Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (66.46 KB, 10 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
A . PHẦN MỞ ĐẦU
I/ ĐẶT VẤN ĐỀ .
Ở vùng nông thôn đa số học sinh vào lớp 1 để học , nhưng chỉ có 2/3 sỉ số đã qua
lớp mẫu giáo, cịn lại 1/3 chưa qua lớp mẫu giáo. Do đó cịn một số các em vừa mới ở
gia đình bước vào trường tiểu học .
Đối với trẻ em, việc bắt đầu đi học ở trường phổ thông là bước ngoặt quan trọng
trong cuộc sống, là sự chuyển qua một lối sống mới và những điều kiện hoạt động mới
, chuyển qua một vị trí mới trong xã hội và những mối quan hệ qua lại mới với người
lớn và các nạn cùng tuổi . Để bước sang giai đoạn mới trong cuộc sống trở thành một
học sinh thực thụ, trẻ cần phải có những tiền đề cần thiết hay cịn gọi là sự “ Chín mùi
đến trường” để có thể thích ứng được với những điều kiện mới của môi trường học
đường . Đối với trẻ mẫu giáo hoạt động chơi giữ vai trị chủ đạo . Đó là hoạt động phù
hợp nhất với nhu cầu, hứng thú và khả năng của trẻ ở giai đoạn này . Chơi là hoạt
động mang tính chất thoải mái, khơng bắt buộc ( Thích thì chơi khơng thích thì khơng
chơi ).
Vào lớp 1, trẻ em cần phải làm nhiệm vụ của một học sinh, hoạt động học tập giữ
vai trò chủ đạo. Hoạt động học tập hoàn toàn mới đối với trẻ, khác với hoạt động chơi
như đã nêu trên, hoạt động học tập là một hoạt động có ý nghĩa. Bản thân mỗi học
sinh phải cố gắng, tự giác và có tinh thần trách nhiệm học tập mới có thể đạt kết quả
tốt . Vào học ở trường phổ thơng, trẻ phải hồ nhập vào mối quan hệ mới với những
người xung quanh, với thầy cô. Mối quan hệ thầy cô đối với trẻ lúc này mang tính
chất thầy - trị . Vì vậy, khi nhập học lớp 1 Tiểu học, trẻ cần có sự chín mùi đến
trường về tất cả các mặt tâm - sinh lý, thích ứng xã hội để thích nghi được với những
điều kiện mới của môi trường học tập ở trường học phổ thông và cuộc sống .
Hoạt động dạy học ở lớp 1, người giáo viên không thể dạy chữ mà còn dạy cho
học sinh làm người hoặc để thành người có ích cho xã hội trong thời đại mới .
Để thực hiện điều đó quả thật khơng dễ dàng chút nào. Nhà trường đòi hỏi người
giáo viên tiểu học phải có trình độ học thức, nghiệp vụ sư phạm cao và nhận thức hiểu
rõ từng em về tâm sinh lí của trẻ để khơng ngừng dạy tốt các mơn học chương trình
sách mới như hiện nay, mà cịn có năng lực hình thành giáo dục cho trẻ nề nếp và
nhân cách của học sinh.
Muốn đáp ứng được yêu cầu mới của trường Tiểu học trong” thời kỳ đổi mới”,
không chỉ là trách nhiệm của mỗi giáo viên đối với trẻ thơ mà còn là sự khẳng định
mình trong cương vị giáo viên hồn chỉnh theo tiêu chuẩn mới của nhà trường Tiểu
học hiện nay .
dựng” Một số biện pháp giúp học sinh xây dựng thói quen về nề nếp học tập cho học
sinh lớp 1“ để áp dụng vào thực tiển lớp mình.
1/ Lý do chọn đề tài :
Tôi mong muốn cho các em có nhân cách tốt về phẩm chất đạo đức, để tiếp tục
hoà nhập vào cộng đồng, trở thành người có ích cho xã hội .
2/ Ýù nghĩa chọn đề tài :
Muốn khắc phục nhược điểm ở nơi học sinh là : cần thật sự coi trọng tâm sinh lí
của học sinh, chăm lo sự phát triển từng em.
3/ Mục đích chọn đề tài :
Tuy nhiên cho đến nay, đa số phụ huynh cho rằng : Việc giáo dục cho học sinh có
nề nếp và muốn cho con em mình ngoan học tốt thì phải “ Chọn mặt gởi vàng “…
Để có nền tảng cho học sinh tham gia vào đời sống của xã hội thì người giáo viên
II/ KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU .
1/ <i><b>Khách thể</b></i> :
- Đối với những học sinh khơng có nề nếp học tập là chưa có qua lớp mẫu giáo .
- Đối với học sinh do tính hiếu kì, hay làm mất trật tự trong giờ học .
2/ <i><b>Đối tượng nghiên cứu</b></i> :
Là học sinh lớp 1A1 trường Tiểu học Mỹ Tú A .
B . PHẦN NỘI DUNG
I/ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1/ <i><b>Thực trạng</b></i> :
Qua nhiều năm tôi chủ nhiệm lớp 1, nhất là năm học 2006-2007 với sỉ số học sinh
là :
Tổng số : 24 học sinh
+ Nam : 12 học sinh
+ Nữ : 12 học sinh
* Về nề nếp học tập :
- 12 học sinh xếp loại khá đạt : 50%
- 6 học sinh xếp loại trung bình đạt : 25%
- 6 học sinh xếp loại chưa có nề nếp học tập đạt : 25%
Ở những em khơng có nề nếp học tập là chưa có qua lớp mẫu giáo 5 tuổi. Do tính
hiếu kì, hay làm mất trật tự trong giờ học hay sinh hoạt chung, gây cho giáo viên
khơng ít khó khăn dẫn đến kết quả khơng tốt, mang tính phản giáo dục.
Từ đó tơi quyết định thăm dò lớp bạn, học hỏi đồng nghiệp, tham dự các buổi chào
cờ, nhất là lắng nghe ý kiến đóng góp của Ban giám hiệu, phê và tự phê các lớp.
Tôi rút ra nhiều kinh nghiệm và đem áp dụng tương đối tốt, tôi thấy cần đạt hiệu
quả tốt hơn là tìm cho mình biện pháp theo dõi tâm lí của từng em, rồi để lọc ra những
em chưa có nề nếp học tập, sau đó chia đều ở các tổ để tự hỗ trợ cho nhau, em có nề
nếp dẫn dắt em chưa có nề nếp, đồng thời cố gắng bắt chước bạn mình . Kế đến tơi
chun sâu vào các em chưa có thói quen về nề nếp học tập, dẫn tới tình trạng nhân
cách, đạo đức khơng tốt. Tơi chia các em chưa có nề nếp tốt và các em có nề nếp tốt
thành hai nhóm riêng và dùng các biện pháp khác nhau.
Đối với các em hiếu kì hiếu động cần phải nắm được đặc điểm ở chúng là tính
ngang bướng, thường hay làm trái ý giáo viên ỉ lại, khi học phát biểu lung tung, xếp
hàng hay phá bạn, khi chào cờ đùa giỡn không chú ý lắng nghe… Cố ý làm sai với
bạn, mà phải làm theo ý thích của mình, cố tình làm sai để thỏa mãn hứng thú của
mình. Tơi liền áp dụng biện pháp thứ nhất là giáo dục các em hiếu kì, hiến động điển
hình như em : Đăng, Khang, Khương, Tài … để khắc phục được nhược điểm của các
em, tôi sắp các em ngồi gần tổ trưởng, giúp các em thấy cái sai của mình. Biết các em
thích dỗ ngọt, tơi ln nhẹ nhàng giải thích : khi ngồi học lắng nghe thầy(cô) giảng
bài, thầy cô hỏi biết đưa tay phát biểu. Khi nói chuyện dùng từ vâng, ạ, dạ, thưa… thì
mọi người cho mình là bé ngoan . Nhưng khi ngồi học mà ngồi không tốt, không chú ý
lắng nghe thầy ( cô) giảng bài, thụ động trong học tập, không lễ phép với mọi người …
thì mọi người cho mình là bé khơng ngoan . Tơi đưa ra ví dụ điển hình một số em
ngoan biết vâng lời thầy (cô), vâng lời cha mẹ như em : Thảo, Vinh, Dung…
2/ <i><b>Giải pháp đề ra</b></i>:
Trong những năm trước đây, tôi cho rằng dạy học trong chương trình học là đủ,
nhưng đến ngày nay tơi nhận thấy việc xây dựng thói quen về nề nếp học tập là thước
đo của tầm quan trọng trong việc phát triển trí thức của trẻ, nhất là học sinh mới vào
lớp 1 .
a/ Để học sinh đạt kết quả cao về nề nếp học tập :
Như chúng ta đã biết học sinh lớp 1 rất tôn trọng và yêu quý thầy (cô) giáo, lứa
tuổi các em là lứa tuổi hồn nhiên chân thật. Vì vậy, điều đầu tiên cần chú ý : Đối với
giáo viên phải đối xử với học sinh một cách tự nhiên, thể hiện được sự chân thật, sự
quan tâm chăm sóc, dạy dỗ thật lịng thương yêu đặc biệt. Như vậy mới giúp các em
vượt qua khó khăn trong học tập cũng như việc hình thành nề nếp học sinh trong giờ
lên lớp cũng như ở mơi trường : Nhà trường, gia đình và xã hội .
* Việc hình thành nề nếp trong nhà trường :
Muốn như thế giáo viên phải giải thích từng phần cụ thể cho học sinh hiểu để thực
hiện .
<i><b>Ví dụ</b></i> : Đi học đúng giờ, nghỉ học phải xin phép, khơng chạy nhảy, rượt đuổi; kính
trọng và vâng lời thầy (cô) giáo, vào lớp thuộc bài và làm bài đầy đủ, ngồi học đúng
qui định, biết xếp hàng vào lớp cũng như ra về … biết xưng bạn với nhau khi nói
chuyện .
Hàng tuần ngày thứ hai các em được ra sân sinh hoạt dưới cờ, hoạt động này thật
mới mẽ đối với các em . Giáo viên hướng dẫn học sinh cần có thái độ kính cẩn, trang
nghiêm khi chào cờ. Biết xếp hàng ngay ngắn hai tay bn xi, tư thế nghiêm trang,
khơng nói chuyện đùa giỡn khi chào cờ cũng như khi nghe BGH và TPT phổ biến
công việc hay giáo viên trực ban lên tổng kết hoạt động trong tuần và tổng kết phong
* Nề nếp học tập ở lớp 1 :
- Muốn hình thành nề nếp học tập ở lớp đối với học sinh lớp 1 bước đầu giáo viên
phải hướng dẫn để học sinh hiểu và thực hiện theo kí hiệu đã qui định .
<i><b>Ví dụ</b></i> : Giáo viên ghi ở góc bảng lớp 0 thì các em biết để tay lên bàn, mắt
nhìn lên bảng. Giáo viên ghi S 10 học sinh biết lấy sách ra mở trang 10 , ghi V
lấy vở ra, ghi BC lấy bảng cài, ghi B lấy bảng con .
Từ những thao tác của giáo viên giúp học sinh hình thành thói quen chú ý , nhận
biết khi cần thiết .
Quá trình chú ý nghe giảng của học sinh cũng hết sức quan trọng . Muốn vậy khi
dạy bài mới giáo viên cần có đồ dùng trực quan tạo sự thu hút học sinh. Giáo viên
phải bao quát lớp, đồng thời thành lập đội sao đỏ, từ đó đề ra tiêu chuẩn thi đua giữa
các tổ trong lớp .
<i><b>Ví dụ</b></i> : Tổ nào trong một buổi học để giáo viên nhắc nhở 3 lần sẽ bị trừ điểm thi
đua ( mỗi tuần ), mỗi tổ trực 50 điểm sau đó trừ dần.
Tổ nào cuối tuần có số điểm cao nhất sẽ được thầy (cơ) tuyên dương, sau đó
thưởng cho các thành viên trong tổ mỗi em 1 viên phấn màu .
Từ những lời khen cộng thêm phần thưởng nho nhỏ để khích lệ các em thi đua cố
gắng giữ trật tự trong khi thầy (cơ) giảng bài cũng như trong suốt q trình học .
<i><b>Ví dụ</b></i> : Trong một tiết học các em chú ý không lo ra, không bị thầy ( cô ) nhắc nhở,
hăng hái phát biểu ý kiến. Đến cuối tiết học giáo viên gọi các em lên trước lớp tuyên
- Việc sắp xếp chỗ ngồi của các em cũng cần được giáo viên hết sức qua tâm. Sau
khi vào học khoảng 2 tuần, bước dần giáo viên cũng nắm được và phát hiện học sinh
nào khá, trung bình, yếu từ đó sắp xếp chỗ ngồi cho các em.
<i><b>Ví dụ</b></i> : Một em khá ngồi gần em yếu, để các em giúp nhau học tập, em ham chơi,
lo ra, không chú ý bài, thường xuyên nói chuyện phải ngồi gần lớp trưởng hoặc sao
đỏ, hay phó học tập ( Lớp trưởng, sao đỏ, phó học tập là những người gương mẫu). Từ
đó cũng hình thành nề nếp cho các em.
Đặc biệt tư thế ngồi viết của học sinh hết sức quan trọng. Giáo viên cần hướng dẫn
ngay từ đầu, cần giải thích giáo dục thêm cho học sinh biết, nếu không ngồi đúng tư
thế, tầm nhìn khơng hợp lý sẽ dẫn đến hậu quả như : Vẹo cột sống, cận thị… Sẽ ảnh
hưởng đến việc học tập về sau .
Đồ dùng cho các em học tập phải cần được hướng dẫn cụ thể .
<i><b>Ví dụ</b></i> : Phải có hộp hoặc túi đựng bơng lau, phấn, tập sách bao bìa dán nhãn cẩn
thận… khơng xé tập làm đồ chơi, không viết vẽ bậy vào vở .
Cịn đối với các em thụ động thì sao ? Tơi tìm cho mình biện pháp thứ hai : Ngay
từ đầu năm tôi đặc biệt quan tâm tới các em bằng cách liên hệ với phụ huynh cùng tôi
uốn nắm giáo dục những em có tính nhút nhát, vận động phụ huynh khuyến khích các
em xem tiết mục kể chuyện thiếu nhi qua ti vi, nghe đài, động viên đưa tay phát biểu,
tập tính mạnh dạn khi đứng trước đám đơng, nói to rõ lời, diễn tả bằng động tác phù
hợp.
Ở gia đình thì vậy, cịn ở trường tơi tìm biện pháp mới lạ gây hứng thú cho các em
như : trong tiết học để các em không uể oải phần giới thiệu và chuyển ý sinh động để
riêng, dẫn tới không hiểu bài. Những trường hợp như thế nếu thầy ( cô ) không xử lý
kịp thời các em dễ sinh ra bướng bỉnh. Tôi rất băn khoăn với những em như thế, vào
đầu giờ học tôi luôn động viện các em ngồi đúng tư thế, ngồi đẹp, hứa có thưởng cho
những em học ngoan.
Tôi luôn chú ý và nhắc nhở các em đúng lúc và khen ngợi kịp thời, sữa sai đúng
theo từng trường hợp . Thế là dần dần quên đi sự nghịch phá và luôn chăm chỉ nghe
lời thầy ( cô ), để cuối tiết học các em được thưởng, các em sẽ thích thú .
b/ Kết hợp xây dựng nề nếp giữa nhà trường và gia đình :
Việc kết hợp xây dựng nề nếp giữa nhà trường và gia đình cần phải có sự ủng hộ
nhiệt tình của từng phụ huynh .
Giáo viên chủ nhiệm phải gặp gỡ phụ huynh trong ngày Đại hội phụ huynh và
cùng nhau đề ra những biện pháp cụ thể :
+ Giáo viên cùng phụ huynh đề ra thời gian học tập cụ thể.
Tơi thiết nghĩ trong mỗi gia đình tuỳ theo tâm lý, sở thích của con em mình mà lực
chọn, để tạo dựng các em một “góc học tập” phù hợp, từ kích thước, địa điểm đến
cách bày trí. Nếu có thể cho các em được lựa chọn, sao cho thật gần gũi, gắn bó, phù
hợp với tâm lý lứa tuổi . Điều quan trọng là cái “góc nhỏ” ấy phải thực sự của “
riêng “ các em . Từ đó, hình thành trong tâm hồn các em tình u đối với” góc học
tập” đi đâu cũng nhớ về “ chốn riêng” bởi nơi ấy có những hình ảnh thân thuộc… của
mỗi bức tranh, quyển sách, cây bút, hay chút ít đồ chơi kỷ niệm của bạn bè. Tất cả
đều gần gũi thân thương như những người bạn tri âm, tri kỷ, không thể rời xa. Hoa
điểm 10 sẽ nẩy nở từ đây, đến một ngày nào đó, tự các em sẽ hình thành được cho
bản thân kĩ năng tự học từ cái “ góc nhỏ” thân thương này. Bên cạnh đó tơi cùng phụ
huynh đề ra một số biện pháp như sau :
<i><b>Ví dụ</b></i> : + Sáng 5 giờ 30 thức dậy vệ sinh cá nhân .
+ 6 giờ – 6 giờ 15 : Kiểm tra đồ dùng học tập .
+ 6 giờ 15 – 6 giờ 40 : Aên sáng
+ 6 giờ 40 – 7 giờ 10 : Đến lớp học .
+ Trưa 12 giờ – 13 giờ30 : Ngủ
+ Chiều 13 giờ 30 – 14 giờ : Vệ sinh
+ 14 giờ – 15 giờ 30 : Học
+ 15 giờ 30 – 16 giờ 30 : Nghỉ, vui chơi
+ 16 giờ 30 đến 18 giờ : Aên cơm , tắm …
+ Tối 18 giờ – 19 giờ 15 : Xem ti vi, vui chơi ..
+ 19 giờ 15 – 20 giờ : Học
+ 20 giờ trở đi : Ngủ.
- Giáo viên và phụ huynh cùng ký kết hợp đồng trách nhiệm những việc cụ thể
+ Giờ nào việc ấy, học theo thời khóa biểu hơm sau :
+ Khơng sai vặt khi các em ngồi học .
+ Tạo khơng khí n tĩnh khi các em ngồi học, đồng thời chú ý theo dõi đôn đốc
các em
+ Mỗi tháng một lần giáo viên tạo điều kiện gặp gỡ phụ huynh để thăm hỏi việc
học ở nhà của các em .
- Một số gia đình gặp khó khăn về kinh tế nên góc học tập và đồ dùng học tập
còn thiếu. Giáo viên động viên, giải thích để có được góc học tập của các em là một
bàn nhỏ, một ghế, đồ đựng sách vở và một mảnh ván nhỏ để làm kệ . Chủ yếu có chỗ
để các em học và cất tập vở tạo sự ngăn nắp trong học tập . Tạo được thói quen gọn
gàng, ngăn nắp cho các em .
- Qua theo dõi tháng thứ nhất có 10 em có góc học tập, tháng thứ hai có 14 em có
góc học tập, tháng thứ ba có 16 em có góc học tập .
- Việc học ở nhà các em cịn gặp khơng ít khó khăn. Một số gia đình nghèo phụ
huynh đi làm thuê hoặc trồng trọt… không trực tiếp ở nhà đôn đốc nhắc nhở dạy dỗ
các em . Do đo,ù những em này kết quả học tập yếu . Nắm được hoàn cảnh các em như
thế giáo viên thường động viên các em tự giác học, chú ý bài trong lớp, mặt khác gặp
phụ huynh nhắc nhở để phụ huynh phân bố công việc và quan tâm, chăm sóc dạy bảo
con em mình nhiều hơn .
- Qua quá trình thực hiện, theo dõi thì thấy các em có chuyển biến tốt về ý thức
học tập, chất lượng học tập. Số học sinh không thuộc bài, không làm được bài ít đi .
- Cuối tháng giáo viên tổng kết điểm ghi vào sổ liên lạc để phản ánh trực tiếp kết
quả học tập của học sinh về gia đình đồng thời có ý kiến nhận xét đề nghị .
3/ <i><b>Kết quả</b></i> :
Qua q trình thực hiện xây dựng nề nếp học tập của học sinh lớp 1 đạt được một
số kết quả sau :
- Tháng thứ nhất có khoảng 30% các em biết sử dụng dụng cụ học tập, xếp hàng
vào lớp . Nhưng vẫn còn 70% các em chưa biết sử dụng, còn mất trật tự, nói chuyện
riêng, rụt rè khi phát biểu.
- Tháng thứ hai : Lớp đã vào nề nếp ổn định dần đa số các em đã thực hiện thao
tác chính xác khi phát biểu hoặc khi sử dụng đồ dùng học tập tăng lên khá tốt. Tôi
tiếp tục thực hiện các biện pháp trên vào đến hết học kì I về nề nếp tăng lên .
- 18 học sinh xếp loại tốt, đạt : 75%.
- 4 học sinh xếp loại khá, đạt : 16,66%
Song song đó tơi áp dụng cho đến hết học kì II khơng cịn học inh xếp loại về nề
nếp đạt trung bình .
* Tơi tiếp tục vận dụng sáng kiến kinh nghiệm trên vào năm học 2007-2008 ở
tháng 2, tháng đầu và những tháng tiếp theo của học kì I, cho đến nay tôi nhận thấy
các biện pháp trên giúp các em đạt kết quả rất khả quan cụ thể là :
+ Tổng số học sinh lớp 1A1 : có 26 em
+ Học sinh có nề nếp :
- 22 học sinh xếp loại tốt đạt : 84,61 %
- Khơng có học sinh xếp loại trung bình và yếu .
Song song đó tơi đã áp dụng những kinh nghiệm trên vào thực tế của lớp mình kết
quả đạt được cho đến hết học kì II đạt loại tốt 100%.
Qua kết quả học sinh đạt được như trên đã giúp cho giáo viên như tơi xố tan đi
những cổ hũ giữa thầy và trò. Đem đến sự vui mừng và hạnh phúc mỗi khi lên bụt
giảng.
II/ <i><b>BÀI HỌC KINH NGHIỆM</b><b> </b></i>:
* Với kết quả trên tôi rút ra bài học kinh nghiệm cho bản thân như sau :
- Qua những tháng đầu năm học lớp thường bị đánh giá không có nề nếp, các em
cịn rụt rè, nhút nhát, hiếu kỳ, hiếu động, ngang bướng, tỷ lệ yếu kém nhiều. Nhưng
qua một học kì đa số các em có nề nếp rất tốt, số em yếu kém khơng cịn.
- Nhưng với nổ lực của bản thân, tơi ln tìm ra biện pháp mới để nâng cao chất
lượng dạy học. Tạo sự hài hồ giữa thầy và trị, gây sự thích thú học tập và nghiêm
túc trong giờ học, giúp các em học tốt hơn.
- Ngoài sự cố gắng của bản thân, tôi luôn được sự chỉ đạo của Ban giám hiệu nhà
trường và sự giúp đỡ của phụ huynh học sinh qua sổ liên lạc, trong Đại hội phụ huynh
học sinh, tơi ln thơng báo cho gia đình những tiến bộ hoặc khuyết điểm của các em
để phụ huynh giúp tơi trong q trình rèn luyện các em .
- Thường xuyên nghiên cứu kiû tâm sinh lý học sinh qua thực tiển trên lớp và tài
liệu …
- Suy nghĩ tìm ra những biện pháp tối ưu nhất, tạo điều kiện cho các em hịa nhập
vào mơi trường mới ( học là chính ) thoải mái nhất .
- Biến nội qui, kế hoạch của trường thành kế hoạch lớp, thi đua trong lớp .
- Chú ý lắng nghe ý kiến phụ huynh trong công tác giáo dục ( đa số phụ huynh
hay kể về tính tình con mình) trong dịp gặp gỡ đầu năm, giữa năm, khi họp phụ huynh,
khi đưa rước…
tuyên dương kịp thời những em học tập tốt, những em thực hiện tốt các qui định của
trường lớp .
- Xây dựng ngay từ đầu về tổ chức lớp học, đồng thời trong giảng dạy phải nhiệt
tình, tạo tình huống kích thích học sinh liên tục ( khơng đơn điệu, máy móc ) tạo sự
chú ý của các em trong bài học …
- Thường xuyên kết hợp với cán bộ lớp kiểm tra dụng cụ học tập, nề nếp học sinh
trong sinh hoạt dưới cờ, lớp giảng dạy chính khố… kết hợp với gia đình theo dõi thời
gian biểu đối với các em .
- Thầy ( cơ ) phải nhiệt tình, gương mẫu, hồ nhập vào lớp với tình thương “thầy
(cơ ) giáo như mẹ hiền “, đồng thời phải học hỏi những kinh nghiệm quý báu của thầy
cơ có nhiều kinh nghiệm trong việc quản lí học sinh đạt hiệu quả cao .
C PHẦN KẾT THÚC :
I/ <i><b>KẾT KUẬN</b></i> :
Trong q trình đổi mới giáo dục Tiểu học đổi mới phương pháp dạy học là nhu
cầu rất cần thiết. Các hình thức tổ chức dạy học mới được đưa vào trường tiểu học như
- Chuẩn bị về thể lực.
- Chuẩn bị về khả năng hoạt động trí tuệ .
- Chuẩn bị về khả năng thích ứng xã hội .
- Chuẩn bị về tâm lý, tư thế sẵn sàng đi học .
- Chuẩn bị những khả năng và hiểu biết chuyên biệt .
Việc chuẩn bị cho trẻ đi vào lớp 1 ở trường phổ thông là chuẩn bị những tiền đề
cần thiết, tạo cơ hội giúp trẻ đạt độ chín mùi đến trường về mọi phương diện : Thể
lực, trí tuệ, ngơn ngữ, tình cảm, giao tiếp và ứng xử xã hội, tư thế … để trẻ thích nghi
với hoạt động học tập và cuộc sống ở trường phổ thông là rất cần thiết .
II/ <i><b>ĐỀ XUẤT</b></i> :
* Trường : ngay từ đầu năm phân công lớp :
- Giáo viên có nhiều kinh nghiệm giảng dạy lớp 1, năng nổ trong công tác, hiểu
biết tâm lý trẻ .
- Tổ chức họp phụ huynh nhiều lần trên năm, nhất là học kì I để trao đổi với phụ
huynh nhằm tìm ra giải pháp khắc phục những thiếu sót ngay từ đầu ở nơi học sinh .
- Tổ chức dự giờ ở các lớp có nề nếp để học hỏi trao đổi kinh nghiệm .
- Chỉ đạo các trường mẫu giáo vận động trẻ em 5 tuổi vào học mẫu giáo 100% .
- Bồi dưỡng thêm cho giáo viên Tiểu học hiểu biết về tâm lý trẻ .
Tôi rất mong Hội đồng khoa học trường Tiểu học Mỹ Tú A và Hội đồng khoa
học phòng Giáo Dục & Đào Tạo huyện Mỹ Tú, xem xét và có hướng điều chỉnh hơn
và cho phép tôi được áp dụng vào thực tế ở trường tôi .
Xin chân thành cảm ơn !
Mỹ Tú A ngày 10 tháng 03 năm 2008
Người thực hiện