Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Công tác giáo dục của bảo tàng (tiếp cận nghiên cứu bảo tàng lịch sử quân sự việt nam)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.65 MB, 87 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI
KHOA BẢO TÀNG
*********

TRẦN THỊ THANH NHÀN

CÔNG TÁC GIÁO DỤC CỦA BẢO TÀNG
(TIẾP CẬN NGHIÊN CỨU
BẢO TÀNG LỊCH SỬ QUÂN SỰ VIỆT NAM)

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
NGÀNH BẢO TÀNG

NGƯỜI HƯỚNG DẪN:

HÀ NỘI – 2010


CHỮ VIẾT TẮT TRONG
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP VÀ TÀI LIỆU THAM KHẢO
--- *** ---

1

LSQS

Lịch sử quân sự

2

LSQSVN



Lịch sử quân sự Việt Nam

3

ĐCS

Đảng cộng sản

4

QĐND

Quân đội nhân dân

5

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

6

TCCT

Tổng cục chính trị

7

BCT


Bộ chính trị

8

BCH

Ban chấp hành

9

LLVT

Lực lượng vũ trang

10

CNH - HĐH

Cơng nghiệp hóa - Hiện đại hóa

11

Nxb

Nhà xuất bản


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1 

1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI ............................................................ 1
2.TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI ....................... 4
3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU ..................................................................... 5
4. CƠ SỞ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 5
4.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn .................................................................. 5
4.2. Phương pháp nghiên cứu.................................................................... 5
5. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU .......................................... 5
5.1. Đối tượng ........................................................................................... 5
5.2. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................ 6
6. Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI ........................... 6
7. BỐ CỤC CỦA KHÓA LUẬN .................................................................. 6
CHƯƠNG 1. BẢO TÀNG VÀ CHỨC NĂNG GIÁO DỤC ........................ 7 
1.1. NHỮNG KHÁI NIỆM CƠ BẢN ........................................................... 7
1.1.1. Bảo tàng là gì ................................................................................. 7
1.1.2. Giáo dục là gì ................................................................................ 11
1.1.3. Giáo dục bảo tàng là gì ................................................................. 13
1.1.4.Một số thuật ngữ liên quan đến đề tài……………………………16
1.2. MỘT SỐ HÌNH THỨC GIÁO DỤC BẢO TÀNG MỚI VÀ TIÊN
TIẾN ............................................................................................................ 19
CHƯƠNG 2. CÁC HÌNH THỨC GIÁO DỤC CỦA BẢO TÀNG LỊCH
SỬ QUÂN SỰ VIỆT NAM ........................................................................... 26 
2.1. TỔNG QUAN VỀ BẢO TÀNG LỊCH SỬ QUÂN SỰ VIỆT NAM .. 26


2.1.1. Sự ra đời, quá trình hình thành và phát triển ................................ 26
2.1.2. Phòng Trưng bày – Tuyên truyền Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt
Nam ......................................................................................................... 37
2.2. CÁC HÌNH THỨC GIÁO DỤC HIỆN TẠI………..…….…………..39
2.2.1. Giáo dục tại bảo tàng .................................................................... 39
2.2.2. Giáo dục ngồi bảo tàng................................................................ 45

CHƯƠNG 3. CƠNG TÁC GIÁO DỤC CỦA BẢO TÀNG – MỘT SỐ
SUY NGHĨ VÀ ĐỀ XUẤT ........................................................................... 51
3.1. ĐỔI MỚI NHẬN THỨC VÀ QUAN ĐIỂM VỀ GIÁO DỤC BẢO
TÀNG .......................................................................................................... 51
3.2. PHÁT TRIỂN CÁC HÌNH THỨC GIÁO DỤC BẢO TÀNG ............ 52
3.3. NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO VÀ NĂNG LỰC THỰC
HÀNH ......................................................................................................... 56
3.4. LIÊN KẾT PHỐI HỢP ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC
BẢO TÀNG ................................................................................................ 58
3.4.1. Liên kết trong bảo tàng ................................................................. 58
3.4.2 Liên kết ngoài bảo tàng .................................................................. 61
3.5. QUẢNG BÁ, GIỚI THIỆU NÂNG CAO NHẬN THỨC CỦA XÃ
HỘI VỀ BẢO TÀNG VÀ CHỨC NĂNG GIÁO DỤC BẢO TÀNG ........ 65
KẾT LUẬN .................................................................................................... 68
TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Văn hóa là tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo của con người
trong quá khứ và trong hiện tại. Các hoạt động sáng tạo đó đã hình thành nên
một hệ thống các giá trị, truyền thống, thị hiếu - những yếu tố xác định đặc
tính riêng và bản sắc của mỗi dân tộc. Bước sang thế kỷ XXI, khoa học kỹ
thuật phát triển với tốc độ nhanh chưa từng thấy, kinh tế phát triển, xu hướng
quốc tế hóa mở rộng, văn hóa ngày càng có vị trí quan trọng trong đời sống
xã hội. Văn hóa tạo ra động lực thúc đẩy sự phát triển lành mạnh, bền vững
của mỗi quốc gia, là cầu nối để các quốc gia xích lại gần nhau, mở mang sự
hiểu biết lẫn nhau, hình thành tinh thần hữu nghị, ý thức bảo vệ hịa bình thế

giới, tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế, văn hóa tồn cầu.
Các dự báo khoa học về thế giới thế kỷ XXI đều nhấn mạnh đến tầm
quan trọng đặc biệt của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Nhận
thức được vai trò quan trọng của văn hóa, trong nhiều chỉ thị, Nghị quyết,
Đảng ta đã khẳng định công cuộc phát triển của đất nước Việt Nam phải được
xây dựng trên nền móng vững chắc của văn hóa. Nghị quyết Đại hội Đảng
cộng sản Việt Nam lần thứ VIII, chỉ rõ: “Văn hóa có vai trò cực kỳ quan
trọng trong sự nghiệp phát triển xã hội và xây dựng con người. Văn hóa là
nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự
phát triển kinh tế - xã hội”.
Bảo tàng là một thiết chế văn hóa đặc thù. Bảo tàng ra đời và phát triển
cùng với sự phát triển về văn hóa, giáo dục, nhằm thỏa mãn các nhu cầu
hưởng thụ văn hóa, nghiên cứu, khám phá thế giới tự nhiên, xã hội, khám phá
kho tàng tri thức, kinh nghiệm của nhân loại.


2

Bảo tàng có tác dụng to lớn đến đời sống văn hóa tinh thần của nhân
loại. Bảo tàng là cầu nối quá khứ với hiện tại, tương lai, giúp con người biến
những giá trị văn hóa tiềm tàng thành những giá trị văn hóa hiện thực, định
hướng cho mọi hoạt động của con người trong tương lai.
Ở Việt Nam, từ lâu đời, mỗi đình chùa có thể được xem như một bảo
tàng nhỏ. Ở đó sử dụng nhiều chức năng kết hợp với nhau, trong đó có chức
năng bảo vệ các di sản văn hóa và giáo dục truyền thống. Điều đó cho thấy
việc lưu giữ các di sản văn hóa cả vật thể và phi vật thể và phát huy chúng là
một thực tiễn có từ xa xưa, là truyền thống, tập quán của nhiều thế hệ.
Ngay sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, ngày 23/11/1945,
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh 65 SL/CTP nêu rõ: “Xét rằng việc bảo tồn
cổ tích là việc rất cần cho công cuộc kiến thiết nước Việt Nam”. Điều đó cho

thấy tầm quan trọng đặc biệt của việc bảo vệ các di sản văn hóa dân tộc đối
với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sắc lệnh này là mốc lớn trong
lịch sử hình thành và phát triển của ngành bảo tồn, bảo tàng Việt Nam.
Năm 1954, miền Bắc được giải phóng, đến năm 1959, một số bảo tàng
chủ chốt của nước ta được xây dựng, mở cửa đón khách tham quan. Các bảo
tàng khơng chỉ là cơ quan nghiên cứu, gìn giữ những giá trị tinh thần và
truyền thống văn hóa của dân tộc mà còn là trường học lớn giáo dục tri thức,
truyền thống, đạo đức, lối sống, trao truyền kinh nghiệm, nâng cao nhận thức
và lòng tự hào dân tộc cho các thế hệ người Việt Nam, góp phần thực sự tạo
nên nguồn lực con người Việt Nam. Báo cáo chính trị Đại hội Đảng lần thứ
IV đã chỉ ra: “Công tác bảo tồn, bảo tàng có tác dụng giáo dục sâu sắc cho
quần chúng, đặc biệt là thế hệ trẻ về lòng yêu nước, tình cảm cách mạng
trong sáng”.


3

Ngày nay, trước những phát minh kỳ diệu của nhân loại trên các lĩnh vực
khoa học, công nghệ, xu hướng quốc tế hóa mở rộng, các bảo tàng Việt Nam
càng có điều kiện làm cho những giá trị ưu tú, độc đáo của di sản văn hóa
Việt Nam tỏa sáng ra bên ngoài, đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại,
xem đó là nguồn dinh dưỡng và chất kích thích mới để phát huy thêm sức
mạnh văn hóa Việt Nam.
Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam là một trong những bảo tàng lớn
nhất của quốc gia. Bảo tàng này bắt đầu xây dựng từ năm 1956, chính thức
mở cửa đón khách tham quan vào ngày 22/12/1959. Thuộc loại hình lịch sử
xã hội, với hơn 150.000 hiện vật, bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam đã tái
hiện một cách sống động lịch sử, văn hóa quân sự Việt Nam từ thời kỳ dựng
nước đầu tiên của các Vua Hùng đến thời đại Hồ Chí Minh. Trong hơn nửa
thế kỷ qua, sự tồn tại và phát triển của bảo tàng cho thấy sự cần thiết, vai trò

quan trọng và hiệu quả xã hội to lớn của bảo tàng đối với đời sống văn hóa
của quốc gia. Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam thực sự trở thành trung tâm
nghiên cứu khoa học, giáo dục lịch sử và văn hóa quân sự.
Khái niệm về Bảo tàng của nước ta được định nghĩa như sau: “Bảo tàng
là thiết chế văn hóa có chức năng sưu tầm, bảo quản, nghiên cứu, trưng bày,
giới thiệu di sản văn hóa, bằng chứng vật chất về thiên nhiên, con người và
môi trường sống của con người, nhằm phục vụ nhu cầu nghiên cứu, học tập,
tham quan và hưởng thụ văn hóa của cơng chúng.” (Luật di sản văn hóa sửa
đổi năm 2009). Đọc qua khái niệm trên chúng ta có thể hiểu được phần nào về
vai trò, chức năng của bảo tàng. Trong các chức năng đó, chức năng giáo dục
của bảo tàng có ý nghĩa hết sức quan trọng. Thơng qua các hình thức hoạt
động của mình, cơng tác giáo dục đã chuyển giao có mục đích rõ ràng các
thơng tin, những tri thức về khoa học, lịch sử, văn hóa giúp cho việc hình


4

thành thế giới quan, giáo dục tư tưởng đạo đức, thẩm mỹ cho con người phát
triển toàn diện.
Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam cũng giống như các bảo tàng khác
chứa đựng trong nó những chức năng cơ bản như: lưu giữ, bảo quản, trưng
bày…và đặc biệt là chức năng giáo dục. Tuy nhiên, hiện nay khái niệm giáo
dục của bảo tàng vẫn cịn nhiều người hiểu chưa chính xác, sâu sắc về bản
chất của hai từ “giáo dục”. Nhiều người vẫn nghĩ rằng công tác giáo dục của
bảo tàng chỉ đơn thuần là đón khách tham quan, thuyết minh giới thiệu nội
dung trưng bày, nhưng thực tế khái niệm: “giáo dục” của bảo tàng có nội hàm
sâu hơn, phạm vi hoạt động rộng hơn và các hình thức phong phú hơn.
Là sinh viên được thực tập ở Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam, qua
quá trình nghiên cứu công tác giáo dục của bảo tàng chúng tôi nhận thấy
những điểm mạnh, tiềm năng về giáo dục. Bên cạnh đó tơi cũng nhận thấy

những nhu cầu, những câu hỏi đang đặt ra đối với công tác giáo dục nếu như
nhìn nhận vấn đề này một cách tồn diện và sâu sắc hơn. Vì vậy, tơi đã mạnh
dạn chọn vấn đề này làm đề tài khóa luận tốt nghiệp. Hy vọng rằng, qua
nghiên cứu, tôi sẽ thu thập và hệ thống được một số nhận thức mới về giáo
dục và góp phần đề xuất biện pháp thiết thực nhằm góp phần nâng cao hiệu
quả cơng tác giáo dục bảo tàng nói chung và cơng tác giáo dục của Bảo tàng
Lịch sử Qn sự Việt Nam nói riêng.

2.TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
- Ở nước ta các cơng trình nghiên cứu, dịch thuật về bảo tàng học rất ít và
chưa có tính hệ thống. Tuy nhiên để nghiên cứu vấn đề này có thể tham khảo một
số kỷ yếu hội thảo hoặc seminar, hoặc báo cáo công tác của một số bảo tàng.
- Tài liệu về công tác giáo dục của các bảo tàng ở nước ngoài rất phong phú,
tổ chức Hội đồng Bảo tàng quốc tế (ICOM) có một Ủy ban chuyên nghiên cứu vấn
đề này. Song, việc dịch thuật và phổ biến các tài liệu này ở Việt Nam cịn rất ít.


5

- Theo chúng tơi biết, chưa có chun khảo riêng về công tác giáo dục bảo
tàng, đặc biệt ở Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam. Tuy vậy tôi đã cố gắng thực
hiện đề tài này.

3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
- Nghiên cứu lý luận và thực tiễn về công tác giáo dục bảo tàng. Từ đó khái
quát, rút ra những quan điểm nội dung có tính lý luận làm cơ sở đề xuất các biện
pháp đổi mới công tác giáo dục bảo tàng.
- Kết quả nghiên cứu của khóa luận góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý
luận và thực tiễn về công tác giáo dục bảo tàng, góp phần cung cấp những luận cứ
cho việc nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục của Bảo tàng Lịch sử

Quân sự Việt Nam.

4. CƠ SỞ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
4.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê
Nin; các cơng trình khoa học trong và ngồi nước có liên quan; các tài liệu
tổng kết thực tiễn cùng với kết quả khảo sát về công tác giáo dục của Bảo
tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng các phương pháp lịch sử và lơ gích, phân tích và tổng hợp, so
sánh và đối chiếu, điều tra xã hội học và các phương pháp khác để đạt được
mục tiêu và nhiệm vụ khóa luận đặt ra.
5. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
5.1. Đối tượng
- Nghiên cứu các chương trình giáo dục ở bảo tàng, tiếp cận nghiên cứu Bảo
tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam.


6

- Khảo sát thực tiễn, điều tra xã hội học, phỏng vấn khách tham quan trong
nước và quốc tế khi đến Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu lý luận về Bảo tàng học, giáo dục bảo tàng.
- Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam, Bảo Tàng Dân tộc học Việt Nam và
một số bảo tàng trên địa bàn Hà Nội.

6. Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
- Góp phần làm phong phú thêm lý luận và thực tiễn về vai trò của giáo

dục bảo tàng, hiệu quả và xu thế phát triển giáo dục bảo tàng.
- Đưa ra một số biện pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo
dục bảo tàng ở các bảo tàng Việt Nam nói chung và Bảo tàng Lịch sử Quân
sự Việt Nam nói riêng.

7. BỐ CỤC CỦA KHĨA LUẬN
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, và phần phụ
lục, bố cục khoá luận gồm 3 chương:
- Chương 1: Bảo tàng và chức năng giáo dục
- Chương 2: Các hình thức giáo dục của Bảo tàng LSQS Việt Nam
- Chương 3: Công tác giáo dục của bảo tàng - Một số suy nghĩ và đề xuất
Tuy nhiên vì thời gian nghiên cứu ngắn, trình độ của bản thân cịn nhiều
hạn chế cho nên trong bài viết khơng thể tránh khỏi những thiếu sót hạn chế.
Em rất mong được các thầy, các cô và các bạn chỉ bảo để khóa luận này được
hồn thiện hơn.
Hà Nội, tháng 6/2010
Sinh viên
Trần Thị Thanh Nhàn


7

CHƯƠNG 1
BẢO TÀNG VÀ CHỨC NĂNG GIÁO DỤC
1.1. NHỮNG KHÁI NIỆM CƠ BẢN
1.1.1. Bảo tàng là gì ?
Qua nghiên cứu tìm hiểu và hệ thống hóa những tài liệu về các bảo tàng
trên thế giới, chúng ta nhận thấy bảo tàng đã ra đời, tồn tại và phát triển cùng
với xã hội loài người trải qua các giai đoạn thời kì lịch sử:
- Bảo tàng thời kỳ cổ đại

- Bảo tàng thời kỳ trung cổ
- Bảo tàng thời kỳ phục hưng
- Bảo tàng thế kỷ XVIII – XIX
- Bảo tàng từ thế kỷ XX đến nay.
Nhìn theo chiều dài lịch sử có thể nhận thấy ngay từ thời kỳ cổ đại, trung
đại con người đã có ý thức sưu tầm tập hợp những tác phẩm nghệ thuật,
những hiện vật có giá trị thẩm mỹ, có giá trị lịch sử - văn hóa và các sưu tập
mẫu vật có giá trị khoa học trong các “kho báu” hay trong các “phòng hiếu
kỳ” Kunskamera…để từ đó dần dần hình thành bảo tàng ở thế kỷ sau nhằm
gìn giữ, trưng bày các giá trị đó cho mn đời sau.
Ở Việt Nam, hệ thống các bảo tàng hình thành và phát triển được phân
theo các giai đoạn sau:
- Sự hình thành một số bảo tàng ở Việt Nam trước Cách mạng
tháng Tám năm 1945
- Bảo tàng Việt Nam sau cách mạng tháng Tám năm 1945 đến
năm 1954
- Bảo tàng Việt Nam thời kỳ 1954 đến 1975
- Bảo tàng Việt Nam từ năm 1975 đến nay.


8

Sự nghiệp bảo tàng Việt Nam trải qua hơn nửa thế kỷ đã không ngừng
phát triển và thu được những thành tựu to lớn: Hệ thống bảo tàng phong phú
về số lượng, đa dạng về thể loại … góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây
dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Nghiên cứu về khái niệm, bản chất của bảo tàng chúng ta nhận thấy khái
niệm bảo tàng thời kỳ đầu có thể coi là những ngơi nhà cất giữ những báu vật
của lồi người. Nó lưu giữ ký ức của các dân tộc, các nền văn hóa, những ước
mơ và hy vọng của con người trên thế giới. Nhưng bảo tàng với nghĩa hiện

đại đã phát triển ở Châu Âu vào thế kỷ XVIII. Thuật ngữ bảo tàng “museum”
được sử dụng lần đầu tiên ở Anh khi Bảo tàng Ashmolean được khánh thành
năm 1786 và mở cửa phục vụ cơng chúng. Từ đó đến nay trên thế giới bảo
tàng đã ngày càng phát triển không ngừng về số lượng, chất lượng với nhiều
loại hình phong phú, đa dạng các kiểu, loại khác nhau. Bảo tàng ngày càng có
vai trị quan trọng trong hệ thống các khoa học văn hóa, có ảnh hưởng to lớn
đến cơng tác giáo dục, nâng cao dân trí cho cộng đồng và xã hội. Ngày nay
bảo tàng có sự biến đổi lớn cả về quy mơ lớn, nhỏ, về mục đích, về chức năng
và nhiệm vụ để phục vụ cho sự phát triển của xã hội và phục vụ nhu cầu văn
hóa của con người.
Đưa ra khái niệm bảo tàng khơng chỉ có một hay vài nước phát triển mà
hầu hết trên thế giới các nước cũng đã định nghĩa và thành lập lên những viện
bảo tàng có quy mơ. Hiện nay đã thống kê được trên thế giới có khoảng 150
tạp chí chun ngành và hàng trăm đầu sách cùng các cơng trình nghiên cứu
xuất bản về bảo tàng học của ICOM, của Cộng hòa Liên bang Nga, Trung
Quốc, Anh, Pháp và Mỹ …
Ở Pháp: giới học giả bảo tàng học khẳng định: “Bảo tàng là cơ quan
khơng thay đổi được xây dựng vì quyền lợi của xã hội để gìn giữ, quản lý và


9

tổ chức hội thảo khoa học, tuyên truyền phát triển khơng ngừng những nhân
tố q báu của văn hóa”.(1)
Giới bảo tàng học Nhật Bản dùng thuật ngữ bác vật quán để chỉ bảo
tàng, đã xác định: “Bác vật quán là nơi gìn giữ duy trì tất cả các tài liệu hiện
vật về lịch sử, nghệ thuật, dân tộc, sản nghiệp, khoa học tự nhiên, đồng thời
là nơi tổ chức các cuộc trưng bày triển lãm các ngành văn học nghệ thuật,
học thuật, điều tra và nghiên cứu”.
Với cách tiếp cận mới về bảo tàng học, các nhà bảo tàng học của Cộng

hòa Liên bang Nga đã đưa ra khái niệm như sau: “Bảo tàng là thể chế đa chức
năng được hình thành một cách lịch sử của ký ức xã hội, nhờ đó thực hiện
được nhu cầu xã hội về tuyển chọn, bảo quản, miêu tả nhóm đặc biệt các đối
tượng văn hóa và tự nhiên, được xã hội cơng nhận là một giá trị được kế
truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác”.
Khái niệm về bảo tàng của Hiệp hội Bảo tàng Anh như sau: “Bảo tàng
là một cơ quan thu thập tư liệu hóa, giữ gìn, trưng bày và giới thiệu những
bằng chứng vật chất và những thơng tin liên quan vì lợi ích cơng chúng”.
Khái niệm bảo tàng của Mỹ: “Bảo tàng là một thiết chế (cơ quan) được
thành lập hoạt động lâu dài và không có lợi nhuận, khơng chỉ nhằm mục đích
thực hiện các trưng bày đương đại, được miễn thuế thu nhập quốc gia và liên
bang, mở cửa đón cơng chúng và hoạt động theo hướng quan tâm của cơng
chúng. Có mục đích bảo quản và bảo tồn, nghiên cứu, giới thiệu, tập hợp và
trưng bày có hướng dẫn phục vụ nhu cầu thưởng thức của người xem. Những
hiện vật trưng bày phải có giá trị văn hóa giáo dục, bao gồm những tác phẩm
nghệ thuật, những cơng trình khoa học (cả những hiện vật sống và những vật
______________________________
(1)

Nguyễn Thị Huệ (2008), “Cơ sở bảo tàng học”, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.107.


10

vô tri, vô giác) những hiện vật lịch sử và hiện vật khoa học ứng dụng (tư liệu
lịch sử và kỹ thuật).
Do vậy các bảo tàng còn bao gồm cả các vườn thực vật, các vườn thú, những
khu thủy sinh, các đài thiên văn, cung điện, di tích lịch sử và di chỉ đáp ứng
được những yêu cầu nêu ra ở trên”.
Định nghĩa mới nhất về bảo tàng của ICOM được thông qua tại kỳ họp

thứ 20 tại Seoul (Hàn Quốc) tháng 10/2004 như sau:
“Bảo tàng là một thiết chế phi lợi nhuận, hoạt động thường xun, mở
cửa đón cơng chúng đến xem, phục vụ cho xã hội và sự phát triển của xã hội.
Bảo tàng sưu tầm, bảo quản nghiên cứu, thông tin và trưng bày các bằng
chứng vật thể và phi vật thể về con người và môi trường của con người vì
mục đích nghiên cứu, giáo dục và thưởng thức”.
Khái niệm về bảo tàng của ICOM là khái niệm chuẩn vì nó đã phản ánh
được đối tượng của bảo tàng bao hàm cả di sản vật thể và phi vật thể về con
người và môi trường, đồng thời bổ sung mới về chức năng cho bảo tàng đó là
phục vụ cơng chúng, phục vụ cho xã hội và sự phát triển của xã hội không lấy
lợi nhuận làm mục đích, từ đó bảo tàng phải thực hiện được chức năng nghiên
cứu giáo dục và thưởng thức của công chúng.
Ở nước ta, nhiều năm trước đây, chủ yếu vận dụng khái niệm bảo tàng
và bảo tàng học của Liên Xô (cũ) và các nước Đông Âu vào thực tiễn sự
nghiệp bảo tàng, nhưng đến nay, khái niệm về bảo tàng ở nước ta lần đầu tiên
được khẳng định và ghi trong luật Di sản văn hóa (năm 2001) như sau: “Bảo
tàng là nơi bảo quản và trưng bày các sưu tập về lịch sử tự nhiên và xã hội
nhằm phục vụ nhu cầu nghiên cứu, giáo dục, tham quan và hưởng thụ văn
hóa của nhân dân”. Đến năm 2009 khái niệm này đã thay đổi phù hợp với
thực tiễn hơn. Bảo tàng đươc định nghĩa : “là thiết chế văn hóa có chức năng
sưu tầm, bảo quản, nghiên cứu, trưng bày, giới thiệu di sản văn hóa, bằng


11

chứng vật chất về thiên nhiên, con người và môi trường sống của con người,
nhằm phục vụ nhu cầu nghiên cứu, học tập, tham quan và hưởng thụ văn hóa
của cơng chúng.”
Tuy có nhiều định nghĩa khác nhau về bảo tàng, nhưng các nhà bảo tàng
học đều khẳng định:

- Bảo tàng là một thiết chế văn hóa đặc thù, một cơ quan văn hóa, khoa
học và giáo dục.
- Đối tượng nghiên cứu, giới thiệu của bảo tàng là những di sản văn hóa
vật thể và phi vật thể cùng mơi trường tồn tại xung quanh con người.
- Mục tiêu của bảo tàng là phục vụ công chúng.
- Các hoạt động của bảo tàng là nghiên cứu, sưu tầm, thu thập, bảo quản,
gìn giữ và trưng bày giới thiệu các sưu tập hiện vật về lịch sử xã hội, tự nhiên
và thông tin của sưu tập cho công chúng.
- Bảo tàng có nhiệm vụ tổ chức hoạt động dịch vụ phục vụ khách tham
quan phù hợp với nhiệm vụ của bảo tàng.
1.1.2. Giáo dục là gì ?
Có rất nhiều tác phẩm, bài viết đưa ra khái niệm về giáo dục, có thể nêu
ra một số ý kiến như sau :
Giáo dục là q trình được tổ chức có ý thức, hướng tới mục đích khơi
gợi hoặc biến đổi nhận thức, năng lực, tình cảm, thái độ của người dạy và
người học theo hướng tích cực. Nghĩa là góp phần hồn thiện nhân cách
người học bằng những tác động có ý thức từ bên ngồi, góp phần đáp ứng các
nhu cầu tồn tại và phát triển của con người trong xã hội đương đại.
Theo từ "Giáo dục" tiếng Anh - "Education" - vốn có gốc từ tiếng La
tinh "Educare" có nghĩa là "làm bộc lộ ra". Có thể hiểu "giáo dục là quá trình,
cách thức làm bộc lộ ra những khả năng tiềm ẩn của người được giáo dục".


12

Giáo dục bao gồm việc dạy và học, và đôi khi nó cũng mang ý nghĩa như
là q trình truyền thụ, phổ biến tri thức, truyền thụ sự suy luận đúng đắn,
truyền thụ sự hiểu biết. Giáo dục là nền tảng cho việc truyền thụ, phổ biến văn
hóa từ thế hệ này đến thế hệ khác. Giáo dục là phương tiện để đánh thức và
nhận ra khả năng, năng lực tiềm ẩn của chính mỗi cá nhân, đánh thức trí tuệ

của mỗi người. Nó ứng dụng phương pháp giáo dục, một phương pháp nghiên
cứu mối quan hệ giữa dạy và học để đưa đến những rèn luyện về tinh thần, và
làm chủ được các mặt như: ngôn ngữ, tâm lý, tình cảm, tâm thần, cách ứng xử
trong xã hội.
Dạy học là một hình thức giáo dục đặc biệt quan trọng và cần thiết cho
sự phát triển trí tuệ, hồn thiện nhân cách học sinh. Q trình dạy học nói
riêng và q trình giáo dục nói chung ln gồm các thành tố có liên hệ mang
tính hệ thống với nhau: mục tiêu giáo dục, nội dung giáo dục, phương pháp
giáo dục, phương tiện giáo dục, hình thức tổ chức và chỉ tiêu đánh giá. Đặt
khái niệm giáo dục trong trường hợp này thì giáo dục được phân loại như
sau:
- Giáo dục phổ thơng: Giáo dục phổ thơng chính chủ yếu là việc khơi
dậy những tri thức, kỹ năng cơ bản, cần thiết, sát thực nhất để học sinh có thể
áp dụng vào cuộc sống, nhằm thích nghi và hịa nhập tốt với xã hội.
- Giáo dục mầm non là việc giáo dục trong những năm tháng đầu đời,
một trong những giai đoạn học hỏi, tiếp thụ nhiều nhất trong cuộc đời. Giai
đoạn này dạy cho trẻ biết các quy ước trong cuộc sống, các kỹ năng cơ bản
thơng qua các trị chơi.
- Giáo dục cơ sở là việc dạy cho các em những kiến thức cơ bản như đọc
viết, tính tốn, tri thức về tự nhiên và xã hội.
- Giáo dục trung học là việc giáo dục cho học sinh nâng cao những kiến
thức của mình và học tập các kỹ năng sống, kỹ năng nghề nghiệp cơ bản.


13

- Giáo dục đại học: Giáo dục đại học là khơi dậy và ni dưỡng tính ham
học hỏi của sinh viên, hơn là truyền đạt kiến thức. Nói cách khác, trọng tâm
việc giảng dạy là phải nhắm đến mục tiêu nâng cao khả năng tự học của mỗi
người. Giáo dục đại học, còn gọi là giáo dục bậc 3, giai đoạn ba hay là sau

phổ thông, thường được gọi như là hàn lâm, là một bậc giáo dục không bắt
buộc.
Hay một cách tiếp cận khái niệm giáo dục khác như: Khi cắt nghĩa từ
giáo dục ra thành: giáo và dục thì chúng đều có nghĩa. Chữ Giáo ở đây có
nghìa là dạy dỗ, chỉ bày. Chữ Dục có nghĩa là mong muốn, để trở thành. Định
nghĩa chung lại chữ giáo dục có nghĩa là: chỉ bày cho ai đó một điều gì và
mong người đó trở thành người hữu dụng cho đời. Nếu chúng ta hiểu giáo dục
các bảo tàng không chỉ riêng dành các bảo tàng không chỉ riêng dành như vậy
thì sẽ có vơ số loại giáo dục. Ví dụ như giáo dục nhi đồng, giáo dục thiếu
niên, giáo dục thanh niên, giáo dục người lớn, giáo dục tâm lý học, giáo dục
học đường, giáo dục xã hội, giáo dục luân lý, giáo dục luận lý, giáo dục sinh
lý, giáo dục thống kê, giáo dục hành chính, giáo dục tài chánh v.v... và cứ thế
mỗi một loại giáo dục sẽ có một chuyên đề khác nhau.
Tóm lại, giáo dục là một hoạt động nhằm tác động một cách có hệ
thống đến sự phát triển về tinh thần, thể chất, tri thức khoa học đến một đối
tượng nào đó làm cho đối tượng đó có được những phẩm chất năng lực như
yêu cầu đề ra.
1.1.3. Giáo dục bảo tàng là gì ?
Giáo dục và phục vụ quần chúng là một trong những chức năng xã hội
chủ yếu của bảo tàng, thơng qua các hình thức hoạt động của mình nhằm để
chuyển giao có mục đích rõ ràng các thơng tin, những tri thức về khoa học,
lịch sử, văn hóa giúp cho việc hình thành thế giới quan, giáo dục tư tưởng đạo
đức, thẩm mỹ cho con người phát triển tồn diện. Cùng với nhà văn hóa, câu


14

lạc bộ, thư viện, rạp hát và chiếu phim, các khu vui chơi giải trí khác, bảo
tàng thuộc hệ thống giáo dục văn hóa ngồi nhà trường có chức năng giáo dục
góp phần hồn thiện nhân cách con người. Ngày nay, bảo tàng được quan

niệm “như là một trung tâm thơng tin có lượng thơng tin ngun gốc chính
xác, phong phú, dễ tiếp cận, là thứ học đường đặc biệt hướng vào thế hệ trẻ”.
Giáo dục bảo tàng khác với giáo dục trong nhà trường. Một bên là
chương trình bắt buộc, phải kiểm tra và thi. Còn một bên là được lựa chọn và
không phải thi. Giáo dục bảo tàng có ưu điểm là trực quan, sinh động hơn bởi
chương trình giáo dục ln gắn kết với việc trải nghiệm những mẫu vật, di
vật, tư liệu và hình ảnh gốc cùng với sự tương tác bằng thiết bị công nghệ.
Giáo dục của bảo tàng có điểm khác với cơng tác giáo dục quần chúng
của các cơ quan văn hóa khác. Các cơ quan văn hóa khác thực hiện chức năng
phổ biến và giáo dục khoa học bằng hình tượng, chữ viết, phim, ảnh sách, bài
giảng… bằng hình thức đó để mơ tả sự kiện, hiện tượng. Phương pháp đó có
những ưu điểm, song cũng có những hạn chế ở chỗ phần diễn đạt thơng qua
một hình thức trung gian, người xem tiếp thu qua hình tượng trung gian đó.
Đó là phương pháp tiếp thu có phương tiện.
Việc giáo dục theo phương pháp bảo tàng là tạo cho người xem điều kiện
để trực tiếp quan sát hiện vật đó. Qua đó người xem có thể hấp dẫn một cách
tích cực nhất, thú vị nhất, đó là phương pháp tiếp thu cảm tính trực tiếp. Việc
xem xét lịch sử bằng việc thơng qua các hiện vật gốc là hình thức độc đáo
nhất của bảo tàng. Những hiện vật gốc bao giờ cũng gây cho người xem
những cảm xúc, những tình cảm mạnh mẽ. Chính những hiện vật gốc trở
thành nguồn nhận thức tiếp giúp người xem nhận thức được quá khứ lịch sử
một cách chân thực và rung động. Từ đó có niềm tin tạo nên niềm say mê và
phấn khởi trong lao động, trong cuộc sống. Đây là phương pháp giáo dục trực
quan có kết quả nhất.


15

Tóm lại, chúng ta có thể hiểu giáo dục bảo tàng theo nhiều cách khác
nhau, tuy nhiên phải đảm bảo những nội dung khái quát nêu trên. Sau đây tôi

xin đưa ra một cách hiểu về giáo dục bảo tàng của mình: Giáo dục bảo tàng là
sự truyền bá các tri thức văn hóa thơng qua các sưu tập hiện vật được lựa
chọn, trưng bày và giới thiệu, cùng với các hoạt động phong phú đa dạng mà
bảo tàng tổ chức để phục vụ cơng chúng. Từ đó, cơng chúng có thể tự cảm
nhận tri thức lịch sử văn hóa, tự nhiên và khoa học kỹ thuật.
Hay nói cách khác, công chúng đến với bảo tàng, theo sự lựa chọn để có
thể tự mình khám phá, tìm hiểu rồi từ đó tự cảm nhận, học hỏi một cách chủ
động khơng bị sự thúc ép hoặc thụ động khi tiếp nhận thông tin và tri thức.
Một trong những điểm quan trọng đầu tiên nhằm phát triển sự nghiệp bảo
tàng trong thời đại hiện nay là đổi mới quan niệm giáo dục bảo tàng. Giáo dục
hiểu theo nghĩa rộng, không đơn thuần là những bài giảng hay thuyết trình
trong bảo tàng. Bằng nhiều cách, trực tiếp hoặc gián tiếp, bằng nhiều kênh
thông tin, thông qua con người hoặc phương tiện kỹ thuật thông tin, giáo dục
bảo tàng ngày càng đa dạng, phong phú và hiệu quả. Lượng thông tin tri thức
truyền bá cho khách tham quan trong giáo dục bảo tàng hiện nay ngày càng
lớn. Vì thế truyền bá tri thức khơng còn là sự chuyển giao một chiều từ người
giáo dục (hướng dẫn viên) sang người được giáo dục (khách tham quan bảo
tàng), mà là sự trao đổi hai chiều, tác động ảnh hưởng lẫn nhau.
Ở phương Tây, có nhà bảo tàng học cho rằng: mục đích của giáo dục bảo
tàng không phải là “dạy” mà là giúp khách tham quan “học”.
Có học giả lại chủ trương nên dùng từ trao đổi (communication) thay cho
giáo dục và cho rằng “trao đổi” có thể phản ánh rõ ràng hơn thực chất hoạt
động giáo dục của bảo tàng hiện đại.


16

Ở Trung Quốc, các học giả bảo tàng học cũng cho rằng: “Bảo tàng thực
hiện mục đích giáo dục thơng qua việc phục vụ cho khách tham quan tự
học”.(2)

1.1.4. Một số thuật ngữ liên quan đến đề tài
Công chúng (public)
Ngày nay, khái niệm “công chúng” (public) được sử dụng nhiều hơn và
có nội hàm rộng hơn khái niệm “khách tham quan” (visitor). Bởi vì, người
đến bảo tàng khơng chỉ để chiêm ngưỡng các kiệt tác, xem trưng bày mà cịn
vì nhiều mục đích khác nhau, có thể khơng liên quan đến việc tham quan như
gặp gỡ giao lưu, tham gia các sự kiện, nghỉ ngơi, thư giãn và mua sắm, ăn
uống. Bảo tàng cũng giống như các địa điểm du lịch, các câu lạc bộ, rạp chiếu
phim, nhà hát hay bất cứ nơi đâu mà ở đó có các hoạt động vui chơi giải trí
cũng đều mong muốn thu hút sự chú ý, tham gia của đông đảo mọi người.
Để phát triển năng động hoạt động giáo dục của bảo tàng, hướng tới
những nhóm khách tham quan bảo tàng khác nhau cần phải nghiên cứu công
chúng bảo tàng nhằm mục đích soạn thảo phương pháp luận chun mơn và
nội dung của những hình thức cụ thể.
Các nhà bảo tàng học Nga đã đưa ra định nghĩa về công chúng của bảo
tàng:
“Công chúng bảo tàng là tổng thể tất cả khách tham quan bảo tàng, bao
gồm cả những nhóm người, mà theo những nguyên nhân này hay khác, không
được lôi cuốn vào vòng hoạt động của bảo tàng những người tiềm năng đến
thăm trong tương lai”.
___________________________________
(2)

Vương Hoằng Quân (2008), Cơ sở bảo tàng học Trung Quốc, Nguyễn Duy Chiếm -

Nguyễn Thị Hường dịch, Nxb Thế giới, tr.459.


17


Khách tham quan (visitor)
Khách tham quan là những người đến bảo tàng để xem trưng bày, xem
trình diễn hoặc tham dự các chương trình mà bảo tàng tổ chức. Những người
cho đến nay vẫn còn chưa đến bảo tàng được coi là khách tham quan “tiềm
ẩn” của bảo tàng.
Công tác tuyên truyền giáo dục
Công tác tuyên truyền giáo dục của bảo tàng nay gọi là công tác giáo dục
là một bộ phận quan trọng nhất của sự giao tiếp bảo tàng, công tác này kế
thừa và phát huy kết quả của tất cả các khâu cơng tác trước đó như sưu tầm,
kiểm kê, bảo quản và trưng bày. Giáo dục bảo tàng là những hoạt động hướng
đến công chúng (trong nước và quốc tế) nhằm góp phần giáo dục tư tưởng,
đạo đức, thẩm mỹ, làm giàu thêm tri thức của con người.
Hướng dẫn tham quan bảo tàng
Theo từ điển tiếng Việt thì “hướng” là chỉ bảo, chỉ dẫn cho biết phương
hướng, cách thức tiến hành một hoạt động nào đó.
Hướng dẫn xem bảo tàng có ý nghĩa rộng hơn nhiều, nó phát huy tính
chủ động, năng động của người hướng dẫn đối với người xem, tôn trọng
người xem. Khách vào bảo tàng là để XEM là chính, chứ khơng phải NGHE
là chính. Bởi vậy chúng ta thường nói: khách vào xem bảo tàng chứ khơng
bao giờ nói khách vào nghe bảo tàng. Vì thế khơng nên gọi là thuyết minh mà
gọi là hướng dẫn khách. Vì cũng theo từ điển tiếng Việt thì thuyết minh là nói
hoặc chú thích cho người ta biết rõ hơn. Hiểu một cách cụ thể thì thuyết minh
là nói, minh là rõ, nghĩa là nói cho rõ. Nếu chúng ta tiến hành thuyết minh cho
khách thì mọi người vào bảo tàng chủ yếu là nghe chứ không phải là xem.
Vậy hướng dẫn tham quan bảo tàng là một trong những hình thức giáo
dục chủ yếu cơ bản của bảo tàng. Thực chất của công tác hướng dẫn tham
quan là giới thiệu, trình bày, giảng giải những vấn đề lịch sử, khoa học trên cơ


18


sở hiện vật, tài liệu và các hình thức thơng tin khác được sử dụng trên trưng
bày nhằm mục đích cuối cùng và cao nhất là phục vụ người xem. Mỗi hiện
vật hay một sưu tập hiện vật được trưng bày ở bảo tàng đều gắn liền với một
sự kiện lịch sử, nội dung khoa học nhất định. Với các bảng chú thích, etiket
giới thiệu về hiện vật, người xem đã có thể phần nào hiểu được về hiện vật.
Tuy nhiên khách tham quan khơng dừng lại ở đó mà họ cần được hướng dẫn
cụ thể để có thể hiểu được đầy đủ nội dung ý nghĩa của hiện vật đang trưng
bày.
Nhân vật lịch sử / Nhân chứng lịch sử
- Nhân vật lịch sử là người trực tiếp tham gia các sự kiện đã diễn ra
trong quá khứ.
- Nhân chứng lịch sử là người có thể tham gia trực tiếp hoặc không trực
tiếp tham gia sự kiện nhưng chứng kiến sự iện diễn ra.
Hướng dẫn viên
Hướng dẫn viên là người thay mặt cho bảo tàng tiếp đón khách và trực
tiếp hướng dẫn khách tham quan.
Cán bộ giáo dục
Các chương trình giáo dục chính thức hoặc khơng chính thức ngày nay đã
trở thành sức mạnh của hoạt động bảo tàng. Cán bộ giáo dục phát triển,
chương trình giáo dục dựa trên cơ sở chức năng nhiệm vụ của bảo tàng với
mục đích khuyến khích cơng chúng tiếp cận, hiểu biết sưu tập, trưng bày và tư
liệu của bảo tàng. Các chương trình giáo dục gồm có tour guide, trình diễn,
ứng khẩu, lớp học, hành trình, phim, thuyết trình, sự kiện đặc biệt, thực hành,
lớp đào tạo cho giáo viên, … Cán bộ giáo dục có thể tham gia lập kế hoạch
trưng bày, hoặc là thành viên của nhóm quản lý bảo tàng. Cán bộ giáo dục có
trách nhiệm đào tạo hướng dẫn viên.


19


1.2. MỘT SỐ HÌNH THỨC GIÁO DỤC BẢO TÀNG MỚI
VÀ TIÊN TIẾN
Các hình thức giáo dục và phương pháp phục vụ xã hội của bảo tàng
ngày nay rất phong phú đa dạng, mn màu mn sắc. Những hình thức,
phương pháp phục vụ này ở nước ta có: hướng dẫn tham quan, trợ giúp giảng
dạy, tổ chức thuyết trình, triển khai các hoạt động giáo dục như chiếu phim
đèn chiếu, băng hình, chiếu phim, tổ chức triển lãm lưu động, biên soạn và in
ấn bản thuyết minh trưng bày và tờ gấp, tờ rơi hướng dẫn du lịch để phụ trợ
cho quá trình tham quan, biên soạn và in ấn các catalog hiện vật bảo tàng,
xuất bản các tác phẩm chuyên khảo nghiên cứu hiện vật và khoa học chuyên
ngành, xuất bản tạp chí hoặc tập san định kỳ của bảo tàng, thành lập câu lạc
bộ bảo tàng … Đó là những hình thức giáo dục mà các bảo tàng ở nước ta đã
triển khai.
Đến nay, trên thế giới đã hình thành và đưa vào ứng dụng các hình thức
giáo dục tiên tiến mới như:
Chương trình giáo dục từ sưu tập hiện vật
Công tác giáo dục bảo tàng liên quan chặt chẽ nhất tới bản chất của các bộ
sưu tập. Mỗi bộ sưu tập đều cần sự nghiên cứu, phân tích kỹ lưỡng của đội
ngũ các nhà khoa học, nhà giáo dục học nhằm phát triển những kiến thức
phục vụ cho giáo dục chi tiết và phù hợp với yêu cầu giảng dạy học sinh. Khi
các mục tiêu này được xác định, các chương trình giáo dục có thể được thiết
kế để đẩy mạnh những hiểu biết về các hiện vật và những yếu tố có liên quan.
Cơng việc này cần được thực hiện cho cả các tiết giảng dạy hay những buổi
sinh hoạt tập trung và cả trong nội dung các cuộc trưng bày và triển lãm, cả
trong thời hạn ngắn và lâu dài. Bảo tàng cung cấp toàn bộ các loại kiến thức
và thông tin về các hiện vật hay mẫu vật trong các bộ sưu tập. Người lập
chương trình giáo dục tìm xem loại thơng tin nào phù hợp với các nhóm tham
quan khác nhau và những nội dung nào là quan trọng để truyền tải. Sau đó, sử



20

dụng những kiến thức đó để quyết định việc thiết lập chương trình và các
phương tiện cần thiết, để qua đó q trình học tập có thể được hồn thiện.
Tham quan có hướng dẫn và các cuộc đối thoại giáo dục
Nhằm dần từ bỏ cách học theo kiểu hỏi-và-đáp truyền thống trong các trường,
các cán bộ giáo dục ngày nay sử dụng một loạt các kiểu tiếp xúc khác nhau.
Sự tham gia tích cực của các học sinh và các thanh viên khác rất được khuyến
khích, giúp họ sử dụng tất cả các giác quan cũng như khuyến khích sự thể
hiện bản thân. Thay vì giảng giải tất cả mọi thứ cho họ, cán bộ giáo dục giúp
họ tìm hiểu và khám phả, mơ tả và kiểm nghiệm những gì họ thấy. Cán bộ
giáo dục bảo tàng chỉ giúp họ tự khám phá mà thôi.
Không gian giáo dục
Sự phát triển công tác giáo dục bảo tàng cần phải đi kèm với việc cung
cấp những không gian phục vụ cho công việc này. Đây có thể là những khu
vực triển lãm có tên là các triển lãm phục vụ giảng dạy được thiết kế để minh
hoạ cho những chủ đề cụ thể, các phòng học, các khu vực trưng bày hay
những khu vực học tập khác có thể được các trường học, các cá nhân tham
quan hay các nhóm học tập sử dụng trong thời hạn kéo dài. Các không gian
đặc biệt cho giáo dục bảo tàng thường được trang bị những thông tin và
phương tiện hỗ trợ - cho phép người tham gia có sự kiểm định sâu sắc, dày
đặc và năng động với những đề tài liên quan.
Thành lập phòng khám phá, phòng giáo dục
Phòng khám phá, phòng giáo dục là một trong những hoạt động văn hóa
của bảo tàng. Tất cả các hoạt động trong thế giới của con người mà bảo tàng
muốn gửi đến công chúng đều có thể thực hiện được thơng qua phịng khám
phá. Với hình thức hoạt động này có thể thu hút được sự chú ý tham gia của
mọi lứa tuổi, giới tính
Sử dụng thiết bị khoa học kỹ thuật vào công tác giáo dục

Các chương trình tương tác là vận dụng kỹ thuật nghe nhìn như ghi âm,
ghi hình, phim, đĩa CD và phim đèn chiếu, công nghệ thông tin, nghệ thuật thị
giác … ứng dụng để xây dựng các nội dung giáo dục đặc biệt. Đặc điểm của


21

các chương trình tương tác giáo dục vừa có âm thanh vừa có hình ảnh, hình
tượng trực quan, sinh động, hấp dẫn.
Mở phòng kỹ thuật phục vụ giáo dục
Những bảo tàng có điều kiện, có thể thiết kế phịng điện hóa giáo dục tại
phịng tọa đàm và báo cáo khoa học hoặc phòng nghỉ của khách tham quan,
trang bị phim phịng chiếu băng video, đĩa CD hoặc phim nhựa có liên quan
đến trưng bày và hiện vật, định giờ chiếu cho khách tham quan xem, hoặc có
thể chiếu theo yêu cầu của khách tham quan. Đề tài của băng hình rất rộng,
như những nhân vật, sự kiện, tinh hoa vă hóa, việc chế tác, thu thập các tiêu
bản động thực vật, danh lam thắng cảnh, di chỉ cách mạng, khu lưu niệm …
có liên quan đến nội dung trưng bày. Nguồn của phim đèn chiếu, băng video
và đĩa CD chủ yếu đến từ ba nguồn: Tự sản xuất; hợp tác sản xuất với các bảo
tàng khác hoặc đài truyền hình; trao đổi băng hình với các bảo tàng. Ngồi ra
có thể sao lại hoặc mua những phim chuyên đề có liên quan đến nội dung
trưng bày của bảo tàng do đài truyền hình sản xuất
Vận dụng kỹ thuật điện tử để thuyết minh
Sử dụng kỹ thuật điện tử trong công tác thuyết minh tức là sử dụng kỹ
thuật âm thanh và ánh sáng. Khi nói đến một tủ trưng bày hay hiện vật trưng
bày nào đó, đèn chỉ thị sẽ chiếu sáng hiện vật này, khiến sự giảng giải và hiện
vật cấu thành một chỉnh thể thống nhất. Tùy vào tình hình cụ thể, có thể kết
hợp âm nhạc với nội dung trưng bày, nhằm đạt được hiệu quả giáo dục nghe
nhìn kết hợp. Việc vận dụng kỹ thuật điện tử để tiến hành thuyết minh sẽ gặp
phải sự hạn chế nhất định về điều kiện kinh tế và điều kiện kỹ thuật. Nên hiện

nay chỉ có một số ít bảo tàng đang thử nghiệm.
- Chiếu băng hình trong phịng trưng bày
Trên tuyến trưng bày của phòng trưng bày và ở vị trí thích hợp đặt hệ
thống truyền hình cáp, lựa chọn nội dung, hiện vật, tiêu bản trọng điểm của


×