Tải bản đầy đủ (.pdf) (118 trang)

Di tích chùa châu lâm phường thụy khuê quận tây hồ thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (9.35 MB, 118 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI
KHOA DI SẢN VĂN HĨA

ĐỖ THU THẢO

DI TÍCH CHÙA CHÂU LÂM
(PHƯỜNG THỤY KH - QUẬN TÂY HỒ - HÀ NỘI)

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
NGÀNH BẢO TÀNG HỌC
Mã số: 52320305

Người hướng dẫn: PGS.TS. NGUYỄN VĂN TIẾN

HÀ NỘI - 2015


LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian nghiên cứu và làm việc nghiêm túc, được sự giúp đỡ
chỉ bảo tận tình của các thầy cơ trong khoa Di sản văn hóa, em đã hồn thiện
bài khóa luận này
Khóa luận này được hồn thành dưới sự hướng dẫn, chỉ bảo tận tình
của PGS.TS Nguyễn Văn Tiến. Em xin gửi đến thầy niềm biết ơn sâu sắc.
Khóa luận này cũng đánh dấu sự hồn thành q trình học tập tại trường Đại
học Văn hóa Hà Nội của em. Em xin được bày tỏ lời cảm ơn chân thành nhất
tới các thầy cô giáo trong khoa Di sản văn hóa đã ủng hộ, giúp đỡ em trong
suốt quá trình học tập và trong thời gian thực hiện khóa luận này.
Qua đây em cũng xin chân thành cảm ơn đến Phịng Văn hóa quận Tây
Hồ, Ban Quản lý di tích chùa Châu Lâm và đền Voi Phục, Cán bộ Ban Quản
lý di tích danh thắng Hà Nội đã cung cấp tư liệu và tạo điều kiện thuận lợi để
em tiếp cận, khảo sát di tích chùa Châu Lâm.


Là một sinh viên năm thứ tư, chưa có thời gian được tiếp xúc nhiều với
thực tế, kiến thức cịn hạn chế, do vậy khóa luận khó tránh khỏi những thiếu
sót. Em kính mong nhận được sự đóng góp, chỉ bảo kiến thức của các thầy cơ
giáo và bạn bè để bản khóa luận này được hồn thiện hơn nữa.
Một lần nữa em xin trân trọng cảm ơn !
Hà Nội, ngày 15 tháng 5 năm 2015
Sinh viên

Đỗ Thu Thảo


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: CHÙA CHÂU LÂM TRONG DIỄN TRÌNH LỊCH SỬ ..... 4
1.1. Khái quát về vùng đất nơi di tích tồn tại........................................... 4
1.1.1. Tổng quan và lịch sử vùng đất Thụy Khuê ................................... 4
1.1.2. Không gian văn hóa Hồ Tây ......................................................... 7
1.2. Lịch sử xây dựng và quá trình tồn tại của chùa Châu Lâm............. 9
1.2.1. Những vấn đề lịch sử .................................................................... 9
1.2.2. Lịch sử xây dựng ......................................................................... 12
1.2.3. Quá trình tồn tại và phát triển ..................................................... 14
1.2.4. Khái quát quá trình truyền bá Phật giáo vào Việt Nam .............. 16
CHƯƠNG 2: GIÁ TRỊ KIẾN TRÚC - NGHỆ THUẬT CHÙA CHÂU
LÂM ............................................................................................................ 21
2.1. Giá trị kiến trúc ................................................................................ 21
2.1.1. Không gian cảnh quan ................................................................ 21
2.1.2. Bố cục mặt bằng .......................................................................... 24
2.1.3. Các đơn nguyên kiến trúc ........................................................... 25
2.1.3.1 Tam quan................................................................................ 25
2.1.3.2 Tiền đường ............................................................................. 26

2.1.3.3 Thượng điện ........................................................................... 28
2.1.3.4 Nhà mẫu ................................................................................. 29
2.1.3.5 Nhà khách .............................................................................. 30
2.2 Giá trị điêu khắc ................................................................................ 31
2.2.1 Nghệ thuật trang trí kiến trúc ...................................................... 31
2.2.2 Nghệ thuật điêu khắc ................................................................... 38
2.2.2.1 Hệ thống tượng thờ ở Thượng Điện ...................................... 38
2.2.2.2 Hệ thống tượng ở Tiền đường ................................................ 54
2.2.2.3 Tượng Mẫu ............................................................................. 58


2.2.2.4 Tượng Tổ ................................................................................ 60
2.2.3 Các di vật tiêu biểu .................................................................... 60
2.2.4 Các ngày lễ trong năm của chùa Châu Lâm ................................ 64
CHƯƠNG 3: BẢO VỆ VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI TÍCH CHÙA
CHÂU LÂM ............................................................................................... 66
3.1 Thực trạng các đơn nguyên kiến trúc, di vật ................................... 66
3.1.1 Thực trạng về các đơn nguyên kiến trúc ...................................... 66
3.1.2 Thực trạng về di vật ...................................................................... 68
3.1.3 Thực trạng về quản lý di tích ....................................................... 69
3.1.4 Thực trạng sử dụng diện tích đất của chùa ................................. 70
3.2 Một số giải pháp bảo tồn di tích chùa Châu Lâm............................ 70
3.2.1 Cơ sở pháp lý ................................................................................ 70
3.2.2 Các nguyên tắc bảo quản, tu bổ và phục hồi di tích .................... 72
3.2.3 Các hoạt động bảo tồn .................................................................. 73
3.2.3.1 Bảo tồn khu vực bảo vệ .......................................................... 73
3.2.3.2 Bảo tồn cấu kiện kiến trúc ..................................................... 74
3.2.3.3 Bảo tồn hệ thống di vật........................................................... 76
3.3 Khai thác và phát huy giá trị di tích chùa Châu Lâm ..................... 78
KẾT LUẬN ................................................................................................. 83

TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... 85
PHỤ LỤC ................................................................................................... 91


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trải qua hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, dân tộc ta đã
lập nên một quốc gia độc lập với nền văn hiến lâu đời. Q trình lịch sử đó đã
để lại một kho tàng di sản văn hóa vơ cùng phong phú và đặc sắc. Thông qua
hệ thống di sản văn hóa chúng ta có thể tìm hiểu nắm bắt và tiếp nối những
giá trị tinh hoa mà ông cha ta để lại. Di tích lịch sử văn hóa là hình thức biểu
hiện vật chất của di sản văn hóa, nó ln có dấu ấn sâu sắc trong mọi thế hệ
người dân Việt Nam bởi trải qua sự thăng trầm của lịch sử các di tích của mọi
thời đại, ghi nhận chặng đường lao động sáng tạo của thế hệ đi trước. Đó
khơng chỉ là những giá trị vật chất cụ thể mà còn bao hàm những giá trị tinh
thần phong phú. Di tích lịch sử văn hóa là những trang sử có sức thuyết phục
lớn đối với mọi thế hệ chúng ta. Vì vậy việc nghiên cứu, tìm hiểu để từ đó bảo
tồn và phát huy giá trị của các di tích là nhiệm vụ cấp thiết, có ý nghĩa quan
trọng đối với sự nghiệp xây dựng đất nước trong thời đại mới.
Trong suốt chặng đường dài của lịch sử, với công cuộc dựng nước và
giữ nước của dân tộc thì đạo Phật ln ln hịa mình với nhịp sống của dân
tộc góp phần tơ đẹp lên những trang sử vẻ vang của đất nước. Những ngôi
chùa ở Việt Nam là biểu tượng cho chân lý thánh thiện, là nơi trung tâm sinh
hoạt văn hóa tín ngưỡng tu học của Tăng Ni và các tín đồ Phật tử, là nơi giáo
dục đạo đức hướng thiện cho tất cả mọi người. Đồng thời ngơi chùa cũng là
một cơng trình kiến trúc văn hóa nghệ thuật vơ giá của cha ông ta đã để lại.
Chùa Châu Lâm - Phường Thụy Khuê - Quận Tây Hồ -Thành phố Hà
Nội cũng nằm trong lịch sử hình thành và phát triển của Chùa Việt, trong nó
cũng chứa đựng nhiều nét độc đáo của riêng mình để phản ánh một thời đại đã
qua. Nó chứa đựng những giá trị nghệ thuật trang trí, kiến trúc điêu khắc có ý

nghĩa rất lớn đối với đời sống tâm linh của cư dân địa phương cũng như mọi
du khách khi tới thăm quan và lễ Phật.
Sau quá trình học tập và nghiên cứu vận dụng những kiến thức đã học
1


về chuyên ngành Bảo tồn - bảo tàng đi vào tìm hiểu về ngơi chùa để thấy
được những giá trị và ý nghĩa tốt đẹp và nắm bắt được thực trạng đưa ra các
giải pháp cho vấn đề bảo vệ và phát huy giá trị di tích trong giai đoạn hiện
nay là việc làm có ý nghĩa thiết thực nhằm giữ gìn các di sản văn hóa của địa
phương cũng như của đất nước.
Với lý do trên em xin chọn đề tài: Di tích chùa Châu Lâm-Phường
Thụy Khuê - Quận Tây Hồ -Thành phố Hà Nội làm bài khóa luận tốt nghiệp
của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
- Tìm hiểu về vùng đất, con người nơi di tích chùa Châu Lâm tồn tại,
làm cơ sở cho việc nghiên cứu di tích.
- Từ những nguồn tư liệu có được tìm hiểu q trình hình thành, tồn tại
của chùa Châu Lâm từ khi xây dựng đến nay và xác định những giá trị của di
tích trên hai phương diện:
+ Giá trị văn hóa vật thể: kiến trúc, di vật
+ Giá trị văn hóa phi vật thể: tín ngưỡng, thờ cúng
- Nghiên cứu thực trạng di tích, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm
bảo vệ và phát huy giá trị vốn có của di tích trong bối cảnh hiện nay.
- Cung cấp thông tin cho những người quan tâm muốn học tập nghiên
cứu, tìm hiểu về di tích chùa Châu Lâm.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là di tích chùa Châu Lâm thuộc
Phường Thụy Khuê, Quận Tây Hồ, Thành phố Hà Nội.
4. Phạm vi nghiên cứu

- Phạm vi khơng gian: nghiên cứu di tích chùa Châu Lâm trong khơng
gian lịch sử, văn hóa của Phường Thụy Kh, Quận Tây Hồ, Thành phố Hà Nội
- Phạm vi thời gian: nghiên cứu di tích chùa Châu Lâm gắn liền với q
trình hình thành, tồn tại của di tích từ khi hình thành đến nay trong phạm vi
nguồn tư liệu có được.
2


5.Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp khảo sát, điền dã thực địa: quan sát, miêu tả, ghi chép,
chụp ảnh, ghi âm..
- Tập hợp, hệ thống hóa các tư liệu liên quan đến di tích để phân tích,
đánh giá…
- Phương pháp liên ngành: Bảo tồn di tích lịch sử-văn hóa, Bảo tàng
học, Sử học, Mỹ thuật học, Dân tộc học, Văn hóa học, Khảo cổ học, Xã hội
học, Du lịch học…
6. Bố cục khóa luận
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,
khóa luận gồm có 3 chương:
Chương 1: Chùa Châu Lâm trong diễn trình lịch sử
Chương 2: Giá trị kiến trúc – Điêu khắc chùa Châu Lâm
Chương 3: Vấn đề bảo vệ và phát huy giá trị chùa Châu Lâm

3


CHƯƠNG 1
CHÙA CHÂU LÂM TRONG DIỄN TRÌNH LỊCH SỬ

1.1. Khái quát về vùng đất nơi di tích tồn tại

1.1.1. Tổng quan và lịch sử vùng đất Thụy Khuê
Chùa Châu Lâm hiện nay tọa lạc tại ngõ 199 phường Thụy Khuê, quận
Tây Hồ, thành phố Hà Nội. Thụy Khuê là một trong tám phường của quận
Tây Hồ, phía bắc giáp phường Quảng An, phía nam giáp phường Ngọc Hà,
Cống Vị (quận Ba Đình), phía đơng giáp phường Trúc Bạch, phía tây giáp
phường Bưởi.
Thụy Khuê là một vùng đất cổ có bề dày tạo dựng và phát triển từ rất lâu
đời, mảnh đất gắn liền với sự hình thành và phát triển của kinh thành Thăng
Long thời Lý Trần. Phường Thụy Khuê xưa có tên là Thụy Chương, cái tên
Thụy Chương này do trên mảnh đất tại đây thời Trần có xây dựng cung điện
Thụy Chương, nơi triều đình tổ chức lễ khánh hạ. Tấm bản đồ Hà Nội in năm
1831 có ghi cửa ô tên là “Thụy Chương ô môn” (nay là công viên Lý Tự
Trọng) cho chúng ta biết cái tên Thụy Chương từng tồn tại từ thời gian đó.
Trải qua một thời gian dài hơn 300 năm dưới triều Lê (1428-1788),
Thụy Khuê là một trong 36 phường hợp thành Kinh thành Thăng Long. Qua
các đời Tây Sơn và Nguyễn, kinh đô chuyển vào Huế, Thụy Chương là làng
thuộc huyện Thọ Xương tỉnh Hà Nội. Đến đời Tự Đức mới đổi Thụy Chương
thành Thụy Khuê. Sau khi chiếm đóng và đặt được ách bảo hộ lên Việt Nam,
năm 1889 thực dân Pháp qui hoạch thành phố Hà Nội, Thụy Khuê cùng các
làng ven Hồ Tây là khu ngoại thành Hà Nội. Năm 1915, vùng đất này thuộc
về huyện Hoàn Long, Hà Nội. Sau cách mạng tháng Tám, các làng ven hồ lại
thành 120 xã ngoại thành Hà Nội. Kháng chiến chống Pháp, Thụy Khuê thuộc
về quận V ngoại thành Hà Nội.
Năm 1961, Hà Nội tổ chức lại địa giới 4 quận ngoại thành đổi thành
huyện, 4 quận nội thành đổi thành 4 khu phố, Thụy Khuê thuộc về khu phố
4


Ba Đình. Năm 1981 khu phố Ba Đình lại đổi thành quận, Thụy Khuê là một
phường thuộc quận Ba Đình. Năm 1995 Hà Nội lập thêm quận Tây Hồ bao

gồm một số xã thuộc huyện Từ Liêm và một số phường thuộc quận Ba Đình
nằm ven Hồ Tây, Thụy Khuê lại là phường thuộc về quận mới này.
Nằm trải dài trên một đoạn bờ nam Hồ Tây, phường Thụy Khuê bao
gồm có hai con đường chính là đường Thụy Kh và đường Hoàng Hoa Thám
chạy song song với nhau từ Đông sang Tây. Phố Thụy Khuê dài 3,2km; từ phố
Quán Thánh- đường Thanh Niên (cạnh vườn hoa Tây Hồ), chạy vịng lượn
theo bờ Bắc sơng Tơ Lịch và bờ Nam Hồ Tây, cho đến chợ Bưởi, gặp đường
Lạc Long Quân. Đất các phường Thụy Chương, Hồ Khẩu, Yên Thái thuộc tổng
Trung, huyện Vĩnh Thuận cũ. Vùng làm giầy nổi tiếng Kinh Thành. Thụy
Chương sau đổi tên thành Thụy Khuê, dân thường gọi chệch là Thụy Khê. Nay
đường Thụy Khuê thuộc phường Thụy Khuê và phường Bưởi- quận Tây Hồ.
Khi Hà Nội cịn tồn tại loại hình là xe điện thì có một tuyến xe là Bờ Hồ- Bưởi
cũng chạy qua Thụy Khuê và song song với hai tuyến phố Quán Thánh và
đường Thanh Niên. Giữa hai tuyến phố trên xưa kia là sông Tô Lịch, khúc sông
ấy ngày nay đã bị lấp đi trở thành các xóm dân cư.
Các xóm dân cư xưa tập trung ở phần giữa làng, hai đầu làng là đồng
ruộng. Là mảnh đất nhỏ hẹp ven Hồ Tây, đồng ruộng rất ít, người dân Thụy
Khuê và các làng ven hồ đều phát triển nghề phụ. Nếu như làng Bưởi có nghề
làm giấy, Yên Thái có nghề dệt vải thì Thụy Khuê nổi tiếng với nghề nấu
rượu ướp hương sen. Nhà thơ Đoàn Nguyễn Tuấn từng ca ngợi rượu Thụy
Khuê như trong bài “Thụy phường liên tửu” (Rượu sen phường Thụy Khuê):
Địa tiếp Tây Hồ cộng tửu thiên
Nhai tai Thụy tửu tửu trung tiên
Nghĩa là
Trời đất Tây Hồ ở giáp bên
Ngon thay rượu Thụy, rượu làng tiên
Khi Pháp chiếm Hà Nội, có xây dựng trên đất Thụy Khuê một số cơ sở
5



kinh tế như sở xe điện (lập năm 1899), nhà máy giặt (năm 1908), nhà máy
thuộc da (năm 1913). Cơ sở kinh tế lớn nhất trên đất Thụy Khuê là nhà in
Schneider xây dựng năm 1893. Xí nghiệp có xưởng in, xưởng làm giấy, biệt
thự của chủ xí nghiệp. Nhà in sau này có tên là nhà in Trung Bắc Tân Văn (nay
là công ty in Thống Nhất) nhà in tồn tại đến năm 1907 thì chuyển đi nơi khác.
Nằm ở ngoại vi kinh thành Thăng Long xưa – trung tâm chính trị, văn
hóa của cả nước thời phong kiến (về sau chính trên mảnh đất này lại tồn tại
trường Bưởi), người Thụy Khuê được được tiếp xúc với các tao nhân mặc
khách, các trí thức trong xã hội. Điều này kích thích tinh thần học tập, thi cử
của nhân dân. Thụy Khuê tự hào là làng quê nhỏ nhưng là quê hương của
Nguyễn Đoan (Tiến sĩ năm 1502). Đầu thế kỉ XX, Thụy Khuê lại là mảnh đất
quê hương của một con người nổi tiếng khác , đó là học giả, nhà văn hóa Phan
Kế Bính (1875-1921).
Vùng đất Thụy Khuê là vùng đất cao ráo, bằng phẳng nơi đây nổi tiếng
với nhiều di tích lịch sử. Tại vùng đất trời phú này đời Trần có điện Thụy
Chương. Năm 1397, Hồ Quý Ly cho dỡ điện đưa về Thanh Hóa xây dựng
kinh đô mới, trên nền điện cũ người dân xây dựng lên một ngôi đền thờ Uy
Linh Lang, ngày nay là đền Voi Phục ở 251 phố Thụy Khuê. Thụy Kh cũng
có hai ngơi đình của hai giáp dân cư. Đình giáp Đơng ở 130 Thụy Kh, đình
giáp Đồi ở 146 Thụy Khuê.
Cũng trên mảnh đất Thụy Khuê, đời Lê Thánh Tông cũng cho xây
dựng một khu nhà dành cho người Chiêm Thành có tên là viện Châu Lâm.
Cạnh viện là ngôi chùa để người Chiêm thực hiện các nghi lễ theo tín ngưỡng
của họ, chùa có tên là chùa Châu Lâm (theo tiếng Nôm là chùa Bà Đanh).
Dấu tích cho ta biết việc này là tấm bia niên đại Chính Hịa thứ 20 (1699) .
Một thời gian về sau, viện Châu Lâm chuyển đi nơi khác, cảnh chùa vắng vẻ,
tấm bia đá cùng một số đồ thờ được đưa về chùa của làng là chùa Phúc Châu.
Sang thời Pháp thuộc, cùng với việc xây dựng các cơ sở kinh tế, Thụy
Khuê cũng có nhiều cơ sở văn hóa-khoa học, kĩ thuật như viện nghiên cứu và
6



vườn ươm các giống cây nhập ngoại, viện có tên gọi khác là “Vườn ươm Lapho”
(Lafort) nơi đây ngày nay là làng văn hóa Việt -Nhật (số 14 Thụy Khuê).
1.1.2. Khơng gian văn hóa Hồ Tây
Xét về lịch sử hình thành, hồ Tây là món q mà sơng Hồng tặng cho
Hà Nội. Nhiều tài liệu địa lý, địa chất đã cho thấy sơng Hồng sau khi đổi dịng
đã lưu lại một khúc cong hình vành tai để rồi trở thành vạt hồ Tây ngày nay.
Có lẽ qua cơn dâu bể, sơng sống động hóa thành hồ tĩnh tại mà đã ra đời các
huyền thoại để lý giải nguồn gốc hồ một cách suy nguyên như Lạc Long
Quân đánh Hồ Tinh, Khổng Minh Không đúc chuông đồng… và sự ra đời của
những tên gọi Đầm Xác Cáo, Hồ Trâu Vàng…
Tây Hồ là vùng đất còn lưu giữ một hệ thống các di tích lịch sử văn hóa
với số lượng lớn của thủ đơ Hà Nội, trong đó có 18 ngơi chùa, 16 ngơi đình, 7
miếu, 8 đền, 6 nhà thờ họ, 2 di tích cách mạng, 1 phủ, 1 am, 1 nhà hội đồng, 1
di tích mộ tang. Có những đình chùa có niên từ một nghìn năm như đền Đồng
Cổ có từ năm 1028, chùa Bà Già chưa rõ năm ra đời nhưng từ thời Trần Nhật
Duật đã là một danh lam. Chỉ với lịch sử, cảnh quan và kiến trúc cổ tất cả đều
đáng cho khách tới thăm và nghiên cứu. Khơng những vậy, tại các di tích cịn
lưu giữ nhiều di vật như: bia, chng, khánh, thần tích, sắc phong, hoành phi,
câu đối… Theo thống kê tại 61 di tích cịn 12 thần tích, 175 đạo sắc phong, 59
bài văn khắc trên chuông, 213 tấm bia đá, 370 câu đối, 203 hồnh phi. Có
những tấm bia trên năm trăm tuổi như bia chùa Kim Liên có niên đại 1443.
Có những pho tượng là kiệt tác của nghệ thuật điêu khắc Việt Nam như tượng
Phật nhập niết bàn ở chùa Trấn Quốc, tượng Quan Âm ở chùa Phổ
Linh…Mỗi di tích lại mang trong mình hơi thở của thần thoại, truyền thuyết,
cổ tích cùng với khơng gian cảnh quan tĩnh lặng, êm đềm như đưa con người
trở về với cội nguồn.
Song hành với hệ thống di tích là các lễ hội, vùng hồ Tây có những lễ
hội dân gian độc đáo làm nên bề dày của văn hóa kinh kỳ. Có những lễ hội

mang dấu ấn của tín ngưỡng ngun thủy như tục cầu mưa cầu nước. Ở hội
7


làng Hồ Khẩu có trị “bơi cạn” ở sân đình. Đó chính là hình ảnh tái hiện lại một
thời dân cư sống bằng nghề chài lưới trên bờ sông Hồng, sơng Tơ trước khi tiếp
cận nghề làm giấy. Có lễ hội lại tơn vinh lịng trung hiếu như hội thề ở đền
Đồng Cổ. Lễ hội này có từ đầu đời Lý Thái Tông (1028) và kéo dài sang tận
đời Trần. Sử sách cịn ghi chép lại là cả triều đình bách quan văn võ đúng ngày
4 tháng 4 phải ra đây thề “Làm tôi bất trung, làm con bất hiếu, thần minh tru
diệt”. Dân kinh thành đi xem hội thề đứng chật cả hai bên đường.
Hồ Tây còn là nguồn cảm hứng để hình thành một vùng văn học riêng.
Có thể nói hồ Tây là một tấm gương phản chiếu một phần tâm tư tình cảm của
người Hà Nội, là nguồn cảm hứng, nguồn thơ, nguồn rung động của bao thế
hệ thi nhân khuyết danh và hữu danh. Văn học dân gian với thần thoại, truyền
thuyết, ca dao, tục ngữ, hò, vè… là những sáng tạo và cảm thụ nghệ thuật đầu
tiên và sớm nhất đến với hồ Tây. Nó trở thành một vốn liếng sáng giá không
chỉ trong kho tàng văn học dân gian Hà Nội mà là của cả Việt Nam. Văn học
thành văn cũng vậy, đã có rất nhiều tập ký, truyện, thơ phú viết bằng chữ
Hán, chữ Nôm thời cổ với các tác giả Nguyễn Mộng Tn, Thái Thuận, Ngơ
Thi Sĩ, Bùi Huy Bích, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Văn Siêu, Cao
Bá Quát… Thời cận đại với các tác phẩm quốc ngữ của các nhà văn nhà thơ
Trần Tuấn Khải, Tản Đà, nhóm Tự lực văn đồn, nhóm Tiểu thuyết thứ Bảy.
Thời hiện đại có những ngơi sao sáng đã đóng góp các tác phẩm hay, giàu
triết lý nhân văn và nhân đạo cho bầu trời văn học Việt Nam phải kể đến
những cái tên như Tố Hữu, Trần Lê Văn, Tơ Hồi, Đồn Văn Cừ, Phạm Tiến
Duật…Như vậy, cùng với các giá trị khác như không gian cảnh quan, kiến
trúc, lịch sử..văn học về vùng hồ Tây cũng là một giá trị đặc biệt nâng tầm hồ
Tây thành một chủ đề văn học lớn của nền văn học Việt Nam.
Vùng ven hồ Tây còn là cái nôi của những làng nghề cổ truyền: làng

dệt lĩnh, dệt lụa Bái Ân, Trích Sài; các làng trồng hoa Nghi Tàm, Nhật Tân;
các làng làm giấy Yên Thái, Đông Xã, Hồ Khẩu; làng đúc đồng Ngũ Xá.
Tương truyền nghề dệt lĩnh lụa là do bà phi Chiêm Thành cịn có tên là Phan
8


Thị Ngọc Đô truyền cho dân làng để phục vụ cho nhu cầu của các tầng lớp
trung thượng lưu. Nghề làm giấy là gốc bản địa Giao Chỉ sau này có tiếp thu
kĩ thuật Trung Hoa nên ngồi việc làm giấy dân dụng còn là nơi chuyên sản
xuất giấy phục vụ nhu cầu của các vương triều như giấy sắc, giấy lệnh…
Nghề trồng hoa đã hình thành từ rất lâu cùng với sự hình của Kinh đơ, phố
phường đơ thị đáp ứng nhu cầu của tầng lớp thị dân. Nghề đúc đồng vốn do 5
xã bên trấn Kinh Bắc được điều về Thăng Long để đảm nhận khu vực hồ Tây
với nguồn nước tốt cùng với chất đất tốt thích hợp cho việc cung ứng cho kỹ
nghệ nấu luyện đồng và đắp lị cùng khn đúc. Thêm vào đó do nhu cầu của
triều đình phải sử dụng nhiều đồ đồng để dùng trong các nghi lễ, sinh hoạt
của vua chúa và các đại thần. Nhất là khi triều đình cho phép đúc tiền, dân
chúng tham gia đúc đồng rất đông. Nghề đúc đồng truyền thống từ 5 xã thuộc
tổng Đề Cầu trấn Kinh Bắc tới bán đảo Ngũ Xã bên hồ Trúc Bạch, lập ra Ngũ
Xã Tràng hành nghề từ thế kỷ 17. Kỹ thuật đúc đồng ở đây đã đạt đến trình độ
tinh xảo mà thành tựu tiêu biểu là pho tượng đồng khổng lồ tạc tượng Huyền
Thiên Trấn Vũ nặng hơn 4 tấn, đúc năm 1677 đặt ở đền Quán Thánh – Một
trong tứ trấn thăng long nổi tiếng đất kinh kỳ.
1.2. Lịch sử xây dựng và quá trình tồn tại của chùa Châu Lâm
1.2.1. Những vấn đề lịch sử
Phật giáo du nhập vào Việt Nam khoảng đầu Cơng ngun. Trong
khoảng thời gian đó, các ngơi chùa được xây dựng để phục vụ cho nghiên cứu
sinh hoạt Phật giáo ở nhiều thời điểm khác nhau. Trải qua các thời kỳ khác
nhau, ngơi chùa vẫn có một vị trí quan trọng trong đời sống văn hóa tơn giáo
của người Việt Nam. Người Việt xưa có câu tục ngữ “Đất vua, chùa làng”,

điều này có nghĩa là ở Việt Nam, cũng như ở nhiều nước phương Đông,
trong thời kỳ trung đại, toàn bộ đất đai trong cả nước thuộc quyền sở hữu của
nhà vua, cịn ngơi chùa thuộc về cộng đồng làng xã.
Chùa Châu Lâm (Bà Đanh) là cơng trình kiến trúc tín ngưỡng, ban đầu,
với mục đích để phục vụ nhu cầu tâm linh cho các sứ thần người Chiêm
9


Thành đến làm việc ở Thăng Long. Sau nhiều cuộc Nam chinh, nhiều người
Chăm có mặt ở Thăng Long thường xuyên tới đây để lễ Phật. Trong triều đại
nhà Lý, tổng cộng có khoảng 10 lần vào các năm 1020, 1043, 1044, 1069,
1075, 1104, 1132, 1167, 1216, 1218 các vị vua hay các danh tướng, quan lại
như Lý Thường Kiệt, Tô Hiến Thành… đã đem quân đi đánh Chiêm Thành.
Sau mỗi lần đánh, vua Chiêm Thành lại cầu hòa, cử người sang cống nhưng
sau đó lại chống đối.
Sự kiện lớn nhất là vào năm 1069, Chiêm Thành đem quân ra cướp phá
vùng Nghệ An - Hà Tĩnh. Vua Lý Thánh Tông thân chinh dẫn 10 vạn quân
nam chinh vào tận kinh đô Chiêm Thành đánh bại và bắt được vua Chiêm đưa
về Thăng Long. Để được tha, vua Chiêm và triều đình Chiêm Thành đã cắt
phần đất phía Bắc dâng cho Đại Việt là vùng đất Quảng Bình và bắc Quảng
Trị ngày nay, sau sự kiện này biên giới phía nam của Đại Việt lần đầu tiên
tiến đến sông Thạch Hãn (Quảng Trị). Qua đó, ta có thể hình dung ra bối cảnh
lịch sử lúc bấy giờ khi quân đội nhà Lý chiến thắng Chiêm Thành đã bắt
nhiều tù binh Chăm đem về kinh đơ Thăng Long, trong đó có nhiều tù binh là
các nghệ nhân. Với bàn tay tài hoa của mình, các nghệ nhân Chăm đã để lại
nhiều dấu ấn trên các cơng trình kiến trúc do họ xây dựng. Theo cuốn “Tây
Hồ chí” có ghi: vua Lê Thánh Tông đã cho làm một thiền viện (vừa là chùa,
vừa là một trung tâm nghiên cứu) ở gò Phượng Chuỷ bên bờ Nam Hồ Tây cho
người Chăm hành đạo, gọi là thiền viện Châu Lâm. Gò Phượng Chuỷ nay là
khu vực trường Chu Văn An, quận Ba Đình, nhưng dân thường gọi là chùa

Bà Đanh. Sau đó người Chăm chuyển sang khu vực khác sinh sống, thiền
viện hoang phế nên có câu ngạn ngữ “Vắng như chùa Bà Đanh”. Nhiều nhà
nghiên cứu về địa phương này cho rằng tên chùa là chùa Bà Đanh với suy
luận rằng chùa vốn của người Chăm, tất có tượng các vũ nữ ở tư thế múa, tay
dang, chân khuỳnh. Do vậy mà có tên Bà Banh, đọc trại thành Bà Đanh.
Khảo sát trên địa bàn Hà Nội, cùng với chùa Bà Đanh còn phát hiện ba
ngôi chùa với tên gọi là: Bà Đá, Bà Ngô, Bà Nành. Đây là bốn ngôi chùa cổ
10


của kinh thành Thăng Long xưa gợi cho chúng ta nhận thức được rằng có một
sự dung hợp giữa Phật giáo và các nữ thần của người Việt. Chùa Chùa Bà
Ngô hiện nay ở số 128 Nguyễn Khuyến, quận Đống Đa. Tên chữ Hán là
"Ngọc Hồ tự". Tương truyền chính ở chùa này vua Lê Thánh Tông (1460 1497) đă gặp tiên, cùng tiên ngâm vịnh. Gọi là chùa Bà Ngơ bởi có tích
chuyện kể rằng chùa do một bà họ Ngơ xây dựng nên, nhưng cũng có tích kể
là người xây chùa là một bà có chồng là người nước Ngô (Trung Quốc), nên
gọi là bà Ngô. Chùa Bà Nành ở số 154 phố Nguyễn Khuyến, quận Đống Đa.
Tương truyền vốn là nhà của một bà bán bánh, bán chè đậu nành. Bà là người
phúc hậu, hay giúp đỡ người nghèo. Khi về già, bà đã bỏ tất cả tiền tích góp
ra xây ngay trên đất nhà mình một ngôi chùa và xuất gia tu hành. Sau khi bà
mất, dân làng đắp tượng bà và đặt trên tấm đá mà bà vẫn dùng làm bàn bán
hàng. Nay tượng và bàn đá đó vẫn cịn. Dân làng gọi đó là chùa Bà Nành. Tên
chữ là “Tiên Phúc tự”. Chùa Bà Đá, hiện nay ở số 3 phố Nhà Thờ, quận Hoàn
Kiếm, Hà Nội. Lịch sử chùa được kể như sau: đời Lê Thánh Tông (1460 1697) ở làng Báo Thiên (khu vực Nhà thờ Lớn ngày nay) có người đào được
một pho tượng Phật Bà bằng đá. Người ấy bèn dựng một ngôi chùa nhỏ để
thờ ngay tại nơi đào được tượng. Sau dân làng thấy linh thiêng mới góp cơng,
góp của xây thành chùa lớn, đón sư về trụ trì. Vì vậy chùa có tên là chùa Bà
Đá, tên chữ là "Linh Quang tự". Vị trí của các ngơi chùa này khơng giống như
vị trí của các cơng trình kiến trúc trấn 4 phía của kinh thành Thăng Long xưa
mà vị trí hiện tồn của các ngơi chùa này cho phép chúng ta liên tưởng đến tín

thờ Tứ pháp, Tứ phủ. Phật và thần được phối thờ trong một ngơi chùa, hơn
nữa lại là nữ thần, ta thấy tín ngưỡng thờ các Bà có ngọn nguồn dân gian xưa:
Thờ Tứ pháp: Pháp Vân (Mây), Pháp Vũ (Mưa), Pháp Lôi (Sấm), Pháp Điện
(Sét) đó là những hiện tượng của tự nhiên được cư dân nông nghiệp xưa tôn
thờ từ rất sớm. Hay tín ngưỡng thờ Tứ phủ gồm: Tứ phủ bao gồm: Mẫu đệ
nhất (mẫu Thượng Thiên) cai quản bầu trời, làm chủ các quyền năng mây
mưa, gió bão, sấm chớp; Mẫu đệ nhị (mẫu Thượng Ngàn) trông coi miền rừng
11


núi, ban phát của cải cho chúng sinh; Mẫu đệ tam (mẫu Thoải) trị vì các miền
sơng nước, giúp ích cho nghề trồng lúa nước và ngư nghiệp; Mẫu đệ tứ (mẫu
Địa Phủ) quản lí vùng đất đai, là nguồn gốc cho mọi sự sống. Đây là bốn ngôi
chùa đặc biệt của buổi đầu xây dựng tín ngưỡng thờ nữ thần và thờ Phật của
người bản địa.
Qua đó, phần nào có thể thấy được tín ngưỡng thờ các bà: Đá, Đanh,
Nành, Ngơ có từ rất sớm và chùa Châu Lâm có thể gắn với các cuộc chinh phạt
Chiêm Thành. Đây vừa là chùa, vừa là thiền viện của người Chăm sinh sống tại
Thăng Long. Khi nhà Lê lên ngôi, hệ tư tưởng Nho giáo gần như thống trị độc
tơn thì ngơi chùa này cũng ít được lui tới. Bởi lẽ, văn hóa Chăm pa ảnh hưởng
nhiều từ Văn hóa Ấn Độ, đề tài thể hiện của nó mang nhiều yếu tố phồn thực:
mảng chạm vũ nữ Apsara với những điệu múa làm say đắm lòng người, mang
đậm yếu tố phồn thực thì khơng phù hợp với tư tưởng Nho giáo khi ấy, nên
chùa Châu Lâm ít người lui tới, về sau khi người Chăm chuyển về các vùng
ngoại vi Thăng Long sinh sống, ngôi chùa hầu như vắng vẻ.
Những vết tích của nghệ thuật điêu khắc tượng Chăm khơng cịn hiện
hữu tại chùa Châu Lâm, song nhìn rộng ra và tồn diện về q trình lịch sử
của dân tộc và những tư liệu có liên quan đến q trình hình thành chùa Châu
Lâm ta có thể tạm khẳng định: Chùa có niên đại sớm, có thể từ thời Lê và
được mở mang, tu sửa dưới thời vua Lê Thánh Tông gắn với ngọn nguồn tín

ngưỡng dân gian xưa của người Việt
1.2.2. Lịch sử xây dựng
Theo tấm bia: “ Bia hưng cơng tập phúc chùa Châu Lâm” niên đại
Chính Hịa thứ 20 (1699) có ghi:
“Bia khắc vào đá để nêu rõ công đức như núi cao lưu truyền vạn năm
nay sinh đồ Thiền tăng Lục ti Nguyễn Hữu Nho tự Đức Trinh, pháp hiệu Đạo
Huyền sãi trụ trì chùa Châu Lâm hiệu là bà Đanh. Chùa là nơi đệ nhật cổ tích
danh lam, địa mạch anh linh của phường. Từ dấu tích ban đầu ngồi bức
tường phát tâm vơ lượng trồng cây phúc tương lai cùng nhân duyên rủ đến
12


muôn đời sau, trăm hoa đua nở ngày đêm an thường. Kiếp kiếp sinh sinh
thường gặp quan cao lộc vị, năm năm đời đời, tăng thêm thọ vinh hoa vô
cùng, tăng thêm quả phúc”.
Căn cứ theo tấm bia: “ Phúc Châu tự bi” (bia chùa Phúc Châu) có niên
đại Thành Thái thứ 5 (1893) khắc nội dung:
“Làng ta từ trước tới nay có hai chùa thờ Phật, một chùa tên là Châu
Lâm, một chùa tên là Phúc Châu đều được xây dựng từ thời Lê đều ở một
xóm, ngày tháng nhân dân chiêm bái. Trải qua loạn lạc ngày tháng gần trôi,
vách tường sụt nở, mái chùa mục nát, bản phường liền tụ họp nhân dân bàn
việc trùng tu sửa chữa. Mùa thu năm Nhâm Thìn niên hiệu Thành Thái
(1892), nhà tiền đường xuống cấp hơn cả, mái chùa nghiêng lệch đổ nát. Bấy
giờ thôn dân chúng ta chọn ngày lành tháng tốt để tu bổ lại chùa. Lúc đó
người già nói rằng: Chùa mới chưa hồn thành, chùa cũ sắp hỏng nát, nơi này
sửa, nơi kia tạo tác đất gỗ khơng đầy đủ, thời thì thiếu mà hành động thì đến
bao giờ mà xong xi được, huống chi chùa đều là thờ Phật, dân cũng là dân
ta, một mặt thì chuyên tâm, một mặt thì phân tán, nếu thu về một nơi cùng
hịa hợp lại thì có gì là không nên; dân nghe lời này vui vẻ đồng thuận, tình
người như thế Thần đạo có thể thấu; người chứng kiến thì n tâm, người

nghe thì vui mừng. Kế đó dân làng bèn làm công hai việc trải qua thời gian
thu rồi sang đông thầy thợ cáo việc đã xong, lầu gác nguy nga, song cửa, bệ
cửa khéo léo, tiền đường, hậu cung uốn lượn quanh co, tả vu hữu vu thơng
suốt, nhật loạt thiền phịng thâm u, thụ tháp vườn cao, tường gạch bao quanh,
cửa nhà sáng sủa. Ôi thật đẹp lắm thay, chùa chiền mới mẻ, danh lam thắng
tích, tuy một mà là hai, tuy hai mà một, biến mà bất biến vậy, nhân thế đặt tên
là chùa Phúc Châu, bèn lập bia để truyền lại sự việc lâu dài”.
Phường Thụy Chương tổng Trung huyện Vĩnh Thuận, Phủ Hoài Đức
tỉnh Hà Nội cùng toàn phường di dời hai chùa Châu Lâm và Phúc Lâm thành
Châu Lâm cùng dựng ở đất Hoàng Lũng. Mặt sai bia ghi tên những người
đóng góp cơng đức để tu sửa chùa.
13


Theo ý kiến của Biệt Lam Trần Huy Bá:
“… Chùa Châu Lâm được xây dựng từ thời Lê Thánh Tông niên hiệu
Hồng Đức (1470 – 1497). Lúc đó nhà vua cho dựng viện Châu Lâm và chùa
để cho người dân Chiêm Thành cùng lễ thờ Phật đặt tên là chùa Bà Đanh”
Như vậy dựa theo hệ thống bia đá cổ và ý kiến của các nhà sử học chùa
Châu Lâm được xây dựng vào thời Lê.
Qua quá trình khảo sát tại di tích, ta có thể khẳng định rằng chùa Châu
Lâm hiện nay được hợp nhất với chùa Phúc Lâm năm 1893, tồn tại từ đó cho
đến ngày nay. Trong chùa còn lưu giữ được tấm văn bia niên hiệu Chính Hịa
thứ 20 (1699) cho thấy trước đó chùa Châu Lâm vẫn được giữ gìn, tu bổ. Trải
qua những thăng trầm của lịch sử, chiến tranh loạn lạc, ngôi chùa xưa khơng
cịn được ngun sơ và khơng cịn giữ được những dấu vết của nghệ thuật
điêu khắc Chăm pa. Chùa Châu Lâm hiện nay mang nét kiến trúc thời Nguyễn
với bố cục mặt bằng và trang trí trên các mảng chạm, bức cốn. Mới đây, ngôi
chùa đã được trùng tu, sửa chữa, thay thế một số cột tại tòa Tiền đường, mở
rộng không gian nhà thờ Mẫu và xây hệ thống tường bao bảo vệ, tránh sự xâm

lấn đất của di tích. Ngơi chùa Châu Lâm là trung tâm tín ngưỡng, có giá trị về
lịch sử - văn hóa. Là không gian linh thiêng gắn kết cộng đồng cư dân tới
hành lễ, là nét đẹp cổ kính của Thăng Long xưa trong suốt chiều dài lịch sử.
1.2.3. Quá trình tồn tại và phát triển
Chùa Châu Lâm hiện nay tọa lạc tại ngõ 199 phố Thụy Khuê, phường
Thụy Khuê, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội. Theo lời kể của các cụ cao niên
tại vùng đất này diện tích của ngơi chùa này trước kia rộng tới 3.175m2 gồm
cả ruộng nương để cấy cầy. Từ thời kỳ chống đế quốc Mỹ, xí nghiệp giầy
Thụy Khuê mượn một phần đất nhà chùa để làm kho sau đó dân cư vào sinh
sống một số đã chuyển đi, còn một số hộ dân hiện vẫn ở trên diện tích 135m2
đất chùa.
Chùa Châu Lâm được xây dựng từ đời vua Lê Thánh Tông niên hiệu
Hồng Đức (1470 – 1497). Theo sách Tây Hồ chí, vua Lê Thánh Tông đã cho
14


xây dựng một thiền viện_nơi vừa là chùa thờ Phật, vừa là trung tâm nghiên
cứu tín ngưỡng-tơn giáo ở gị Phượng Chủy bên bờ nam hồ Tây để cho người
Chăm hành đạo gọi là chùa Bà Đanh. Nói đến chùa Bà Đanh hầu hết mọi
người đều nghĩ ngay đến ngôi chùa ở Hà Nam nhưng qua thời gian ít ai biết
rằng Hà Nội cũng có một ngơi chùa mang tên Bà Đanh, theo các cụ truyền lại
ngôi chùa Bà Đanh ở Thụy Khuê chính là nơi phát tích của câu nói “Vắng như
chùa Bà Đanh”.Chùa trước kia được xây dựng ở vị trí trường Chu Văn An
ngày nay, nhân dân trong vùng quen gọi là chùa Bà Đanh vì gắn liền với tên
của nữ thần người Chăm. Vì chùa xây dựng theo quy mơ kiến trúc văn hóa,
tín ngưỡng của người Chăm, phục vụ nhu cầu hành đạo của người Chăm nên
từ khi xây dựng xong chùa chỉ có bộ phận người Chăm lui tới lễ phật. Khi
những người Chăm di chuyển đến nhiều khu vực khác sinh sống và khơng lui
tới chùa lễ bái nữa thì chùa trở nên hoang sơ, vắng vẻ do đó dân gian mới có
câu ví von : “Vắng như chùa Bà Đanh”.

Năm 1893 thực dân Pháp xâm lược đã chiếm khu đất chùa để mở nhà
in Schneider. Sau 14 năm vào năm 1907 các nhà yêu nước mở trường Đông
Kinh nghĩa thục, bọn Pháp thấy nhân dân ta sục sơi địi học, chúng vội vàng
dời nhà in đi nơi khác lập ra trường Trung học Bảo hộ (Trường Trung học
Chu Văn An ngày nay). Do đó, chùa Châu Lâm bị dỡ bỏ hồn tồn, dân làng
Thụy Khuê bấy giờ mới góp sức dời tượng Phật của chùa tới chùa Phúc Lâm
ở cuối làng về phía Tây Nam( nay là Thụy Khuê) hợp lại là chùa Châu Lâm.
Khi xây dựng có lập bia ghi lại: “ Hai chùa được xây dựng đã trên 300 năm
nay hợp làm một, có lầu gác nguy nga, trước sau nhà tòa ngang dãy dọc
quanh co liên tiếp, tả vu, hữu vu đi lại thơng suốt, phịng tăng kín đáo, cột
tháp ngất cao, tường xây bao quanh, cổng sân quang đãng. Ơi đẹp thay tịa
chùa mới chốn thắng tích danh lam này: một mà là hai, hai mà là một; có biến
đổi mà chẳng hề có biến đổi. Nhân đó đổi tên là chùa Châu Lâm”.
Có thể khẳng định rằng, chùa Châu Lâm là ngơi chùa cổ có giá trị về
mặt lịch sử - văn hóa, chùa mang dáng vẻ cổ kính và lưu giữ được hầu hết hệ
15


thống tượng cổ qua nhiều đời Tổ. Chùa trước đây nổi tiếng với bức tượng
“say”, mô phỏng một người ở tư thế đứng nghiêng ngả như say. Pho tượng
thể hiện sự linh thiêng, vẻ đẹp như “tiên cảnh” của ngôi chùa khiến khách
thập phương đến lễ như mê say ngây ngất. Tương truyền bức tượng được
chạm khắc tinh tế, sống động, có thần đến mức bất kỳ ai mới nhìn qua cũng
phải lặng người vì vẻ đẹp tinh tế, bắt mắt người xem. Tiếc rằng sau nhiều lần
chuyển đổi di dời, pho tượng “say” mang dáng dấp của văn hóa Chăm đã bị
thất lạc trong dân gian.
1.2.4. Khái quát quá trình truyền bá Phật giáo vào Việt Nam
Từng nghe: Phật là tâm vậy, cái mà cổ nhân từng cho rằng: “Chân kinh
khơng sách ghi, chân Phật khơng hình dáng”. Lời nói đó có nghĩa là: Chân
Tính tức Tâm, Tâm tức Phật vậy. Vì thế sách Kinh thư viết: “Kẻ đại nhân

khơng bao giờ làm mất lịng tin của con trẻ. Phàm cái tâm của trẻ con chính là
cái chân tâm, Chân Tính bất sinh bất diệt vậy”. Thương thay, đời nay loạn thế
ngũ uẩn của chúng sinh đã thành tính, sáu cõi mê hoặc ư, tham phú quí mà mắc
đại tội lừa trời, phản đất sa đọa nên bị trừng trị vì phạm vào đạo Thánh hiền. Vì
thế cái gọi là chân tâm đã mất từ lâu. Chân tâm đã mất, chân Phật cũng quên.
Vạn kiếp trầm luân biết không trở ngại chính là vì khơng có Phật vậy. Vì thế
các đời đế vương đều cho xây dựng chùa chiền, tôn thờ tam bảo, dựng tượng
Nho giáo, mừng thánh đạo trường để thọ quốc mạch, để thuần phong hóa khiến
mọi người chiêm ngưỡng Phật mà hiểu thấu được tâm Phật, đi lễ cầu Phật để
tìm chân Phật, sửa ác theo thiện, cải tà qui chính. Thế là đã hiểu được nghiệp
sinh tử luân hồi, biết được nghiệp quả báo trên thiên đường, dưới địa ngục. Vì
vậy kinh Phật dạy rằng: Con người sống trên đời thì việc làm phúc là việc làm
trước tiên, công đức nhiều như rừng, việc bố thí là việc làm quan trọng hàng
đầu. Đó chính là uy của Phật, là sự ham chuộng đạo Phật.
Để làm nên tinh thần của ngôi chùa cần phải điểm lại đôi nét bước đi
của đạo Phật trên đất Việt. Đạo Phật đã hình thành từ khoảng 600 năm trước
Cơng ngun trên tiểu lục địa của một cư dân có nhiều nhà tư tưởng lớn trong
16


môi trường tâm linh siêu việt. Đạo Phật là một sự kiện tất yếu lịch sử của
nhân loại nhằm dung hịa những nỗi bất cơng của con người trước một xã hội
đã phân hóa làm nhiều đẳng cấp. Với đạo Phật thì mọi thành phần, tầng lớp
trong bất kể xã hội nào cũng đều tìm được “chỗ đứng” cho mình. Bởi trước
hết đó là hệ triết học mở, khơng cực đoan, áp đặt-đấu tranh để cướp đoạt một
cương vị nào đó trong thế giới nhân sinh. Đạo Phật đã đi sâu vào nhiều mặt
của thế giới quan và nhân sinh quan để làm cứu cánh, giải thoát đặc biệt là ở
mặt tư tưởng, hướng tới cái tâm như như tự tại ( Tâm: cái cốt lõi, cái thần
thức ẩn tàng trong mỗi chúng sinh…, như như: là lý thể và pháp tính đều như
nhau, khơng sai khơng khác, là trung đạo, là tướng của Niết bàn.., tự tại: là rời

khỏi sự trói buộc của phiền não). Trong ứng xử với cuộc đời thế tục, tín đồ
Phật giáo nương theo lời dạy của đấng Như Lai mà gắng thực hiện tứ đại vô
lượng tâm (đại từ, đại bi, đại hỉ, đại xả) coi mọi trở ngại trên cõi đời suy cho
cùng chỉ do cái nghiệp… Trên thực tế chưa có một hệ triết học hoặc tơn giáo
nào có thể dễ thích nghi một cách mềm dẻo để nhập mình vào mọi xã hội có
hồn cảnh khác nhau như đạo Phật. Một đặc điểm đáng tôn trọng khác là đạo
Phật tùy duyên mà hóa độ, tự dung hội với các dịng tư tưởng và tín ngưỡng
nơi nó tiếp cận, khơng làm biến dạng truyền thống nền văn hóa ở nơi Phật
pháp được hồng dương. Nó chỉ vì nỗi khổ đau của mọi chúng sinh, gạt bỏ ý
đồ thống trị xã hội, vì thế đạo Phật khác rất xa các tôn giáo cũng mang tính
thế giới như Gia Tơ giáo hoặc đạo Islam. Bởi vậy, đã hàng ngàn năm tu sĩ
Phật giáo không phải là đối tượng gạt bỏ của các chính thể, họ dễ dàng len lõi
được vào quần chúng một cách ôn hòa để rồi đẩy nhanh hơn sự phát triển của
nền văn hóa bản địa. Tất nhiên sự đan xen văn hóa là điều khơng thể tránh
khỏi song chưa ở đâu đạo Phật bị chối bỏ một cách tàn bạo. Ở châu Á, nhiều
dân tộc đã theo Phật giáo nhưng tùy theo điều kiện địa lý, lịch sử xã hội..
riêng mỗi nước tiếp thu theo cách riêng. Có thể khẳng định rằng ngay từ
những năm đầu Công nguyên, người Việt đã được tiếp xúc với đạo Phật. Từ
đó tới nay, lúc thăng lúc trầm nhiều dấu ấn của đạo Phật đã để lại trên đất
17


Việt, mặt nào tôn giáo này đã tác động tới cả phong tục tập quán, tình cảm, tư
tưởng của mọi tầng lớp xã hội.
Đất Việt nằm giữa hai nền văn minh cổ xưa nhất của hai nước lớn trên
thế giới, đó là Ấn Độ và Trung Hoa. Điều kiện tự nhiên như vậy, Việt Nam đã
phát triển văn hóa của mình cùng với sự ảnh hưởng trên các phương diện giao
lưu ở cả hai cường quốc này. Vào giai đoạn đầu, khó có thể xác định được cụ
thể các tơng phái nào đã chi phối tới Phật giáo vào Việt Nam mà cư dân Việt
chỉ xác nhận một con đường đi của Phật giáo đại thừa đã theo các nhà sư Ấn

Độ từ biển trực tiếp vào vùng đất này để góp phần tạo nên trung tâm Phật giáo
Luy Lâu (Bắc Ninh). Với đường biển, đạo Phật và Bà la môn từ đất Ấn lan
tràn xuống hầu khắp các nước Đơng Nam Á trong những biểu hiện về tạo
hình khơng thể tránh khỏi sự pha trộn với yếu tố bản địa khiến cho Phật giáo
mất đi tính nguyên sơ vốn có. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng đạo Phật du
nhập vào miền Bắc Việt Nam còn sớm hơn đến các trung tâm Phật giáo Bành
Thành và Lạc Dương ở Trung Hoa. Theo dòng lịch sử, sách Thủy Kinh Chú
(sách thế kỷ thứ 6) đã cho biết: Sau một thời với những chiến tích oanh liệt,
vua Asoka hối hận trước các cuộc chinh chiến đẫm máu nên đã hồi hướng đạo
Phật. Nhà vua chuyên tâm làm việc thiện, hoằng dương Phật pháp và một
trong những ngôi tháp đã được nhà vua cho dựng là ở đất Việt (thế kỷ III
trước Công nguyên). Vào thời Sĩ Nhiếp (cuối thế kỷ II đầu thế kỷ III) đạo
Phật đã có chân đứng vững chắc ở Luy Lâu nhiều cao tăng người Ấn và
Trung Á đã từng tới đây truyền đạo. Cũng thời này, nhiều nhà sư nổi tiếng đã
tu ở các chùa có nhiều đặc tính Việt tại Luy Lâu như Khâu Đà La (Ksucha)
hay Kỳ Vực (Jivaka). Câu chuyện về Ma Nương trong mối quan hệ với Khâu
Đà La nếu được coi như một cứ liệu lịch sử thì ngày từ buổi đầu đó Phật giáo
đã sớm kết hợp với tín ngưỡng bản địa để cho thần linh nơng nghiệp hóa thân
thành Phật như ở chùa bà Đậu (Pháp Vũ-thần mưa), chùa bà Giàn (Pháp Lơithần sấm). Sự tích cịn gắn với nhiều phép lạ chi tiết này được bổ sung dần về
sau song ít nhiều vẫn nói lên đặc tính của tâm hồn Việt là tin vào sự linh dị.
18


Vào thế kỷ thứ V và thứ VI đạo Phật ở đất Việt đã phát triển khá mạnh.
Dưới bóng áo cà sa, một người con Phật đã từng làm vua nước Vạn Xuân (Lý
Phật Tử). Vai trò của đạo Phật đã tác động mạnh vào xã hội để như là một
nhân tố để tập hợp lực lượng. Cuối thế kỷ VI với sự xuất hiện của Tỳ Ni Đa
Lưu Chi (Vinitarusi) đã khẳng định một hướng đi của Phật giáo Việt: Tông
phái này tồn tại truyền thừa nhiều thế hệ. Chắc rằng do đã tiếp cận sâu vào
quần chúng nên phái này đã có nhiều đóng góp cho cơng cuộc xây dựng ý

thức độc lập của dân tộc. Một số nhà sư của dịng Tỳ Ni là những trí thức lớn
có vai trị góp phần quyết định tới bộ mặt xã hội. Có thể thấy rõ vai trị của sư
Vạn Hạnh và Lý Khánh Văn trong việc đưa Lý Công Uẩn lên ngôi, lập ra
triều Lý. Từ Đạo Hạnh và vài nhà sư khác đã đi vào huyền thoại dân dã một
cách sâu đậm. Chính Từ Đạo Hạnh là nguồn để các nhà nghiên cứu nhận định
về một dòng Phật giáo du nhập vào đất Việt theo đường sông Hồng, từ phía
Tây Bắc của đồng bằng Bắc Bộ.
Vào thế kỷ XV, ở nước ta, Nho giáo đã đạt tới đỉnh cao, chính quyền
chuyên chế đã chủ trương hạn chế Phật và Đạo khiến cho dấu vết kiến trúc
dân dã khó tìm được. Nhưng sang thế kỷ XVI, thời Mạc, chúng ta gặp khá
nhiều chùa và tượng Phật, Bồ Tát…Hiện tượng này như một sự phục hưng
của Phật giáo. Đạo Phật được phục hồi dưới thời Mạc, kéo nền nghệ thuật tạo
hình tương ứng chuyển sang một bước phát triển khác tạo tiền đề cho sự đa
dạng hóa của Phật điện từ thế kỷ XVII về sau.
Cuối thế kỷ XVII, đạo Phật cũng không đủ sức cứu vớt được sự khủng
hoảng xã hội, người dân ít quan tâm đến chùa mà dồn sức tập trung những
ngơi đình trở thành địa vị trung tâm của làng xã. Sang thế kỷ XVIII, một số
ngôi chùa được xây dựng nhưng phải tới cuối thế kỷ, dưới thời Tây Sơn đạo
Phật mới được phục hồi trong sự ủng hộ của nhiều trí thức Nho học và một số
quan lại tân triều từ đó tạo điều kiện cho một số chùa đặc biệt ra đời.
Sang thế kỷ XIX, xã hội Việt Nam đầy biến động, đạo Phật với nhiều
tông phái nhưng không phân định rõ ràng bởi nhiều yếu tố khác nhau. Vua Gia
19


Long đã bắt ghi tên tất cả những người tu hành từ hòa thượng tới đại đồng…bắt
nhà sư dưới 50 tuổi đều phải lao dịch như dân. Đời Minh Mệnh và Thiệu Trị,
đạo Phật giành được nhiều sự quan tâm hơn nhưng không phát triển mạnh mẽ
nữa. Nhưng tinh thần Phật giáo đã thấm đượm vào tâm hồn Việt để góp phần
giữ cân bằng cho xã hội. Tóm lại, bước đi của Phật giáo trên đất Việt và hoàn

cảnh lịch sử chung đã chi phối tới bước đi của ngôi chùa Việt.

20


CHƯƠNG 2
GIÁ TRỊ KIẾN TRÚC - NGHỆ THUẬT CHÙA CHÂU LÂM

2.1. Giá trị kiến trúc
2.1.1. Không gian cảnh quan
Với các cơng trình kiến trúc truyền thống đặc biệt là các cơng trình kiến
trúc tơn giáo, tín ngưỡng thì việc lựa chọn thế đất đẹp để làm nơi xây dựng là
một điều rất quan trọng. Mỗi di tích khi ra đời thường gắn với một khơng gian
cảnh quan thống đãng, cây cối xum xuê, tươi tốt không uế tạp. Thế đất
thường phải cao ráo, thoáng mát nghĩa là đất lành chim đậu, nơi muôn vật hội
tụ về. Điều này được chi phối bởi quan niệm về thuyết phong thủy của con
người, mảnh đất được chọn làm nơi xây dựng phải có vị trí “linh địa” bởi
người ta tin rằng ở đó con người có thể giao tiếp với thần linh.
Từ xưa các bậc tiền nhân đã quan niệm rằng, mảnh đất tụ linh, tụ phúc
thì phải là một mảnh đất cao và thoáng hơn xung quanh. Theo thuyết phong
thủy, để dựng nên di tích thì mảnh đất để xây dựng di tích phải có thế nhìn
sơng tựa núi, hai bên tả hữu có núi trùng trùng điệp điệp hoặc có một dải đất
như hai tay ngai tạo thế tì. Dân gian xưa tin rằng, những cơng trình kiến trúc
tơn giáo mà được dựng ở thế đất tốt đạt được qui chuẩn âm dương thì con
người mới tiệm cận được với thế lực tầng trên, được ban phúc để phát triển
thịnh vượng.
Chùa Châu Lâm được người xưa xây dựng ở một địa thế đẹp trên một
khu đất rộng, thoáng đãng, riêng biệt. Chùa nhìn về hướng Tây- Nam, bốn
mùa gió lộng. Hướng Nam là hướng của đế vương, là phương của trí tuệ, là
hướng đầy dương tính, sáng sủa, lí tưởng của xứ sở nhiệt đới gió mùa. Trước

hết thì hướng Nam là một hướng rất phù hợp với khí hậu của đất nước ta. Xây
nhà quay hướng Nam vào mùa hè thì đón được gió Nam mang hơi nước từ
biển thổi vào và tránh được gió Tây-Nam khơ nóng nên dù vào mùa hè thì
vẫn mát mẻ; cịn mùa đơng lại tránh được những cơn gió đơng bắc giá rét từ
21


×