TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI
KHOA DI SẢN VĂN HĨA
NGUYỄN TIẾN TUẤN
DI TÍCH ĐÌNH LÀNG THƯỢNG
(XÃ CẢNH HƯNG - HUYỆN TIÊN DU - TỈNH BẮC NINH)
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
NGÀNH BẢO TÀNG HỌC
Mã số : 52320305
Người hướng dẫn:PGS.TS NGUYỄN VĂN TIẾN
HÀ NỘI - 2015
LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian nghiên cứu và làm việc nghiêm túc, được sự giúp đỡ,
chỉ bảo tận tình của các thầy cơ giáo, tơi đã hồn thiện bài khóa luận này.
Lời đầu tiên, tơi xin tỏ lịng biết ơn đối với các thầy giáo, cô giáo Khoa
Di sản văn hóa đã tận tình giảng dạy, chỉ bảo và luôn tạo điều kiện giúp đỡ tôi
trong suốt thời gian dài học tập tại Khoa. Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn chân
thành và sâu sắc nhất tới PGS.TS Nguyễn Văn Tiến – người trực tiếp hướng
dẫn khoa học cho tôi ngay từ khi xác định đề tài, xây dựng đề cương cho tới
khi hồn thiện bài khóa luận.
Qua đây, tôi cũng xin chân thành cảm ơn Ban quản lý di tích tỉnh Bắc
Ninh, Phịng Văn hóa huyện Tiên Du, chính quyền xã Cảnh Hưng cùng các cụ
cao niên trong thơn Thượng đã nhiệt tình giúp đỡ, cung cấp tư liệu, tạo điều
kiện thuận lợi cho tôi tiếp cận, khảo sát di tích đình làng Thượng và sưu tầm
các nguồn tư liệu có liên quan tới đề tài khóa luận. Xin cảm ơn gia đình, bạn
bè đã động viên, giúp đỡ tơi để tơi có thể hồn thiện bài khóa luận này.
Là một sinh viên năm thứ tư, chưa có nhiều kinh nghiệm tiếp xúc nhiều
với thực tế nên kiến thức còn hạn chế. Đồng thời cũng do thời gian có hạn với
điều kiện tư liệu cịn ít, tản mạn. Do đó khóa luận khó tránh khỏi nhiều thiếu
sót. Kính mong nhận được sự đóng góp, chỉ bảo của các thầy cơ giáo và bạn
bè để khóa luận được hồn thiện hơn.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày tháng năm 2015
Tác giả khóa luận
Nguyễn Tiến Tuấn
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................... 1
Chương I: Đình Làng Thượng trong diễn trình lịch sử ............................. 4
1.1. Vài nét về vùng đất nơi di tích tồn tại ...................................................... 4
1.1.1.Vị trí địa lý – tên gọi di tích................................................................... 4
1.1.2.Truyền thống văn hóa ............................................................................ 8
1.1.3. Dân cư và đời sống kinh tế ................................................................. 17
1.2. Lịch sử xây dựng và quá trình tồn tại của đình Làng Thượng ................ 20
1.3. Sự tích các vị thần được thờ tại đình ..................................................... 23
Tiểu kết ........................................................................................................ 33
Chương II: Giá trị kiến trúc nghệ thuật và lễ hội đình làng Thượng ..... 34
2.1. Giá trị kiến trúc ..................................................................................... 34
2.1.1. Không gian cảnh quan ....................................................................... 34
2.1.2. Bố cục mặt bằng ................................................................................. 36
2.1.3. Các đơn nguyên kiến trúc ................................................................... 36
2.2. Giá trị nghệ thuật................................................................................... 40
2.2.1. Trang trí kiến trúc............................................................................... 40
2.2.2. Hệ thống di vật tiêu biểu trong di tích................................................. 50
2.3. Lễ hội đình làng làng Thượng ............................................................... 55
2.3.1. Các ngày lễ trong năm ........................................................................ 55
2.3.2. Lễ hội chính ....................................................................................... 58
Tiểu kết ........................................................................................................ 67
Chương III: Bảo tồn và phát huy giá trị di tích đình làng Thượng ........ 68
3.1. Thực trạng di tích đình Làng Thượng .................................................... 68
3.1.1. Thực trạng kiến trúc ........................................................................... 68
3.1.2. Thực trạng di vật ................................................................................ 70
3.1.3. Thực trạng tổ chức lễ hội .................................................................... 70
3.2. Một số giải pháp bảo tồn di tích đình Làng Thượng .............................. 72
3.2.1. Cơ sở pháp lý ..................................................................................... 73
3.2.2. Các giải pháp bảo quản kiến trúc ........................................................ 75
3.2.3. Bảo quản các di vật trong di tích ........................................................ 78
3.2.4. Một số giải pháp về quản lý và bảo vệ di tích ..................................... 78
3.3. Giải pháp bảo tồn lễ hội đình làng Làng Thượng................................... 79
3.4. Khai thác và phát huy giá trị đình làng Làng Thượng ............................ 80
Tiểu kết ........................................................................................................ 85
KẾT LUẬN................................................................................................. 86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 89
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Xã hội đang từng bước hội nhập đổi mới, sự nghiệp xây dựng và phát
triển văn hóa cũng vậy. Xuất phát từ quan điểm định hướng “văn hóa là nền
tảng tinh thần, vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển kinh tế xã hội”.
Trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội, văn hóa ln được xác định như
một yếu tố nội lực quan trọng có tác động thúc đẩy mạnh mẽ việc thực hiện
thành công nhiệm vụ kinh tế xã hội. Trong đó việc bảo tồn và phát huy giá trị
của di sản văn hóa là một nội dung quan trọng được Đảng và Nhà nước đặc
biệt quan tâm. Di sản văn hóa đã và đang góp phần nâng cao đời sống tinh
thần cho nhân dân, giáo dục truyền thống văn hóa, lịch sử, tinh thần và ý thức
dân tộc cho mọi thế hệ trong hôm nay và cho đến mai sau.
Di sản văn hóa là một bộ phận của văn hóa dân tộc, được hình thành và
gắn liền với lịch sử của mỗi quốc gia. Trải qua hơn bốn nghìn năm lịch sử đấu
tranh dựng nước và giữ nước, cha ông ta đã để lại kho tàng di sản văn hóa q
giá. Trong đó có các di tích lịch sử – văn hóa như đình, đền, miếu, chùa, lăng
tẩm, thành quách... là nguồn tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt
Nam, là một bộ phận di sản văn hóa nhân loại, có vai trị to lớn trong sự
nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc.
Di tích lịch sử - văn hóa là nơi ghi dấu những cơng sức, tài nghệ của
con người trong q trình lịch sử, là kết tinh của tài năng, trí lực sáng tạo để
chúng trở thành những bằng chứng xác thực, cụ thể nhất về lịch sử và bản sắc
văn hóa của mỗi dân tộc.
Trong hệ thống các di tích lịch sử - văn hóa của dân tộc, ngơi đình ln
chiếm một vị trí vơ cùng quan trọng. Đối với mỗi một làng quê Việt Nam,
hình ảnh cây đa, giếng nước, sân đình đã trở thành biểu tượng rất đỗi thân
quen với mỗi người dân. Đình làng đã trở thành một bộ phận không thể thiếu
trong đời sống tinh thần của con người Việt Nam và trở thành một yếu tố hữu
hình của văn hóa làng xã Việt Nam.
1
Việc tìm hiểu về đình làng, xác định các mặt giá trị của nó khơng chỉ có
ý nghĩa trong việc tìm hiểu văn hóa người Việt mà cịn bổ sung nguồn tư liệu
khoa học cho việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của làng
Việt trong đời sống xã hội ngày nay.
Làng Thượng là một làng cổ nằm bên bờ sông Đuống thuộc xứ Kinh
Bắc xưa. Đình Thượng là cơng trình kiến trúc nghệ thuật q hiện còn của
nhân dân làng Thượng, một trong những di sản văn hóa độc đáo của nhân dân
xã Cảnh Hưng, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Đình làng Thượng được xây
dựng từ khá sớm, có giá trị kiến trúc – điêu khác độc đáo, giữ vai trò quan
trọng trong đời sống văn hóa tinh thần của người dân địa phương. Đình cịn
lưu giữ được nhiều di sản Hán Nơm có giá trị, giúp cho việc nghiên cứu, tìm
hiều nguồn gốc làng xã xưa.
Nhận thức được tầm quan trọng và ý nghĩa của vấn đề này, là một sinh
viên được học tập, nghiên cứu về Di sản văn hóa, với tấm lịng u q hương
đất nước, tơi mạnh dạn chọn đề tài “Di tích đình làng Thượng, xã Cảnh Hưng,
huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp, với hy vọng
đóng góp một phần cơng sức nhỏ bé của mình vào sự nghiệp bảo tồn và phát
huy giá trị của di sản văn hóa.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu về lịch sử vùng đất và truyền thống văn hóa làng Thượng
- Từ những nguồn tư liệu có được, tìm hiểu q trình hình thành, tồn tại
của đình Thượng từ khi xây dựng đến nay và xác định giá trị của di tích trên
hai phương diện:
+ Giá trị văn hóa vật thể: Nghệ thuật kiến trúc, nghệ thuật trang trí kiến
trúc và hệ thống di vật...
+ Giá trị văn hóa phi vật thể: Lễ hội đình làng.
- Nghiên cứu thực trạng di tích, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm
bảo vệ và phát huy giá trị vốn có của di tích trong bối cảnh hiện nay.
2
- Cung cấp thông tin cho những người quan tâm muốn nghiên cứu, tìm
hiểu về di tích đình làng Thượng.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu khóa luận là di tích và hệ thống di vật
trong đình làng Thượng (thôn Thượng, xã Cảnh Hưng, huyện Tiên Du,
tỉnh Bắc Ninh).
4. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: nghiên cứu di tích đình Thượng trong
khơng gian lịch sử, văn hóa của làng Thượng, xã Cảnh Hưng, huyện
Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh.
- Phạm vi thời gian: nghiên cứu quá trình hình thành, tồn tại của
di tích đình Thượng trong phạm vi nguồn tư liệu có được.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp khảo sát, điền dã: Quan sát, miêu tả, ghi chép,
chụp ảnh, ghi âm...
- Tập hợp, hệ thống hóa các tư liệu liên quan đến di tích để phân
tích, đánh giá...
- Phương pháp liên ngành: Bảo tồn di tích lịch sử - văn hóa, Bảo
tàng học, Sử học, Mỹ thuật học, Dân tộc học, Văn hóa học, Khảo có
học, Xã hội học, Du lịch học...
6. Bố cục khóa luận
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ
lục, khóa luận gồm có 3 chương:
Chương 1: Đình làng Thượng trong diễn trình lịch sử
Chương 2: Giá trị kiến trúc nghệ thuật và lễ hội đình làng
Thượng
Chương 3: Bảo tồn và phát huy giá trị di tích đình làng Thượng.
3
CHƯƠNG 1
ĐÌNH LÀNG THƯỢNG TRONG DIỄN TRÌNH LỊCH SỬ
1.1. Vài nét về vùng đất nơi di tích tồn tại
1.1.1. Vị trí địa lý – tên gọi di tích
Đình Thượng nay thuộc nay thuộc địa phận làng Thượng, xã Cảnh
Hưng, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh.
Huyện Tiên Du xuất hiện muộn nhất vào thời Trần, thời Lê, sách Bắc
Ninh toàn tỉnh Dư địa chí có viết: “tên huyện lấy theo tên núi vùng Phật
Tích”. Đây là một mảnh đất đẹp, sơn thủy hữu tình, con người sống hịa đồng,
thân thiện, gắn bó và ln nhiệt tình giúp đỡ lẫn nhau.
Huyện Tiên Du nằm ở phía Bắc tỉnh Bắc Ninh, cách trung tâm tỉnh
5km về phía Nam, cách thủ đơ Hà Nội 25km về phía Bắc. Tọa độ địa lý của
huyện nằm trong khoảng từ 20005’30’’ đến 21011’00’’ vĩ độ Bắc và trong
khoảng từ 105058’15’’ đến 106006’30’’ độ kinh Đơng. Phía Bắc giáp thành
phố Bắc Ninh và huyện Yên Phong, phía Nam giáp với huyện Thuận Thành,
phía Đơng giáp với huyện Quế Võ và phía Tây giáp với thị xã Từ Sơn.
Tiên Du có tổng diện tích là 9.620,71 ha, dân số là 137,974 người. Địa
hình chủ yếu là đồng bằng, độ cao trung bình so với mực nước biển là 2,5 –
6,0m. Được hình thành chủ yếu do quá trình bồi tụ phù sa của hệ thống sông
Hồng và sông Thái Bình. Trực tiếp là con sơng Đuống. Khí hậu nhiệt đới
trung bình cả năm dao động từ khoảng 23,40C đến 29,90C, mùa nóng nhiệt độ
trung bình >230C, mùa lạnh nhiệt độ trung bình <200C. Thời tiết trong năm
chia làm 2 mùa rõ rệt: mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến
tháng 10, lượng mưa biến động thất thường qua các năm, lượng mưa/tháng từ
125,2mm (tháng 10) đến 283,3mm (tháng 8) và thường phân bố không đồng
đều trong năm, vào mùa mưa, lượng mưa chiếm khoảng 84,64% tổng lượng
mưa cả năm. Độ ẩm khơng khí trung bình/năm khoảng 84%, trong đó tháng
có độ ẩm khơng khí lớn nhất khoảng 88% (tháng 3), tháng có độ ẩm khơng
khí thấp nhất khoảng 70% (tháng 12).
4
Nhìn chung Tiên Du là một huyện đồng bằng có đất đai màu mỡ, hệ
thống thủy lợi tương đối hoàn chỉnh cùng với khí hậu ổn định và nguồn nước
phong phú, dồi dào thuận lợi cho việc phát triển thâm canh lúa chất lượng
cao.
Nằm sát với trung tâm huyện lỵ Tiên Du, xã Cảnh Hưng có tổng diện
tích tự nhiên là 641 ha với số dân là 5307 người, mật độ dân số là 827,92
người/km2. Xã Cảnh Hưng nằm sát bên bờ con sơng Đuống. Phía Bắc giáp xã
Phật Tích, phía Đơng giáp xã Minh Đạo, phía Tây và Tây Bắc giáp xã Tri
Phương và phía nam giáp sơng Đuống.
Trước Cách mạng Tháng 8/1945, căn cứ vào các tư liệu cổ, xã Cảnh
Hưng có tên cũ là Phù Lập được cho là xuất hiện vào thời các vua Hùng thuộc
Bộ Vũ Ninh, một trong 15 bộ của nhà nước Văn Lang.
+ Dưới triều Đinh (968 – 980) thuộc Châu Cổ Lãm
+ Triều Lê Đại Hành (981 – 1009) thuộc Châu Cổ Pháp
+ Thời Lý (1010 – 1225) thuộc Phủ Thiên Đức
+ Thời Trần (1226 – 1400) thuộc Bộ Bắc Giang
+ Thời Hậu Lê (1428 – 1788) thuộc xứ Kinh Bắc
+ Đến khoảng đầu thời Nguyễn, Phù Lập trở thành một trong 7 xã của
tổng Thụ Triền, huyện Tiên Du, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Khi đó Phù Lập
gồm 2 thôn (thôn Thượng và thôn Trung), thôn Thượng gồm 3 xóm: xóm
Đình, xóm Giữa (Mãi), xóm Lẻ.
Sau Cách mạng tháng 8/1945, tổng Thụ Triền được giải thể.
+ Tháng 4 năm 1964, đại biểu 2 xã: Phù Lập và Thụ Phúc họp tại đình
thơn Thượng, thống nhất sát nhập hai xã lại và đổi tên thành xã Cảnh Hưng.
Từ đó tới nay tên xã không thay đổi.
+ Ngày mùng 1 tháng 1 năm 1997, tỉnh Bắc Ninh chính thức hoạt động
theo đơn vị hành chính mới.
+ Năm 1999, Tiên Sơn được tách ra thành hai huyện là Tiên Du và Từ
Sơn. Ngày nay, xã Cảnh Hưng thuộc huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, gồm 3
thơn đó là thơn Dền, thơn Thượng và thôn Trung.
5
Làng Thượng là một làng nằm xa tỉnh Bắc Ninh cách tỉnh Bắc Ninh
14km và cách huyện Tiên Du 7km. Làng nằm ở trung tâm kinh tế, chính trị,
văn hóa, xã hội của xã Cảnh Hưng, phía Tây giáp với thơn Trung, phía Nam
giáp với thơn Dền, phía Đơng giáp làng Lồ và phía bắc giáp xã Phật Tích.
Làng Thượng xưa có tên Nơm là Kẻ Xộp, dưới thời Lê – Nguyễn nằm
trong tổng Thụ Triền thuộc huyện Tiên Du, phủ Từ Sơn, xứ Kinh Bắc. Ngày
đó, tổng Thụ Triền gồm 7 xã, thôn: Thôn Triền, xã Thụ Triền, Phật Tích, Cổ
Miếu, Cao Đường, Vĩnh Phúc, Trùng Minh. Khi đó, xã Phù Lập có 2 thơn
(thơn Thượng và thơn Trung). Thơn Thượng gồm 3 xóm: xóm Đình, xóm
Giữa (Mãi) và xóm Lẻ.
Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, các tổng, xã cũ giải thể và xã huyện
mới được thành lập.
Tháng 4 năm 1946, tại đinh Thượng lịch sử, đại diện xã Phù Lập và
Phụ Phúc họp thống nhất sát nhập 2 xã lại đổi thành xã Cảnh Hưng, với ý
nghĩa làm cho làng xã mình ngày càng giàu đẹp, làm ăn thịnh vượng. Như
vậy tên xã Cảnh Hưng được mang từ đó. Từ năm 1997 chia Hà Bắc thành Bắc
Giang và Bắc Ninh, đến năm 1999 Tiên Sơn được tách thành 2 huyện Tiên
Du và Từ Sơn. Cho đến ngày nay, làng (thôn) Thượng thuộc xã Cảnh Hưng,
huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh.
Trải qua giai đoạn lịch sử dựng nước và giữ nước cùng với đó là thay
đổi địa giới hành chính liên tục. Hiện nay làng Thượng gồm có 5 xóm: xóm
Đình, xóm Giữa, xóm Lẻ, Tân Hưng 1 và Tân Hưng 2.
Đình làng Thượng là một ngơi đình đẹp, có nghệ thuật kiến trúc và
trang trí kiến trúc độc đáo, được khởi dựng từ thời Hậu Lê (khoảng cuối thế
kỷ XVII). Đến nay đình vẫn cịn lưu giữ khá nguyên vẹn kiến trúc cổ, các
mảng trạm khắc thời Hậu Lê và một số tài liệu, hiện vật quý có giá trị. Bởi
vậy, việc giữ gìn, bảo tồn và phát huy giá trị của di tích là hết sức cần thiết và
quan trọng. Với lịng trân trọng, giữ gìn những di sản văn hóa vơ giá của cha
ơng để lại, tập thể các cụ trong ban Mặt trận làng, hội người cao tuổi cùng các
6
cấp lãnh đạo trong thôn đã thay mặt cho nhân dân làng Thượng làm đơn trình
lên các cơ quan chức năng của Nhà nước đề nghị xếp hạng cho di tích để đặt
di tích nằm tỏng sụ bảo vệ của Luật pháp nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Đáp ứng nguyện vọng chính đáng đó của nhân dân thơn
Thượng, sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc Ninh đã cử cán bộ chuyên
môn của Ban quản lý di tích tỉnh về khảo sát, nghiên cứu di tích, tiến hành lập
hồ sơ khoa học pháp lý cho di tích đình làng Thượng, trình bộ văn hóa Thể
thao và Du lịch xếp hạng đình là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia theo
quyết định số 154/QĐ – BVHTTDL ngày 25 tháng 01 năm 1991. Tên gọi của
di tích là:
Di tích kiến trúc – nghệ thuật đình làng Thượng
Xã Cảnh Hưng, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh
Hiện nay, giao thơng phát triển nên có thể đi đến di tích một cách
thuận tiện bằng các loại giao thơng đường bộ với nhiều tuyến đường khác
nhau. Di tích đình làng Thượng xã Cảnh Hưng cách thành phố Bắc Giang
khoảng 33km về phía Tây Nam, cách thủ đơ Hà Nội khoảng 30km về phía
Đơng Bắc
Từ thành phố Bắc Giang theo đường quốc lộ 1A xuôi xuống thi
trấn Lim 26km rẽ tay trái đi theo đường đất số 180 qua địa phận các xã: Liên
Bão, Hiên Vân, Việt Đoàn, Phật Tích về tới cầu Xộp (7km) rồi vượt bờ đê
sơng Đuống, theo hàng nhãn trồng bên đường khoảng 400m là tới di tích.
Từ thủ đơ Hà Nội, qua cầu Đuống theo dọc bờ đê phía Bắc sơng Đuống
đi về phía đơng, qua đền Gióng (Phù Đổng) 9km đến trạm bơm Tri Phương
6km, rẽ tay phải khoảng 1km là tới đình Thượng, xã Cảnh Hưng. Mặt khác
cũng có thể ngược quốc lộ 1A (đi Lạng Sơn đến Lim 24km) rồi đi theo chỉ
dẫn trên cũng có thể đến đình làng.
1.1.2. Truyền thống văn hóa
* Truyền thống yêu nước và đấu tranh cách mạng
Làng Thượng không chỉ là một làng quê cổ kính, nằm trong vùng đất
cổ, với những truyền thống làm ăn giỏi, nghĩa tình, thủy chung trong cộng
7
đồng làng xóm... mà đánh giặc giữ làng, bảo vệ nền độc lập tự dô của dân tộc
cũng là truyền thống vô cùng quý báu của nhân dân làng Thượng.
Ngay từ thời các vua Hùng dựng nước, làng Thượng thuộc bộ Vũ Ninh,
một trong những điểm tụ cư sớm của con người. Thuở ấy, người dân làng
Thượng sống thanh bình trong quốc gia Văn Lang. Thần phả có ghi chép lại
rằng: “ vua tôi cùng cày, không đắp bờ chia ranh giới, không chia ra quyền,
cấp bậc, không biết giặc gìn, khơng ai xâm lấn ai. Vua tơi gần gũi yêu thương
nhau, lề lối ấy kéo dài mấy ngàn năm vẫn y như một...”
Mọi người ai cũng đều biết rằng trong truyền thuyết lịch sử cổ gọi nước
ta khởi đầu tự Kinh Dương Vương (năm Nhâm Tuất 2879 trước công nguyên)
và được kết thúc vào năm Quí Mão (258 trước công nguyên) khi Thục Phán
diệt nước Văn Lang. Căn cứ vào tài liệu của các ngành khoa học lịch sử đã
xác nhận sự tồn tại của thời đại Hùng Vương. Đặc biệt là ngành khảo cổ đã
chứng minh: Thời đại hùng Vương là thời đại mở đầu có thật trong lịch sử
Việt Nam.
Thực tế bấy giờ, các thế lực bộ tộc, bộ lạc Việt thường có tranh chấp
tiêu diệt lẫn nhau để mở rộng lãnh thổ của mình. Xuất phát từ yêu cầu trị
thủy, làm thủy lợi để đẩy mạnh sản xuất, thống nhất lại lãnh thổ bảo vệ lãnh
thổ khỏi sự xâm lăng của ngoại tộc. Do vậy giữa các bộ tộc, bộ lạc đó thường
hay xảy ra chiến tranh.
Từ thời kì liên minh bơ lạc bước lên thời kì thai nghén Nhà nước, chiến
tranh khơng phải là hiện tượng cá biệt mà thời Hùng Vương chiến tranh diễn
ra tương đối thường xuyên. Trong những cuộc chiến tranh chống ngoại tộc
xâm lược, cả một vùng rộng lớn này, nhiều nơi cho đến nay, nhân dân ta vẫn
tôn thờ các vị tướng thời Hùng Vương ở các ngôi đền, ngôi đình làng, trong
đó có nhân dân làng Thượng, thờ ơng Thuộc Công, tướng lĩnh thời vua Hùng
Vương thứ 6. Tương truyền ông đã cùng nhân dân trong vùng đứng lên đánh
giặc Ân và đã được khắc họa cùng với người anh hùng làng Gióng, trở thành
một bản thiên anh hùng ca giữ nước đầu tiên ca ngợi cuộc chiến thắng thần
8
thánh chống giặc ngoại xâm của nhân dân ta nói chung và nhân dân làng
Thượng nói riêng, là một hình ảnh tuyệt đẹp của dân tộc Việt Nam.
Trải qua nhiều năm, nhà nước Văn Lang của các vua Hùng về sau nhờ
có nơng nghiệp và thủ cơng nghiệp phát triển, lại có quân hùng tướng mạnh,
mà trở nên giàu mạnh đặc biệt. Nhưng cũng vào cuối giai đoạn Hùng Vương
chiến tranh giữa các bộ tộc, bộ lạc xảy ra mạnh mẽ nhất. Nhiều lần Thục
Phán, một thủ lĩnh nhóm Việt ở miền Bắc nước Việt nom thấy nước Văn
Lang giàu có liền mang quân đánh Hùng Vương. Nhưng lần nào quân của
Thục Phán cũng bị quân của Hùng Vương đánh bại. Từ đó mà Hùng Vương
sinh ra chủ quan khinh địch khơng chú ý gì đến việc sửa sang lại võ bị, chỉ lo
ăn uống vui chơi. Khi quân Thục kéo tới nơi vẫn say mềm chưa tỉnh nên phải
nhảy xuống giếng tự tử, quân tướng phải đầu hàng quân Thục. Thục Phán đã
thống nhất được các bộ tộc của Vua Hùng vào bộ tộc của mình và cho tiến
hành xây thành đắp lũy, củng cố quân sĩ chuẩn bị cho việc chống qn xâm
lăng ngoại tộc và đóng đơ ở Phong Khê (nay là thành Cổ Loa) đổi quốc hiệu
là Âu Lạc lấy tên là An Dương Vương.
Dưới triều đại vua An Dương Vương trị vì, nhân dân ta được sống no
đủ trong một quốc gia thanh bình, trong đó có nhân dân làng Thượng. Năm
210 trước cơng ngun, thế lực cát cứ của Triệu Đà thấy đất nước Âu Lạc
giàu có liền đem quân ào ạt tràn vào. Chúng chiếm được vùng núi Tiên Du và
lấy nơi này làm bàn đạp tấn công vào thành Cổ Loa.
Trước sức mạnh của quân dân Âu Lạc, lại gặp phải sức kháng cự của
nỏ Liễu do tướng quân Cao Lỗ chế tạo (một thứ vũ khí mới lợi hại), Triệu Đà
buộc phải lui giữ núi Vũ Ninh (nay thuộc huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh). Sự
kiện lịch sử này đẫ được mơ tả trong sách đại việt sử ký tồn thư như sau:
“ Tân Mão, năm thứ 48 (210 Tr. C.N Mùa đơng, tháng 10, Tần Thủy
Hồng mất ở Xa Khâu, Nhâm Ngao và Triệu Đà đem quân sang xâm lấn. Đà
đóng quân ở núi Tiên Du, Bắc Giang, đánh nhau với vua. Vua đem nỏ thần ra
bắn, Đà thua chạy...)”. “ Đà biết vua có nỏ thần, khơng thể địch nổi, bèn lui về
9
giữ núi Vũ Ninh, sai sứ đến giảng hòa. Vua mừng, bèn chia Tử Bình Giang
(nay là sơng Thiên Đức huyện Đơng Ngàn) trở lên phía Bắc thuộc quyền cai
trị của Đà, trở về phía Nam thuộc quyền cai trị của vua”. Như vậy vì chủ
quan, sớm thỏa mãn với những chiến công đã giành được, nên vua An Dương
Vương đã khơng truy kích địch mà nhịn giảng hịa lại gả con gái là Mỵ Châu
cho Trọng Thủy và căt đất chia cho y. Từ đó nhân dân làng Thượng nói riêng
và nhân dân vùng Bắc sơng Thiên Đức nói chung thuộc quyền cai trị của
Triệu Đà. Nhưng vẫn chưa hết, với âm mưu thâm độc, Đà sai con là Trọng
Thủy vào làm tác vụ, cầu hôn với con gái vua là Mỵ Châu, vua bằng lòng.
Trọng Thủy dỗ Mỵ Châu để xem nỏ thần, rồi ngầm bẻ gãy nỏ, thay cái khác
vào” (Đại Việt sử ký toàn thư). Sau để Trọng Thủy từ biệt Mỵ Châu trở về
báo cho Triệu Đà mang quân sang tấn công thành Cổ Loa. Do mất cảnh giác
vua An Dương Vương đặt tình nhà trên nghĩa nước mà phút chốc cơ đồ Âu
Lạc bị nhấn chìm dưới đáy biển. Vua An Dương Vương bỏ chốn, cùng đường
phải tự tử, Mỵ Châu chịu chém đầu để tỏ rõ nỗi oan ngây thơ của mình bị kẻ
thù lợi dụng... Từ đó đất nước ta – quê hương làng Thượng, Cảnh Hưng ngập
chìm trong vùng lệ thuộc của nhà Triệu, tiếp theo là nhà Hán mà dấu tích của
kẻ thù xâm lược cịn rải rác khắp trong vùng, trên núi Phật Tích, Hiên Vân,
Long Khám, Tri Phương, Trung Màu... Đây là những gị đống, nằm trong đó
là những ngôi mộ gạch cổ của bọn thống trị trên đất này.
Đầu công nguyên, nhà Đông Hán sang thay nhà Tây Hán. Khi ấy, làng
Thượng, xã Cảnh Hưng nằm trong quận Giao Chỉ là vùng đất giáp Long Biên
và Luy Lâu, đặt dưới ách thống trị của tên thái úy Tơ Định, với chính sách
bóc lột tàn bạo “sát phu, hiếp phụ”, “thấy tiền là dương mắt lên, gặp gái là tìm
cách cưỡng đoạt” của bọn phong kiến vua chúa phương Bắc, làm cho nhân
dân ta vô cùng điêu đứng khổ cực. Không thể chịu được, nhân dân Âu Lạc đã
vùng dậy tập hợp dưới ngọn cờ hồng của hai bà Trưng. Cuộc khời nghĩa Mê
Linh do Trưng Trắc, Trưng Nhị lãnh đạo đã có một sức hút ghê gớm cuốn
theo tất cả già trẻ, gái trai, tạo thành một cơn bão táp quật ngã kẻ thù.
10
Tham gia vào cuộc khởi nghĩa Mê Linh có rất nhiều tướng lĩnh tài ba
như: Mẹ con bà Diệu Tiên, Quảng Khánh, Pháp Hải, Tam Quang, Liễu
Giáp,... cùng với sự giúp đỡ, ủng hộ nhiệt tình của nhân dân trong vùng, chắc
chắn trong đó có cả nhân dân làng Thượng, xã Cảnh Hưng... cuộc khởi nghĩa
Mê Linh giành thắng lợi vào năm 40 – 42 sau công nguyên là sự mở đầu cho
truyền thống yêu nước, truyền thống thượng võ của dân tộc ta.
Nhằm đàn áp cuốc khởi nghĩa, cuối năm 42 nhà Đông Hán đã phải cử
một viên tướng lão luyện là Mã Viện đem 2 vạn quân cùng 2 nghìn thuyền, xe
chia làm 2 đường thủy, bộ tiến vào nước ta. Mùa xuân năm 43 Mã Viện tới
vùng Lãng Bạc đánh nhau với hai bà Trưng. Trước sức mạnh của kẻ địch, hai
bà đã phải rút quân vào Mê Linh và tuẫn tiết tại sông Hát Giang. Quân giặc
hung ác tràn vào Luy Lâu, chúng chiếm thành Long Biên. Cuộc khởi nghĩa
Mê Linh đến đây thất bại và bị chìm trong bể máu. Từ đó nước ta, q hương
làng Thượng nằm trong vùng lệ thuộc của kẻ thù phương Bắc. Tuy vậy nhân
dân ta vẫn không hề chịu khuất phục, chỉ chờ có cơ hội là lại đứng lên. Suốt
từ năm 43 đến năm 958 kéo dài gần 1000 năm đơ hộ của kẻ thù, có biết bao
thế hệ của đất Việt đã ngã xuống trong cuộc đấu tranh để giữ gìn truyền thống
văn hóa, chống lại kẻ thù thâm độc và làm thất bại âm mưu đồng hóa dân tộc
của chúng.
Tới thời kì phong kiến độc lập tự chủ, ngay từ đầu thế kỷ IX đến thế kỷ
X, nền độc lập của nước ta đã được củng cố nhưng kẻ thù xâm lược vẫn
khơng qn nhịm ngó nhằm thơn tính nước ta... Hà Bắc với vị trí phía bắc
thành Thăng Long, đất này đã bao phen giặc Tống, giặc Ngun Mơng tràn
tới tàn phá hịng chiếm lại kinh thành thống trị đất nước ta. Song kẻ thù xâm
lược đã bị sức mạnh đoàn kết của quân dân ta đánh trả quyết liệt, thể hiện tinh
thần độc lập tự chủ của dân tộc. Dù nhỏ bé, vô danh, nhân dân làng Thượng
cũng đã góp phần vào chiến thắng chung trên dịng sơng Như Nguyệt vào
cuối tháng 3 năm 1077 do tướng quân Lý Thường Kiệt chỉ huy, làm khiếp
vía, kinh hồn quân giặc với bài thơ hùng tráng “ Nam quốc sơn hà” đã thúc
11
giục, động viên nhân dân cả nước đánh tan đội quân xâm lược nhà Tống làm
rạng rỡ thêm cho trang sử oanh liệt của dân tộc, làm tiền đề cho những chiến
thắng của các thế hệ nối tiếp...
Bước vào thời đại đấu tranh giải phóng dân tộc, giành độc lập tự do.
Làng Thượng, xã Cảnh Hưng đã đi vào những trang lịch sử của dân tộc với
những con người đáng ghi nhớ.
Nằm kề ngay cửa ngõ phía Bắc Thủ đơ Hà Nội, làng Thượng có một vị
trí tương đối kín đáo: Làng xã nằm sát bên bờ sông Đuống, kề cận những dãy
núi và cách xa đường quốc lộ số 1. Điều này đã chi phối và tạo mọi điều kiện
thuận lợi cho công cuộc giữ đất, giữ làng của nhân dân địa phương.
Từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, cùng với nhiều địa phương trong
huyện Tiên Du, nhân dân làng Thượng, xã Cảnh Hưng luôn luôn tự đảm đương
lấy trách nhiệm tự vệ, chống lại bọn cướp nước và mọi kẻ thù xâm lược từ bên
ngoài. Dưới ách thống trị tàn bạo của triều đình nhà Nguyễn, nhân dân làng
Thượng hòa cùng với nhân dân trong tỉnh Bắc Ninh khởi nghĩa vũ trang lật đổ
chính quyền địa phương, đánh bại bọn cướp và thổ phỉ tàu. Cuối cùng là những
hoạt động chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Ngay sau thực dân Pháp đặt chân lên đất nước Việt Nam, nhiều cuộc
khởi nghĩa cùng các sĩ phu yêu nước đã được dông đảo quần chúng nhân dân
hưởng ứng giúp đỡ. Các phong trào văn thân yêu nước, phong trào Đông kinh
nghĩa thục... Đặc biệt là cuộc khởi nghĩa Yên Thế do Hoàng Hoa Thám Lãnh
đạo ngày càng lan rộng ra khắp Hà Bắc. Có nhiều ảnh hưởng mạnh mẽ với
nhân dân vùng Tiên Du, Bắc Ninh... Nhưng tất cả các cuộc khởi nghĩa của các
sĩ phu yêu nước đều bị thực dân Pháp đàn áp và nhấn chìm trong bể máu...
Chính từ khi có ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lê Nin do lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc dội tới thì cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp mới dẫn tới thắng lợi
hoàn toàn...
Từ trước những năm 1940, phong trào cách mạng ở làng Thượng, xã
Cảnh Hưng diễn ra âm thầm lặng lẽ. Chỉ chờ có thời cơ là nổi dậy.
12
Trong những năm 1943 – 1944 các đơng chí ủy viên TW Đảng lúc bấy
giờ có ơng: Đặng Kim Giang, bà Vũ Thị Khôi, ông Đức, đã được cử về xã
Cảnh Hưng gây dựng cơ sở, đạt đường dây liên lạc ở Sộp Thượng, Phật Tích.
Khi đó ơng Ngơ Đức Phiên, quê ở Trung Mầu được mặt trận Việt Minh cử
đến Sộp Thượng mở cửa hàng bán mắm để che mắt địch. Đồng thời lấy cửa
hàng làm trạm liên lạc với xứ ủy Bắc Kì. Cơ sở cách mạng ở đây đã dựa vào
gia đình ơng Nguyễn Bá Trử, Nguyễn Đức Chuyên để hoạt động cách mạng,
cũng vào thời gian này, bà Vũ Thị Khôi cùng ông Nghĩa đã tổ chức diễn
thuyết, tuyên truyền đường lối cách mạng trong nhân dân ở núi Chè và đình
làng Thượng. Tạo mọi điều kiện chuẩn bị cho cách mạng tháng Tám tiến tới
thắng lợi.
Ngày mùng 9 tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp, giờ phút lịch sử
đã đến, Trung ương Đảng họp ở Đình Bảng quyết định khởi nghĩa. Ngày 12
tháng 5 năm 1945, ban thường vụ trung ương Đảng ra chỉ thị: “ Nhật Pháp
bắn nhau và hành dộng của chúng ta”. Chỉ rõ kẻ thù của nhân dân Đông
Dương lúc bấy giờ là phát xít Nhật với khẩu hiệu là: “ Đánh đuổi phát xít
Nhật, thành lập chính quyền cách mạng của nhân dân” và phát động cao trào
kháng Nhật làm tiền đề cho cuộc khởi nghĩa.
Để chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa thành công, tháng 8 năm 1945 Cảnh
Hưng đã thành lập một trung đội chiến đấu do ông Trứ và ơng Chun tổ chức.
Tham gia trong đồn qn khởi nghĩa có khá nhiều người ở Sộp Thượng.
Ngày 18 tháng 8 năm 1945, từ làng Trung Mầu, nơi đặt cơ quan tỉnh ủy
Bắc Ninh khởi nghĩa được ban ra nhận được lệnh, các địa phương trong tỉnh
đã lãnh đạo quần chúng nhân dân nổi dậy giành chính quyền.
Mờ sáng ngày 19 tháng 8, đoàn quân khởi nghĩa Cảnh Hưng tập chung
tại đình Thượng mang theo một súng trường cùng vơ số vũ khí thơ sơ, tiến về
tập chung tại đình Long Khán cùng gần 400 tự vệ trong tỉnh với khí thế sục
sơi cách mạng. Sau khi làm lễ tuyên thề, đoàn quân khởi nghĩa đã hùng dũng
tiến về cướp thành Bắc Ninh và giành chính quyền thắng lợi. Trong cuộc
13
chiến đấu quyết liệt, một số người đã hy sinh anh dũng trong đó có nữ tự vệ
Nguyễn Thị Thoa là người làng Thượng, xã Cảnh Hưng.
Bằng cuộc cách mạng tháng Tám, nhân dân làng Thượng, xã Cảnh
Hưng cùng với nhân dân cả nước đã đập tan xiềng xích nơ lệ của bọn thực
dân phong kiến, lập lên nước Việt Nam dân chủ cộng hịa. Từ người dân nơ lệ
mất nước, cách mạng đã đem lại quyền lợi cho nhân dân làng Thượng trở
thành người chủ của chính quê hương mình. Với khí thế cách mạng sơi động,
dưới sự lãnh đạp của Đảng, nhân dân làng Thượng đã tiến hành xây dựng
chính quyền, chống giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm. Tham gia tích cực vào
phong trào “ Bình dân học vụ”, hưởng ứng phong trào “ tuần lễ vàng” vì đồng
bào miền Nam ruột thịt với những đóng góp suất sắc.
Hưởng ứng lời kêu gọi của chủ tịch Hồ Chí Minh ngày mùng 3 tháng 9
năm 1945. Ủy ban cách mạng lâm thời Cảnh Hưng đã vận động nhân dân tiết
kiệm lương thực, tăng gia sản xuất, quyên góp gạo chia cho những gia đình
nghèo... chính nhờ những biện pháp tích cực ấy mà nạn đói đã được đẩy lùi,
đời sống nhân dân làng Thượng nói chung đã tạm thời ổn định. Đình, chùa trở
thành nơi liên lạc, hội họp và tập chung của lực lượng cách mạng yêu nước.
Cuối năm 1947 đầu năm 1948 các đồng chí Đảng viên ở Cảnh Hưng
gồm hàng chục người, đã tách ra lập thành “Đại bộ Cảnh Hưng” đầu tiên của
xã do ông Nguyễn Đức Chuyên làm bí thư chi bộ. Những Đảng viên cách
mạng này là lực lượng nòng cốt lãnh đạo nhân dân Cảnh Hưng tổ chức rào
làng chiến đấu, đào hầm chống địch càn quét, tiêu trừ Việt gian phản động.
Phong trào cách mạng ngày càng được đẩy lên cao trào. Chính vì vậy mà địch
đã nhiều lần đặt bốt tại đây mà không được.
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bùng nổ và ngày càng lan rộng
ra toàn quốc. Làng Thượng cũng là một trong những địa điểm đóng quân của
các cơ quan huyện Tiên Du, huyện Gia Lâm, cùng một số xã như : Trí Quả,
Đình Tổ, Dâu Keo (thuộc huyện Thuận Thành). Bộ đội chủ lực tiểu đoàn 16,
bộ đội địa phương đã lấy Cảnh Hưng làm bàn đạp để đi khắp nơi tiêu diệt
địch. Nhiều lần địch càn quét vào làng, chúng đốt cháy nhà cửa, uy hiếp nhân
14
dân để truy lùng lực lượng cách mạng. Tuy nhiên nhân dân làng Thượng, xã
Cảnh Hưng vẫn một lòng bảo vệ, che dấu cán bộ...
Tuy bé nhỏ nhưng nhân dân làng Thượng, xã Cảnh Hưng dưới sự lãnh
đạo của Đảng cũng đã đóng góp một phần xương máu vào cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp, bảo vệ nền độc lập của dân tộc, góp chung vào chiến
thắng Điện Biên Phủ lịch sử.
Trong những năm hoạt động cách mạng, khi bí mật, khi công khai. Mặc
dù địch càn quét, truy lùng, song xã Cảnh Hưng vẫn là nơi an toàn của xứ ủy
Bắc Kì. Nhân dân Cảnh Hưng xứng đáng được nhà nước cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam tặng thưởng huân chương chiến công hạng 3 do đại tá
Nguyễn Quyết về trao tặng.
Phát huy truyền thống yêu nước và cách mạng, trong sự nghiệp chống
Mỹ cứu nước, bảo vệ và xây dựng tổ quốc Việt Nam, xã hội chủ nghĩa. Hơn 40
năm, qua lớp lớp các thế hệ ở làng Thượng đã tham gia vào các phong trào
cách mạng của Đảng, vượt qua biết bao khó khăn, chịu tổn thất, hy sinh để xây
dựng cuộc sống của chính mình và tham gia vào sự nghiệp cách mạng to lớn
của toàn Đảng, toàn dân. Từng bước vững chắc, vượt qua mọi trở ngại, nhân
dân làng Thượng từng bước đi lên, đói nghèo cơ bản dần dần được khắc phục,
đời sống của mỗi người dân, tuy cịn có khó khăn song nhiều nhà đã bền chắc,
ăn ở hợp vệ sinh... làng xóm ngày càng trù phú, phong quang, sạch đẹp.
* Truyền thống văn hóa
Vốn là một làng Việt cổ, làng Thượng có một bản sắc văn hóa hết sức
độc đáo và phong phú thơng qua các hoạt động tín ngưỡng tại đình, chùa và
đặc biệt là việc thờ cúng tổ tiên. Trong tâm thức người dân làng Thượng nói
riêng và người dân Việt nói chung, tục thờ tổ tiên có vai trị quan trọng. Đó là
sự bày tỏ lịng thành kính, biết ơn của con cháu đối với tổ tiên. Trong các gia
đình đều có bàn thờ tổ tiên, được đặt ở nơi trang trọng nhất trong nhà, họ tin
rằng tổ tiên mình ln ngự trị trên đó để che chở, phù hộ cho con cháu. Tất cả
những đồ ăn ngon nhất, tinh khiết nhất, đẹp mặt nhất như hoa quả đầu mùa,
cơm gạo mới... bao giờ cũng được đặt lên bàn thờ thắp hương trước sau đó
15
con cháu mới được ăn. Vào các ngày mùng 1, ngày rằm, ngày lễ tiết hay trong
gia đình có việc hiếu, hỷ... đều thắp hươngthỉnh cầu tổ tiên chứng giám. Giá
trị lớn nhất của phong tục thờ cúng tổ tiên là tạo thành truyền thống, nếp sống
cho các thế hệ sau luôn ghi nhớ và thực hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn.
Giá trị khác còn thể hiện ở việc tạo nên sự đoàn kết giữa những người cùng
huyết thống, củng cố quan hệ gia đình, bảo trợ của cái thiêng liêng.
Ngồi tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, người dân làng Thượng, xã Cảnh
Hưng cịn có hoạt động tín ngưỡng ở đình, chùa. Chùa làng có tên là Tân
Phúc Tự, còn khá nhiều tượng phật. Đặc biệt là tòa cửu long và pho tượng di
lặc cùng một bình hương cổ từ thời Lê – Mạc.
Theo nhân dân trong làng cho biết: Ngơi chùa cổ trước kia dựng ở đầu
làng phía Đông. Năm Quý Tỵ vỡ đê, nước tràn vào làm đổ chùa cuốn theo
khá nhiều tượng phật và một chuông đồng to. Nhân dân ở đây đã thu dọn lại
và dựng lại chùa ngay bên cạnh ngơi đình làng, là một nơi có địa thế đẹp, cây
cối xanh tốt quanh năm. Ngôi chùa gồm: 5 gian tiền đường nối với 3 gian tam
bảo, sát cạnh là nhà thờ tổ. Sau đó nhân dân chuyển các pho tượng phật cịn
lại đem về thờ ở ngơi chùa này. Có thể thấy chùa Tân Phúc là ngơi chùa có
quy mơ lớn, đẹp nổi tiếng trong vùng. Chùa nằm gần khu dân cư, tín đồ chủ
yếu là người dân trong làng, chùa phản ánh đậm nét tư duy nông nghiệp, phù
hợp với nền kinh tế của một địa phương thuần nơng.
Đình làng thờ Uy Linh đại vương, là vị tướng cùng với thánh Gióng có
cơng đánh giặc Ân dưới thời vua Hùng Vương thứ VI. Để tưởng nhớ công lao
của thần với dân với nước và mong thần phù hộ cho dân làng bình an, mưa
thuận gió hịa, mùa màng tươi tốt, bội thu. Nhân dân đã thờ và suy tơn làm
thành hồng làng. Giá trị đáng q của tín ngưỡng thờ thành hồng làng là
giáo dục các thế hệ con cháu phải biết tôn trọng, biết nhớ về cội nguồn và
công lao của người xưa.
Không chỉ dừng lại ở việc nhớ ơn, người dân làng Thượng, xã Cảnh
Hưng cịn có ý thức giữ gìn các cơng trình văn hóa tín ngưỡng, đó là một
16
điểm sáng mới trong nhận thức về văn hóa của nhân dân làng Thượng. Nhân
dân đã cử ra một cụ bà và một cụ ơng thường xun trơng coi đình, chùa.
Nhưng chủ yếu vẫn là sự giữ gìn, bảo vệ của toàn dân làng Thượng. Vào
tháng 3 năm 1990, các cụ trong ban khánh tiết của làng đã tự nguyện mỗi
người trồng một cây nhỏ ở khu vực di tích, với lịng mong muốn tạo cho đình,
chùa trở thành khu di tích cổ kính của cả làng.
Có thể nói, những truyền thống văn hóa, xã hội, truyền thống đấu tranh
cách mạng được nhân dân làng Thượng các thế hệ vun đắp từ ngàn xưa đã
thành một nguồn di sản tinh thần quý giá, là niềm tự hào và sức mạnh để con
cháu làng Thượng hôm nay và mai sau tiếp tục phấn đấu, vươn lên trong sự
nghiệp đấu tranh giữ nước và xây dựng quê hương tiến bộ, giàu mạnh.
1.1.3. Dân cư và đời sống kinh tế
Làng Thượng hiện nay có khoảng 2000 người, cư trú trongkhoảng 400
hộ gia đình tự quản, dân số được xếp vào hàng đông thứ hai trong xã.
Đượcchia làm 6 xóm, từ xóm 1 đến xóm 6 và có sự liên kết giữa các dịng họ
sinh sống từ lâu đời. Trong đó có các dịng họ lớn như: Lê, Nguyễn, Trần,
Đăng, Vương, Sĩ, Đỗ, Trịnh...
Cũng như bao làng Việt cổ khác, làng Thượng có một cơ cấu tổ chức
khá chặt chẽ được liên kết với nhau thông qua các mối quan hệ huyết thống,
quan hệ xóm giềng, quan hệ phường hội, quan hệ hàng giáp...
Trong quan hệ huyết thống gồm có các quan hệ gia đình, dịng tộc, họ
hàng. Mọi thành viên trong gia đình và dòng tộc phải chịu sự chi phối điều
hành của người cha, người con trưởng, trưởng họ theo một tôn ty trật tự của 9
thế hệ và quan hệ bề bậc. Bề trên dẫu có ít tuổi vẫn là bề trên, bề dưới vẫn có
cao tuổi thì vẫn là bề dưới, bề trên nói, bề dưới phải chấp hành. Người dân
làng Thượng, xã Cảnh Hưng coi trọng tình cảm bề bậc, anh em nhưng cũng
rất coi trọng tình cảm hàng xóm, hội phường để giúp đỡ lẫn nhau trong đời
sống hàng ngày, trong sản xuất nông nghiệp, chống lại thiên tai và các tệ nạn
17
xã hội trộm cướp. Xưa nay vẫn thường có câu: “ Vắng anh em xa, có láng
giềng gần”.
Quan hệ hàng giáp là một kiểu tổ chức theo truyền thống, chỉ có nam
giới mới được tham gia và mang tính chất cha truyền con nối (cha ở giáp nào
thì con ở giáp ấy). Xưa làng có 5 giáp: Giáp Cả, Giáp Nhì, Giáp Đơng, Giáp
Đồi và Giáp Cải Lương. Các Giáp có nhiệm vụ tổ chức tế lễ, đình đám, hội
hè, tang ma hoặc tham gia vào các công việc khác của làng.
Làng Thượng nằm ngay dọc bờ Đê của sông Đuống, có trục đường
chính chạy từ Đơng sang Tây, dân cư ở theo thế răng bừa, các ngõ lớn chạy từ
hướng Bắc ra trục chính liên thơn dài 2 km, rất thuận lợi cho việc thông
thương, sinh hoạt và đi lại. Làng có chiều dài khoảng 3km, chiều rộng khoảng
0.7 km. Là một làng có hợp tác xã dịch vụ và có tổng diện tích đất canh tác là:
110 ha được quay vòng trong năm với tổng sản lượng khoảng 649.400 kg.
Bình quân mức ăn cho một đầu người vào khoảng 400 kg trong một năm. Có
mạng lưới điện phục vụ đời sống và sản xuất, có hệ thống phát thanh thông
báo tin nội bộ hàng ngày.
Làng Thượng chủ yếu là làm nông nghiệp trồng lúa nước và các loại
cây hoa màu. Đất ở đây giữ được nguyên bản chất phù sa sơng Hồng, màu
nâu tươi, phản ứng trung tính đến kiềm yếu. Thành phần cơ giới cát pha, tỷ lệ
mùn cao, hàm lượng chất dinh dưỡng khá, đạm lân từ trung bình đến khá, kali
giàu. Vì thế mà ở đây ngồi hai vụ lúa chính ra, nhân dân cịn trồng các loại
hoa màu như: khoai lang, ngô, đậu, đỗ... cùng các lại rau xanh khác. Trước
đây khi công tác thủy lợi chưa có điều kiện làm tốt thì đồng ruộng rất dễ bị
hạn hán khi nắng và ngập úng khi mưa, khiến lúa và hoa màu cho năng suất
thấp, đời sống rất khổ cực. Sau khi hịa bình lặp lại, được sự quan tâm của
Đảng và Nhà nước công tác thủy lợi của làng đã được đẩy mạnh. Giao lưu
giữa các xóm có hai con kênh mương số 1 và số 2 phục vụ tưới tiêu khi nước
ngập úng. Chính vì vậy mà đồng đất ngày càng màu mỡ, có hệ số sử dụng
quay vịng ruộng đất đạt từ 3 – 4 vụ/năm.
18
Do đời sống kinh tế khó khăn, xưa việc học hành và thi cử ở xã Cảnh
Hưng nói chung và làng Thượng nói riêng khơng phát đạt lắm. Song thực tế
dưới thời phong kiến số người biết đọc, biết viết cũng tương đối đông. Nhiều
người đã từng “lên chõng” đi dự các kì thi do chế độ phong kiến tổ chức
nhưng không thành đạt.
Đời sống của nhân dân làng Thượng ngày nay đã dần đi vào ổn định.
Nhiều cơng trình phúc lợi công cộng được quan tâm, đầu tư xây dựng nhằm
nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân như: xây dựng điện lưới
phục vụ nhu cầu sản xuất, tiêu dùng, đường làng ngõ xóm đều được bê tơng
hóa, xây dựng trường học, trùng tu tơn tạo chống xuống cấp các di tích lịch sử
văn hóa... Hồn thành xây dựng trường mầm non của thôn, với 100% các
cháu trong độ tuổi đi học mầm non đều được đến trường; bậc tiểu học đạt
100% tổng số cháu trong độ tuổi; bậc trung học cơ sở đạt 96% tổng số cháu;
bậc trung học phổ thông đạt 76% tổng số cháu. Bậc đại học chiếm khá nhiều
ở làng Thượng và làm nhiều việc ở các ngành nghề trên đất nước, đã có
người đạt đến học vị tiến sĩ...
Sự nghiệp y tế, dân số, kế hoạch hóa gia đình, bảo vệ và chăm sóc trẻ em
có nhiều chuyển biến tích cực: 100% số cháu trong độ tuổi được tiêm phòng
theo chế độ được quy định, 97% số hộ được sử dụng nước hợp vệ sinh.
Hưởng ứng cuộc vận động “ Toàn dân đồn kết xây dựng đời sống văn
hóa” của Bộ Chính trị, các cán bộ Đảng viên và quần chúng nhân dân đều
đồng tình, hưởng ứng tham gia đơng đảo. Cùng với phương châm “ Tiếng hát
là tâm hồn của q hương” lấy phong trào đồn thanh niên làm nịng cốt tổ
chức những đội văn nghệ của phân chi đoàn. Làng tổ chức văn nghệ phục vụ
trong những ngày lễ hội. Để lời ca, tiếng hát từ làng quê thôn nhà mãi mãi
vang xa.
Củng cố hệ thống truyền thanh ít nhất 2 lần một ngày, phát tin nội bộ
những điều hay, lẽ xấu. Phản ánh đời sống nông nghiệp và đời sống một cách
kịp thời. Xây dựng nhà văn hóa: Có câu lạc bộ thư viện thu hút mọi người đọc
sách báo hưởng thụ về tinh thần văn hóa. Xây dựng 2 sân bóng chuyền và xây
19
dựng câu lạc bộ cầu lông của người cao tuổi bởi rèn luyện sức khỏe cho mọi
người rất quan trọng. Các hoạt động văn hóa nghệ thuật, thể dục thể thao sẽ
làm cho bầu khơng khí của xóm làng thêm tươi vui lành mạnh. Đó cũng là
sinh hoạt tập chung mọi tầng lớp, xóa bỏ những hủ tục tiêu cực, thiếu lành
mạnh trong cuộc sống.
Phấn khích, tự hào trước những kết quả và thành tựu đã đạt được trong
công cuộc xây dựng và phát triền kinh tế, văn hóa, xã hội dưới sự lãnh đạo
của các cấp ủy đảng, chính quyền địa phương, nhân dân làng Thượng đang
từng bước phấn đấu xây dựng quê hương mình ngày càng văn minh, giàu đẹp
con đường cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa nơng thơn.
1.2. Lịch sử xây dựng và q trình tồn tại của đình làng Thượng
Đình làng Thượng là cơng trình tín ngưỡng tiêu biểu của nhân dân địa
phương, vốn được xây dựng từ rất lâu đời, theo bản thần tích cịn chép lại thì
đình được xây dựng trên nền móng của một ngôi quán đạo giáo, từ ngôi quán
đạo giáo hình thành lên cái đền cổ và đình được hình thành trên nền ngôi đền
cổ này. Tuy nhiên, hiện nay, chưa xác định được chính xác đình làng Thượng
được xây dựng vào năm nào vì khơng cịn bất cứ tài liệu nào ghi chép lại về
niên đại khởi dựng của đình, trong làng cũng khơng có ai cịn nhớ rõ. Chỉ khi
nghiên cứu kiểu dáng, đặc điểm và trang trí chạm khắc trên các bộ phận của
kiến trúc tòa đại đình, ta có thể đốn định niên đại tương đối của cơng trình
kiến trúc này là vào thời Hậu Lê (thế kỷ XVII). Trải qua bao thăng trầm của
lịch sử, đình làng Thượng tuy đã được sửa chữa một vài lần nhưng chưa có
cuộc trùng tu nào lớn. Vì vậy vẫn giữ nguyên được nhiều mảng chạm khác và
kết cấu hình khối kiến trúc ban đầu.
Theo lời kể của các cụ cao niên trong làng thì đình làng được xây dựng
cơ bản vào thời Hậu Lê (khoảng cuối thế kỷ XVII) ngay chính trên sảnh đất
nơi sinh ra ơng Thuộc Cơng vị thần hồng của làng Thượng. Ngơi đình trước
kia kiến trúc theo kiểu nội công ngoại quốc gồm: Đại đình, nhà tiền tế, hai
bên có giải vũ, xung quanh có tường xây bọc, ở giữa là cửa tam mơn cùng
20
một số cây cổ thụ... Nhưng đáng tiếc các công trình kiến trúc kể trên hiện
khơng cịn nữa, chỉ cịn ngun vẹn lại tịa đại đình, song là nơi tập chung
nghệ thuật kiến trúc độc đáo nhất của cơng trình.
Do thời gian biến động, một số đồ thờ quý hiếm đã bị mất mát, hư
hỏng. Song ở đây, trong đình vẫn còn lưu giữ khá nhiều các tài liệu, hiện vật
cổ như: 2 bức hoành phi cùng các câu đối đã bị mất song vẫn còn nội dung ca
ngợi người được thờ, ngai thờ một chiếc, sập một chiếc, hương án một chiếc,
một bản thần tích hiện đã bị mất nhưng vẫn còn nội dung đầy đủ, được lưu
giữ và sao chép trong báo cáo khảo sát di tích ở ban quản lý di tích tỉnh Bắc
Ninh. Đồ thờ cúng gồm một số mâm bồng, hai bát hương, lư hương, mũ đồng.
Tất cả đều có niên đại vào thời Nguyễn.
Đình làng Thượng không chỉ là nơi thờ cúng được dựng lên ở làng quê
cổ kính, mà trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, ngơi đình
làng cũng là nơi diễn ra và chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử của nhân dân
làng Thượng, xã Cảnh Hưng.
Từ những năm 1943 – 1944 cơ sở cách mạng của xứ ủy Bắc kì đã mở rộng
tới Sộp Thượng, đình làng cũng là nơi tuyên truyền của các cán bộ cách mạng.
Mờ sáng ngày 19 tháng 8 năm 1945, đình thượng cũng là nơi tập trung
tự vệ của Sộp Thượng tiến về đình Long Khám cướp thành Bắc Ninh, giành
chính quyền thắng lợi.
Tháng 4 năm 1946, tại đình Thượng, đại biểu hai xã Thụ Phúc, Phù
Lập họp và thống nhất sát nhập hai xã lại đổi thành xã Cảnh Hưng.
Hưởng ứng lời kêu gọi của chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 3 tháng 9 năm
1945, Ủy ban cách mạng lâm thời xã Cảnh Hưng đã vận động nhân dân tiết
kiệm lương thực, xây chính quyền, tham gia tích cực vào phong trào “Bình
dân học vụ”, hưởng ứng tuần lễ vàng “Vì miền Nam ruột thịt”.
Suốt trong 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, đình làng Thượng
đã trở thành nơi hội họp, tập chung của lực lượng dân quân tự vệ, nơi cất vũ
khí, tài liệu của cách mạng, đồng thời đình làng cũng chứng kiến sự khủng bố
21