Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Di tích đình lạc nhuế, thôn lạc nhuế, xã thụy hòa, huyện yên phong, tỉnh bắc ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.33 MB, 105 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI
KHOA DI SẢN VĂN HĨA

KHỔNG THỊ DUN

DI TÍCH ĐÌNH LẠC NHUẾ
(XÃ THỤY HỊA - HUYỆN YÊN PHONG - TỈNH BẮC NINH)

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
NGÀNH BẢO TÀNG HỌC
Mã số: 52320305

Người hướng dẫn: PGS.TS NGUYỄN VĂN TIẾN

HÀ NỘI - 2015


LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian nghiên cứu và làm việc nghiêm túc, được sự giúp đỡ,
chỉ bảo tận tình của các thầy cơ giáo, tơi đã hồn thiện bài khóa luận này.
Lời đầu tiên, tơi xin tỏ lịng biết ơn đối với các thầy giáo, cô giáo Khoa
Di sản văn hóa đã tận tình giảng dạy, chỉ bảo và luôn tạo điều kiện giúp đỡ tôi
trong suốt thời gian dài học tập tại Khoa.
Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất tới PGS.TS
Nguyễn Văn Tiến – người trực tiếp hướng dẫn khoa học cho tôi ngay từ khi
xác định đề tài, xây dựng đề cương cho tới khi hồn thiện bài khóa luận.
Qua đây, tôi cũng xin chân thành cảm ơn Ban quản lý di tích tỉnh Bắc
Ninh, Phịng Văn hóa huyện n Phong, chính quyền xã Thụy Hịa cùng các
cụ cao niên trong thơn Lạc Nhuế đã nhiệt tình giúp đỡ, cung cấp tư liệu, tạo
điều kiện thuận lợi cho tôi tiếp cận, khảo sát di tích đình làng Lạc Nhuế và
sưu tầm các nguồn tư liệu có liên quan tới đề tài khóa luận.


Do thời gian có hạn với điều kiện tư liệu cịn ít, tản mạn. Đồng thời bản
thân tơi cũng chưa có nhiều kinh nghiệm khi trong q trình thực tế. Vì vậy khóa
luận khó tránh khỏi nhiều thiếu sót. Kính mong nhận được sự đóng góp, chỉ bảo
tận tình của các thầy cơ giáo và bạn bè để khóa luận được hồn thiện hơn.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày tháng năm 2015
Tác giả khóa luận

Khổng Thị Duyên


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................... 1
Chương 1: Đình Lạc Nhuế trong diễn trình lịch sử.................................... 4
1.1. Vài nét về vùng đất nơi di tích tồn tại ...................................................... 4
1.1.1.Vị trí địa lý – tên gọi di tích ................................................................... 4
1.1.2.Truyền thống văn hóa ............................................................................ 7
1.1.3.Dân cư và đời sống văn hóa của dân cư ............................................... 11
1.2.Lịch sử xây dựng và quá trình tồn tại của đình Lạc Nhuế ....................... 13
1.3.Sự tích các vị thần được thờ tại đình....................................................... 15
Tiểu kết ........................................................................................................ 21
Chương 2: Giá trị kiến trúc nghệ thuật và lễ hội đình làngLạc Nhuế ..... 22
2.1. Giá trị kiến trúc...................................................................................... 22
2.1.1. Không gian cảnh quan ....................................................................... 22
2.1.2. Bố cục mặt bằng ................................................................................. 24
2.1.3. Các đơn nguyên kiến trúc ................................................................... 25
2.2. Giá trị nghệ thuật ................................................................................... 29
2.2.1. Trang trí kiến trúc ............................................................................... 29
2.2.2. Hệ thống di vật tiêu biểu trong di tích ................................................. 34
2.3. Lễ hội đình làng Lạc Nhuế..................................................................... 39

2.3.1. Các ngày lễ trong năm ........................................................................ 40
2.3.2. Lễ hội chính ........................................................................................ 43
Tiểu kết ........................................................................................................ 56
Chương 3: Bảo tồn và phát huy giá trị di tích đình làng Lạc Nhuế ......... 57
3.1. Thực trạng di tích đình Lạc Nhuế .......................................................... 57
3.1.1. Thực trạng kiến trúc............................................................................ 57
3.1.2. Thực trạng di vật................................................................................. 59
3.1.3. Thực trạng tổ chức lễ hội .................................................................... 59
3.2. Một số giải pháp bảo tồn di tích đình Lạc Nhuế..................................... 62
3.2.1. Cơ sở pháp lý ...................................................................................... 62


3.2.2. Các giải pháp bảo quản kiến trúc ........................................................ 65
3.2.3. Bảo quản các di vật trong di tích ......................................................... 68
3.2.4. Một số giải pháp về quản lý và bảo vệ di tích ..................................... 69
3.3. Giải pháp bảo tồn lễ hội đình làng Lạc Nhuế ......................................... 69
3.4. Khai thác và phát huy giá trị đình làng Lạc Nhuế .................................. 71
Tiểu kết ........................................................................................................ 75
KẾT LUẬN ................................................................................................. 76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 79


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong suốt chặng đường dài lịch sử của dân tộc Việt Nam, ở bất kì nơi
đâu chúng ta đều bắt gặp những di tích lịch sử văn hóa như: đình, đền, chùa,
nghè, miếu, lăng tẩm.. những di tích ấy kết tinh trí tuệ, cơng sức, tình cảm của
con người. Đó chính là những di sản văn hóa vơ cùng q giá mà ơng cha ta
đã để lại cho hậu thế.
Những di tích ấy được coi như một bảo tàng sống về nghệ thuật, kiến

trúc, điêu khắc và tín ngưỡng tâm linh bản địa. Thật tiếc rằng khí hậu khắc
nghiệt cùng các cuộc chiến tranh cũng như những hành động khơng có ý thức
của con người đã phá hủy biết bao di tích vì thế các di tích lịch sử văn hóa
nước ta ngày càng trở lên quý hiếm. Ngày nay, trong điều kiện kinh tế xã hội
phát triển không ngừng, con người không vì thế mà quên đi tất cả quá khứ. Sự
tìm về với cội nguồn là một nhu cầu không thể thiếu trong đời sống tâm linh
của người Việt.
Trong hệ thống di tích lịch sử văn hóa của dân tộc, ngơi đình ln
chiếm một vị trí quan trọng. Đối với mỗi làng quê Việt Nam, hình ảnh cây đa,
giếng nước, sân đình đều rất đỗi thân quen với mỗi người. Đình làng đã trở
thành một bộ phận không thể thiếu trong đời sống tinh thần của người Việt.
Đình làng giữ vai trị là một trung tâm sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng, tâm linh
của làng xã cổ truyền.
Việc tìm hiểu về đình làng, xác định các giá trị của nó khơng chỉ có ý
nghĩa trong việc tìm hiểu văn hóa người Việt mà còn bổ sung nguồn tư liệu
khoa học cho việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống trong điều
kiện tự nhiên và xã hội hiện nay.
Đình Lạc Nhuế là một ngơi đình cổ, đẹp và đồ sộ, có nghệ thuật trang
trí kiến trúc độc đáo cùng với rất nhiều đóng góp trong đời sống văn hóa, tinh

1


thần của người dân địa phương. Nội dung và giá trị nghệ thuật của ngơi đình
là tài sản vơ cùng quý giá mà ông cha ta đã để lại cho đến ngày nay.
Nhận thức được tầm quan trọng đó, là sinh viên được học về chuyên
ngành Bảo tàng của trường Đại học Văn Hóa Hà Nội, với tấm lịng u quê
hương đất nước, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài “ Di tích đình Lạc Nhuế, thơn
Lạc Nhuế, xã Thụy Hịa, huyện n Phong, tỉnh Bắc Ninh” làm đề tài
khóa luận tốt nghiệp, hy vọng là được đóng góp một phần cơng sức nhỏ bé

của mình vào việc bảo tồn và phát huy giá trị của di sản văn hóa.
2. Mục đích nghiên cứu
- Tìm hiểu về vùng đất, con người nơi di tích đình làng Lạc Nhuế tồn
tại, làm cơ sở cho việc nghiên cứu di tích
- Từ những nguồn tư liệu có được, tìm hiểu q trình hình thành, tồn tại
của đình Lạc Nhuế từ khi xây dựng đến nay và xác định những giá trị của di
tích trên hai phương diện:
+ Giá trị văn hóa vật thể: Kiến trúc và di vật
+ Giá trị văn hóa phi vật thể: Lễ hội đình làng
- Nghiên cứu thực trạng di tích, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm
bảo vệ và phát huy giá trị vốn có của di tích trong bối cảnh hiện nay
- Cung cấp thơng tin cho những người quan tâm, muốn học tập, nghiên
cứu, tìm hiểu về di tích đình làng Lạc Nhuế.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là di tích đình làng Lạc Nhuế
thuộc thơn Lạc Nhuế, xã Thụy Hòa, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh.
4. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi khơng gian: Nghiên cứu di tích đình Lạc Nhuế trong khơng
gian lịch sử, văn hóa của làng Lạc Nhuế, xã Thụy Hòa, huyện Yên Phong,
tỉnh Bắc Ninh.

2


- Phạm vi thời gian: Nghiên cứu di tích đình Lạc Nhuế gắn liền với quá
trình hình thành, tồn tại của di tích từ khi hình thành đến nay trong phạm vi
nguồn tư liệu có được.
5. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận sử dụng các phương pháp nghiên cứu chuyên ngành, liên
ngành như: Khảo sát, điền dã, phương pháp thống kê, phân tích tổng hợp, so

sánh, phương pháp liên ngành khảo cổ, sử học, mỹ thuật học, văn hóa học.
6. Bố cục khóa luận
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
khóa luận gồm có 3 chương:
Chương I: Đình Lạc Nhuế trong diễn trình lịch sử
Chương II: Giá trị kiến trúc nghệ thuật và lễ hội đình làng Lạc Nhuế
Chương III: Bảo tồn và phát huy giá trị di tích đình làng Lạc Nhuế

3


CHƯƠNG 1
ĐÌNH LẠC NHUẾ TRONG DIỄN TRÌNH LỊCH SỬ
1.1.Vài nét về vùng đất nơi di tích tồn tại
1.1.1. Vị trí địa lý – tên gọi di tích
Đình Lạc Nhuế hiện nay thuộc địa phận làng Lạc Nhuế, xã Thụy Hòa,
huyện Yên Phong tỉnh Bắc Ninh.
Huyện Yên Phong có tên gọi từ trước thời nhà Trần, sách Bắc Ninh
toàn tỉnh dư địa chí có viết: “Trị sở từ đời Trần trở về trước vẫn có tên gọi là
huyện Yên Phong”. Yên được hiểu là An, là mảnh đất xinh đẹp, thanh bình,
hịa hợp; Phong là đầy đủ, phong lưu, giàu có, tốt đẹp.
Huyện Yên Phong nằm ở phía Tây tỉnh Bắc Ninh, có tọa độ địa lý
khoảng từ 21o8’45 đến 21o14’30 độ vĩ Bắc và trong khoảng từ 105o37’30 đến
106o4’15 độ kinh Đơng. Phía Bắc giáp huyện Hiệp Hịa và huyện Việt Yên
của tỉnh Bắc Giang. Phía Nam giáp huyện Từ Sơn; phía Tây Nam giáp huyện
Tiên Du và thành phố Bắc Ninh; phía Tây giáp với huyện Đơng Anh và
huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội.
Huyện Yên Phong có tổng diện tích tự nhiên là 9.868,11ha, dân số là
123,719 người, mật độ dân số 1.277 người/km2. Địa hình chủ yếu là đồng
bằng, độ cao trung bình so với mực nước biển là 4.5m. Được hình thành chủ

yếu do quá trình bồi tụ phù sa của hệ thống sông Hồng và sơng Thái Bình,
trực tiếp là ba con sơng: Sơng Cầu, sơng Ngũ Huyện Khê và sơng Cà Lồ. Khí
hậu nhiệt đới trung bình cả năm là 23℃, nhiệt độ trung bình mùa nóng từ
24oC đến 29oC, 3 tháng có nhiệt độ dưới 20oC là tháng 12, tháng 1 và tháng 2;
lượng mưa trung bình 1.512mm/năm; độ ẩm trung bình 82,5%.
Nằm bên ở phía Đơng Bắc huyện n Phong, cách trung tâm huyện lị
7km. Xã Thụy Hòa nằm sâu trong địa thế bao bọc bởi vành đai đê sông Cầu
và đường tỉnh lộ 286 với phía Bắc giáp với xã Dũng Liệt; Phía Nam giáp với
xã Đơng Phong; Phía Đơng giáp xã Tam Đa; Phía Tây giáp xã Yên Trung.
4


Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, trên địa bàn khu vực có 10 xã
thuộc tổng Phong Xá đó là:
+ Xã Lạc Nhuế ( có tên Nơm là làng Nội)
+ Xã Đơng Tảo (có tên Nơm là làng Ngị)
+ Xã Bằng Lục ( có tên Nơm là làng Chục)
+ Xã Thiểm Xun (có tên Nơm là làng Thiểm)
Năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành cơng, đơn vị hành chính cấp
tổng xóa bỏ, một số xã nhỏ được sáp nhập thành xã lớn, thời điểm này trên
đại bàn khu vực còn có 3 xã thuộc huyện Yên Phong gồm:
+ Xã Thiểm Xuyên ( Nhất thôn nhất xã)
+ Xã Lạc Bằng gồm thôn Lạc Nhuế và Bằng Lục.
+ Xã Đông Sơn gồm thôn Đông Tảo và ấp Phong Sơn.
Tháng 9 năm 1948 hợp nhất 03 xã (Thiểm Xuyên, Lạc Bằng, Đông
Sơn) thành xã Thụy Hòa. Xã Thụy Hòa thuộc huyện Yên Phong, tỉnh Bắc
Ninh, từ tháng 04/1963 đến tháng 02 năm 1996 thuộc tỉnh Hà Bắc, tháng 01
năm 1997 đến nay thuộc huyện n Phong, tỉnh Bắc Ninh gồm có 04 thơn:
+ Thôn Thiểm Xuyên
+ Thôn Bằng Lục

+ Thôn Lạc Nhuế
+ Thôn Đơng Tảo
Làng Lạc Nhuế cịn có tên Nơm là làng Nội. Trước cách mạng tháng 8,
nơi đây là xã Lạc Nhuế thuộc tổng Phong Xá, huyện Yên Phong, phủ Từ Sơn,
tỉnh Bắc Ninh. Sau cách mạng tháng 8, Lạc Nhuế cùng Bằng Lục hợp thành
5


xã có tên là Lạc Bằng. Tháng 6 năm 1948 xã Thiểm Xuyên, xã Lạc Bằng, xã
Đông Sơn hợp nhất thành xã Thụy Hòa. Lạc Nhuế là một trong 4 thơn của xã.
Trong sử sách, nơi này cịn có tên là Lạc Nhuế Trang.
Lạc Nhuế nằm ở phía Tây Nam xã Thụy Hịa, phía Đơng giáp thơn
Bằng Lục, phía Tây giáp thôn Ấp Đồn, xã Yên Trung và Chi Long xã Long
Châu, phía Nam giáp thơn Phong Xá, xã Đơng Phong, phía Bắc giáp thơn
Thiểm Xun. Làng có diện tích tự nhiên 155,8ha; trong đó đất canh tác
118,5ha, đất thổ cư 30,7 ha, đất ao hồ 4,4ha, đất xây dựng cơng trình 2,2 ha
(theo điều tra 2013).
Làng có địa hình cao về phía Tây Bắc thoải dần về phía Đơng Nam,
đồng ruộng khơng bằng phẳng. Cánh đồng phía Đơng Bắc của làng cao thuận
lợi cấy lúa mùa và trồng hoa màu, phía Tây và Nam là vùng đất trũng, lầy lụt,
sinh cảnh chiêm khô mùa thối.
Làng Lạc Nhuế là địa phương xa trung tâm xã, trước đây chỉ có con
đường mịn nối thơn Lạc Nhuế với Chợ Trục. Mùa mưa nước ngập quanh
làng, đi đâu cũng phải dùng thuyền. Từ sau năm 1969 mới đắp đường nối Lạc
Nhuế với đường liên xã như ngày nay.
Làng có 3 xóm: Xóm Đơng, xóm Giữa, xóm Ngồi. Trước đây làng có
5 phường ( tương đương với giáp) đó là các phường Đơng, phường Tây,
phường Nam, phường Giữa, phường Giỏ.
Làng có 23 dịng họ. Họ Nguyễn có Nguyễn Khắc, Nguyễn Hữu,
Nguyễn Đình, Nguyễn Cao, Nguyễn Văn, Nguyễn Sĩ... Họ Đặng có Đặng Tài,

Đặng Trọng; họ Hồng có 1, họ Trần có 1... Lạc Nhuế là một làng thuần nơng
nên các dịng họ ít biến đổi. Hiện nay, họ Nguyễn Khắc có nhà thờ họ mang
phong cách kiến trúc thế kỷ 17 độc đáo.
Nơi đây có ghi dấu những xứ đồng cổ như : Đồng Nỏ Thần, Đồng
Muống, Đồng Thùng, Đồng Súng, Sao Ao, Diệc, Đồng Sắn, Đầm Mả Quậy,
Cống Trục…. Có các ao cổ như : Ao Đình, Ao Chùa và các chm cổ là:
6


Chm Cao Gồ, Chm Cửa Đình, Chm Ngã Ba, Chm Đồng Vam,
Chm Vùng Cá...
Đình làng Lạc Nhuế là một ngơi đình đẹp, có nghệ thuật kiến trúc và
trang trí kiến trúc độc đáo. Đình được khởi dựng từ thời hậu Lê và được trùng
tu lớn vào thời Nguyễn, đời vua Tự Đức. Đến nay đình cịn lưu giữ khá nhiều
sắc phong và một số mảng chạm thời hậu Lê. Việc bảo tồn, giữ gìn và phát
huy giá trị của di tích là hết sức cần thiết và quan trọng. Sở Văn hóa Thể thao
và Du lịch tỉnh Bắc Ninh đã cử cán bộ chuyên môn của Ban quản lý di tích
tỉnh về khảo sát, nghiên cứu di tích, tiến hành lập hồ sơ khoa học pháp lý cho
di tích đình làng Lạc Nhuế, trình bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch xem xét xếp
hạng di tích. Xét trên các mặt giá trị của di tích, đình làng Lạc Nhuế đã được
bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp
quốc gia theo quyết định số 51/2011/QĐ - BVHTT ngày 27-12-2001.
Ngày nay với điều kiện giao thơng thuận lợi, đến đình Lạc Nhuế khá dễ
dàng đối với các phương tiện giao thông đường bộ. Từ thành phố Hà Nội,
theo đường quốc lộ 1A khoảng 15km tới trung tâm thị trấn Từ Sơn, rẽ trái vào
đường số 295 đi 7km tới thị trấn Chờ (Yên Phong) rẽ phải theo đường 286 đi
8km tới xã Đông Phong rẽ trái theo đường liên xã khoảng 1km là tới thôn Lạc
Nhuế. Thôn Lạc Nhuế nằm ngay phía bên trái con đường liên xã. Ngồi ra
chúng ta có thể đi từ thành phố Bắc Ninh tỉnh Bắc Ninh theo đường 286 đi
khoảng 5 km tới xã Đông Phong rẽ phải đi 1km là tới đình Lạc Nhuế.

1.1.2.Truyền thống văn hóa
Lạc Nhuế là một làng Việt cổ thuần nơng, hiện nay làng cịn lưu giữ rất
nhiều bản sắc văn hóa độc đáo và phong phú thơng qua các hoạt động tín
ngưỡng tại đình, chùa, lăng và đặc biệt là tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên... Ơng
cha ta có câu “ Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, quả như vậy, người dân Lạc Nhuế
cũng như người dân Việt Nam ta ai cũng có lịng kính trọng và biết ơn những
người đã sinh thành ra mình. Vào những ngày rằm, mùng 1 hay dịp lễ tết,
7


nhân dân Lạc Nhuế thường thắp hương, dâng lễ để tưởng nhớ tới tổ tiên, đồng
thời việc thờ cúng tổ tiên cũng giúp cho những người cùng huyết thống,
chung dòng máu đồn kết và củng cố quan hệ dịng họ, gia tộc.
Về mặt tơn giáo và tín ngưỡng thờ thần, nhân dân Lạc Nhuế duy trì các
hoạt động thường niên trong đình, chùa và một số cơng trình kiến trúc mang
tính chất tâm linh khác như miếu, lăng, văn chỉ...Xưa kia, Lạc Nhuế có mật độ
di tích đậm đặc với 12 điểm di tích: Đình Lạc Nhuế, Đình Con, Văn Chỉ,
Chùa Lớn, Chùa Con, 3 Miếu, Nghè, Lăng Nguyễn Diên Thọ, Mộ 5 vị thành
Hoàng ( Mộ Phúc Thần ), Nhà thờ họ Nguyễn Khắc. Chùa làng có tên gọi
“Diên Phúc tự” tọa lạc tại phía Tây Nam của làng được xây dựng từ thời hậu
Lê với địa thế đẹp, cây cối xum xuê. Hiện nay chùa còn giữ được nhiều tượng
phật và các di vật quý hiếm. Làng Lạc Nhuế cịn có các cơng trình tâm linh
như biệt q miếu thờ Cao Vương đại vương có cơng giúp dân làng đánh giặc
Hổ, lăng của quan Tư lễ Thái giám – Thực nghĩa hầu – Nguyễn Diên Thọ...
Đình Lạc Nhuế thờ Thành hồng là 5 vị phúc thần có cơng âm phù giúp
nhiều triều đại đánh thắng ngoại xâm. Vào năm 981, nhân lúc vua Đinh Tiên
Hoàng bị ám hại – Đinh Tồn mới lên 6 tuổi kế vị, tình hình nội trị chưa ổn
định, quân Tống đã đưa 30 vạn quân vào xâm lược nước ta. Trước thế giặc
đông và mạnh, thái hậu Dương Vân Nga đã đưa Lê Hoàn nên làm vua đảm
trách việc chống giặc ngoại xâm cứu nước và được mọi người ủng hộ. Nhà

vua đã đem 10 vạn tinh binh tiến quân chống giặc, khi đi tới đạo Kinh Bắc,
phủ Từ Sơn, huyện Yên Phong (xưa gọi là An Phú) giáp với sơng Cầu thì gần
đến giáp thủy quân giặc do hai đại tướng Trần Nhâm Tộ, Triệu Phụng Huân
chỉ huy từ Cao Bằng xuống theo đường thủy chờ hội tụ với thủy quân từ Bạch
Đằng vào do Lưu Trừng và Giả Thực chỉ huy. Về phía vua Lê Đại Hành, khi
đến đầu làng Lạc Nhuế thấy có khí thiêng điềm lạ, trên một khoảng đất trống
nổi lên 5 gò uy nghi, cân đối như có sự sắp đặt, sương bay mây tỏa, cây cối
xanh tươi. Sau đó, vua thấy có 4 vị tiên lão dung mạo khác thường hiện lên và
tự xưng là họ Hùng, con vua Lạc Long Quân trị vì các núi ngàn và muốn giúp
8


vua chống giặc. Đêm hôm sau là ngày 12/2, vua nghỉ trong cổ miếu và gặp 5
vị trong đó có 4 vị sơn thần hôm qua và 1 vị tự xưng là thủy thần Đương
Giang hiển ứng giúp vua đánh giặc. Như được truyền thêm dũng khí, nhà vua
đem quân đánh giặc và giành được thắng lợi to lớn. Tới các triều đại sau, khi
có giặc ngoại xâm, 5 vị phúc thần luôn hiển ứng âm phù giúp vua cứu nước
và đều được gia phong như thời vua Trần Thái Tông giúp đánh giặc Nguyên
Mông, thời vua Lê Thái Tổ giúp vua diệt giặc Minh.... Nhân dân Lạc Nhuế
biết ơn các vị thần và đồng thời kế thừa truyền thống cha ông, hàng năm vào
ngày 12/2 âm lịch nhân dân lại tổ chức lễ hội để tưởng nhớ công lao của các
vị Thành hoàng và đồng thời giáo dục truyền thống yêu nước cho các thế hệ
tương lai.
* Truyền thống yêu nước và đấu tranh cách mạng
Tương truyền 5 vị Phúc thần ở đình Lạc Nhuế đã phù âm cho vua Lê
Đại Hành phá giặc Tống năm 981. Đến thời Lý nơi đây đã xảy ra trận chiến
quyết liệt. Xác tử sĩ được chôn trong một ngôi mộ tập thể, ngày nay gọi là mộ
Âm Hồn. Đức thánh nơi đây đã phù cho Trần Hưng Đạo thắng quân Mông
Nguyên năm 1285 và Lê Lợi giết được tướng Liễu Thăng.
Lạc Nhuế có nhiều ruộng (900 mẫu) tục ngữ có câu “ Đinh Kẻ Chiển,

điền Lạc Nhuế”. Đầu thế kỷ XX, Vũ Văn An thâu tóm ruộng đất trong đó có
của Lạc Nhuế 450 mẫu. Nhân dân đã từng làm đơn kiện Vũ Văn An đào
mương chiếm đất khiên y phải kiêng nể người Lạc Nhuế. Trước cách mạng
tháng 8, nhân dân hầu hết khơng có ruộng đất phải làm tá điền và làm thuê
cho Vũ Văn An đời sống cơ cực. Nạn đói năm 1945 làng có 12 người bị chết.
Đến tháng 4 năm 1945, thôn thành lập Mặt trận Việt Minh ơng Đặng Trọng
Ly là Chủ tịch. Ơng Đặng Trọng Lục sau khi từ lớp huấn luyện quân sự ở
Thiềm Xuyên về tổ chức đội tự vệ có 20 người. Ngày 14/06/1945 lực lượng
tự vệ tham gia phá kho thóc của Đỗ Đình Biên ở ấp Phong Sơn chia cho dân
nghèo. Ngày 18/8/1945 tham gia cướp chính quyền ở huyện lị Đông Yên.

9


Ngày 19/8/1945 cả làng Lạc Nhuế bằng vũ khí thơ sơ kéo lên phá kho thóc ở
Ấp Chấu và Yên Lãng (Yên Trung).
Cách mạng tháng 8 thành công, xã Lạc Bằng được thành lập, ông Đặng
Trọng Ly được bầu làm chủ tịch UBND xã. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ,
làng xây dựng “Làng chiến đấu”. Quanh làng có rào tre bao bọc, đào 12 hầm
kiên cố, hậu bầu đình cũng có hầm. Năm 1948- 1949, nhân dân Nam phần
Bắc Ninh tản cư về đây, bộ đội tỉnh và công an về đơng ở làng. Ở đây cịn có
cả trại giam của ti An Ninh cho các phạm nhân về tư pháp. Chợ được họp ở
đình để phục vụ cuộc sống của bà con và bộ đội. Đầu năm 1950, thực dân
Pháp lập tề ở Yên Phong. Thụy Hòa là khu du kích an tồn, huyện Đồn
thanh niên về đóng ở Lạc Nhuế, đồng thời có trạm giao liên của bộ đội, của
chủ lực tỉnh đóng ở Làng. Từ năm 1951 đến năm 1953 giặc 3 lần càn quét đốt
phá làng, nhưng người dân Lạc Nhuế vẫn bám làng, bám đất để sản xuất, tiêu
diệt nhiều quân phản động. Cụ Nguyễn Khắc Tiến cùng một số người đã lên
quận Ngô Khê đấu tranh không cho giặc càn quét, bắt bớ. Cuối năm 1950,
làng tiêu diệt 2 tên phản động. Năm 1951, Vũ Văn Khoa con của địa chủ Vũ

Văn An lợi dụng bọn lính Phong Khê đến đốc “thuế tơ” bị nhân dân đuổi
đánh phải rút chạy.
Năm 1951, thực hiện chính sách thuế nông nghiệp đồng thời mua công
trái kháng chiến, Lạc Nhuế đóng góp 10 tấn (cụ Bá Miền 3 tấn, cụ Phó hội
Tồn 2 tấn).
Trong 8, 9 năm đánh Pháp, làng có 11 người đi bộ đội, 25 người tham
gia du kích, 20 người di dân cơng hỏa tuyến trong đó có 4 người là liệt sĩ.
Đại đội trưởng Nguyễn Khắc Dự đánh bốt Thiên Thai tháng 12 năm
1946 hy sinh là liệt sĩ đầu tiên của xã. Có 4 gia đình (Cụ Vi, cụ Ly, cụ Diên,
cụ Huân) được tặng bằng khen có cơng với nước.
Bước vào thời kỳ chống Mỹ cứu nước, từ năm 1965 đến 1968 trường
học sinh Hoa Kiều ở Hà Nội về sơ tán. Nhân dân giúp đỡ và bảo vệ an toàn
cho thầy và trò. Nhân dân đào trên 300 hầm chữ A và hố cá nhân ở mỗi gia
10


đình và trục đường giao thơng. Làng tổ chức trung đội dân quân trong đó có
tổ trực chiến bắn máy bay tầm thấp. Xây dựng hội Mẹ chiến sĩ, tổ thợ cày, tổ
trung hậu đảm đang. Làng đã tiễn đưa 108 thanh niên lên đường nhập ngũ. Có
2 gia đình có 4 con nhập ngũ, có 2 gia đình có 3 con nhập ngũ. Làng có 10
thanh niên xung phong và dân công hỏa tuyến. Kết thúc đợt kháng chiến
chống Mỹ làng có 19 người là liệt sĩ. Mẹ Nguyễn Thị Bái được tặng danh
hiệu “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”, nhân dân Lạc Nhuế được thưởng 145
huân, huy chương các loại. Cũng trong thời kỳ này, Lạc Nhuế góp cho tiền
tuyến miền Nam 847 tấn thóc, 70 tấn thực phẩm...
Nhân dân Lạc Nhuế từ xa xưa cho đến ngày nay ln ln gìn giữ
truyền thống u nước và trở thành một nguồn di sản tinh thần quý giá để các
thế hệ tương lai phấn đấu vươn lên trong sự nghiệp đấu tranh giữ nước và xây
dựng quê hương giàu mạnh.
1.1.3.Dân cư và đời sống văn hóa của dân cư

Làng Lạc Nhuế hiện nay có khoảng 482 hộ với 2500 nhân khẩu. Vì là
làng nơng nghiệp truyền thống nên thường làng được quây quần bởi các dòng
họ lớn như Nguyễn Khắc, Nguyễn Hữu, Nguyễn Tài, Đặng Trọng...
Làng Lạc Nhuế là một làng Việt cổ nên có cơ cấu tổ chức khá chặt chẽ
và được liên kết với nhau thông qua các mối quan hệ huyết thống, quan hệ
xóm giềng, làng giáp..
Trong quan hệ huyết thống gồm có các quan hệ gia đình, dịng tộc, họ
hàng. Mọi thành viên trong gia đình và gia dịng họ phải chịu sự chi phối điều
hành của người cha, người con trưởng, trưởng họ theo một tôn ti trật tự của 9
thế hệ và quan hệ bề bậc. Bề trên dẫu có ít tuổi vẫn là bề trên, bề dưới dẫu có
cao tuổi vẫn là bề dưới, bề trên nói bề dưới phải chấp hành. Người Lạc Nhuế
coi trọng tình cảm bề bậc anh em nhưng cũng coi trọng tình cảm hàng xóm,
phường hội giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống hàng ngày, trong sản xuất nông
nghiệp, chống lại thiên tai và các tệ nạn xã hội, trộm cướp. Đó là tình cảm của
sự đồn kết hữu ái giữ các thành viên trong làng.
11


Quan hệ làng giáp theo kiểu truyền thống, chỉ có nam giới được tham
gia và mang tính chất cha truyền con nối, cha ở giáp nào thì con ở giáp ấy.
Trước đây làng có 5 phường ( tương đương với giáp) đó là các phường Đơng,
phường Tây, phường Nam, phường Giữa, phường Giỏ. Các giáp có nhiệm vụ
tổ chức tế lễ, đình đám, hội hè, tang ma hoặc tham gia vào các công việc khác
của làng.
Làng Lạc Nhuế chủ yếu làm nghề nơng nghiệp lúa nước, vì vậy thủy
lợi ln luôn được coi trọng. Việc đào mương, lắp máy bơm lấy nước từ kênh
Bắc về luôn được coi là nhiệm vụ hàng đầu. Vì vậy việc úng hạn cũng được
giải quyết. Năm 1998, HTX dịch vụ nông nghiệp của Lạc Nhuế đã đổi mới
quản lý, vay vốn Ngân hàng, mở rộng sản xuất kinh doanh... được chính phủ
tặng bằng khen năm 2002.

Ngoài nghề trồng lúa nước, trong làng cũng phát triển một số nghề thủ
cơng nghiệp như đóng thuyền, dệt vải... nhằm cải thiện và nâng cao đời sống
của nhân dân.
Nhờ vậy mà đời sống người dân Lạc Nhuế ngày càng phát triển hơn.
Tổng số hộ là 482 mà hộ giàu có 101 hộ (21%), hộ khá và trung bình là 294
hộ (61%), hộ nghèo là 87 hộ (18%).
Nhà Nước cũng quan tâm đến nhân dân đó là đầu tư xây dựng nhiều
cơng trình phúc lợi như năm 2005 làm đường bê tông dài 3km, xây nhà trẻ,
mầm non, bưu điện. Ngồi ra cịn cấp kinh phí trùng tu các di tích lịch sử văn
hóa bị xuống cấp như đình, chùa... Xưa kia điều kiện kinh tế khó khăn, việc
học tập của con em trong làng còn hạn chế, tuy nhiên đến ngày nay, làng đã
có rất nhiều người đỗ cao học, đại học cũng như cao đẳng.
Về mặt văn hóa, văn nghệ, làng đã hồn chỉnh bản quy ước làng văn
hóa năm 1997. Các thiết chế văn hóa như đình làng, chùa, hội trường, sân vận
động được đầu tư đáng kể. Cảnh quan làng được khởi sắc. Làng hiện có đội
quan họ nhiều thế hệ và luyện tập thường xuyên ở sân vận động.

12


Với truyền thống cần cù lao động, người dân Lạc Nhuế đã tạo ra nếp
sống của cư dân đồng bằng với nghề chính là nơng nghiệp trồng lúa nước. Cơ
cấu tổ chức của làng xã sớm được hình thành với những quy định chặt chẽ,
nhiều tập tục tốt đẹp nhằm bảo vệ mơi trường, duy trì sản xuất, nâng đỡ tình
làng nghĩa xóm gắn tinh thần trách nhiệm và ý thức gắn bó, lịng nhiệt tình
đóng góp xây dựng q hương của mỗi cá nhân với cộng đồng. Nếp sinh hoạt
văn hóa của làng quê đã lấy các ngày hội làng làm trung tâm, có nhiều tập tục
hay đẹp, giáo dục tinh thần thượng võ, sự khéo tay và tình tình u lao động.
Cùng với sự phát triển khơng ngừng của kinh tế, văn hóa và xã hội, nhân dân
Lạc Nhuế ngày càng cố gắng gìn giữ và phát huy truyền thống quý báu của

ông cha ta để đưa thôn Lạc Nhuế từng bước tiến tới văn minh, giàu đẹp theo
con đường cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa nơng thơn.
1.2.Lịch sử xây dựng và q trình tồn tại của đình Lạc Nhuế
Theo các cụ cao niên trong làng, đình Lạc Nhuế được xây dựng từ rất
lâu đời từ một ngơi miếu nhỏ với sự góp sức và tiền của của nhân dân trong
làng.Lúc đó, trong làng có ơng Thống Chế là cựu thần của triều hậu Lê, bị
Chúa Trịnh chèn ép, xin về chí sĩ tại bản quán vốn người đôn hậu lại muốn
gạt bỏ nốt những của cải, vương vấn nơi quan trường nên ông đã cho dỡ bỏ
hết phủ thờ mà triều đình ban cho ơng theo tiêu chuẩn, để cung tiến cho vua
trùng tu lại đình làng, ngồi ra cịn cơng đức cả tiền bạc nữa. Thời kỳ này, khá
nhiều đình làng được xây dựng. Hơn nữa, dựa trên các cấu kiện kiến trúc và
phong cách nghệ thuật ta có thể biết rõ được ngơi đình Lạc Nhuế được xây
dựng từ thời hậu Lê. Với lối kiến trúc cổ của dân tộc, đình được xây dựng chủ
yếu bằng gỗ lim. Hiện tại, trên các xà thượng, xà hạ, xà nách của ngơi đình
cịn khá nhiều dịng chữ Hán được khắc sâu vào gỗ, nội dung chủ yếu là
“Hoàng thượng Lê triều tuế thứ Ất Hợi niên bản xã” hoặc “Hoàng thượng vạn
vạn niên tuế thứ Ất Hợi”... và một số hoa văn trang trí mang phong cách nghệ
thuật thời hậu Lê. Bên cạnh đó có các hiện vật, tài liệu như bia đá (hiện lưu
giữ trong bảo tàng Hà Nội), sắc phong là những sản phẩm rõ nét của thờiLê
13


Trung Hưng. Đặc biệt, trong đình cịn lưu giữ được hai pho tượng phỗng với
phong cách nghệ thuật tiêu biểu của thời Lê Trung Hưng. Từ những chứng cứ
trên ta thấy được đình đã được xây dựng thời hậu Lê(khoảng cuối thế kỷ
XVII).
Đến năm 1852 thời vua Tự Đức năm thứ 5, tịa đại đình được trùng tu
lớn, dấu ấn văn hóa và một số cấu kiện kiến trúc đã được thay thế và sửa chữa
vào thời kỳ này được thể hiện khá rõ. Việc này thể hiện rõ ở trên phần bụng
của hai câu đầu đã cho thấy rõ năm tu sửa và họ tên người công đức thượng

lương, hai câu đầu ghi: “Tự Đức ngũ niên tuế thứ Nhâm Tý tứ nguyệt cốc
nhật cốc thời thượng lương” và bản xã Nguyễn Tôn Vinh, thê Nguyễn Thị
Quyền công đức thiết lâm vi nhất lương. Tức là đình được sửa và đặt thượng
lương vào giờ tốt ngày đẹp tháng 4 năm Nhâm Tý, thời vua Tự Đức thứ 5
(1852) và bản xã Nguyễn Tôn Vinh, thê Nguyễn Thị Quyền công đức gỗ làm
thượng lương.
Trước đây đình cịn có một số cơng trình khác như: Nghi mơn, hai nhà
Giải Vũ, một tịa tiền tế nằm phía trước tịa đại đình. Tịa đại đình và tiền tế
có mặt sàn hồn tồn bằng gỗ. Tuy nhiên trong cuộc kháng chiến chống Pháp,
cổng tam quan, hai nhà Giải Vũ và tòa tiền tế đã được gỡ bỏ nhằm thực hiện
chủ trương của Đảng là “Tiêu thổ kháng chiến” để gây khó khăn cho việc
đóng quân của địch còn sàn gỗ do lâu ngày mối mọt nên đã được tháo dỡ và
lát bằng sàn gạch. Ngày nay, đình Lạc Nhuế cịn lại là một tịa đại đình 5 gian
2 chái, hậu cung nối với đại đình kiểu chi vồ, tồn bộ cơng trình cịn được
nhân dân trong làng bảo lưu, giữ gìn khá tốt. Năm 2005, địa phương kết hợp
với nguồn vốn của Nhà Nước cấp, ngơi đình đã được đại tu hồn tồn với
việc làm cửa đình, thơng tâm cột và cịn khơi phục được một nhà Hữu vu với
3 gian và nghi mônkiên cố. Việc xây dựng và cải tạo cảnh quan di tích ln
được trú trọng như trồng cây, kè hồ nước, tơn tạo sân đình...Lần tu sửa gần
đây nhất của đình là vào năm 2012 với sự đóng góp của nhân dân, một số cấu
kiện kiến trúc hư hỏng đã được thay thế.
14


Hiện nay trong đình cịn lưu giữ được khá nhiều các di vật, hiện vật
quý hiếm thời hậu Lê và Nguyễn như tượng phỗng, ngai thờ, hương án, đài
thờ... và đặc biệt đình cịn lưu giữ được 15 đạo sắc phongtrong đó 5 sắc phong
thời hậu Lê và 10 đạo sắc phong các đời vua Nguyễn như Khải Định năm thứ
9, Tự Đức năm thứ 3...
Cho đến nay đình Lạc Nhuế đã được vài trăm năm tuổi, tuy vậy ngơi

đình vẫn vững vàng với thời gian với thời tiết khí hậu khắc nghiệt của Việt
Nam. Điều này một phần lớn do ý thức giữ gìn của nhân dân thơn Lạc Nhuế
cũng như sự quan tâm của Đảng và Nhà Nước. Ngơi đình như một bảo tàng
sống về văn hóa, về nghệ thuật thời hậu Lê và Nguyễn đồng thời là nơi hội tụ
tâm linh, chứa đựng văn hóa truyền thống, bản sắc văn hóa của dân tộc ta.
Hằng năm vào ngày 12 tháng 2 âm lịch, làng lại nô nức tổ chức lễ hội nhằm
tưởng nhớ tới công ơn của các vị thần Hồng làng.
1.3.Sự tích các vị thần được thờ tại đình
Đình làng ngồi chức năng văn hóa, là nơi sinh hoạt chung của cả làng
thì đình làng cịn có chức năng tơn giáo. Xét về chức năng này, đình làng thờ
vị thần chung của cả làng đơi khi là một người nhưng cũng có thể là nhiều
người. Những vị thần này thường được gọi là Thành hoàng làng.
Thành hồng làng vốn là vị thần có nguồn gốc từ Trung Quốc, nhiều
tác giả cho rằng Thành hoàng bắt nguồn từ câu của Kinh dịch “Thành phục vụ
hoàng” (Thành đổ thì trở nên hào). Như vậy Thành hồng (thành hào) chỉ là
một cấu trúc của một tịa thành gồm có tường thành và hào nước bảo vệ trong
ngoài. Việc thờ Thành hồng ở Trung Quốc có từ thời Tam Quốc, bấy giờ
Thần Thành hồng đã có hình ảnh của một con người và cũng từ đây Thành
hồng khơng cịn hóa thân của thành trì nữa mà là một con người cụ thể.
Việt Nam là một quốc gia chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc khá
đậm nét khi tín ngưỡng Thành hoàng vào Việt Nam từ thời Bắc thuộc cũng
làm nảy sinh một số Thành hoàng mà chức năng giống như Thành hồng
Trung Quốc, là thần bảo vệ những tịa thành nhưng bên cạnh đó, nước ta cịn
15


có một dịng Thành hồng khác là những vị thần thờ ở những ngơi đình gọi là
Thành hồng làng hay cịn gọi là: “Đương cảnh Thành hồng”, “Thành hồng
bản cảnh” có nghĩa là vị thần của khu đất ấy.
Theo Toan Ánh trong “Việt Nam phong tục” dùng từ Thành hoàng giải

thích: “Trong việc thờ cúng cộng đồng, các thơn xã đều lấy việc phụng thờ
Thành hoàng bản để làm quan trọng. Thành hồng ở mỗi thơn cũng như thổ
cơng ở một nhà. Ngài là vị thần linh cai quản toàn thể xã, che chở cho nhân
dân trong làng, chống mọi ác thần, giúp thôn xã thịnh vượng” [2, tr.3]
Theo giáo sư Đào Duy Anh thì “ Thành Hồng là biểu hiện của lịch sử,
phong tục, đạo đức, pháp lệ cùng hi vọng chung của cả làng, lại cũng là một
thứ uy quyền siêu việt, một mối liên lạc vơ hình, khiến cho hương thơn thành
một đồn thể có tổ chức và hệ thống chặt chịa” [1, Tr.207]
Đình làng Lạc Nhuế thờ 5 vị phúc thần trong đó có 4 vị sơn thần và 1
vị thủy thần có cơng phù âm cho các triều đại đánh giặc ngoại xâm.
Từ thời Lạc Long Qn đóng đơ trên núi Ngũ Linh, một hơm vua đi
tuần trên núi gặp nàng tiên nữ tên Âu Cơ bèn cưới làm vợ. Được ít lâu sau,
trên núi Ngũ Linh mây lành ngưng tụ, khí thiêng hun đúc, hoa lá tốt tươi,
nàng Âu Cơ thụ thai rồi sinh ra một bọc trăm trứng nở ra 100 người con khôi
ngô tuấn tú. Khi các con trưởng thành, vua Lạc Long Quân chia 50 con xuống
biển làm Thủy thần trị giữ biển cả, 50 người còn lại lên núi trị giữ các rừng
núi non ngàn.
Năm 981 vua Tống được tin hai cha con vua Đinh Tiên Hoàng bị ám
hại, Đinh Tồn mới 6 tuổi lên ngơi, thái hậu Dương Vân Nga chấp chính, tình
hình nội trị chưa ổn định, lợi dụng thời cơ liền cấp tốc sai Hầu Nhân Bảo đem
30 vạn quân thủy bộ xâm lược nước ta. Mùa thu năm ấy quân Tống rầm rộ
kéo vào nước ta như nước vỡ bờ. Một mặt Tống sai Lưu Đa Tốn đưa tới hầu
thư với lời lẽ hết sức láo xược, dã man và tàn bạo. Trong thư có đoạn viết:
“Mở lòng ngu tối của ngươi, để mở lòng được thấm nhuần thánh giáo của ta,

16


chặt xác, bằm xương, làm cỏ ngươi. Nếu quy phục thì ta tha cho, nếu trái
mệnh thì ta quyết đánh, theo hay không, lành hay dữ tự ngươi nghĩ lấy”.

Trước tình thế nguy cấp như vậy, thái hậu Dương Vân Nga đã vì quyền
lợi quốc gia, hi sinh quyền lợi gia tộc nhỏ bé đã sai người lấy áo Long cổn
khốc cho Lê Hồn lo việc chống giặc cứu nước. Việc làm này thể theo
nguyện vọng đòi hỏi của hàng vạn binh sĩ nên được mọi người ủng thuận.
Vua Lê Hoàn chuẩn bị cuộc kháng chiến với tư thế rất vững vàng, mặc dầu
thế giặc đông và hùng hổ. Nhà vua không hề nao núng, tự đem 10 vạn quân
tinh nhuệ tiến công đánh giặc.
Quân của vua Lê Đại Hành tiến lên biên giới phía Bắc, đến đạo Kinh
Bắc (xưa gọi là Vũ Ninh), phủ Từ Sơn, huyện Yên Phong (Xưa gọi là An
Phú) giáp lưu vượt sơng Cầu thì gặp quân giặc, đây là đạo Thủy quân do hai
đại tướng Trần Khâm Tộ và Triệu Phụng Huân tiến qua sông Thương từ Cao
Bằng xuống để hội tụ với cánh quân của hai đại tướng Lưu Trường và Giả
Thực từ sông Bạch Đằng vào.
Nhà vua trú tại trang Lạc Nhuế, vừa đến đầu trang đã thấy khi thiêng
điềm lạ, trên một khoảng đất, nổi lên 5 gò uy nghi, cân đối như có sự an bài
sắp xếp, sương bay mây tỏa, cây cối xanh tươi. Sau khi quan sát xung quanh,
nhà vua ngẩng mặt lên nhìn đồi cao bên cạnh liền thấy 4 vị tiên lão, dung
nhan khác thường, hình như đang bàn bạc một vấn đề gì khá quan trọng. Nhà
vua hết sức kinh ngạc bèn cất tiếng hỏi, bốn vị tiên lão tự xưng là Linh Thánh,
Thủy Thánh, Cao Sơn, Tướng Công, là con của cha Lạc Long Qn và trị vì
các ngọn núi quanh đây. Nghe nói nhà vua đi dẹp giặc nên các vị xin hội kiến.
Sau đó nhà vua khơng cịn thấy bóng các vị tiên lão nữa mà cả sương trắng và
mây mù khi nãy trắng xóa giờ đây cũng dần tan biến.
Nhà vua hết sức mừng rỡ và tự hào vì truyền thống chống giặc ngoại
xâm mà tổ tiên đã chuẩn bị tổ chức, bố trí một cách có kế tục lâu dài. Ở đây,
các vị Phúc thần ở trang Lạc Nhuế đã anh linh hiển hiện để phối hợp với ta
làm nhiệm vụ diệt giặc cứu nước. Nhất định lần này đánh thắng quét sạch
17



quân giặc. Đêm hôm ấy là ngày 12 tháng 2 âm lịch, nhà vua vào ngụ tại ngôi
cổ miếu để cầu phúc. Quả nhiên đến trống canh ba bỗng thấy kinh hồng và
như có người báo thức. Nhà vua tỉnh dậy quay ra phía núi thì đã thấy 5 vị
phúc thần mặc quần áo đỏ, đội mũ đỏ, đi hia đỏ. Trong đó có 4 vị nhà vua đã
gặp hơm qua và thêm một vị Thủy thần tự xưng là Đương Giang cũng cùng
anh em một bọc , được chia trị tại sông Cầu gần đây. Nay 5 vị được lệnh vua
cha hợp sức cùng vua Lê đánh giặc. Đột nhiên khơng gian rung động, linh khí
chói lịe, 5 vị phúc thần đều biến theo mây tỏa.
Sáng sớm hôm sau, vua cho mời tất cả các bô lão trong trang lại hỏi:
“Trang Lạc Nhuế các ngươi thờ phụng thần miếu thế nào?” Các bô lão đều
tâu: “Trang Lạc Nhuế của chúng thần thờ 5 vị Phúc thần”. Duệ hiệu các bô
lão tâu đều đúng như duệ hiệu các phúc thần đã xưng hôm qua, nhà vua thấy
quả thật miếu rất thiêng và linh ứng. Như được truyền thêm dũng khí, nhà vua
lan truyền cho tất cả binh lính, mọi người rất hồ hởi, khí thế bừng bừng, tư
tưởng thắng giặc như được nung nấu vì vậy sức mạch 10 vạn quân hừng hực
sẵn sàng chiến đấu. Sau khi nhà vua cho tiến qn thì giành được thắng lợi
hồn tồn. Trần Khâm Tộ bị giết, Phụng Triệu Huân bị bắt sống và đưa về
cung hậu xét.
Sau trận đại thắng đó, quân sĩ đều nói nhờ có cơng Sơn – Thủy bách
thần giúp nước nên quân ta mới thắng giặc Tống một cách mau lẹ, dễ dàng.
Nhà vua bèn gia phong cho 5 vịPhúc thần là: “Bản cảnh thành hoàng linh phù
chi thần”
Sắc phong:
- Nhất phong “Nhạc thánh” tế thế độ quốc an dân tuấn hưởng hùng kiệt
linh quang đại vương.
- Nhất phong “ Nhạc thánh” dũng cảm tự thắng, hiển ứng hùng đoạn,
linh quang đại vương
- Nhất phong “ Nhạc thánh” Cao sơn dũng liệt quả nghị hình thơng
hùng tuấn trác vỹ đại vương.
18



- Nhất phong “Lương giang” hoàn lưu thiệu lộc anh liệt bách hiệp linh
ứng đại vương.
Sắc ghi: Cấm dùng các tên ứng, cấm dùng các đồ may mặc bằng màu
đỏ khi hành lễ.
Lệnh cho trang Lạc Nhuế xây dựng đình từ khu vực miếu cũ để thờ
phụng mãi mãi. Việc tiến phong Thần sắc, việc dùng thể thức lễ nghi văn tế,
việc ghi công đều do Bộ Lễ làm theo quy chế nhà vua đã định.
Từ đó về sau, đình thờ trang lạc Nhuế rất tôn nghiêm, rất linh ứng,
nhiều lần 5 vị Phúc thần hiển hiện giúp nước cứu dân khi có giặc.
Năm 1281 thời vua Trần Thái Tơng, giặc Nguyên Mông sang xâm lược
nước ta. Trần Quốc Tuấn đem quân đánh Ô Mã Nhi và cũng được 5 vị thần ở
Lạc Nhuế âm phù đánh thắng giặc. Sau khi chiến thắng, vua Trần Thái Tông
bèn gia phong: “Linh ứng anh triết dương lộ, hiển hiện trợ thắng”.
Năm 1427 vua Lê Thái Tổ(Lê Lợi) khởi nghĩa đánh quân Minh cũng
được 5 vị hiển ứng âm phù thắng trận giết tướng Liễu Thăng giải phóng đất
nước. Vua Lê Thái Tổ lại gia phong: “Phổ tế cương nghị anh linh khang dân
phù vận đại đức” và sắc cho trang Lạc Nhuế phải sửa sang lại đình ngày càng
tơn nghiêm.
Như vậy, 5 vị Phúc thần mà nhân dân Lạc Nhuế hiện nay đang phụng
thờ đã ba lần hiển linh giúp vua đánh giặc Phương Bắc xâm lược. Cả ba lần 5
vị đều được các vua ban sắc ghi công và các vị chính là Sơn thần và Thủy
thần con của vua cha Lạc Long Quân và mẹ Âu Cơ được phân trị vì núi non,
sơng ngịi của nước ta. Húy của 5 vị thần là:
- Linh Thánh đại vương
- Thủy Thánh đại vương
- Cao Sơn đại vương
- Tướng Công đại vương
- Đương Giang đại vương (Lâm Giang đại vương)


19


Ngày nay, tiếp nối truyền thống của cha ông, nhân dân Lạc Nhuế vẫn
duy trì phụng thờ cho đến mn đời sau để nhớ ơn các vị Thành hoàng đã có
cơng phù âm diệt giặc ngoại xâm. Hàng năm, cứ vào ngày 11 và 12 tháng 2
âm lịch (tức ngày 5 vị hiển hiện và hóa) dân làng lại tổ chức lễ hội nhằm
tưởng nhớ công ơn của các vị thần cũng như giáo dục truyền thống yêu nước,
căm thù giặc cho thế hệ con cháu.

20


Tiểu kết
Chương I đã tập trung khái quát về vùng đất nơi di tích tồn tại, về lịch
sử hình thành q trình tồn tại của di tích đình Lạc Nhuế đồng thời cũng giải
thích và làm rõ được nhân vật được thờ trong di tích.
Đình Lạc Nhuế thuộc thơn Lạc Nhuế, Xã Thụy Hịa, Huyện n Phong
tỉnh Bắc Ninh. Đình làng thờ 5 vị Phúc Thần là Linh Thánh, Thủy Thánh,
Cao Sơn, Tướng Cơng và Đương Giang đã có cơng giúp vua Lê Đại Hành
đánh giặc Tống cũng như phù âm cho nhiều triều đại vua đánh thắng giặc
ngoại xâm.
Dựa trên nhiều căn cứ như phong cách nghệ thuật cùng với, các chữ
Hán và di vật cịn lại trong đình thì đình Lạc Nhuế được xây dựng vào thời Lê
Trung Hưng ( khoảng cuối thế kỷ XVII). Sau đó, đình được trùng tu và tu sửa
khá nhiều lần. Lần trùng tu lớn nhất là vào năm 1852 thời vua Tự Đức năm
thứ 5. Dấu ấn lần trùng tu này còn được thể hiện rõ nét trên các cấu kiện kiến
trúc như đầu dư, thượng lương...
Cùng với chiều dài của lịch sử, đình làng Lạc Nhuế đã tồn tại hơn vài

trăm năm và vững vàng với thời gian. Việc nghiên cứu lịch sử hình thành và
quá trình tồn tại của di tích là căn cứ cho những vấn đề được đặt ra và giải
quyết ở chương II và chương III của khóa luận này.

21


×