
theo những tờ thông tin về sản phẩm gồm các nội dung như: giải thích về
nguồn gốc, xuất xứ, chất liệu hay bối cảnh lịch sử có liên quan đến sản
phẩm…của sản phẩm gắn với hiện vật mà sản phẩm đó mơ phỏng giúp người
xem trải nghiệm lại quá trình tham quan bảo tàng và hiểu thêm về hiện vật
trưng bày, nội dung trưng bày của bảo tàng. Từ đó góp phần quảng bá hình
ảnh, nâng cao vị thế của bảo tàng. Như vậy, sản phẩm lưu niệm có vai trị là
sự diễn giải của trưng bày bảo tàng, mang ý nghĩa giáo dục sâu sắc.

20


Ngồi vai trị mang lại nguồn thu cho bảo tàng và có ý nghĩa giáo dục
sâu sắc, sản phẩm lưu niệm là một trong những thành tố góp phần tạo nên
thương hiệu bảo tàng.
Thương hiệu là một tài sản phi vật chất được gắn liền với một sản
phẩm, một nhà sản xuất – kể cả sản xuất văn hóa. Thương hiệu ngày càng trở
thành một nhân tố quan trọng trong văn hóa và kinh tế, được coi là “triết lý cá
nhân và vật phẩm văn hóa”.
Theo định nghĩa của Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO): “Thương

hiệu là một dấu hiệu (hữu hình và vơ hình) đặc biệt để nhận biết một sản
phẩm hàng hóa hay một dịch vụ nào đó được sản xuất hay được cung cấp bởi
một cá nhân hay tổ chức”1
Cũng theo Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO), những thành tố tạo
nên một thương hiệu bao gồm:
Sự liên tưởng đến thương hiệu (Brand association): Những thuộc tính
lý tưởng nhất mang tính tích cực mà mọi người nghĩ tới khi họ nghe hoặc
nhìn tên một thương hiệu nào đó.
Tên thương hiệu (Brand name): Là một từ hay một cụm từ mà qua đó
một công ty hoặc một sản phẩm được biết đến. Một tên thương hiệu hiệu quả
luôn đưa ra ấn tượng ban đầu tốt và gợi lên những liên tưởng tốt.
Logo: Là một chữ hay một hình ảnh đồ họa có thể phân biệt được công
ty hoặc sản phẩm khi sử dụng thương hiệu trong q trình giao tiếp. Đơi khi
logo khơng chỉ đơn giản là những chữ cái hoặc hình vẽ mà chúng cịn là một
thực thể khơng thể tách rời trong việc liên tưởng đến thương hiệu. Ví dụ vịm
cong vàng của McDonald không đơn giản chỉ là một chữ M màu vàng to hơn
bình thường; mà chúng cịn truyền đạt một cảm giác về địa điểm, vòm cong

1

Nguồn www.wikipedia.org

21


của chữ M thể hiện như một lối vào một nơi rất lớn, và sản phẩm, màu vàng
của hình ảnh gợi đến món thịt rán và những đồ ăn nhanh khác.
Vị thế (Positioning): Là vị thế của một công ty hoặc một sản phẩm trên
thị trường. Vị thế được xác định bởi hướng kinh doanh hoặc sản phẩm chính
của cơng ty, những ích lợi mà nó đem đến cho người tiêu dùng và xã hội, và

những ưu thế của nó đối với đối thủ.
Theo PGS.TS Nguyễn Văn Huy nguyên giám đốc Bảo tàng Dân tộc
học Việt Nam cho rằng: “Một thương hiệu văn hóa/ bảo tàng là tên gọi gắn
với một sản phẩm hoặc một dịch vụ văn hóa do một thiết chế văn hóa – bảo
tàng, nhà hát, đồn múa…sáng tạo ra và cung cấp”1
Từ những lý luận nêu trên ta có thể hiểu thương hiệu của bảo tàng bao
gồm:
- Những suy nghĩ, cảm xúc khi người ta nghĩ đến bảo tàng đó.
- Là sự uy tín, vị thế của bảo tàng đó trong hệ thống các bảo tàng
- Là sức lôi kéo khách tham quan đến bảo tàng
- Là nội dung hoạt động và phương thức trưng bày của bảo tàng đó.
- Các sản phẩm mà bảo tàng tạo ra trong đó có sản phẩm lưu niệm và
các ấn phẩm sách báo…
Như vậy, sản phấm lưu niệm và các ấn phẩm của bảo tàng là một trong
những yếu tố góp phần tạo nên thương hiệu của bảo tàng. Thông qua các sản
phẩm lưu niệm của bảo tàng, các bảo tàng đã tích cực chuyển tải những thơng
điệp về nội dung và ảnh hưởng của mình với cơng chúng, thiết thực góp phần
vào việc tạo dựng hình ảnh, thương hiệu của bảo tàng với cộng đồng xã hội.
Với việc kinh doanh, các hoạt động thương mại liên quan, sản phẩm
lưu niệm trong bảo tàng cịn góp phần làm đa dạng và phong phú hơn các
hoạt động của bảo tàng, đồng thơi tạo nguồn thu bổ sung để nâng cao chất
lượng các hoạt động của bảo tàng.
1

PGS.TS Nguyễn Văn Huy. “Vấn đề thương hiệu của bảo tàng”. Hội thảo về vấn đề thương hiệu bảo tàng tổ
chức tại Bảo tàng Hồ Chí Minh. Hà Nội, 2009

22



1.2 Khái quát chung về Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam
1.2.1 Quá trình hình thành và phát triển của Bảo tàng Dân tộc học Việt
Nam
Bước vào thời kỳ đổi mới, các bảo tàng ở Việt Nam ngày càng được
củng cố và hồn thiện. Loại hình bảo tàng về dân tộc học có rất quan trọng và
có ý nghĩa to lớn về nhiều phương diện trên quy mô quốc cũng như ở từng địa
phương. Ngay từ năm 1981, Nhà nước đã chủ trương xây dựng một Bảo tàng
Dân tộc học ngay tại thủ đơ Hà Nội. Cơng trình Bảo tàng Dân tộc học được
chính thức phê duyệt luận chứng kinh tế kỹ thuật ngày 14/12/1987 và được
Nhà nước cấp đất xây dựng
Suốt nhiều năm cơng trình này được xem như một bộ phận của viện
Dân tộc học. Ngày 24/10/1995, Thủ tướng chính phủ ra quyết định số
689/TTG về việc thành lập Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam.
Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam tọa lạc trên một khu đất gần 3,3 ha tại
đường Nguyễn Văn Huyên – phường Dịch Vọng – quận Cầu Giấy cách trung
tâm Hà Nội khoảng 8km. Bảo tàng có một khơng gian rộng, thống đãng.
Kiến trúc sư Hà Đức Linh (người dân tộc Tày, công ty tư vấn thiết kế
xây dựng nhà ở và công trình cơng cộng – Bộ xây dựng) là người đã thiết kế
cơng trình tịa nhà Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam. Nội thất cơng trình do
kiến trúc sư người Pháp Veronique Dollfus thiết kế. Với thiết kế mang mơ
hình chiếc Trống đồng – di sản văn hóa của Việt Nam và nhân loại đã thể
hiện được bản sắc của dân tộc Việt Nam.
Khánh thành vào đúng dịp Hội nghị cấp cao lần thứ 7 các nước có sử
dụng tiếng Pháp họp tại Hà Nội ngày 12/11/1997, Bảo tàng bắt đầu đón khách
tham quan khu vực trưng bày trong nhà. Khu vực trưng bày ngoài trời được
bắt đầu chuẩn bị từ năm 1997 và đến nay đã hoàn thành nhiều cơng trình kiến
trúc ngồi trời, đó là các ngơi nhà truyền thống của các dân tộc anh em trên
lãnh thổ Việt Nam.

23



Trong 15 năm qua kể từ ngày thành lập là một chặng đường đánh dấu
sự phát triển liên tục, mạnh mẽ và đã đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng
trên nhiều phương diện của Bảo tàng DTHVN. Bảo tàng Dân tộc học Việt
Nam không ngừng được mở rộng về quy mô, chức năng và nhiệm vụ. Hiện tại
Bảo tàng đang chuẩn bị cho trưng bày về các dân tộc Đơng Nam Á trong tịa
nhà “Cánh diều” đang từng bước hoàn thành. Bên cạnh việc xây dựng cơ sở
vật chất và trang thiết bị cần thiết, Bảo tàng đã tích cực sưu tầm hiện vật trong
nước và ngoài nước. Mười lăm năm qua Bảo tàng đã sưu tầm được khoảng
27.000 hiện vật. Về tư liệu nghe nhìn Bảo tàng đã có khoảng 11.300 kiểu ảnh
chụp phim và kỹ thuật số, hơn 2.400 băng đĩa hình, khoảng 900 băng đĩa ghi
âm.
Bảo tàng cịn là một địa chỉ có uy tín trong việc giới thiệu, phổ cập tri
thức và giáo dục rộng rãi về các dân tộc và văn hóa các dân tộc; sức hút và
hiệu quả xã hội của Bảo tàng ngày càng được mở rộng, nâng cao ở trong và
ngoài nước. Hoạt động của Bảo tàng DTHVN đã góp phần vào việc giới
thiệu, quảng bá nền năn hóa đa dạng và phong phú của các dân tộc ở Việt
Nam; qua đó củng cố và tăng cường tình cảm tơn trọng văn háo của mỗi dân
tộc, đồng thời nâng cao lòng tự hào dân tộc, ý thức bình đẳng giữa các tộc
người trong đại gia đình dân tộc Việt Nam.
1.2.2 Cơ cấu tổ chức của Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam
Trong quyết định số 689/TTG ngày 24/10/1995 của Thủ tướng chính
phủ có nêu rõ “Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam có nhiệm vụ tổ chức nghiên
cứu khoa học, sưu tầm phân loại, đánh giá, bảo quản, phục chế, trưng bày,
giới thiệu, khai thác các giá trị lịch sử, văn hóa về phương diện dân tộc học
của các dân tộc anh em trong đại gia đình Tổ quốc Việt Nam. Cung cấp tư
liệu nghiên cứu dân tộc học cho các ngành đào tạo cán bộ nghiệp vụ và quản
lý cho Bảo tàng Dân tộc học”.


24


Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam thuộc trung tâm khoa học và nhân văn
quốc gia. Từ những ngày đầu mới thành lập bảo tàng chỉ có 18 cán bộ cơng
nhân viên, cho đến nay thì nguồn nhân lực của Bảo tàng DTHVN khơng
ngừng đước nâng cao về trình độ chun mơn – nghiệp vụ. Tính đến cuối năm
2010, Bảo tàng có 88 thành viên (41 người trong diện biên chế, 47 lao động
hợp đồng), trong đó có 2 PGS.TS, 8 TS, 14 ThS, 58 ĐH, CĐ. Bảo tàng
DTHVN có số PGS.TS, TS và ThS đông nhất trong 127 bảo tàng ở Việt Nam.
Bảo tàng có 19 người đang được đào tạo nghiên cứu sinh và cao học ở
trong nước và ngồi nước, trong đó co 4 người theo học ở nước ngồi. Đặc
biệt, thơng qua các dự án hợp tác với các nhà khoa học và bảo tàng các nước,
các tổ chức quốc tế, Bảo tàng DTHVN đã tổ chức nhiều khóa đào tạo trong
nước và cử cán bộ đi trao đổi, tập huấn tại nhiều nước để nâng cao trình độ
chun mơn nghiệp vụ. Nhờ đó, đội ngũ cán bộ, nhân viên của Bảo tàng
DTHVN không ngừng được nâng cao về trình độ chun mơn, từng bước đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ của Bảo tàng.
Theo “Quyết định về việc Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và
cơ cấu tổ chức của Bảo tàng DTHVN” của Chủ tịch Viện KHXHVN ngày
26/11/2010, trong cơ cấu tổ chức của Bảo tàng DTHVN có Ban giám đốc và
11 đơn vị cấp phịng như sau:
1. Phịng Hành chính – Tổng hợp
2. Phịng Nghiên cứu – sưu tầm văn hóa Việt Nam (gọi tắt là Phòng
Việt Nam)
3. Phòng Nghiên cứu – sưu tầm văn hóa nước ngồi (gọi tắt là Phịng
Nước ngồi)
4. Phịng Kiểm kê, bảo quản và phục chế (gọi tắt là phòng Bảo quản)
5. Phòng Trưng bày
6. Phòng Giáo dục

7. Phòng Truyền thông và Công chúng

25


×