Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Công tác giáo dục của bảo tàng hà nội (từ tháng 10 năm 2010 đến nay) thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.65 MB, 102 trang )

1

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI
KHOA DI SẢN VĂN HĨA
**********

LÊ THỊ THƠ

CƠNG TÁC GIÁO DỤC CỦA BẢO TÀNG HÀ NỘI
(TỪ THÁNG 10 NĂM 2010 ĐẾN NAY) – THỰC
TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
NGÀNH BẢO TÀNG HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN: Ths. PHẠM THU HẰNG

HÀ NỘI – 2012


2

LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, em muốn gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến cô giáo, Thạc sĩ
Phạm Thu Hằng đã tận tình hướng dẫn em trong suốt quá trình thực hiện khóa
luận tốt nghiệp.
Em xin bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc đến những thầy, cô giáo đã giảng dạy
em trong bốn năm qua, những kiến thức mà em nhận được trên giảng đường
đại học sẽ là hành trang giúp em vững bước trong tương lai.
Em cũng muốn gửi lời cảm ơn đến Ban Giám đốc Bảo tàng Hà Nội, các
anh chị trong phòng Trưng bày tuyên truyền của Bảo tàng Hà Nội đã tạo điều


kiện cho em trong q trình nghiên cứu, thu thập tài liệu để hồn thành khóa
luận.
Cuối cùng, em muốn gửi lời cảm ơn đến tất cả bạn bè cùng khóa,
những người đã ln đồng hành và sẻ chia với em những khó khăn trong quá
trình học tập cũng như trong cuộc sống.
Vì đây là cơng trình nghiên cứu đầu tay mà thời gian nghiên cứu và
kiến thức, kinh nghiệm bản thân còn nhiều hạn chế nên bài viết của em không
thể tránh khỏi những sai sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp, phê bình,
động viên của các thầy, cơ giáo.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, Tháng 6 - 2012
Sinh viên
Lê Thị Thơ


3

CHỮ VIẾT TẮT TRONG KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP VÀ TÀI LIỆU
THAM KHẢO

BHYT – BHXH

Bảo hiểm y tế - Bảo hiểm xã hội

CAND

Cơng an nhân dân

CNH – HĐH


Cơng nghiệp hóa – Hiện đại hóa

CNXH

Chủ nghĩa xã hội

HĐND

Hội đồng nhân dân

Nxb

Nhà xuất bản

Tk

Thế kỷ

Tp

Thành phố

UBND

Ủy ban nhân dân


4


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU…………………………………………………………………...1
1. Lý do chọn đề tài………………………………………………………...1
2. Đối tượng nghiên cứu …………………………………………………..2
3. Phạm vi nghiên cứu……………………………………………………..2
4. Mục đích nghiên cứu……………………………………………………3
5. Phương pháp nghiên cứu.……………………………………….………3
6. Bố cục khóa luận………………………………………………………...3
Chương 1………………………………………………………….………...4
BẢO TÀNG HÀ NỘI VỚI CƠNG TÁC GIÁO DỤC………….………...4
1.1. Q trình hình thành và phát triển của Bảo tàng Hà Nội….…….....4
1.2. Các hoạt động nghiệp vụ của Bảo tàng Hà Nội……………….……..8
1.3. Đặc trưng và chức năng của Bảo tàng Hà Nội……………..……….13
1.3.1. Đặc trưng của Bảo Tàng Hà Nội………………………..………….13
1.3.2. Chức năng của Bảo tàng Hà Nội…...……………………………….15
1.4. Tầm quan trọng của công tác giáo dục của Bảo tàng Hà Nội…........21
1.4.1. Vai trò của công tác giáo dục trong hoạt động của bảo tàng….........21
1.4.2. Tầm quan trọng của công tác giáo dục của Bảo tàng Hà Nội…...…24
Chương 2……………………………………………………………..………26
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC GIÁO DỤC CỦA BẢO TÀNG HÀ NỘI…...26
2.1. Hệ thống trưng bày – một công cụ giáo dục quan trọng của Bảo tàng Hà
Nội…………………………………………………………..………………...26
2.2. Các hình thức hoạt động giáo dục của Bảo tàng Hà Nội……..………...33
2.2.1. Hướng dẫn tham quan……………………………………….…..……..33
2.2.2. Các hoạt động giáo dục khác…………………………………...………40
2.2.2.1. Tổ chức các buổi học tại bảo tàng……….……………………..……...40
2.2.2.2. Hoạt động xuất bản và tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại
chúng…………………………………………………………………..……….40
2.3. Đánh giá hiệu quả giáo dục …………...…………………………………41



5

2.3.1. Phương pháp đánh giá………………………………………...……..41
2.3.1.1. Phỏng vấn……………………………………………………...……41
2.3.1.2. Quan sát………………………………………………………. ...…42
2.3.1.3. Trưng cầu ý kiến khách tham quan……………………………...….42
2.3.1.4. Nghiên cứu sổ ghi cảm tưởng của Bảo tàng Hà Nội………………..44
2.3.2. Hiệu quả giáo dục………………………………………………...….44
Chương 3………………………………………………………………...….68
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC GIÁO DỤC
CỦA BẢO TÀNG HÀ NỘI………………………………………………...68
3.1. Ưu điểm và hạn chế trong q trình thực hiện cơng tác giáo dục của
Bảo tàng Hà Nội…………………………………………………………….68
3.1.1. Ưu điểm……………………………………………………………….68
3.1.2. Hạn chế……………………………………………………………….70
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác giáo dục của Bảo tàng
Hà Nội............................................................................................................72
3.2.1. Đẩy mạnh các hoạt động nghiệp vụ khác, làm tiền đề cho công tác
giáo dục……………………………………………………………………...72
3.2.1.1. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học……………………...…...72
3.2.1.2. Đẩy mạnh công tác sưu tầm hiện vật bảo tàng…………...………...73
3.2.1.3. Thực hiện tốt cơng tác kiểm kê, bảo quản hiện vật…...…………….74
3.2.1.4. Hồn thiện hệ thống trưng bày……………………………………...75
3.2.2. Đa dạng hóa và nâng cao chất lượng các hoạt động giáo
dục…………………………………………………………………………...76
3.2.2.1. Đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động hướng dẫn tham
quan………………………………………………………………….……...76
3.2.2.2. Bồi dưỡng kiến thức, nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ làm cơng
tác giáo dục……………………………………………………….…….…..77

3.2.2.3. Đa dạng hóa các hình thức hoạt động giáo dục…………….….….78


6

3.2.2.4. Ứng dụng những thành tựu của khoa học – kỹ thuật và công nghệ
hiện đại vào hoạt động giáo dục của bảo tàng…………………………....82
KẾT LUẬN………………………………………………………….…….84
TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………….…….86
PHỤ LỤC......................................................................................................95


7

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ năm 1986 Việt Nam bắt đầu tiến hành công cuộc đổi mới đất nước.
Sau hơn 20 năm thực hiện, công cuộc đổi mới này đã đạt được những thành
tựu to lớn không chỉ về mặt kinh tế, ngoại giao, khoa học kỹ thuật mà đời
sống của nhân dân cũng ngày một cải thiện. Đời sống vật chất ổn định dẫn tới
nhu cầu thưởng thức văn hóa và nhu cầu giải trí của người dân ngày một tăng
lên. Ngày nay sự phổ biến của ti vi, đài phát thanh, mạng internet với các
chương trình đa dạng, hấp dẫn đã giải quyết được phần nào nhu cầu đó của
người dân. Nhưng chừng ấy vẫn khơng ngăn họ ra khỏi nhà và tìm đến các
địa điểm văn hóa, các khu du lịch, các cơ sở văn hóa hay các nơi vui chơi giải
trí bởi nhu cầu của con người khơng bao giờ có giới hạn. Chính nhu cầu này
là điều kiện thuận lợi để các thiết chế văn hóa nói chung và bảo tàng nói riêng
có thể mở rộng cánh cửa của mình đón chào cơng chúng. Tuy nhiên trình độ
thưởng thức văn hóa của người dân ngày càng được nâng lên rất nhiều, người
ta phải lựa chọn nên đi đâu, xem gì với quỹ thời gian eo hẹp của mình.Và tất

nhiên ai cũng muốn mình được hưởng thụ những gì tốt đẹp nhất. Như vậy nhu
cầu của công chúng từ chỗ là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của mỗi
thiết chế văn hóa nay lại trở thành thách thức và ngẫu nhiên tạo ra sự cạnh
tranh giữa các thiết chế văn hóa này. Và ở đâu nhu cầu công chúng được thỏa
mãn nhiều nhất thì ở đó có sự phát triển. Do vậy việc nghiên cứu, tìm hiểu
nhu cầu cơng chúng, nâng cao chất lượng giáo dục, tuyên truyền là một việc
làm quan trọng và hết sức thiết thực không chỉ đúng với bảo tàng mà cịn
đúng với các thiết chế văn hóa khác.
Vấn đề này càng trở nên thiết thực hơn đối với Bảo tàng Hà Nội – một
bảo tàng mới khánh thành và hoạt động nói chung thì khơng mới. Song lại có
rất nhiều điều kiện thuận lợi để có thể thực hiện tốt công tác giáo dục như:
Nằm bên cạnh Trung tâm hội nghị Quốc gia và Cung triển lãm Hà Nội – một


8

nơi có khả năng thu hút đơng đảo khách tham quan trong tương lai, Bảo tàng
Hà Nội là bảo tàng lớn nhất và hiện đại nhất cả nước hiện nay…, tuy nhiên
trên thực tế số lượng công chúng đến với bảo tàng chưa thực sự xứng tầm với
quy mô và tầm vóc của nó. Mặt khác Bảo tàng Hà Nội là nơi lưu giữ và trưng
bày những tài liệu, hiện vật phản ánh về chặng đường lịch sử của Thủ đô Hà
Nội. Nên việc thực hiện tốt công tác giáo dục của bảo tàng trước hết sẽ giúp
người dân Hà Nội hiểu được truyền thống lịch sử và đặc điểm văn hóa nơi
mình sinh ra, từ đó thêm tự hào, yêu mến và có ý thức bảo vệ cũng như làm
giàu đẹp thêm quê hương. Hà Nội còn là thủ đô của Việt Nam, là trái tim của
cả nước, nhiều người biết đến Hà Nội sẽ là cơ hội tốt cho việc thu hút các
nguồn lực để phát triển thủ đô. Mà để nhiều người biết về Hà Nội, hiểu về Hà
Nội đó là cơng sức và trách nhiệm khơng nhỏ của Bảo tàng Hà Nội đặc biệt là
những cán bộ làm công tác giáo dục của bảo tàng này.
Sau 4 năm học tại trường Đại học Văn hóa Hà Nội, với những kiến

thức chuyên ngành Bảo tàng học tích lũy được thì việc nghiên cứu, tìm hiểu
về cơng tác giáo dục của Bảo tàng Hà Nội sẽ là cơ hội tốt cho việc vận dụng
lý thuyết vào thực tiễn và tập dượt khả năng nghiên cứu, viết bài cho bản thân.
Vì những lý do trên, tơi quyết định chọn đề tài “Công tác giáo dục của
Bảo tàng Hà Nội ( Từ tháng 10 năm 2010 đến nay ) - thực trạng và giải pháp”
làm Khóa luận tốt nghiệp Đại học ngành Bảo tàng học.
2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là Cơng tác giáo dục của Bảo tàng
Hà Nội ( Từ tháng 10 năm 2010 đến nay ).
3. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian:
Nghiên cứu công tác giáo dục trong không gian hoạt động của Bảo
tàng Hà Nội.
- Về thời gian:


9

Chủ yếu nghiên cứu công tác giáo dục của Bảo tàng Hà Nội từ thời
điểm khánh thành nhà bảo tàng (ngày 06 tháng 10 năm 2010) cho đến nay.
4. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu q trình hình thành, phát triển, đặc trưng, chức năng của
Bảo tàng Hà Nội.
- Nghiên cứu thực trạng công tác giáo dục của Bảo tàng Hà Nội, các
hình thức hoạt động giáo dục của bảo tàng.
- Đánh giá hiệu quả hoạt động giáo dục của Bảo tàng Hà Nội.
- Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả công tác giáo dục của Bảo tàng
Hà Nội.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Vận dụng phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mac - Lê Nin:

Chủ nghĩa duy vật lịch sử và Chủ nghĩa duy vật biện chứng trong quá trình
nghiên cứu, tiếp cận đối tượng.
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Bảo tàng học, Khoa học lịch sử,
Xã hội học, Tâm lý học, Giáo dục học…
- Khóa luận còn sử dụng một số phương pháp khác: Tổng hợp, phân
tích, thống kê, so sánh, nghiên cứu tài liệu…
6. Bố cục khóa luận
Ngồi phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và phần Phụ lục, bố
cục khóa luận gồm 3 chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Bảo tàng Hà Nội với công tác giáo dục
Chương 2: Thực trạng công tác giáo dục của Bảo tàng Hà Nội
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác giáo dục của
Bảo tàng Hà Nội.


10

Chương 1
BẢO TÀNG HÀ NỘI VỚI CÔNG TÁC GIÁO DỤC
1.1. Qúa trình hình thành và phát triển của Bảo tàng Hà Nội
Bảo tàng Hà Nội được thành lập năm 1982 theo Quyết định của UBND
thành phố Hà Nội do bà Phó chủ tịch Nguyễn Thị Tâm Đan ký ngày 29 tháng
06 năm 1982. Theo quyết định này, Bảo tàng Hà Nội được thành lập trên cơ
sở tách phòng Bảo tồn – Bảo tàng thuộc Sở Văn hóa Thơng tin Hà Nội thành
Ban quản lý di tích ( nay là Ban quản lý di tích và danh thắng Hà Nội ) và Bảo
tàng Hà Nội. Tuy nhiên do trong quyết định này không nêu rõ địa điểm xây
dựng nhà bảo tàng nên trong một khoảng thời gian dài Bảo tàng Hà Nội
khơng có nhà bảo tàng để lưu giữ, bảo quản và trưng bày hiện vật. Số nhà 5B,
phố Hàm Long, quận Hồn Kiếm chỉ mang tính chất là trụ sở đặt văn phòng
làm việc của các cán bộ bảo tàng, cịn tồn bộ hiện vật mà bảo tàng có được

đều phải đem gửi ở kho chùa Hưng Ký và kho của Bảo tàng Lịch sử Việt
Nam. Kể từ ngày thành lập cho đến trước đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng
Long – Hà Nội, trong hơn 20 năm đã có rất nhiều địa điểm được UBND thành
phố Hà Nội lựa chọn để xây dựng Bảo tàng Hà Nội. Mảnh đất đầu tiên được
đề cập tới là khu Vân Hồ 3, tiếp đến là số 2 Ngọc Hà, rồi 47 Hàng Dầu, sau
đó là 47 Cát Linh… Tuy nhiên vì nhiều lý do chủ quan và khách quan mà đến
năm 2004 Hà Nội vẫn chưa thực sự có được bảo tàng của riêng mình. Để đáp
ứng được nhu cầu tìm hiểu và giáo dục truyền thống lịch sử cho các thế hệ
của nhân dân Hà Nội, nhân dân cả nước và bạn bè khắp năm châu thì việc Hà
Nội cần có một bảo tàng xứng đáng với vai trò là thủ đô của cả nước, đúng
tầm với bề dày lịch sử lâu đời và oai hùng là điều hết sức cần thiết.
Nhân dịp kỷ niệm đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, một dự án
xây dựng mới Bảo tàng Hà Nội đã được thực hiện. Bảo tàng Hà Nội đã được
quy hoạch nằm trong tổng thể hệ thống các bảo tàng Việt Nam đến năm 2020
được Thủ tướng chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 156/2005/QĐ – TTg


11

ngày 23/06/2005. Bảo tàng Hà Nội đã được xác định quy hoạch chi tiết thuộc
khu vực Trung tâm hội nghị Quốc gia, được Bộ Xây dựng phê duyệt tại Quyết
định số 739/QĐ – BXD ngày 22/04/2005. Thành ủy, HĐND và UBND thành
phố Hà Nội đã quyết tâm chỉ đạo triển khai hồn thành cơng trình Bảo tàng
Hà Nội để chào mừng ngày đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội.
UBND thành phố Hà Nội đã giao Sở Văn hóa Thơng tin ( nay là Sở Văn hóa,
Thể thao và Du lịch Hà Nội ) phối hợp với Sở Quy hoạch kiến trúc tổ chức
phát động cuộc thi tuyển phương án kiến trúc cơng trình Bảo tàng Hà Nội với
13 phương án dự tuyển. Sau các vòng tuyển chọn nghiêm túc, hội đồng xét
tuyển đã chọn được phương án kiến trúc mang mã số PA01 của đơn vị tư vấn
liên danh GMP – International GmhB – Inros lackner AG ( Gmp – Ilag ) –

Cộng hòa Liên bang Đức làm phương án để hoàn thiện, triển khai lập dự án
xây dựng Bảo tàng Hà Nội. Đây cũng là đơn vị thực hiện thiết kế khu Trung
tâm hội nghị Quốc gia đồng thời cũng là đơn vị tư vấn thiết kế đạt giải A tại
cuộc thi tuyển thiết kế kiến trúc nhà Quốc hội. Tiếp đó, đến ngày 05/10/2006,
UBND thành phố Hà Nội đã có quyết định số 4432 /QĐ – UBND phê duyệt
chọn phương án kiến trúc Bảo tàng Hà Nội với diện tích xây dựng cơng trình
là 11.952m2, diện tích sàn xây dựng 30.208m2 được xây dựng trên khu đất có
diện tích 53.963m2.
Cơng trình Bảo tàng Hà Nội được thiết kế là một cơng trình có hình
dáng kiến trúc đặc biệt với kết cấu dàn mái treo sàn rất phức tạp, có hình dáng
giống kim tự tháp ngược, giật cấp từ thấp lên cao, gồm 4 tầng nổi và 2 tầng
hầm, các tầng trên lớn hơn, các phía vươn ra của tầng trên so với tầng dưới là
5m. Cơng trình này có các tầng chức năng như sau: Tầng hầm 2 có diện tích
3000m2 dành cho việc lắp đặt hệ thống thiết bị kỹ thuật; tầng hầm 1 với diện
tích khoảng 10.000m2 bao gồm một hội trường 500 chỗ ngồi, phòng họp đa
năng 270 chỗ và hệ thống kho chuyên dụng của bảo tàng; các tầng ( từ tầng 1
đến tầng 4) là không gian trưng bày và các phòng làm việc của cán bộ Bảo


12

tàng Hà Nội. Dự án đầu tư xây dựng Bảo tàng Hà Nội có tổng mức đầu tư hơn
2.300 tỷ đồng. Cơng trình được thực hiện theo hình thức hợp đồng xây dựng –
chuyển giao bảo tàng do Tổng công ty cổ phần xuất nhập khẩu và xây dựng
Việt Nam ( Vinaconex ) là nhà đầu tư chính. Ngồi ra, tham gia vào việc xây
dựng Bảo tàng Hà Nội còn có sự góp mặt của các đơn vị uy tín ngành xây
dựng: Liên danh Lilama – Coma, Liên danh Ree – Viettel, Tổng công ty
Coma, Tổng công ty tư vấn xây dựng Việt Nam, đồng thời cơng trình được
bảo hiểm bởi Tổng cơng ty bảo hiểm Dầu khí.
Cơng trình Bảo tàng Hà Nội được chính thức khởi cơng xây dựng vào

ngày 19 tháng 5 năm 2008. Song song với công tác xây dựng và lắp đặt thiết
bị cơng trình, phần nội dung trưng bày của dự án cũng được Lãnh đạo thành
phố Hà Nội chỉ đạo chủ đầu tư và các đơn vị có liên quan tích cực triển khai
thực hiện.
Chúng ta biết rằng từ ngày 1/8/2008 toàn bộ địa giới của tỉnh Hà Tây
đã được sáp nhập vào Thủ đơ Hà Nội do đó các cơ quan hành chính nhà nước
nói chung và các cơ quan văn hóa nói riêng của tỉnh Hà Tây trong đó có Bảo
tàng Hà Tây được sáp nhập vào Hà Nội. Đến cuối tháng 9 năm 2008 Bảo tàng
Hà Tây chính thức được sáp nhập vào Bảo tàng Hà Nội. Ngày 13/11/2008, tại
trụ sở của Bảo tàng Hà Tây cũ, Sở Văn hóa,Thể thao và Du lịch Hà Nội đã tổ
chức cuộc họp bàn về vấn đề bổ sung nội dung trưng bày địa giới mở rộng
thuộc Hà Tây trước đây trong Bảo tàng Hà Nội. Trong tháng 03 năm 2009 và
tháng 06 năm 2009 UBND thành phố Hà Nội đã phê duyệt nội dung trưng
bày Bảo tàng Hà Nội mở rộng và nhiệm vụ thiết kế nội dung trưng bày tại
Bảo tàng Hà Nội. Công ty tư vấn Story Inc ( Newzeland ) – Đơn vị tư vấn
thiết kế nước ngoài đã được UBND thành phố Hà Nội phê duyệt lựa chọn làm
nhà đầu tư chính thức thực hiện gói thầu tư vấn thiết kế tổng thể nội dung
trưng bày Bảo tàng Hà Nội.


13

Như vậy sau hai năm xây dựng, Bảo tàng Hà Nội đã được khánh thành
vào ngày 06 tháng 10 năm 2010 đúng dịp kỷ niệm đại lễ 1000 năm Thăng
Long – Hà Nội. Bày tỏ niềm xúc động lớn lao khi cơng trình Bảo tàng Hà Nội
đã được hồn thành và gắn biển cơng trình kỷ niện 1000 năm Thăng Long –
Hà Nội, chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng nói: “ Đã từ lâu chúng ta ao
ước Hà Nội có một bảo tàng của riêng mình vì Hà Nội là trái tim của cả nước,
là trung tâm của văn hóa, giáo dục là nơi kết tinh và tỏa sáng văn hóa Việt
Nam. Những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể của Hà Nội nếu không được

bảo vệ, lưu giữ chúng ta sẽ khơng chỉ có tội với các cổ nhân mà cịn có lỗi với
thế hệ mai sau…Bảo tàng Hà Nội đã được hoàn thành, niềm ao ước bấy lâu
đã thành hiện thực. Đến thăm Bảo tàng Hà Nội chúng ta hiểu thêm được lịch
sử Việt Nam, Thăng Long – Hà Nội. ”
Sau khi khánh thành, đội ngũ cán bộ của Bảo tàng Hà Nội tiếp tục được
kiện toàn. Hiện nay cơ cấu tổ chức của Bảo tàng Hà Nội gồm có các phịng
ban sau:

Sơ đồ cơ cấu tổ chức của Bảo tàng Hà Nội
* Ban giám đốc: Gồm có 4 người. Trong đó có 1 giám đốc phụ trách
chung và 3 phó giám đốc.
* Hệ thống các phịng chun mơn nghiệp vụ:


14

- Phịng Nghiên cứu – Sưu tầm: Gồm có 11 thành viên, trong đó có 1
trưởng phịng, 1 phó phịng, 1 cán bộ phụ trách kho hiện vật mới sưu tầm, 8
cán bộ nghiên cứu - sưu tầm.
- Phòng Kiểm kê – Bảo quản: Gồm có 14 thành viên, trong đó có 1
trưởng phịng, 2 phó phịng, 2 cán bộ bảo quản và 9 cán bộ kiểm kê kiêm
quản lý kho.
- Phịng Trưng bày – Tun truyền: Gồm có 20 thành viên, trong đó có
1 trưởng phịng, 10 cán bộ thuyết minh, 7 cán bộ trưng bày và 2 họa sĩ.
- Phịng Kỹ thuật: Gồm có 14 thành viên, trong đó có 1 trưởng phịng, 5
kỹ sư, 8 kỹ thuật viên.
* Phịng hành chính tổng hợp: Gồm có 10 thành viên, trong đó có 1
trưởng phịng; 1 phó phịng; 1 cán bộ phụ trách công tác quản lý hồ sơ cán bộ,
hợp đồng; 1 cán bộ phụ trách chế độ chính sách BHXH,BHYT; 1 cán bộ phụ
trách cơng tác bảo vệ, vệ sinh nhà bảo tàng; 1 cán bộ xây dựng kế hoạch công

tác, tổ chức sự kiện; 1 cán bộ tổng hợp báo cáo tuần, quý, năm, xây dựng các
văn bản, nội quy, quy chế với cán bộ, khách tham quan; 2 kế tốn; 1 thủ quỹ.
* Ngồi ra Bảo tàng Hà Nội cịn có phịng Quản lý di tích lưu niệm
Chủ tịch Hồ Chí Minh tại 48 Hàng Ngang và Vạn Phúc: Gồm có 8 thành viên,
trong đó có 1 trưởng phịng; 2 phó phịng; 2 cán bộ thuyết minh; 2 cán bộ
quản lý, phát huy giá trị di tích và ngăn ngừa vi phạm; 2 cán bộ nghiên cứu
nội dung di tích, sưu tầm tài liệu, hiện vật, lập đề cương trưng bày bổ sung.
1.2. Các hoạt động nghiệp vụ của Bảo tàng Hà Nội
Từ năm 1982 đến nay, mặc dù trong thời gian dài chưa có nhà trưng
bày bảo tàng, nhưng Bảo tàng Hà Nội đã ln đẩy mạnh các khâu cơng tác
nghiệp vụ của mình, đặc biệt là sau khi khánh thành nhà bảo tàng mới vào
ngày 06 tháng 10 năm 2010.
Công tác Nghiên cứu – Sưu tầm:


15

Trong hoạt động bảo tàng công tác nghiên cứu – sưu tầm là khâu cơng
tác nghiệp vụ cơ bản, có vị trí và vai trị quan trọng trong các hoạt động
nghiệp vụ của bảo tàng, gắn liền với các khâu công tác nghiệp vụ khác tạo
thành một thể thống nhất hoàn chỉnh để bảo tàng ra đời và phát triển. Đó là
hoạt động tạo tiền đề, cơ sở vật chất cho toàn bộ hoạt động bảo tàng.
Nhận thức được vai trị và tầm quan trọng của cơng tác nghiên cứu sưu
tầm mặc dù ra đời khá muộn năm 1982, nhưng Bảo tàng Hà Nội đã luôn chú
trọng tới công tác nghiên cứu sưu tầm. Bằng những hình thức và phương pháp
phù hợp với đặc điểm và tính chất của bảo tàng, Bảo tàng Hà Nội đã sưu tầm
được một khối lượng lớn tài liệu, hiện vật phù hợp với nội dung và loại hình
của bảo tàng, đảm bảo có thể phục vụ tốt cho các hoạt động nghiệp vụ khác
của bảo tàng.
Trước đây, nguồn tài liệu, hiện vật mà Bảo tàng Hà Nội sưu tầm được

chủ yếu là từ các cuộc khai quật khảo cổ trên địa bàn Hà Nội hoặc là những
tài liệu, hiện vật do các cơ quan công an và hải quan thu giữ được từ các vụ
buôn bán cổ vật trái phép chuyển giao cho bảo tàng. Trong giai đoạn chuẩn bị
cho sự khánh thành của Bảo tàng Hà Nội, để có đủ hiện vật phục vụ cho trưng
bày, vào ngày 28/1/2010 UBND thành phố Hà Nội, Sở Văn hóa, Thể thao và
Du lịch thành phố Hà Nội đã phát động cuộc vận động hiến tặng, sưu tầm và
giới thiệu hiện vật cho Bảo tàng Hà Nội. Đây là cuộc vận động có ý nghĩa
chính trị xã hội rộng lớn, hướng đến sự tham gia của tồn thể cán bộ, nhân
dân Thủ đơ Hà Nội, người dân trong nước và người Việt Nam ở nước ngoài
cũng như bạn bè quốc tế nhằm bảo vệ và phát huy các di sản văn hóa, lịch sử,
của Hà Nội. Hưởng ứng cuộc vận động, ngay tại lễ phát động đã có nhiều cá
nhân, tổ chức hiến tặng cổ vật, di vật, kỷ vật cho Bảo tàng Hà Nội. Đáng chú
ý trong số đó có những kỷ vật của nữ Anh hùng – Liệt sỹ Đặng Thùy Trâm do
gia đình liệt sỹ trao tặng. Tính đến thời điểm hiện nay cuộc vận động hiến
tặng hiện vật cho Bảo tàng Hà Nội đã thu về một khối lượng lớn tài liệu, hiện


16

vật lên tới 3000 tài liệu, hiện vật. Để tiếp nhận và hoàn thiện hồ sơ khoa học
cho một khối lượng lớn hiện vật như vậy địi hỏi cơng sức và trách nhiệm
không nhỏ của những cán bộ làm công tác sưu tầm. Trong thời gian vừa qua
phòng nghiên cứu sưu tầm của Bảo tàng Hà Nội cũng đã tiếp nhận và hoàn
thiện hồ sơ khoa học cho 316 hiện vật do công an quận Hai Bà Trưng và 12
hiện vật do cơng an quận Hồn Kiếm bàn giao. Từ nay đến năm 2014 khi
hoàn thiện xong phần trưng bày, Bảo tàng Hà Nội vẫn đang tiếp tục đẩy mạnh
công tác nghiên cứu sưu tầm để có đủ hiện vật phục vụ cho trưng bày.
Có thể nói, cơng tác sưu tầm tài liệu, hiện vật của Bảo tàng Hà Nội
trong những năm qua đã có những đóng góp đáng kể cho sự ra đời và phát
triển của Bảo tàng Hà Nội.

Công tác Kiểm kê – Bảo quản:
Công tác Kiểm kê – Bảo quản hiện vật bảo tàng là khâu công tác tiếp
theo của công tác sưu tầm và là một khâu cơng tác quan trọng có liên quan
chặt chẽ đến các khâu công tác khác của bảo tàng để tạo thành một hệ thống
hoàn chỉnh. Trong hoạt động bảo tàng nếu thiếu công tác Kiểm kê – Bảo quản
sẽ không thể tiến hành các khâu công tác tiếp theo.
Thực chất của công tác Kiểm kê hiện vật bảo tàng là cơng tác khoa học
có nhiệm vụ xác lập thủ tục pháp lý, kiện toàn hồ sơ khoa học cho các hiện
vật gốc thuộc bảo tàng để dễ dàng quản lý và bảo quản lâu dài hiện vật bảo
tàng.
Toàn bộ những tài liệu, hiện vật gốc và sưu tập hiện vật gốc trên hệ
thống trưng bày và trong kho cơ sở của bảo tàng là một bộ phận quan trọng
của di sản văn hóa dân tộc. Cho nên các bảo tàng phải thực hiện tốt công tác
bảo quản hiện vật bảo tàng bằng cách áp dụng các phương pháp bảo quản
phòng ngừa và bảo quản kỹ thuật đối với hiện vật bảo tàng.
Trong những năm qua, mặc dù có những thời điểm Bảo tàng Hà Nội
chưa có hệ thống kho cơ sở của riêng mình, hàng ngàn hiện vật của bảo tàng


17

phải đi gửi nhờ tại kho chùa Hưng Ký và kho của Bảo tàng Lịch sử Việt Nam
nhưng công tác Kiểm kê – Bảo quản của Bảo tàng Hà Nội vẫn được tiến hành
nghiêm túc và hiệu quả. Đặc biệt kể từ khi Bảo tàng Hà Nội được khánh
thành và đi vào hoạt động ngày 06/10/2010, hệ thống kho cơ sở của bảo tàng
đã được quy hoạch với tổng diện tích lên tới 10.000m2 tạo điều kiện thuận lợi
cho cơng tác Kiểm kê – Bảo quản hiện vật của bảo tàng. Hiện nay các cán bộ
Kiểm kê - Bảo quản của Bảo tàng Hà Nội đang tiến hành chỉnh lý hiện vật,
hồn thiện hệ thống sổ sách, biểu mẫu, phích phiếu và hộ chiếu hiện vật.
Đồng thời bắt đầu tiến hành việc quản lý hiện vật trên máy vi tính.

Để làm tốt công tác Kiểm kê - Bảo quản tài liệu, hiện vật, Bảo tàng Hà
Nội đã tiến hành phân loại hiện vật theo chất liệu. Hiện nay hệ thống kho của
Bảo tàng Hà Nội được chia thành các kho chính như: Kho nhập hiện vật mới
sưu tầm; kho mở; kho mẫu vật tự nhiên; kho mộ táng; kho gốm sứ; kho đồ
kim khí; kho đồ giấy, vải, đồ nhựa, phim ảnh, băng đĩa ghi âm, ghi hình…
Trong quá trình nghiên cứu, chỉnh lý tài liệu, hiện vật, Bảo tàng Hà Nội
đã tiến hành xây dựng các bộ sưu tập như: Sưu tập đồ đá; sưu tập đồ đồng;
sưu tập đồ gốm sứ các thời Lý, Trần, Lê, Nguyễn; sưu tập gốm sứ của Trung
Quốc và Nhật Bản v.v…Các bộ sưu tập này rất phong phú, đa dạng và có giá
trị lớn về khoa học lịch sử.
Nhìn chung, cơng tác Kiểm kê - Bảo quản của Bảo tàng Hà Nội đã dần
đi vào quy củ, đảm bảo những yêu cầu về hoạt động nghiệp vụ của ngành,
phù hợp với đặc điểm của bảo tàng và có khả năng phục vụ cho nhu cầu khai
thác và nghiên cứu trước mắt cũng như lâu dài.
Công tác trưng bày:
Trong bảo tàng công tác trưng bày có một vị trí quan trọng nhằm thực
hiện sự giao tiếp của bảo tàng với công chúng, với xã hội. Trưng bày là bộ
mặt của bảo tàng, là cầu nối bảo tàng với xã hội, với công chúng, là nơi để
công chúng cảm thụ, thưởng thức các giá trị văn hóa của bảo tàng.


18

Bảo tàng Hà Nội mới được khánh thành và đi vào hoạt động từ tháng
10 năm 2010 hơn nữa, việc thực hiện dự án thiết kế tổng thể nội dung trưng
bày của Bảo tàng Hà Nội dự kiến đến năm 2014 mới hồn thành cho nên cơng
tác trưng bày của Bảo tàng Hà Nội đang gặp khó khăn. Tuy nhiên để sử dụng
có hiệu quả nhà bảo tàng đồng thời phục vụ nhu cầu tham quan của công
chúng, Bảo tàng Hà Nội đã xây dựng nội dung trưng bày tạm thời với các
phần trưng bày cụ thể như sau:

- Tầng 1: Trưng bày hình ảnh rồng thiêng.
- Tầng 2: Trưng bày về tài nguyên và thiên nhiên Hà Nội; Trưng bày về
Hà Nội tiền sơ sử.
- Tầng 3: Trưng bày chuyên đề cổ vật; Sưu tập tư nhân Nguyễn Đình
Sử; Sưu tập tư nhân Vũ Tấn; Trưng bày tài liệu, hiện vật do các tổ chức và cá
nhân hiến tặng Bảo tàng Hà Nội.
- Tầng 4: Trưng bày cổ vật nước ngoài; Trưng bày sưu tập đồ gỗ;
Trưng bày sưu tập đồ đồng; Triển lãm ảnh Hà Nội xưa và nay.
- Phần trưng bày ngoài trời của Bảo tàng Hà Nội hiện nay có chủ đề
sinh vật cảnh.
Vì trưng bày của Bảo tàng Hà Nội chỉ mang tính chất trưng bày tạm
thời cho nên bảo tàng chưa áp dụng các giải pháp trưng bày như: hộp hình, sa
bàn, hiệu ứng âm thanh, ánh sáng trong trưng bày…Tuy nhiên phần trưng bày
tạm thời này của Bảo tàng Hà Nội cũng đã gây được sự chú ý rất lớn của đông
đảo khách tham quan khi đến với bảo tàng.
Trên cơ sở hệ thống trưng bày đã có Bảo tàng Hà Nội tiếp tục tiến hành
các khâu công tác tiếp theo.
Công tác giáo dục:
Trải qua một thời gian khá dài từ năm 1982 đến trước tháng 10 năm
2010, gần 30 năm sau ngày thành lập nhưng Bảo tàng Hà Nội vẫn chưa thực


19

sự có được một ngơi nhà bảo tàng theo đúng nghĩa. Chính vì vậy việc thực
hiện cơng tác giáo dục của Bảo tàng Hà Nội là rất hạn chế : Khơng có nhà
trưng bày nên khơng có nội dung trưng bày thường xuyên, mà để thực hiện
được công tác giáo dục thì trưng bày lại là cơng cụ chủ yếu và quan trọng
nhất. Hơn nữa việc tổ chức trưng bày lưu động cũng bị hạn chế bởi nhiều lý
do như: phải mượn địa điểm, phải đảm bảo an toàn cho hiện vật, và có những

hiện vật khơng thể mang đi trưng bày lưu động được…
Kể từ ngày 06 tháng 10 năm 2010 khi Bảo tàng Hà Nội được khánh
thành và đi vào hoạt động mặc dù đã có nhà bảo tàng nhưng do đề án
trưng bày tổng thể của Bảo tàng Hà Nội phải đến năm 2014 mới hoàn
thiện nên việc thực hiện công tác giáo dục của Bảo tàng Hà Nội cũng gặp
khơng ít khó khăn. Tuy nhiên để đáp ứng lịng mong mỏi của cơng chúng
Bảo tàng Hà Nội đã chủ động tổ chức trưng bày tạm thời phục vụ công
chúng. Trên cơ sở hệ thống trưng bày tạm thời này, Bảo tàng Hà Nội đã
tiến hành công tác giáo dục cho cơng chúng bằng nhiều hình thức hoạt
động như: Tổ chức hướng dẫn cho khách tham quan tại bảo tàng; tổ chức
các lớp học ngoại khóa cho học sinh, sinh viên tại bảo tàng; tích cực
quảng bá hình ảnh của Bảo tàng Hà Nội trên các phương tiện thơng tin đại
chúng.
Nhìn chung cơng tác giáo dục của Bảo tàng Hà Nội cũng đạt được
những kết quả nhất định. Cùng với các thiết chế văn hóa khác như Văn Miếu
Quốc Tử Giám, Đền Ngọc Sơn… Bảo tàng Hà Nội đã đóng góp một phần
cơng sức khơng nhỏ vào việc giáo dục truyền thống lịch sử, văn hóa của
Thăng Long – Hà Nội cho công chúng đặc biệt là thế hệ trẻ nhân dịp kỷ niệm
1000 năm Thăng Long – Hà Nội.
1.3. Đặc trưng và chức năng của Bảo tàng Hà Nội
1.3.1. Đặc trưng của Bảo tàng Hà Nội


20

Đặc trưng là một thuật ngữ khá quen thuộc, được sử dụng rộng rãi
trong mọi ngành khoa học cũng như đời sống xã hội.
Theo “ Từ điển tiếng Việt ’’ của Viện Ngôn ngữ học biên soạn và xuất
bản do tác giả Hồng Phê chủ biên thì đặc trưng được hiểu theo 2 nghĩa:
- Một là: Chỉ những nét riêng biệt và tiêu biểu được xem là dấu hiệu để

phân biệt với những sự vật khác.
- Hai là: Có tính chất riêng biệt và tiêu biểu làm cho phân biệt được với
những sự vật khác.
Qua hai cách hiểu này, có thể thấy rằng nhờ có đặc trưng mà giữa hàng
ngàn, hàng vạn sự vật, hiện tượng chúng ta vẫn có thể phân biệt được sự vật,
hiện tượng này với sự vật, hiện tượng khác. Và đã tồn tại như một sự vật, hiện
tượng của xã hội thì tất yếu sẽ phải có nét đặc trưng riêng biệt. Do đó khi
chúng ta nghiên cứu, tìm hiểu về một vấn đề nào đó, việc chỉ ra được nét đặc
trưng, bản chất nhất của vấn đề là một việc làm rất có ý nghĩa.
Ta biết rằng mọi thiết chế văn hóa – khoa học – giáo dục nói chung và
bảo tàng nói riêng khi ra đời, tồn tại và phát triển đều phù hợp với quy luật
phát triển chung của xã hội, hay nói khác đi là vì nhu cầu của xã hội, vì sự
tiến bộ của lồi người mà tồn tại. Cho nên các thiết chế này cũng được xem là
một hiện tượng của xã hội và có đặc trưng riêng. Bảo tàng Hà Nội nằm trong
hệ thống các bảo tàng Việt Nam mang trong mình những nét khác biệt so với
các bảo tàng khác. Cụ thể như sau:
Thứ nhất:
Bảo tàng Hà Nội thuộc loại bảo tàng công cộng và là bảo tàng cấp tỉnh,
nằm dưới sự quản lý của Nhà nước mà trực tiếp là Sở Văn hóa, Thể thao và
Du lịch thành phố Hà Nội. Nội dung mà Bảo tàng Hà Nội phản ánh là toàn bộ
những sự kiện, hiện tượng diễn ra trong lịch sử tự nhiên và lịch sử xã hội của
đất Thăng Long – Hà Nội từ khi dựng nước đến nay. Do đó Bảo tàng Hà Nội
nghiên cứu sưu tầm và trưng bày những tài liệu, hiện vật gốc và sưu tập hiện


21

vật gốc có giá trị bảo tàng phù hợp với loại hình và nội dung chủ đạo mà bảo
tàng phản ánh.
Thứ hai:

Hiện vật của Bảo tàng Hà Nội không chỉ là những hiện vật gốc phù
hợp với nội dung và loại hình bảo tàng mà cịn là hệ thống những tài liệu, hiện
vật tiêu biểu, điển hình cho các vấn đề về lịch sử tự nhiên và lịch sử xã hội
của Thăng Long - Hà Nội. Đó là những hiện vật tiêu biểu cho nền văn hiến,
cho quá trình lao động sáng tạo và chiến đấu anh dũng của nhân dân Hà Nội.
Đồng thời minh chứng cho vai trò và vị trí quan trọng của Thăng Long – Hà
Nội trong tiến trình phát triển chung của lịch sử dân tộc.
Thứ ba:
Hà Nội khơng chỉ là một đơn vị hành chính độc lập mà cịn là thủ đơ
của cả nước, là hình ảnh thu nhỏ của Việt Nam. Do đó, hệ thống tài liệu hiện
vật của Bảo tàng Hà Nội vừa mang đặc trưng của loại hình bảo tàng vừa
mang tính hài hịa trong các giá trị lịch sử, văn hóa chung của dân tộc.
Thứ tư:
Bảo tàng Hà Nội luôn tạo điều kiện thuận lợi để công chúng cảm nhận
các hiện vật gốc và sưu tập hiện vật gốc có giá trị bảo tàng thông qua hệ thống
trưng bày và hướng dẫn tham quan của bảo tàng. Qua đó góp phần phổ biến
tri thức và giáo dục truyền thống lịch sử, văn hóa của Hà Nội cho cơng chúng.
Như vậy Bảo tàng Hà Nội ra đời khơng chỉ đáp ứng lịng mong mỏi của
nhân dân Hà Nội muốn có một bảo tàng của riêng mình, mà từ nay trong hệ
thống các bảo tàng của Việt Nam sẽ có thêm một bảo tàng mới.
Trên đây là những nét đặc trưng của Bảo tàng Hà Nội so với các bảo
tàng khác. Những đặc trưng này sẽ chi phối mọi hoạt động của Bảo tàng Hà
Nội trong đó có cơng tác giáo dục của bảo tàng.
1.3.2. Chức năng của Bảo tàng Hà Nội


22

Có thể nói bảo tàng là một thiết chế văn hóa ra đời khá sớm, ngay từ
thời kỳ cổ đại đã xuất hiện những hình thức sơ khai của bảo tàng như: phòng

trưng bày của giới quý tộc, các cung điện, đền tháp, thánh đường…
Và vì là những hình thức ban đầu, sơ khai nhất nên chức năng mà bảo tàng
thực hiện cũng rất ít, chủ yếu là nơi cất giữ các vật báu, quý hiếm.
Trải qua thời gian cùng với sự phát triển của đời sống kinh tế - xã hội
và sự tiến bộ của loài người bảo tàng đã phát triển không ngừng. Để đáp ứng
những nhu cầu thưởng thức văn hóa ngày càng cao và đa dạng trong đời sống
tinh thần của con người đòi hỏi bảo tàng phải mở rộng hơn nữa những chức
năng của mình.
Nói về chức năng xã hội của bảo tàng, trên thế giới có rất nhiều quan
điểm khác. Tuy nhiên phần lớn các quan điểm đều thống nhất bảo tàng có 5
chức năng sau:
- Chức năng nghiên cứu khoa học.
- Chức năng tài liệu hóa khoa học.
- Chức năng bảo quản di sản văn hóa.
- Chức năng giáo dục.
- Chức năng thơng tin, giải trí và thưởng thức.
Bảo tàng Hà Nội nằm trong hệ thống các bảo tàng Việt Nam và là một
bộ phận của bảo tàng thế giới do đó Bảo tàng Hà Nội cũng thực hiện đầy đủ 5
chức năng trên:
Chức năng nghiên cứu khoa học:
Bảo tàng Hà Nội là bảo tàng cấp tỉnh, phản ánh khá toàn diện về lịch sử
tự nhiên và lịch sử xã hội của Thăng Long – Hà Nội từ khi dựng nước đến
nay. Vì vậy trong quá trình thực hiện chức năng nghiên cứu khoa học Bảo
tàng Hà Nội đã tiến hành nghiên cứu các bộ mơn khoa học có liên quan đến
nội dung mà bảo tàng phản ánh như: Khoa học Lịch sử , Dân tộc học, các bộ
môn khoa học tự nhiên… Đồng thời ứng dụng những thành quả nghiên cứu


23


của các bộ môn khoa học này vào tất cả các khâu công tác của bảo tàng như:
sưu tầm, kiêm kê, bảo quản, trưng bày, giáo dục.
Mọi hoạt động nghiên cứu khoa học của Bảo tàng Hà Nội đều được
tiến hành trên cơ sở những hiện vật gốc và sưu tập hiện vật gốc có giá trị bảo
tàng. Thực chất công tác nghiên cứu khoa học của Bảo tàng Hà Nội là nhằm
khám phá ra những nội dung giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học của hiện vật và
mối quan hệ của hiện vật với môi trường tồn tại xung quanh hay những sự
kiện, hiện tượng đã diễn ra trong lịch sử tự nhiên, lịch sử xã hội để phục vụ
cho các hoạt động nghiệp vụ của bảo tàng cũng như thỏa mãn nhu cầu nghiên
cứu khoa học của cơng chúng.
Chức năng tài liệu hóa khoa học:
Thực hiện chức năng tài liệu hóa khoa học Bảo tàng Hà Nội tiến hành
nghiên cứu các sự kiện, hiện tượng đã diễn ra trong lịch sử tự nhiên và lịch sử
xã hội của Thăng Long – Hà Nội từ khi dựng nước đến nay. Trên cơ sở đó
Bảo tàng Hà Nội đã tổ chức sưu tầm, thu thập và lựa chọn những tài liệu, hiện
vật gốc tiêu biểu có giá trị bảo tàng phù hợp với nội dung mà bảo tàng phản
ánh, đồng thời tiến hành ghi chép lập hồ sơ khoa học – pháp lý cho hiện vật
và làm đầy đủ các thủ tục, nguyên tắc bảo tàng cho hiện vật gốc như: đăng ký
vào sổ kiểm kê, đánh số hiện vật, xây dựng các sưu tập hiện vật và bảo quản
chúng theo chất liệu ở các kho khác nhau. Trong quá trình bảo quản, lưu giữ
và trưng bày hiện vật tại bảo tàng, Bảo tàng Hà Nội vẫn tiếp tục nghiên cứu,
tư liệu hóa khoa học để bổ sung và hoàn thiện hồ sơ khoa học cho hiện vật
bảo tàng.
Chức năng bảo quản di sản văn hóa:
Mục đích của việc bảo quản di sản văn hóa khơng chỉ nhằm kéo dài
tuổi thọ cho di sản mà còn phải đảm bảo vấn đề an ninh tránh mất cắp di sản
bởi di sản văn hóa là tài sản chung của quốc gia khơng ai có quyền chiếm
dụng một cách bất hợp pháp.



24

Để thực hiện tốt chức năng bảo quản di sản văn hóa, những cán bộ làm
cơng tác Kiểm kê – Bảo quản của Bảo tàng Hà Nội đã tiến hành kiểm kê,
phân loại, đánh số, xác định khoa học cho hiện vật từ đó khẳng định giá trị
bảo tàng của hiện vật và những thuộc tính vốn có của hiện vật bảo tàng. Bảo
tàng Hà Nội cũng đã tiến hành phân chia hệ thống kho cơ sở ra thành các kho
khác nhau để bảo quản hiện vật theo từng chất liệu với những biện pháp bảo
quản phòng ngừa và bảo quản kỹ thuật nhằm kéo dài tuổi thọ cho hiện vật.
Đồng thời Bảo tàng Hà Nội cũng lắp đặt các thiết bị kỹ thuật đảm bảo an ninh
cho hiện vật và sưu tập hiện vật ở trong kho cơ sở cũng như trên hệ thống
trưng bày của bảo tàng.
Chức năng giáo dục:
Chức năng giáo dục là một trong những chức năng cơ bản, quan trọng
của Bảo tàng Hà Nội. Bằng các hình thức hoạt động giáo dục của mình, Bảo
tàng Hà Nội chuyển giao có mục đích những thơng tin, những tri thức về khoa
học, lịch sử, văn hóa cho cơng chúng. Qua đó góp phần hình thành lên thế
giới quan, giáo dục tư tưởng đạo đức và thẩm mỹ cho công chúng.
Bảo tàng Hà Nội thực hiện chức năng giáo dục dựa trên hiện vật gốc và
các sưu tập hiện vật gốc của bảo tàng đã được tư liệu hóa một cách khoa học.
Trên cơ sở các tài liệu, hiện vật gốc và các sưu tập hiện vật gốc trong kho cơ
sở của bảo tàng, Bảo tàng Hà Nội tổ chức trưng bày thường xuyên và trưng
bày chuyên đề để đưa hiện vật bảo tàng tiếp cận với công chúng. Thông qua
hệ thống trưng bày, Bảo tàng Hà Nội tiến hành hướng dẫn tham quan với
nhiều hình thức khác nhau như: Hướng dẫn tham quan khái quát, hướng dẫn
tham quan theo chuyên đề, hướng dẫn tham quan theo nhóm, theo đồn v.v…
Ngồi ra Bảo tàng Hà Nội cịn thực hiện chức năng giáo dục bằng các
hình thức khác như: tổ chức các buổi học tại bảo tàng; tích cực tuyên truyền,
quảng bá hình ảnh của bảo tàng trên các phương tiện thông tin đại chúng.



25

Bảo tàng Hà Nội cũng thường xuyên tiến hành điều tra xã hội học,
nghiên cứu nhu cầu công chúng đến với bảo tàng để xây dựng những chương
trình giáo dục phù hợp với từng đối tượng công chúng.
Chức năng thông tin, giải trí và thưởng thức:
Chức năng thơng tin, giải trí và thưởng thức cũng là một trong những
chức năng quan trọng của Bảo tàng Hà Nội.
Đến với Bảo tàng Hà Nội cơng chúng có thể khai thác thơng tin về hiện
vật bảo tàng thơng qua nhiều nguồn:
- Tìm hiểu trực tiếp những thông tin khoa học hàm chứa trong bản thân
hiện vật gốc, sưu tập hiện vật gốc được bảo tàng lưu giữ trong kho cơ sở và
trên hệ thống trưng bày của bảo tàng.
- Tìm hiểu thơng tin dựa trên kết quả nghiên cứu của bảo tàng như các
etiket, các hệ thống sổ sách, phích phiếu, các hồ sơ ghi chép về hiện vật gốc
và sưu tập hiện vật gốc của bảo tàng.
Để cơng chúng có thể dễ dàng khai thác được những thông tin này, Bảo
tàng Hà Nội đã tiến hành nghiên cứu, xác minh, xác định tên gọi khoa học
cho hiện vật gốc và sưu tập hiện vật gốc; làm rõ xuất xứ, nguồn gốc, lai lịch
của hiện vật cũng như làm sáng tỏ nội dung thơng tin bên ngồi và thơng tin
hàm chứa bên trong hiện vật bảo tàng. Đồng thời Bảo tàng Hà Nội cũng luôn
tạo điều kiện thuận lợi cho công chúng đến tìm kiếm và khai thác thơng tin về
bảo tàng.
Ngồi việc tìm kiếm thơng tin, khi đến với Bảo tàng Hà Nội cơng
chúng cịn được thưởng thức các giá trị văn hóa qua các hiện vật bảo tàng
đồng thời được thỏa mãn nhu cầu vui chơi giải trí thơng qua các loại hình
dịch vụ của bảo tàng.
Bên cạnh việc thực hiện những chức năng trên, Bảo tàng Hà Nội cịn có
những nhiệm vụ khác.



×