Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Giá trị văn hóa đình làng đào xá, xã đào xá – huyện thanh thủy – tỉnh phú thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.63 MB, 106 trang )

 
 

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI

KHOA DI SẢN VĂN HĨA

GIÁ TRỊ VĂN HĨA ĐÌNH LÀNG ĐÀO XÁ
(XÃ ĐÀO XÁ – HUYỆN THANH THỦY – TỈNH PHÚ THỌ)

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
NGÀNH BẢO TÀNG HỌC
Mã số: 52320305

Người hướng dẫn:

Th.s NGUYỄN THỊ TUẤN TÚ

Sinh viên thực hiện: DƯƠNG HẢI YẾN

HÀ NỘI - 2013

1


 
 

LỜI CẢM ƠN
“Giá trị văn hóa đình làng Đào Xá” là đề tài nghiên cứu đầu tiên của
em. Trong quá trình thực hiện đề tài này, em đã gặp phải khơng ít khó khăn


về phương pháp điền dã, điều tra thực địa, sưu tầm tài liệu. Nhưng với sự chỉ
bảo tận tình của cơ giáo và nhân dân địa phương làng Đào Xá, em đã vượt
qua khó khăn để hồn thành bài khóa luận tốt nghiệp của mình.
Em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới cô giáo Thạc sỹ Nguyễn Thị Tuấn Tú
đã tận tình hướng dẫn em trong q trình hồn thiện khóa luận. Đồng thời em
xin gửi lời cảm ơn tới Ủy ban nhân dân cùng toàn thể nhân dân xã Đào Xá đã
giúp đỡ em trong thời gian thực tế và sưu tầm tài liệu.
Tuy nhiên trong phạm vi thời gian và bước đầu làm nghiên cứu khoa
học, khóa luận của em cũng khơng tránh khỏi những khiếm khuyết nhất định.
Kính mong sự góp ý của các thầy cô, các nhà nghiên cứu và các bạn sinh viên
để khóa luận của em được hồn thiện hơn nữa.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội ngày 20 tháng 05 năm 2013
Sinh viên
Dương Hải Yến

2


 
 

MỤC LỤC
 

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: ĐÌNH ĐÀO XÁ TRONG TIẾN TRÌNH LỊCH SỬ ............. 8
1.1. Khái quát về vùng đất nơi di tích tồn tại ............................................ 8
1.1.1.Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên ...................................................... 8
1.1.2. Lịch sử hình thành xã Đào Xá ........................................................ 11

1.1.3. Đặc điểm dân cư, đời sống kinh tế văn hóa, xã hội ........................ 12
1.2. Lịch sử hình thành và quá trình tồn tại của đình làng Đào Xá ...... 15
CHƯƠNG 2: GIÁ TRỊ VĂN HĨA VẬT THỂ ĐÌNH LÀNG ĐÀO XÁ .. 17
2.1. Kiến trúc .............................................................................................. 17
2.1.1. Không gian cảnh quan kiến trúc ..................................................... 17
2.1.2. Bố cục mặt bằng tổng thể ............................................................... 18
2.1.3. Các hạng mục kiến trúc .................................................................. 19
2.1.4. Nghệ thuật chạm khắc trên kiến trúc .............................................. 23
2.2. Hệ thống di vật .................................................................................... 28
2.3. Giá trị và thực trạng bảo tồn văn hóa vật thể đình làng Đào Xá ... 33
2.3.1.Giá trị văn hóa vật thể ...................................................................... 33
2.3.2. Thực trạng bảo tồn .......................................................................... 35
2.4. Một số đề xuất nhằm bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa vật thể
đình làng Đào Xá ........................................................................................ 39
CHƯƠNG 3: GIÁ TRỊ VĂN HÓA PHI VẬT THỂ ĐÌNH LÀNG ĐÀO
XÁ ................................................................................................................... 48
3.1. Truyền thuyết về vị thần được thờ .................................................... 48
3.2. Lễ hội .................................................................................................... 52
3.2.1. Công việc chuẩn bị cho lễ hội......................................................... 52
3.2.2. Diễn trình lễ hội .............................................................................. 53
3


 
 

3.3. Giá trị và thực trạng bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa phi vật thể
đình làng Đào Xá ........................................................................................ 74
3.3.1. Giá trị văn hóa phi vật thể............................................................... 74
3.3.2. Thực trạng bảo tồn các giá trị văn hóa phi vật thể ......................... 81

3.4. Một số đề xuất nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa phi
vật thể đình làng Đào Xá ........................................................................... 83
KẾT LUẬN .................................................................................................... 86
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 89
PHỤ LỤC

4


 
 

MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Trong suốt chặng đường lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc
Việt Nam, ở bất cứ nơi đâu trên đất nước, chúng ta đều bắt gặp những di tích
lịch sử văn hóa như đền, chùa, miếu, đình…Đó là tài sản văn hóa vơ giá mà
cha ông ta đã chắt chiu để lại cho thế hệ mai sau.
Những di tích ấy là nguồn sử liệu quan trọng cho những người đương
đại nhận thức về quá khứ, nắm bắt được hiện tại và dự đoán trước tương lai.
Bởi nó mang trong mình hơi thở của lịch sử, hội tụ những bản sắc văn hóa
dân tộc, là nơi nuôi dưỡng tâm hồn người Việt qua các thế hệ. Đồng thời di
tích cịn là những địa điểm mà bạn bè quốc tế chiêm ngưỡng lại vóc dáng lịch
sử đầy tính hiện thực của Việt Nam.
Ngày nay, với sự phát triển chung của xã hội, nhận thức của con người
ngày càng được nâng cao trong việc bảo tồn, tơn tạo, phát huy giá trị của di
tích. Con người đã không quay lưng lại với quá khứ mà họ nhận ra rằng để có
được như ngày hơm nay là nhờ một phần rất lớn sự hi sinh của thế hệ đi
trước. Và chính các di tích lịch sử - văn hố đã và đang góp phần khơng nhỏ
vào sự hoàn thiện bản thân, giúp cho họ vươn tới cuộc sống tốt đẹp hơn và

hướng người ta trở về với cội nguồn.
Đình làng Đào Xá (xã Đào Xá – huyện Thanh Thủy – tỉnh Phú Thọ) là
một ngơi đình cổ, nằm trong khơng gian văn hóa của vùng đất cội nguồn dân
tộc, mang trong mình những yếu tố văn hóa truyền thống đặc sắc. Mặc dù
được xây dựng từ rất lâu song ngơi đình vẫn giữ được nét kiến trúc độc đáo,
với những đề tài trang trí được chạm khắc một cách tinh tế, dựa trên các điển
tích. Đây là một trong số ít những ngơi đình bề thế, có giá trị nghệ thuật cao
cùng với những sinh hoạt văn hóa dân gian đặc sắc của vùng đất Tổ.
5


 
 

Trải qua bao nhiêu thế kỷ, do những nguyên nhân khác nhau như sự
khắc nghiệt của khí hậu, do các cuộc chiến tranh và một phần do nhận thức
chưa đầy đủ của con người mà rất nhiều di tích đã bị hủy hoại, trong đó có di
tích đình làng Đào Xá. Những di tích cịn tồn tại hầu hết đang trong tình trạng
xuống cấp nghiêm trọng, đình làng Đào Xá cũng khơng ngoại lệ. Hiện khơng
gian cảnh quan ngơi đình bị thay đổi nhiều, các cấu kiện kiến trúc xuống cấp
nghiêm trọng, các mảng chạm có giá trị bị mục mọt, mờ hết hoa văn. Ngơi
đình này đang đứng trước nguy cơ bị sụp đổ trong mùa mưa bão sắp tới.
Với những ý nghĩa tốt đẹp mà di tích lịch sử văn hóa mang lại cho đời
sống tinh thần của con người, với lòng yêu quý và tự hào về mảnh đất quê
hương Phú Thọ - cội nguồn của dân tộc, và với yêu cầu cấp thiết về việc bảo
tồn và phát huy giá trị của di tích, em đã chọn đề tài “Giá trị văn hóa đình
làng Đào Xá, xã Đào Xá – huyện Thanh Thủy – tỉnh Phú Thọ” làm đề tài
khóa luận tốt nghiệp.
2. Mục đích nghiên cứu
- Bước đầu nghiên cứu, tìm hiểu đặc điểm, giá trị văn hóa đình làng

Đào Xá, trên cơ sở đó có một số đề xuất nhằm bảo tồn và phát huy những giá
trị vốn có của di tích.
- Bên cạnh đó, bài khóa luận cũng mong muốn góp một phần nhỏ nhằm
cung cấp thêm thông tin, tư liệu phục vụ cho việc học tập, nghiên cứu về di
tích lịch sử - văn hố nói chung và di tích đình làng Đào Xá nói riêng.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu: Đình làng Đào Xá tại xã Đào Xá, huyện
Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
Về thời gian: Nghiên cứu di tích đình làng Đào Xá gắn liền với quá
trình hình thành, tồn tại của di tích từ khi khởi dựng đến nay.
6


 
 

Về khơng gian: Nghiên cứu di tích đình làng Đào Xá trong khơng gian
lịch sử - văn hố của vùng đất nơi di tích tồn tại, thuộc xã Đào Xá, huyện
Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu tư liệu.
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành như bảo tàng học, mĩ thuật học,
sử học…
- Phương pháp khảo sát điền dã dân tộc học tại thực địa. Vận dụng các
kỹ năng quan sát, mô tả, đo vẽ, chụp ảnh, phỏng vấn…để thu thập tài liệu.
5. Bố cục bài khóa luận
Ngồi phần mở đầu và kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo,
bài khóa luận gồm 3 chương:
Chương 1: Đình Đào Xá trong tiến trình lịch sử (trang số 4)

Chương 2: Giá trị văn hóa vật thể đình làng Đào Xá (trang số 13)
Chương 3: Giá trị văn hóa phi vật thể đình làng Đào Xá (trang số 46)

7


 
 

CHƯƠNG 1
ĐÌNH ĐÀO XÁ TRONG TIẾN TRÌNH LỊCH SỬ
1.1. Khái quát về vùng đất nơi di tích tồn tại
1.1.1.Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
Mỗi di tích lịch sử văn hóa trong q trình tồn tại và phát triển của
mình, đều có mối quan hệ mật thiết với một địa danh cùng với những con
người cụ thể. Đó là những nhân chứng không thể thiếu được cho sự hiện diện
của di tích. Vì lẽ đó, để tìm hiểu một cách tồn diện về di tích với những biến
đổi của nó, chúng ta khơng thể khơng đề cập đến mảnh đất, con người, nơi mà
từ đó di tích được sinh ra và ni dưỡng trong suốt tiến trình lịch sử.
Phú Thọ - cội nguồn của dân tộc, nơi mà các vua Hùng đã đóng đơ và
lập nên nhà nước đầu tiên trong lịch sử dân tộc. Trong quá trình tồn tại của
lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, mảnh đất này khơng những đã hình
thành và bảo lưu được những sắc thái văn hóa dân gian đậm nét mà nơi đây
cịn tồn tại rất nhiều di tích lịch sử văn hóa có giá trị nhiều mặt vềkiến trúc,
nghệ thuật và ý nghĩa tâm linh sâu sắc.
Mọi người quen gọi vùng đất này với cái tên rất gần gũi, thân thương,
là Đất Tổ, bởi rất nhiều lẽ: Trên vùng đất này có di tích lịch sử đền Hùng, rồi
qua những kết quả tìm kiếm khảo cổ, ta đã tìm được nhiều di chỉ có niên đại
từ Phùng Ngun cho đến Đông Sơn và các giả thuyết khoa học đã được chấp
nhận rằng đó là nguồn gốc dân tộc. Một lý do chính đáng và hùng hồn nữa là

vùng đất này có một diện mạo văn hóa riêng, rất độc đáo, rất đa dạng mà nổi
bật hơn cả là những dấu ấn cội nguồn dân tộc được biểu hiện tập trung, đậm
sắc trên tất cả các hình thái văn hóa dân gian. Phú Thọ được coi là quê hương
của những bậc tổ tiên mở đầu cho sự nghiệp dựng nước và giữ nước.
Phú Thọ là một vùng đất có lịch sử lâu đời, đó là vùng hợp lưu của ba
con sông: sông Lô, sông Thao, sông Đà. Phú Thọ tự hào là cội nguồn, là nơi
8


 
 

phát tích của dân tộc, nơi những giá trị vật chất và tinh thần được kết tinh qua
nhiều thế hệ, trải qua rất nhiều biến đổi lịch sử vẫn để lại dấu ấn đậm nét
trong thiên nhiên, trong sinh hoạt xã hội và đời sống con người.
Ngày nay, Phú Thọ là một trong những tỉnh có dân số đơng, có tài
ngun phong phú với nhiều tiềm năng, có vị trí kinh tế và quốc phòng quan
trọng ở miền Bắc nước ta :
“Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba”
Câu ca dao từ bao đời giống như tiếng chim gọi đàn, khơi dậy trong
tâm khảm những người Việt biết bao tình cảm thân thương, sâu sắc. Hằng
năm cứ đến ngày hội Đền Hùng, Phú Thọ lại đón tiếp hàng chục ngàn khách
thập hương từ khắp miền đất nước. Là người con của nước Việt Nam, có lẽ ai
cũng muốn một lần được trở về với cuội nguồn, thăm nơi đất Tổ.
Nói về Phú Thọ là nói tới một vùng cảnh quan địa mạo đa dạng, với
những danh lam thắng cảnh và di tích lịch sử có giá trị. Nếu chỉ tính từ Việt
Trì ngược sơng Thao lên Hạ Hịa, ngược sơng Đà lên đến Thanh Thủy, ngược
sơng Lơ lên đến Đoan Hùng thì ít nhất cũng có thể thống kê được 432 di tích,
trong đó đền, miếu thờ vua Hùng là 40, thờ vợ và các con vua Hùng là 77, thờ

Cao Sơn Tản Viên và các tướng lĩnh của vua Hùng là 288 và 87 di tích khác
liên quan đến các sự kiện lịch sử thời vua Hùng.
Song song với các di tích có thờ các nhân vật truyền thuyết là hàng loạt
các trò diễn, lễ hội như: bơi chải, hát xoan, ghẹo, giã bánh chưng, bánh dày,
rước kiệu…Nhân dân Phú Thọ từ xa xưa vốn rất yêu chuộng các hội diễn. Họ
đã tìm đến hội làng tham dự các trị vui chơi giải trí để cầu lành, cầu may, để
tắm mình trong tình làng nghĩa xóm.
Bên cạnh các trị diễn, lễ hội dân gian truyền thống là các sinh hoạt gia
đình: thờ cúng, cưới hỏi, tang ma…làm nên nét độc đáo của vùng đất Tổ. Đó
9


 
 

chính là kho tàng di sản văn hóa phi vật thể của Phú Thọ nói riêng và đất
nước nói chung.
“Phú Thọ quê mình đẹp như gấm hoa..”. Câu ca ấy đã in đậm trong tâm
hồn mỗi người con đất tổ. Nếu như tỉnh Phú Thọ là một bơng hoa thì mỗi
huyện thuộc tỉnh là một cánh hoa góp phần tơ điểm cho bông hoa ấy thêm rực
rỡ. Và Thanh Thủy là một trong số đó. Là một huyện miền núi, đời sống kinh
tế cịn nhiều khó khăn song việc bảo tồn các di tích lịch sử, văn hóa đã được
mọi người chú trọng, quan tâm. Trong đó khơng thể khơng kể đến đình Đào
Xá thuộc xã Đào Xá, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ.
Đào Xá là một xã nằm ở hạ huyện Thanh Thủy, là xã có nhiều di tích
lịch sử nhất huyện, có hai di tích được xếp hạng cấp quốc gia là đình Đào Xá
và đền Tam Cơng. Có một di tích lịch sử cách mạng là khu di tích lưu niệm
Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhiều di tích khác như: Đình Hạ, đình Thượng thơn
Phương Giao, đình Phú Xn, đình Đào thơn, chùa Linh Thắng, chùa Hưng
Long, đền Bà Chết rét, miếu Ba Chi…

Đình Đào Xá là một ngơi đình cổ, nằm ở vị trí giữa làng, phía trước là
dân cư và đồng ruộng, phía sau có đầm nước chạy thành một dải nối liền với
đầm nước trước đình. Đình quay hướng Nam, cách trung tâm huyện Thanh
Thủy 7km, cách thành phố Việt Trì 35km. Du khách đến tham quan có thể đi
theo hai hướng chính. Theo đường Hà Nội – Việt Trì, du khách có thể đi từ
Việt Trì qua cầu Phong Châu thẳng theo quốc lộ 316, khoảng 2km đến thị trấn
Hương Nộn thuộc huyện Tam Nơng, thì có hai đường đi :
+ Hướng thứ nhất là khi tới Ủy ban nhân dân xã Hương Nộn rẽ phải,
thẳng theo trục đường chính, đi hết xã Hương Nộn có một cây cầu dài khoảng
200m, đó là cầu Bờ Đìa thuộc địa phận xã Đào Xá, qua cây cầu đó ta sẽ sẽ tới
di tích.
+ Hướng thứ hai có thể đi từ cầu Phong Châu thẳng theo đường quốc lộ
316, tới cầu Trung Hà, rẽ phải lên địa phận huyện Thanh Thủy, dọc đường chính
10


 
 

men theo bờ sông Đà, qua địa phận xã Xuân Lộc, Thạch Đồng, đến ngã ba Tân
Phương (gần chợ Tân Phương) rẽ phải, đi khoảng hơn 3km thì tới di tích.
Với tính chất là một xã trung du miền núi nên địa hình cũng như ranh
giới hành chính của làng khá phức tạp:
+ Phía Đơng giáp xã Xn Lộc huyện Thanh Thủy, xã Dậu Dương
huyện Tam Nơng.
+ Phía Nam giáp xã Tân Phương và xã Thạch Đồng
+Phía Tây giáp xã Thạch Khoán, xã Giáp Lai huyện Thanh Sơn, xã Dị
Nậu huyện Tam Nơng.
+ Phía Bắc giáp thị trấn Hưng Hóa huyện Tam Nông.
Làng Đào Xá được tạo bởi sự xen kẽ giữa gị đồi và các cánh đồng

trũng, địa hình nơi đây như vẽ nên một bức tranh thiên nhiên với cảnh vật hài
hòa, mà điểm nhấn nổi bật cho khung cảnh làng Đào là ngơi đình làng bề thế,
cổ kính nằm ở trung tâm làng.. Nằm trong xu thế phát triển chung của xã hội,
làng Đào Xá có nhiều thay đổi, nhưng vẫn gìn giữ được những tài sản q giá
mà cha ơng để lại, trong đó có ngơi đình làng.
1.1.2. Lịch sử hình thành xã Đào Xá
Theo nhà nghiên cứu Dương Huy Thiện trong bài viết “Làng Đào Xá
và lễ hội” có viết : “Làng Đào Xá nay thuộc xã Đào Xá, huyện Tam Thanh, là
một làng rất cổ, nằm ven con đầm vốn là dịng sơng cổ, nối liền sông Hồng và
sông Đà vào thủa xa xưa” [22; 326]. Có thể nói, Đào Xá là một làng cổ được
hình thành từ rất lâu đời trong lịch sử, và là một trong những làng còn bảo lưu
được nhiều giá trị văn hóa cổ truyền cho đến ngày nay.
Theo các thư tịch cổ thì vào thời Trần, Đào Xá thuộc châu Đà Giang, lộ
Tam Giang.
Đến cuối đời Lê, đầu đời Nguyễn thuộc tổng Hạ Bì, huyện Bất Bạt, tỉnh
Sơn Tây. Đến năm Thành Thái thứ 10 (1898) thì Đào Xá được nhập vào tổng
Phương Giao, huyện Thanh Thủy, tỉnh Hưng Hóa.
11


 
 

Ngày 5/5/1903, tỉnh lỵ Hưng Hóa chuyển lên Phú Thọ, tỉnh Hưng Hóa
đổi tên là tỉnh Phú Thọ thì Đào Xá thuộc về tỉnh Phú Thọ, huyện Thanh Thủy,
tổng Phương Giao.
Tháng 6 năm 1946, Đào Xá sáp nhập với các xã Phương Giao, Thu
Thập, Tăng Ma và làng Thẩm thành xã Vinh Quang
Năm 1966 xã Vinh Quang tách và đổi tên là Đào Xá gồm bốn thôn là:
Đào Xá, Phương Giao, Đào Thôn và Phú Xuân.

Năm 1968 hợp nhất hai tỉnh Vĩnh Phúc và Phú Thọ thành Vĩnh Phú, xã
Đào Xá thuộc huyện Thanh Thuỷ tỉnh Vĩnh Phú.
Năm 1978, hai huyện Tam Nông và Thanh Thuỷ sáp nhập thành huyện
Tam Thanh.
Năm 1997 tách tỉnh Vĩnh Phú thành hai tỉnh Vĩnh Phúc và Phú Thọ, xã
Đào Xá thuộc huyện Tam Thanh tỉnh Phú Thọ.
Năm 1999 tách huyện Tam Thanh thành Tam Nơng – Thanh Thuỷ thì
xã Đào Xá thuộc huyện Thanh Thuỷ.
Như vậy hiện nay đình làng Đào Xá thuộc xã Đào Xá, huyện Thanh
Thủy, tỉnh Phú Thọ.
1.1.3. Đặc điểm dân cư, đời sống kinh tế văn hóa, xã hội
Trải qua biết bao thế hệ, người dân xã Đào Xá bằng bàn tay lao động
cần cù, khối óc thơng minh, sáng tạo, lịng u nước, tình đồn kết, ý chí kiên
cường,… đã không biết mệt mỏi chế ngự thiên nhiên, thú dữ; cải tạo đồi
hoang, bãi rậm thành những cánh đồng ngơ lúa tốt tươi.
Địa hình nơi đây được tạo bởi vùng đồi trung du nối tiếp nhau bởi
những gò đồi liên tiếp như hình bát úp, thoải dần từ Tây sang Đông, xen kẽ
giữa các quả đồi là các thung lũng hẹp tạo thành những ruộng bậc thang nhỏ,
gọi là ruộng dộc, thấp dần là những cánh đồng trũng chỉ cấy được một vụ lúa,
12


 
 

vào mùa mưa thì nơi đây lại trở thành những đầm nước mênh mơng. Đào Xá
cịn là nơi tiếp giáp giữa đồng bằng và miền núi nên có điều kiện thuận lợi để
phát triển kinh tế tổng hợp: kết hợp phát triển kinh tế nông nghiệp với kinh tế
trồng rừng, phát triển các trang trại trồng cây ăn quả và chăn ni. Khí hậu
mang tính chất nhiệt đới ẩm gió mùa, nhiệt độ và độ ẩm tương đối ổn định.

Điều kiện tự nhiên thuận lợi, kết hợp với một vùng đất giàu tiềm năng, Đào
Xá sớm trở thành địa bàn sinh tụ của các cư dân Việt cổ - việc tìm thấy các
thạp đồng, trống đồng trong thời gian gần đây được Bộ văn hóa chứng nhận
cùng với trống đồng Đơng Sơn, đã chứng minh điều đó.
Trước Cách mạng tháng Tám, dưới sự đô hộ của thực dân Pháp, nhân
dân trong làng, đặc biệt là tầng lớp nhân dân lao động, hầu như không được
hưởng thành quả lao động của mình. Ruộng đất phần lớn tập trung trong tay
địa chủ phú nơng, một phần dành cho đình chùa, phe giáp dùng vào việc cúng
tế hàng năm. Đại đa số nông dân khơng có ruộng đất, lại phải nộp tơ th
nặng nề nên đời sống của người dân vô cùng cực khổ. Nhiều gia đình phải lên
rừng đốt than, đào củ cây để kiếm sống qua ngày.
Nhân dân làng Đào Xá chủ yếu sống bằng nghề nông, mỗi năm một vụ,
lương thực chính vẫn là gạo tẻ, gạo nếp được trồng rất ít, để dùng trong những
ngày lễ tết, hội hè. Ngồi ra, người dân nơi đây cịn có thêm nghề trồng sơn
lấy nhựa. Cây sơn được trồng trên các gò đồi, những chân ruộng cao. Trồng
sơn lấy nhựa là nghề tạo giá trị kinh tế cao, hỗ trợ một phần vào đời sống kinh
tế trong cuộc sống hàng ngày của người dân. Vì thế mà nhân dân làng Đào Xá
cịn lưu truyền đến ngày nay câu ca “Một đồng một giỏ, không bỏ nghề sơn”.
Các nghề thủ công truyền thống khơng được hình thành và phát triển sớm,
mãi đến cuối những năm 30 của thế kỷ XX, mới có một số người ở Sơn Tây,
Vĩnh Tường, Lâm Thao, Hưng Hóa đến Đào Xá mở lò rèn, làm máy khâu,
nung gạch, và buôn bán hàng xén.
13


 
 

Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ,
nhân dân Đào Xá đã anh dũng, hăng hái tham gia cách mạng, thanh niên

làng lên đường nhập ngũ rất đơng, hịa mình vào khơng khí đấu tranh sục sôi
của dân tộc. Trong những năm kháng chiến, Đào Xá là nơi nuôi giấu các cán
bộ cách mạng.
Sau đại thắng mùa xuân 1975, cùng với sự phát triển của đất nước,
nhân dân làng Đào Xá nhanh chóng hàn gắn vết thương chiến tranh, hịa mình
vào cơng cuộc kiến thiết đất nước của dân tộc. Đến nay, cơ cấu kinh tế chủ
yếu của xã Đào Xá vẫn là nghề nông, với tổng diện tích đất nơng nghiệp là
628,2 ha/2417,8 ha tổng diện tích tự nhiên. Nhân dân Đào Xá vẫn giữ nghề
trồng sơn lấy nhựa, ngồi ra cịn có một số hộ kinh doanh chế biến lâm sản,
chiếm 16,72%, số hộ tham gia kinh doanh dịch vụ ngày một tăng (có 171 hộ).
Như vậy, cơ cấu kinh tế có nhiều biến chuyển, các loại hình kinh doanh dịch
vụ ngày một phát triển, tạo ra diện mạo mới của làng quê.
Năm 2012, xã Đào Xá có 90% hộ đạt gia đình văn hóa, 17/19 khu dân
cư đạt khu dân cư văn hóa; các chính sách xã hội với người có cơng được
thực hiện đầy đủ và đúng quy định của pháp luật; trạm y tế xã đã đáp ứng cơ
bản nhu cầu chăm sóc sức khỏe ban đầu của người dân. Trong công tác giáo
dục, cán bộ giáo viên ở cả 3 cấp học đều có trình độ chuẩn và trên chuẩn, số
học sinh giỏi các cấp đạt chỉ tiêu đề ra.
Cũng trong năm 2012, tình hình an ninh chính trị- trật tự an toàn xã hội
trên địa bàn xã Đào Xá ln ổn định, khơng có vụ việc phức tạp xảy ra; lực
lượng cơng an xã được kiện tồn, thường trực 24/24 giờ, chủ động nắm tình
hình, kịp thời xử ký khi có tình huống xảy ra…
Bên cạnh đó, xã Đào Xá tiếp tục đẩy mạnh thực hiện cuộc vận động
tồn dân xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư; củng cố các hoạt động văn
hóa, văn nghệ- thể dục thể thao để nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân.
14


 
 


Duy trì hoạt động của trạm y tế, đảm bảo thường trực 24/24 giờ một cách
nghiêm túc; kiện toàn và nâng cao chất lượng mạng lưới y tế xã; vận động nhân
dân chủ động, tích cự phịng chống dịch bệnh, giữ gìn vệ sinh mơi trường.
Đào Xá sẽ phấn đấu duy trì và phát huy những kết quả đã đạt được
trong các lĩnh vực giáo dục, an ninh- quốc phòng để góp phần giữ vững ổn
định chính trị, trật tự an toàn xã hội, thúc đẩy kinh tế- xã hội của địa phương,
góp phần nâng cao đời sống của nhân dân.
1.2. Lịch sử hình thành và quá trình tồn tại của đình làng Đào Xá
Căn cứ vào Ngọc phả của đình thì đình Đào Xá được xây dựng từ thời
nhà Lê, niên hiệu Đức Nguyên năm Giáp Dần (1674 – 16750) đến nay là năm
2013 (năm Qúy Tỵ) là 339 năm.
Theo các cụ cao niên trong làng kể lại và theo Ngọc phả của đình thì
trước kia đình làm đơn giản, mái lợp bằng lá gồi, gianh, tế, sau mới được làm
to ra. Vì vậy có một câu ghi trên thượng lương về bên trái “Cao minh chính
trực quy mơ cựu”, có nghĩa là làm theo hướng cũ, to và sáng sủa hơn. Theo
Ngọc phả của đình thì đình Đào Xá do 12 ông tổ họ đứng đầu trong làng đứng
ra hưng cơng, các họ đó là: Dương, Cao, Đào, Nguyễn, Lê, Trần, Bùi, Tống,
Ngơ, Đỗ, Vũ, Hà.
Đình Đào Xá, ngồi chức năng là nơi sinh hoạt văn hóa chung của
cộng đồng, nó cịn là nơi ghi dấu những sự kiện lịch sử. Năm 1945, sau
ngày Tổng khởi nghĩa một số người tham gia cách mạng thường lui tới hội
ý ở đình này. Đến năm 1947 – 1948, đơn vị của Sư đồn 312 đã lấy ngơi
đình này làm trạm nuôi dưỡng thương bệnh binh trong những năm kháng
chiến chống thực dân Pháp. Vì thế ở đình hiện giờ vẫn cịn dấu tích của
việc lát gỗ ván cho bộ đội nằm.
Ngày 26/01/1964, Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm cán bộ và nhân dân
xã Đào Xá có thành tích trồng cây và có đến thăm đình Đào Xá, Người có nói
là “chúng ta phải tu sửa những chỗ hư hỏng để làm nơi hội họp”.
15



 
 

Từ khi xây dựng đến nay đình làng đã ctrải qua nhiều lần tu sửa.
Lần 1: Thay 4 cột do giáp Đơng thay năm 1919
Lần 2: Thay 3 cái nóc do ông chánh Diện thay năm 1926
Lần 3: Thay 1 cột, 1 kẻ do giáp Bắc thay năm 1939
Lần 4: Thay 1 mõm nghé đằng trước câu phía tả do cụ cả Tài thay
(năm 1968)
Lần 5: Thay 1 câu phía tả do cụ Lê Tạo đứng ra thay năm 1998
Lần 6: Xây lại các nghê và rồng, mặt nguyệt trên nóc do cả Lộc đắp
(năm 2002)
Lần 7: Sửa lại cột con, câu đầu, sơn lại 6 cột phía trước Đại đình
(năm 2007)

16


 
 

CHƯƠNG 2
GIÁ TRỊ VĂN HĨA VẬT THỂ ĐÌNH LÀNG ĐÀO XÁ
2.1. Kiến trúc
2.1.1. Không gian cảnh quan kiến trúc
Từ xa xưa, người Việt đã ý thức về sự kết hợp hài hòa giữa con người
và thiên nhiên, giữa âm và dương nhằm thúc đẩy sự sinh sôi, nảy nở. Điều
này được thể hiện rất rõ trong không gian cảnh quan của các di tích - nơi mà

con người gửi vào đó những ước vọng của mình. Bởi vậy trước khi xây dựng
các cơng trình tơn giáo, tín ngưỡng, người ta phải xem xét rất kỹ lưỡng để lựa
chọn vị trí, thế đất cho tới cảnh quan xung quanh.
Vị trí khu đất phải cao ráo, nằm trên gị cao, thống mát, có vượng khí.
Thế đất đẹp phải có núi, đồi, gị, bãi từ phía sau toả ra vây bọc hai bên rồi
cùng chầu vào, hoặc ở những điểm cao đột khởi làm án che phía trước hay
làm chuẩn đề tựa phía sau và đối lại là những vùng thấp có diện nước tụ thuỷ
làm minh đường hay não thủy ở đằng sau... tạo nên sự cân đối nhịp nhàng, có
sự đối đãi của Âm - Dương. Đó là đất thiêng, tụ linh tụ phúc.
Nói đến khơng gian cảnh quan của di tích là nói đến hướng, khơng gian
xa gần và cây cỏ trong di tích.
Trước tiên là hướng đình. Có thể nói đình làng là nơi ngưng kết mọi giá
trị văn hóa vật chất và tinh thần của mỗi làng quê Việt Nam. Vì vậy việc xây
dựng đình theo hướng nào phải được những người hiểu biết, có kinh nghiệm
trong làng lựa chọn rất cẩn thận. Họ cho rằng, chỉ cần có chút sai sót, sẽ có
những ảnh hưởng khơng tốt đến cả làng, dân làng sẽ bị bệnh tật, hỏa hoạn,
làm ăn thất bát…
Ca dao xưa có câu:
“Toét mắt là tại hướng đình
Cả làng toét mắt, riêng mình em đâu”
17


 
 

Câu ca dao trên phần nào cho ta thấy được tầm quan trọng của việc
chọn hướng đình, nó mang ý nghĩa tâm linh sâu sắc trong tư duy của mỗi
người dân trong làng. Người ta lấy hướng đình làm chuẩn, việc xây dựng nhà
của trong làng đều phải làm song song hoặc vng góc với đình, tuyệt đối

khơng làm nhà nhìn thẳng vào hướng đao đình.
Đình Đào Xá được xây dựng theo hướng Nam, nằm ở trên gò cao, địa
thế giữa làng, là vị trí đẹp nhất. Theo đạo Phật, hướng Nam là hướng thể hiện
sự trong sáng, đồng nhất với trí tuệ mà đạo Phật lấy trí tuệ để diệt trừ ngu tối,
tức mầm mống tội ác, hướng Nam cịn mang dương tính cũng gắn với hạnh
phúc, với điều thiện... Khi ảnh hưởng của văn hoá Trung Hoa du nhập vào thì:
“Thánh nhân nam diện nhi thính thiên hạ” (Thánh nhân ngồi quay hướng
Nam để nghe lời tâu bày của thiên hạ), đó là hướng của đế vương, đó cũng là
hướng của thần linh khi các ngài trở thành ông vua tinh thần của làng xã.
Trong điều kiện thực tế của nước ta thì hướng Nam cũng thường được chú ý
nhiều hơn cả, vì trước hết đó là hướng gió mát mẻ vào mùa hè, tránh rét vào
mùa đơng. Ơng cha ta vẫn có câu: “Lấy vợ hiền hồ làm nhà hướng Nam” là
vì lẽ đó. Hướng đình cịn mang ý nghĩa cho mùa màng bội thu, vạn vật ln
thích nghi, cuộc sống của dân làng sẽ ấm no, hạnh phúc.
Đình Đào Xá được xây dựng trên một khu đất tương đối rộng, phía
trước là dân cư và đồng ruộng, khơng gian thống mát, n bình. Phía sau có
đầm nước chạy thành một dải nối liền với đầm nước trước đình. Thế đất đẹp,
đã góp phần tạo sự linh thiêng cho ngơi đình. Xung quanh đình khơng có
nhiều cây cổ thụ như các ngôi đền, chùa, đây là một đặc điểm đặc trưng của
kiến trúc đình làng nói chung. Bởi đình làng mang nặng tính áp chế, nên kiến
trúc thường bề thế, nổi bật với không gian xung quanh.
2.1.2. Bố cục mặt bằng tổng thể
Bố cục kiến trúc là sự sắp xếp các hạng kiến trúc trong một tổng thể
nhất định. Sự sắp xếp đó khơng chỉ đơn thuần là việc phân chia giới hạn và
18


 
 


cơng năng sử dụng, quan trọng hơn, nó cịn ẩn chứa rất nhiều yếu tố triết học,
tư tưởng mà người xưa muốn gửi gắm. Trước kia bao xung quanh đình đều
xây tường hoa bằng đá ong, cao hơn 2m. Toàn bộ tường hoa đã bị dỡ phá vào
năm 1984, chỉ cịn lại một đoạn phía sau đình cao hơn 1m. Đình có các hạng
mục : nghi mơn, đại đình, tả - hữu mạc, trong đó kiến trúc đại đình là hạng
mục quan trọng nhất, mang giá trị đặc sắc nhất.
2.1.3. Các hạng mục kiến trúc
* Nghi môn
Trước đây, nghi môn được xây kiểu tứ trụ, gồm 2 cột đồng trụ cao to ở
giữa và 2 cột nhỏ ở hai bên. Đỉnh hai trụ lớn đắp quả dành, trụ nhỏ đắp hai
con lân, ở phía dưới trụ đắp tứ linh ở bốn mặt.
Trải qua nhiều lần trùng tu, sửa chữa, hiện nay cổng đình được xây
dựng lại với hai cột đồng trụ và hai cổng phụ làm thành hai bức cánh phong
uy nghi, bề thế.
* Tả - hữu mạc:
Phía trong sân đình, mỗi bên xây một nhà 5 gian gọi là tả mạc và hữu
mạc. Nơi đây được dùng làm nơi tiếp khách và phục vụ hành lễ.
Hiện nay, một tòa nhà bên trái đình đã bị phá bỏ để chuẩn bị cho dự án
tu bổ lại hai nhà tả - hữu mạc.
* Đại đình
Thẳng từ trục đường chính, qua một khoảng sân rộng lát gạch, tới tịa
đại đình. Đây là cơng trình chính, nơi diễn ra mọi hoạt động tế lễ và sinh hoạt
văn hóa cộng đồng.
Đại đình Đào Xá kiến trúc theo kiểu chữ Nhất (-) gồm 3 gian 2 chái.
Phía trước có hai bậc lên xuống, xây gạch, trát vữa xi măng. Kích thước mặt
nền 24m x 13,22m, lát gạch bát, mạch chữ công. Chiều cao hiện tại của nền
19


 

 

đình là 30cm so với sân. Trước kia đình có hệ thống ván sàn, nhưng đã bị dỡ bỏ,
hiện chỉ cịn dấu vết mộng sàn trên các thân cột. Đình có 48 cột gỗ, chia làm 3
loại cột, có đường kính trung bình là: cột cái: 60cm, cột con: 55cm, cột hiên:
40cm. Mái lợp ngói mũi hài. Xung quanh đại đình để trống, chỉ có 4 góc được
xây gia cố bằng tường gạch trát vữa xi măng, mỗi bề 1,2m để đỡ góc mái.
* Khung kết cấu gỗ
- Hệ thống cột: Đại đình đình làng Đào Xá có kiến trúc ba gian hai chái
lớn, kết cấu theo kiểu sáu hàng chân cột. Bộ khung gỗ với sự liên kết ba chiều
xà – kèo – cột cùng các chốt mộng khít khao. Sức nặng của tồn bộ cơng trình
được dồn xuống nền nhà qua các cột gỗ thẳng đứng. Hệ thống cột được bào
nhẵn, có 6 cột mới được sơn màu đỏ và trang trí hoa văn, cịn lại là khơng
sơn. Hệ thống cột đình chủ yếu được làm bằng gỗ xoan.
- Kết cấu vì:
+Vì nóc: Đại đình có 4 vì nóc chính và 2 vì nóc hồi. Hai vì nóc gian
giữa làm theo kiểu “giá chiêng”: Rường trên cùng là rường “bụng lợn”, lưng
rường cong vồng đỡ thượng lương, thân rường phình rộng, hai đầu rường đỡ
cặp hồnh mái trên cùng, phía dưới kê lên đầu trụ trốn qua đấu vng thót
đáy. Rường thứ hai có một đầu ăn mộng vào thân cột trốn, một đầu đỡ cặp
hoành mái thứ hai. Rường tiếp theo là rường suốt, thân ăn mộng qua 2 trụ
trốn, hai đầu rường đỡ cặp hoành thứ ba. Những con rường này tỳ lực lên câu
đầu qua một thanh gỗ mỏng. Dưới cùng là câu đầu kê lên hai đầu cột cái qua
đấu vng thót đáy. Đỡ hai đầu câu đầu là đầu dư lớn, chạm rồng. Trụ trốn
của giá chiêng có đầu trên đỡ con rường bụng lợn trên cùng, đầu dưới tỳ lực
lên câu đầu qua đấu vng thót đáy. Thân các con rường được bào soi gờ chỉ,
dạ hai đầu câu đầu đều khoét giật cấp.
Các vì nóc gian bên cũng có kết cấu tương tự như gian giữa, nhưng ở
thân hai trụ trốn có xẻ mộng để lắp kẻ xó. Hai vì hồi là vì lửng, có câu đầu ăn
mộng vào đầu cột trốn đứng trên xà đùi qua đấu vng thót đáy.

20


 
 

Vì nách:
+ Vì nách gian giữa: các vì nách gian giữa còn giữ được cấu trúc của
nghệ thuật cuối thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XVIII, đều làm theo kiểu cốn chồng
rường. Các con rường được chồng khít lên nhau để tạo diện phẳng trang trí.
Con rường trên cùng là đi của đầu dư. Hai con rường tiếp theo có một đầu
ăn mộng vào thân cột cái, đầu kia đỡ hồnh mái qua dép hồnh. Dưới cùng là
xà nách, có một đầu ăn mộng vào thân cột cái, đầu kia gác lên cột qn qua
đấu vng thót đáy. Thân xà nách được bào soi vỏ măng, hơi cong vồng về
phía cuối, dạ xà khoét giật cấp. Đỡ dưới dạ xà nách là nghé kẻ. Để tăng sự
liên kết, phía dưới vì nách gian giữa cịn có một xà ăn mộng vào thân cột cái
và cột quân. Khoảng trống giữa xà này và xà nách phía trên lắp ván gỗ có
trang trí.
+ Vì nách gian bên: Có kết cấu tương tự như vì nách gian giữa nhưng
khơng có xà phụ phía dưới như ở gian giữa.
+ Vì nách chái: Các vì nách chái cũng là cốn chồng rường, có kết cấu
tương tự như vì nách gian giữa và gian bên. Các rường ăn mộng vào cột trốn,
đầu rường đỡ hoành mái hồi. Cột trốn tỳ lực lên xà đùi qua một đấu vng
thót đáy, đầu cột xẻ mộng đỡ câu đầu vì nóc hồi và kẻ xó, thân cột có một xà
giằng theo phương nằm ngang. Nối giữa cột trốn và cột cái là xà dọc thượng
bào soi vỏ măng. Xà đùi ăn mộng từ thân cột cái sang đầu cột quân, đỡ dưới
dạ xà đùi có nghé kẻ.
+ Kết cấu hiên: đại đình đều dùng kẻ. Kẻ hiên có một đầu ăn mộng qua
cột quân tạo thành nghé đỡ dạ xà nách, đầu kia xuyên qua cột hiên rồi vươn ra
đỡ tàu mái. Đoạn kẻ giữa cột quân và cột hiên hơi cong lên đỡ các hoành mái

qua ván dong. Thân kẻ thường được chạm khắc. Một số ván dong cũng có
chạm khắc hoa văn mang phong cách nghệ thuật tương đồng với nghệ thuật
chạm khắc trên thân kẻ.
21


 
 

* Hệ giằng:
Liên kết dọc đại đình là hệ thống xà liên kết các cột. Xà dọc cột cái là
hệ xà kép, thân xà bào soi, khơng trang trí.
Xà dọc cột quân là xà đơn. Còn xà dọc cột hiên là xà kép, thân xà có
những câu tầu ăn mộng để tăng sự liên kết với tầu mái.
* Hệ mái và bao che:
- Hệ mái:
Đình làng Đào Xá có bộ mái lớn, bè rộng với bốn góc đao cong vút,
gồm có 4 mặt mái, hai mái chính và hai mái hồi. Mái đình tuy rộng và thấp
nhưng ở bốn góc đầu đao lại được uốn cong, làm mất đi cảm giác nặng nề của
mái, đồng thời tạo nên độ mềm mại, thanh thốt cho cả cơng trình.
Mái đình làng Đào Xá được kết cấu theo kiểu tàu đao lá mái với các
góc mái cong. Mái được lợp bằng ngói mũi, dưới có lớp ngói lót có chức năng
làm che đi đi lơ xơ của ngói lợp, làm tăng tính thẩm mỹ cho hệ mái, vừa
làm mát và cách nhiệt cho cơng trình. Hệ thống hồnh mái đình Đào Xá được
sử dụng là những thân gỗ trịn, nhẵn bóng, vững chắc. Độ dài của thân hoành
tương ứng với chiều dài của bước gian. Đỡ hai đầu cây hoành là những con
rường xếp chồng lên nhau, được kê khít bởi những dép hồnh và bịt kín bằng
những tấm ván nong dày. Bộ hoành mái được chia làm những khoảng nhỏ
theo kiểu “thượng tam, hạ tứ”, tạo thành một bề mặt phẳng, vững chắc.
Đặt bên trên vng góc với các thanh hồnh là hệ thống rui, nó tạo một

bề mặt phẳng cho ngói lợp. Rui là những tấm gỗ mỏng, dài, nằm theo chiều
dọc, kéo dài từ cây hồnh nóc xuống tàu mái. Hệ thống tàu mái đều đặn, được
giằng giữ bởi một hệ thống then câu dày, chắc chắn. Một đầu ăn mộng với xà
hạ, một đầu giằng giữ tàu mái và được chốt chặt bằng những đinh gỗ.
Chiều cao từ mặt nền đến bờ nóc đại đình là 8,5m, từ mặt nền đến dạ
tàu mái là 8m.
22


 
 

- Thành phần bao che:
Tồn bộ khơng gian đại đình phần lớn để trống, chỉ có một phần tường
bao xây bằng gạch trát vữa xi măng ở hai hầu hồi. Đoạn tường này có lẽ mới
được xây thêm trong thời gian gần đây để chống đỡ sự xuống cấp của cơng
trình. Kiến trúc đình Đào Xá khơng có tịa hậu cung tách riêng khỏi đại đình
như nhiều ngơi đình khác, mà chỉ có gian thờ lửng ở gian giữa. Gian thờ lửng
này (địa phương gọi là “giường bầu”) nằm từ cột cái sau gian giữa đến cột
quân, được bao kín xung quanh, trong đó đặt ngai, bài vị và một số đồ thờ
khác của thành hoàng làng. Chiều cao từ mặt nền đến khám thờ lửng này
khoảng 2m, có 4 cánh cửa sơn son thếp vàng, chạm kín các hình tượng trang
trí. Hai gian bên cũng có ban thờ Thánh sư, nhưng khơng bao kín như khám
thờ lửng gian giữa.
2.1.4. Nghệ thuật chạm khắc trên kiến trúc
Là cơng trình kiến trúc tơn giáo tín ngưỡng của làng, trung tâm văn hóa
tâm linh của làng, bằng đơi bàn tay khéo léo và khối óc thơng minh, các nghệ
nhân xưa của làng Đào Xá đã để lại cho hậu thế một công trình kiến trúc vơ
cùng độc đáo mà ít nơi nào có được. Cho đến tận bây giờ, dù trải qua nhiều
bước thăng trầm của lịch sử nhưng đình Đào Xá vẫn bảo lưu được kiến trúc

và nghệ thuật chạm khắc đặc sắc. Đó chính là bức thơng điệp từ q khứ của
cha ơng - ẩn chứa trong đó là các giá trị truyền thống mà con cháu ngày nay
cần phải giữ gìn và phát huy. Đặc biệt, đây là ngơi đình cịn bảo tồn được
nghệ thuật chạm khắc độc đáo, đa dạng. Đặc biệt đình làng Đào Xá cịn giữ
được khá nhiều những dấu ấn của nghệ thuật cuối thế kỷ XVII, đầu thế kỷ
XVIII. Các mảng chạm khắc trên kiến trúc khá dày đặc với các đề tài trang trí
khá phong phú và đa dạng với các hình tượng: linh thú, con người, các biểu
tượng tự nhiên...
23


 
 

- Hình tượng rồng
Rồng là một đề tài trang trí quen thuộc, là một trong những con vật linh
thiêng trong bộ tứ linh. Ở Phương Đông rồng là con vật vũ trụ, linh thiêng, có
sức mạnh. Nhưng nó khơng khác thường, đáng sợ, như con rồng phương Tây.
Rồng Phương Đông là con vật tổng hợp của nhiều con vật khác. Thân rồng là
lồi bị sát, gần với rắn, có vẩy như vẩy cá. Đầu rồng được hợp thành từ
nhiều bộ phận của những con thú khác nhau, như miệng lang, tai thú, trán lạc
đà, mũi sư tử, móng chim ưng… Hình ảnh rồng thể hiện tư duy lưỡng phân
lưỡng hợp của cư dân nông nghiệp: Sống ở dưới nước như cá, nhưng bay trên
trời như chim, khạc ra lửa, sấm chớp để làm ra mưa bão.
Đối với dân tộc Việt Nam, ngồi nét chung nói trên, hình ảnh rồng cịn
có ý nghĩa riêng, đó là dân tộc Việt Nam coi mình có xuất xứ từ con rồng
cháu tiên. Từ câu chuyện huyền thoại chàng Lạc Long Quân lấy nàng Âu Cơ
đẻ ra bọc trăm trứng, sau nở thành một trăm người con, hình ảnh rồng đã dần
dần ăn sâu vào tâm thức của người Việt. Hình ảnh rồng xuất hiện ở nhiều nơi
trên đất nước Việt Nam: Hà Nội là thủ đô của cả nước, với tên gọi đầu tiên:

Thăng Long (rồng bay lên). Vùng Đơng Bắc nước ta có Hạ Long (rồng hạ),
một trong những thắng cảnh đẹp nhất nước. Đồng Bằng Nam Bộ phì nhiêu
được làm nền bởi dịng sơng mang tên Cửu Long (chín rồng). Khơng những là
biểu tượng cho xuất xứ nòi giống dân tộc Việt Nam, rồng còn là thần linh, chủ
của nguồn nước, mang lại sức sống mãnh liệt, làm cho mùa màng tốt tươi.
Rồng là biểu tượng của sức mạnh phi thường, chính vì vậy mà các vua chúa
đã lấy hình tượng rồng đại diện cho uy lực triều đình. Thời Lê, rồng trở thành
bản mệnh của nhà vua, hình tượng rồng được thêu lên áo vua mặc và trang trí
trên những vật dụng của nhà vua.
Trong thời kỳ đất nước ta bị lệ thuộc vào phong kiến phương Bắc, rồng
Việt Nam chịu ảnh hưởng của những con rồng các thời Tần, Hán, Đường,
24


 
 

Tống… Vào thế kỷ XI, dưới triều Lý, đất nước bước vào thời kỳ độc lập tự
chủ, hình tượng con rồng Việt được khẳng định rõ nét . Rồng còn là biểu
tượng của cội nguồn dân tộc. Người dân đất Việt nào cũng cho mình là con
rồng, cháu tiên. Rồng cũng như nước, có đặc trưng nổi bật là khả năng ứng
biến, như người Việt Nam vậy. Nó có nhiều trạng thái, hay đúng hơn, thích
nghi với nhiều trạng thái: Ở dưới nước (tiềm long vu thuỷ), nó giữ bầu nước
của thiên hạ (Long vương). Nó có thể xuất hiện ở trên đất, trên đầm lầy (hiện
long vu điền, vu đại trạch) như một “điềm báo” mà Lý Thái Tổ khi dời đô từ
Hoa Lư ra Đại La, coi là điềm rồng vàng báo điều tốt đẹp. Nó có thể bay cao
lên trời (phi long tại thiên) vùng vẫy trong mây (long vân khánh hội) gây mưa
tưới nhuần đồng ruộng”. Con rồng ngoài ý nghĩa là biểu tượng của con vật
làm chủ nguồn nước – một yếu tố quan trọng đối với cư dân nơng nghiệp
trồng lúa nước, nó cịn được tượng trưng cho uy quyền của nhà vua và thường

được trang trí ở những nơi linh thiêng.
Hình tượng rồng ở đình Đào Xá là hình tượng chủ đạo, được trang trí
tinh tế, với nhiều đường nét khác nhau trên mỗi kẻ, cùng với các điển tích để
tạo nên sự đa dạng và độc đáo. Ví dụ: Kẻ ở bên phải đình, phía trước Đại
đình, ở gian giữa, ở mặt trong phía bên trên chạm hai con rồng con và bốn
rồng mẹ, tay mỗi con rồng cầm một quyển sách (điển này gọi là “Mẫu lang
huấn tử”) (Ảnh số 7). Hay kẻ ở mái sau đình bên phải gian bên, ở mặt trong
phía trên chạm một con rồng miệng ngậm giá văn, phía dưới hai con rồng to,
chầu vào mặt nguyệt (điển tích “Lưỡng long chầu nguyệt”) (Ảnh số 8)
Hình thức thể hiện rồng cũng rất đa dạng. Trên các kẻ trang trí dày đặc
hình tượng rồng. Rồng được chạm trong tư thế nhìn nghiêng, thân uốn khúc
uyển chuyển mềm mại. Những hình rồng thuộc phong cách nghệ thuật cuối
thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XVIII, thường được chạm với thân rồng chìm trong
đao mác, hơi mập, có vẩy trịn, bụng có đốt, đầu rồng lớn, có sừng.
25


×