TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HOÁ HÀ NỘI
KHOA BẢO TÀNG
MAI THỊ PHƯỢNG
TÌM HIỂU CỤM DI TÍCH ĐỀN THƯỢNG VÀ
CHÙA PHÚC LONG
(XÃ KHÁNH PHÚ – HUYỆN N KHÁNH – NINH BÌNH)
KHỐ LUẬN TỐT NGHIỆP
NGÀNH BẢO TÀNG
Người hướng dẫn:
GS. Bùi tiến
HÀ NỘI – 2010
MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ TỒN TẠI
CỦA CỤM DI TÍCH ĐỀN THƯỢNG VÀ CHÙA PHÚC LONG ............. 5
1.1.Giới thiệu khái quát về vùng đất nơi cụm di tích tồn tại ........................ 5
1.1.1. Vị trí địa lý ..................................................................................... 5
1.1.2. Lịch sử địa danh nơi di tích tồn tại ................................................. 6
1.1.3. Dân cư và đời sống văn hoá, kinh tế, xã hội ................................... 9
1.2. Quá trình hình thành, tồn tại của cụm di tích ....................................... 18
1.2.1 Niên đại xây dựng và quá trình tồn tại của cụm di tích ................. 18
1.2.2. Sự tích và mối liên hệ giữa các nhân vật được thờ. ...................... 22
1.2.2.1. Giác Hải thiền sư .................................................................... 22
1.2.2.2. Từ Đạo Hạnh .......................................................................... 28
1.2.2.3. Dương Không Lộ (1016-1094) .............................................. 30
1.2.2.4. Mối liên hệ giữa các nhân vật được thờ ................................ 31
CHƯƠNG 2: GIÁ TRỊ KIẾN TRÚC - NGHỆ THUẬT VÀ LỄ HỘI CỦA
CỤM DI TÍCH ĐỀN THƯỢNG VÀ CHÙA PHÚC LONG ..................... 35
2.1. Giá trị kiến trúc nghệ thuật .................................................................. 35
2.1.1 Không gian cảnh quan môi trường................................................. 35
2.1.2. Bố cục mặt bằng tổng thể .............................................................. 39
2.2. Kết cấu kiến trúc di tích đền Thượng................................................... 41
2.2.1. Nghi mơn ....................................................................................... 41
2.2.2. Kết cấu kiến trúc nhà Tiền tế ....................................................... 42
2.2.3. Kết cấu kiến trúc nhà Trung từ ..................................................... 48
2.2.4. Kết cấu kiến trúc toà Hậu cung ..................................................... 50
2.2.5. Giá trị nghệ thuật........................................................................... 51
2.2.6. Di vật trong di tích ....................................................................... 55
2.2.7. Lễ Hội............................................................................................ 61
2.3. Kết cấu kiến trúc chùa Phúc Long ....................................................... 65
2.3.1. Cổng chùa...................................................................................... 65
2.3.2. Tiền Đường ................................................................................... 66
2.3.3. Thượng điện .................................................................................. 68
2.3.4. Nhà Tổ ........................................................................................... 68
2.3.5. Lăng Mộ và Tháp .......................................................................... 69
2.3.6. Những giá trị nghệ thuật ............................................................... 70
2.3.7. Các hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian lễ hội truyền thống diễn
ra tại di tích chùa Phúc Long. ................................................................. 78
CHƯƠNG 3: VẤN ĐỀ BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ CỦA DI
TÍCH ............................................................................................................... 82
3.1 Hiện trạng bảo quản cụm di tích ........................................................... 82
3.1.1 Hiện trạng bảo quản di tích đền Thượng ....................................... 82
3.1.2 Hiện trạng bảo quản di tích Chùa Phúc Long ................................ 85
3.1.3 Hiện trạng lễ hội đền Thượng ........................................................ 85
3.2. Vấn đề bảo vệ và tôn tại di tích ............................................................ 86
3.3. Các phương án bảo tồn cụm di tích ..................................................... 88
3.4 Giải pháp bảo tồn lễ hội đền Thượng.................................................... 94
3.5. Tơn tạo di tích ...................................................................................... 95
3.6. Phát huy giá trị của di tích ................................................................... 96
KẾT LUẬN .................................................................................................... 99
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 101
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong suốt chặng đường dài và phát triển của lịch sử dân tộc Việt Nam,
từ buổi sơ khai đấu tranh chinh phục tự nhiên đến q trình dựng làng, giữ
nước, ơng cha ta đã để lại nguồn di sản vô cùng quý giá là hàng ngàn, hàng
vạn di tích với nhiều loại hình khác nhau như: Di tích khảo cổ học, di tích lịch
sử, di tích kiến trúc nghệ thuật, danh lam thắng cảnh…nằm rải rác khắp mọi
miền của đất nước. Nguồn di sản ấy là sự hội tụ kết tinh của văn hố dân tộc
và các di tích cịn lại đến ngày nay là minh chứng cho sự trường tồn của dân
tộc Việt Nam, con người Việt Nam, văn hoá Việt Nam. Trong các loại hình di
tích đó thì loại hình di tích kiến trúc nghệ thuật chiếm phần lớn bao gồm đình,
chùa, đền, miếu, qn…Mỗi một di tích đều tiềm ẩn dưới vẻ rêu phong cổ
kính là một Bảo tàng sống ngồi trời về kiến trúc, nghệ thuật trang trí, điêu
khắc và cả phong tục tập quán cổ truyền. Là nơi gửi gắm những khát vọng,
ước mơ về một cuộc sống ấm no, hạnh phúc, nơi thể hiện lòng biết ơn các vị
thần bảo trợ cho làng, các vị anh hùng dân tộc. Đồng thời, nó cũng là tài sản
vơ giá của cộng đồng, nơi di tích đó tồn tại. Góp phần khẳng định tính “đậm
đà bản sắc dân tộc” của nền văn hố Việt Nam. Góp phần tích cực vào công
cuộc phát triển kinh tế và quảng bá nét đẹp truyền thống lịch sử của văn hoá
Việt tới cộng đồng Quốc tế.
Di tích lịch sử văn hố đặc biệt là các cơng trình tơn giáo, tín ngưỡng
khơng chỉ là nơi thờ tự, tưởng niệm mà đó cịn là nơi diễn ra các sinh hoạt văn
hoá truyền thống, nơi tụ họp của cả dân làng. Cũng giống như bao vùng quê
khác, xã Khánh Phú, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình là một vùng quê
thanh bình với những cánh đồng lúa bát ngát uốn lượn theo triền đê sông Đáy.
Đây là một vùng quê giàu các giá trị văn hoá truyền thống. Theo con đường
chạy dọc khắp xã còn tồn tại các di tích như ngơi đền thờ danh nhân Lê Bá
2
Du, theo như lời kể của các cụ cao niên trong xã, đền được dựng vào thời vua
Tự Đức năm Kỷ Tỵ (1857), tiếp đến là đền thờ Lịch Lộ Đại Vương ở thôn
Yên Vệ và mái chùa Phúc Hào nằm cạnh đền thờ Lịch Lộ Đại Vương, chùa
được xây dựng vào thời Nguyễn. Đặc biệt và đáng chú ý hơn cả là đền
Thượng và chùa Phúc Long ở thôn Yên Vệ, xã Khánh Phú là một di tích cổ,
đền Thượng là nơi thờ Thiền sư Giác Hải, còn chùa Phúc Long lại là nơi thờ
thân mẫu của Thiền sư và cũng là nơi trước kia Thiền sư từng trụ trì. Tuy cụm
di tích này khơng nổi tiếng bề thế về quy mô và cảnh quan như nhiều ngôi
đền, ngôi chùa khác song ở đây lại tiềm ẩn nhiều giá trị về mặt văn hoá và
nghệ thuật đáng được quan tâm và nghiên cứu.
Do sự khắc nghiệt của khí hậu, sự biến đổi cách nhìn nhận của xã hội
và chiến tranh liên miên trong lịch sử nên những di tích cịn lại khơng nhiều,
trong đó có nhiều di tích đang trong tình trạng xuống cấp trầm trọng có nguy
cơ bị phá huỷ hoặc dần đi vào lãng quên, biến mất hẳn. Trong điều kiện được
làm chủ đất nước, làm chủ di sản văn hố đất nước mình nên việc nghiên cứu,
tìm hiểu giá trị và góp phần bảo tồn, phát huy các giá trị văn hoá ngày càng
được chú trọng. Là một sinh viên học chuyên ngành Bảo tàng của Trường Đại
học Văn hố Hà Nội với mong muốn tìm hiểu sâu về lịch sử văn hố địa
phương mình, được sự đồng ý của Khoa Bảo tàng và Giảng viên hướng dẫn,
tơi đã chọn đề tài: “Tìm hiểu cụm di tích Đền Thượng và Chùa Phúc Long,
xã Khánh Phú, huyện n Khánh, tỉnh Ninh Bình” làm khố luận tốt
nghiệp Đại học chuyên ngành Bảo tàng. Hy vọng khoá luận của tơi sẽ góp
phần nhỏ vào việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá của dân tộc.
2. Mục đích nghiên cứu.
Tìm hiểu khái qt về xã Khánh Phú, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh
Bình.
3
Nghiên cứu những nguồn tư liệu đã viết về di tích đồng thời nghiên cứu
trực tiếp di tích thơng qua các di vật, hiện vật, kiến trúc nghệ thuật để xác
định niên đại khởi dựng, quá trình tồn tại của đền Thượng, chùa Phúc Long
và di vật được thờ trong di tích.
Làm sáng tỏ về giá trị kiến trúc, điêu khắc, nghệ thuật và lễ hội của
cụm di tích.
Nghiên cứu thực trạng di tích từ đó đưa ra các giải pháp bảo tồn và phát
huy giá trị của cụm di tích.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
+ Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu chính của khóa luận là cụm di tích đền Thượng
và chùa Phúc Long thuộc xã Khánh Phú. Ngồi ra, có phần mở rộng nghiên
cứu đến một số di tích kiến trúc khác trong xã có liên quan về khơng gian văn
hố và lễ hội. Đồng thời cũng tìm hiểu và nghiên cứu các nhân vật được thờ
trong di tích và một số nhân vật cùng thời có liên quan như: Thiền sư Dương
Khơng Lộ, Thiền sư Từ Đạo Hạnh, Thiền sư Nguyễn Minh Không.
+ Phạm vi nghiên cứu:
Về thời gian: Với các giá trị văn hố nghệ thuật của cụm di tích Đền
Thượng và chùa Phúc Long từ khi hình thành cho đến nay.
Về khơng gian: Nghiên cứu cụm di tích Đền Thượng và chùa Phúc
Long trong khơng gian lịch sử văn hố của vùng đất Khánh Phú.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác Lênin: Duy vật lịch sử
và duy vật biện chứng.
Phương pháp nghiên cứu chuyên ngành: Sử học, Bảo tàng học, Dân tộc
học, Xã hội học, Mỹ thuật học…
4
Phương pháp khảo sát điền dã tại cụm di tích áp dụng các kỹ năng quan
sát, đo vẽ, miêu tả, so sánh, chụp ảnh.
5. Bố cục khóa luận
Ngồi phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, bố cục khoá
luận gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát về lịch sử hình thành và tồn tại của cụm di tích
Đền Thượng và chùa Phúc Long.
Chương 2: Giá trị kiến trúc – nghệ thuật và lễ hội của cụm di tích
Đền Thượng và chùa Phúc Long.
Chương 3: Vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị của cụm di tích Đền
Thượng và chùa Phúc Long.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài này, tơi gặp khơng ít khó khăn về
nguồn tài liệu viết về di tích, khả năng đánh giá về các di tích cịn hạn chế.
Song với sự cố gắng của bản thân và sự giúp đỡ tận tình của Ban quản lý di
tích Đền Thượng và chùa Phúc Long, Uỷ ban nhân dân xã Khánh Phú, Bảo
tàng tỉnh Ninh Bình và đặc biệt là sự giúp đỡ tận tình của Giáo sư Bùi Tiến
cùng các thầy cô trong khoa Bảo tàng Trường Đại học Văn hóa Hà Nội đã
giúp tơi hồn thành khố luận tốt nghiệp của mình.
Mặc dù là sinh viên năm thứ tư nhưng chưa được tiếp xúc nhiều với
thực tế và vẫn còn nhiều tri thức khoa học chưa được bổ sung nên không thể
tránh khỏi thiếu sót và hạn chế trong cách đánh giá các vấn đề. Vì vậy, kính
mong các thầy cơ giáo, các chun gia, các nhà nghiên cứu đóng góp ý kiến
để khóa luận tốt nghiệp của tơi được hồn chỉnh hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
5
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ TỒN TẠI
CỦA CỤM DI TÍCH ĐỀN THƯỢNG VÀ CHÙA PHÚC LONG
1.1.Giới thiệu khái quát về vùng đất nơi cụm di tích tồn tại
1.1.1. Vị trí địa lý
Cụm di tích Đền Thượng và chùa Phúc Long nằm về phía Đơng Nam
xóm Qn Trung thôn Yên Vệ, xã Khánh Phú, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh
Bình.
Địa hình xã Khánh Phú như hình cánh én nằm bên dịng sơng Đáy có
đường quốc lộ số 10 chạy qua nối liền thành phố Ninh Bình với miền duyên
hải huyện Kim Sơn, đây là con đường huyết mạch từ thành phố đi tới các
huyện trong tỉnh và các xã của huyện Kim Sơn. Khánh Phú nằm gần trung
tâm thành phố Ninh Bình, đây là một vị trí rất thuận lợi cho giao thông, phát
triển kinh tế và giao lưu văn hoá cho Khánh Phú. Đền Thượng và chùa Phúc
Long nằm ở ví trí từ thành phố Ninh Bình theo quốc lộ 10 đi đến km số 5 đi
thêm 300m, rẽ phải sau đó đi thêm 500m là chúng ta sẽ đến được di tích.
Chúng ta có thể đến di tích bằng các phương tiện như ơ tơ, xe máy, hoặc xe
đạp.
Xã Khánh Phú cách thành phố Ninh Bình 5km về phía Đơng Nam. Phía
Đơng Bắc giáp huyện Ý n tỉnh Hà Nam, phía Đơng Nam giáp xã Khánh
An, phía Tây Bắc giáp xã Khánh Hồ (huyện n Khánh) và xã Ninh Phúc
(huyện Hoa Lư).
Vùng đất Khánh Phú nơi cụm di tích toạ lạc đã trải qua nhiều thời kỳ
lịch sử và mỗi thời kỳ đều có nét đặc trưng tiêu biểu văn hoá riêng. Nhưng từ
xa xưa, trải qua hàng ngàn năm đấu tranh vật lộn với nhiên nhiên, chống kẻ
thù xâm lược đã tạo dựng cho nhân dân Khánh Phú truyền thống yêu nước,
6
xây dựng quê hương và truyền thống tốt đẹp ấy được minh chứng qua các di
tích cịn tồn tại cho đến ngày nay trên mảnh đất Khánh Phú.
1.1.2. Lịch sử địa danh nơi di tích tồn tại
Ninh Bình xưa thuộc Bộ Giao Chỉ nước Văn Lang. Qua các đời nhà
Hán, Lương, Đường thuộc châu Trường Yên. Năm 968, vua Đinh Tiên Hồng
dẹp xong loạn 12 sứ qn lên ngơi Hồng đế đóng đơ tại Hoa Lư và đặt tên
nước là Đại Cồ Việt. Năm 1010, Lý Thái Tổ dời đô về Thăng Long, Ninh
Bình nằm trong phủ Trường An, sau đổi là châu Đại Hoàng vào cuối thế kỷ
12. Đời nhà Trần đổi thành lộ, rồi lại đổi thành trấn Thiên Quan. Đời vua Lê
Thánh Tông (1434 - 1439), Ninh Bình sáp nhập vào Thanh Hố thành trấn
Sơn Nam. Rồi sau lại thuộc về Thanh Hoá cho tới đời vua Minh Mạng. Thời
nhà Nguyễn địa bàn tỉnh Ninh Bình là hai phủ Trường Yên và Thiên Quan.
Năm 1938, Ninh Bình trở thành một trong 13 tỉnh ở Bắc Kỳ, gồm 6 huyện:
Yên Khánh, Nho Quan, Kim Sơn, Gia Khánh, Gia Viễn và Yên Mô thuộc liên
khu III. Ngày 27 tháng 12 năm 1975, Ninh Bình hợp nhất với tỉnh Nam Định
và Hà Nam thành tỉnh Hà Nam Ninh rồi lại tái lập vào ngày 26 tháng 12 năm
1991.
Khi tách ra, tỉnh Ninh Bình có diện tích 1386,77 km2, dân số 787877
người gồm hai thị xã: Ninh Bình, Tam Điệp và huyện Kim Sơn, Gia Viễn,
Hoa Lư, Tam Điệp, Hoàng Long. Ngày 23/11/1993, huyện Hoàng Long đổi
lại tên cũ là huyện Nho Quan. Ngày 4/7 /1994, huyện Tam Điệp đổi lại tên cũ
là huyện Yên Mô và tái lập huyện Yên Khánh từ 10 xã của huyện Tam Điệp
cũ và 9 xã của huyện Kim Sơn. Hiện nay, huyện Yên Khánh có một thị trấn là
Yên Ninh và 19 xã là: Khánh Phú, Khánh Hoà, Khánh An, Khánh Cư, Khánh
Vân, Khánh Hải, Khánh Lợi, Khánh Thiện, Khánh Cường, Khánh Trung,
Khánh Mậu, Khánh Hội, Khánh Nhạc, Khánh Thuỷ, Khánh Thành, Khánh
7
Cơng, Khánh Hồng, Khánh Ninh, Khánh Tiên với diện tích là 138 km2, dân
số 142184 người.
Theo Thần phả ở Đền Lịch Lộ Đại Vương (thuộc xã Khánh Phú huyện
Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình) chép: Sau khi giúp vua Đinh Tiên Hoàng dẹp
loạn 12 sứ quân, hai anh em Lịch Lộ và Hành Khiển trở về Yên Vệ (xã Khánh
Phú nay) giúp dân làm ăn và hóa ở đó. Như vậy, có thể biết được mảnh đất
Khánh Phú có từ trước thời nhà Đinh – Tiền Lê do lượng phù sa của sông
Đáy (một nhánh của sông Hồng) bồi đắp. Sau thời nhà Đinh – Tiền Lê thì
làng xóm được lập, dân cư bắt đầu an cư lạc nghiệp. Với cuộc sống mới và
cũng từ đây số dân của Khánh Phú ngày một đông đúc và phồn thịnh hơn.
Nhưng mãi đến thời Trần, mảnh đất Khánh Phú mới chính thức được định
hình và tồn tại cho đến hơm nay.
Cách Khánh Phú chừng 7 km theo đường chim bay ta sẽ bắt gặp con
đê Hồng Đức đắp vào năm 1471 thời Hậu Lê, với mục đích chủ yếu là ngăn
nước biển tràn vào đồng bằng, tạo điều kiện cho người dân phát triển, khai
hoang vùng bãi bồi ven biển, mở mang đất đai canh tác, lập làng. Bởi vậy nên
đến thời Hậu Lê, mảnh đất này đã được sinh sôi nảy nở và ngày càng phát
triển lớn mạnh hơn. Bằng chứng là diện tích xã Khánh Phú được mở rộng, lấn
dần ra biển, nó được người dân sử dụng làm đất ở và đất canh tác tạo điều
kiện phát triển như ngày nay.
Vào thời nhà Trần (1225 - 1400) vùng đất này thuộc lộ Trường Yên 1
Thời thuộc Minh (1407 - 1328) chúng đổi tên lộ Trường Yên thành
châu Trường Yên thuộc phủ Kiến Bình 2 .
Thời Hậu Lê xã Khánh Phú thuộc phủ Yên Khang, Ninh Bình ngày
nay3. Yên Khánh xưa vốn là huyện Yên Ninh thời Lê Sơ, đời Hậu Lê đổi là
1, 2
3
Lịch sử Hà Nam Ninh tập 1, Phòng nghiên cứu lịch sử xuất bản năm 1990, trang 105, 127
Tên làng xã và địa dư các tỉnh Bắc kỳ, Ngơ Vy LIễn (1999), Nxb Văn hố Thơng tin Hà nội, tr 97
8
n Khang.
Theo Đại Nam nhất thống chí thì Khánh Phú vào thời nhà Mạc (1527 1595) vùng đất có di tích thuộc huyện Yên Khang trấn Thanh Hoa Ngoại1.
Theo sắc phong đang lưu giữ ở Đền Thượng niên hiệu Cảnh Hưng thứ
32 (1771) di tích thuộc xã Yên Vệ, huyện Yên Khang, phủ Trường Yên.
Thời Nguyễn, triều Gia Phong (1808 - 1819) vùng đất Khánh Phú
thuộc xã Yên Vệ, tổng Yên Vệ, huyện Yên Khánh, phủ Trường Yên, đạo
Thanh Bình. Năm Minh Mệnh thứ 12 (1831) đổi phủ Trường Yên thành tỉnh
Ninh Bình 2.
Năm 1945, theo chủ trương của Tỉnh uỷ Ninh Bình, huyện Yên Khánh
từ 53 làng cũ hợp thành 20 xã mới, xã Yên Vệ và xã Hào Phú hợp lại thành xã
Yên Vệ 3.
Năm 1949, xã Yên Vệ hợp nhất hai xã: Tân An và Khang Dụ thành xã
Khánh Hoà. Năm 1956, xã Khánh Hoà lại tách thành 3 xã: Khánh Hoà,
Khánh An và Khánh Phú và xã Tân An cũ gọi là xã Khánh An, xã Khang Du
cũ gọi là xã Khánh Hoà, xã Yên Vệ cũ gọi là xã Khánh Phú 4.
Tháng 12/1975 hai tỉnh Nam Hà (Hà Nam ngày nay) và tỉnh Ninh Bình
hợp nhất thành tỉnh Hà Nam Ninh. Năm 1970, một số xã của huyện Yên
Khánh sáp nhập với huyện Yên Mô thành huyện Tam Điệp tỉnh Hà Nam
Ninh.
Tháng 4/1992, tỉnh Hà Nam Ninh tách thành 3 tỉnh: Hà Nam, Nam
Định và Ninh Bình, từ đó xã Khánh Phú thuộc tỉnh Ninh Bình.
Xã Khánh Phú ngày nay gồm 2 thơn: n Vệ và Hào Phú (trước kia là
2 xã sau sáp nhập làm một gọi là làng). Cụm di tích Đền Thượng và chùa
1
Đại Nam nhất thống chí tập 2, Nxb KHXH Hà Nội 1971, tr 223
Lịch sử Đảng bộ Hà Nam Ninh tập 1, sdd
4
Sơ thảo lịch sử Đảng bộ xã Khánh Phú, sdd
2, 3
9
Phúc Long nằm trong thôn Yên Vệ. Địa điểm phân bố dân cư nằm ở hai phía
thơn n Vệ và nằm ở phía Tây Nam của xã, thơn Hào Phú ở phía Đơng Nam
của xã. Diện tích đất đai của tồn xã là 553 ha, địa hình khá bằng phẳng.
Khánh Phú giáp sơng Đáy về phía Đơng Bắc, phía Tây Bắc giáp 2 xã Khánh
Hoà và Ninh Phúc của huyện Hoa Lư, phía Đơng Nam giáp xã Khánh An. Là
vùng đất khá bằng phẳng cộng thêm sự màu mỡ do phù sa bồi đắp vì vậy đây
là vùng đất có tiềm năng lớn để phát triển nông nghiệp.
1.1.2. Dân cư và đời sống văn hố, kinh tế, xã hội
Ninh Bình nằm ở vùng giao thoa giữa các khu vực: Tây Bắc, đồng bằng
sơng Hồng và Bắc Bộ. Với vị trí đó, nó đã giúp cho Ninh Bình trở thành vùng
đất của một nền văn hoá năng động mang đặc trưng khác biệt trên nền tảng
văn minh châu thổ sông Hồng. Ninh Bình cũng là vùng đất phù sa cổ ven
chân núi có con người cư trú từ rất sớm. Các nhà khảo cổ học đã phát hiện
trầm tích có xương răng đười ươi và các động vật trên cạn ở Núi Ba (Tam
Điệp) thuộc sơ kỳ đồ đá cũ, động Người Xưa (Cúc Phương) và một số hang
động ở Tam Điệp, Nho Quan có di chỉ cư trú của con người thời văn hố Hồ
Bình. Sau thời kỳ văn hố Hồ Bình, vùng đồng bằng ven biển Ninh Bình là
nơi định cư của con người thời đại đồ đá mới Việt Nam. Di chỉ Đồng Vườn
(Yên Mô) đã được định niên đại muộn hơn di chỉ Gò Trũng. Cư dân cổ di chỉ
Đồng Vườn đã phát triển lên cư dân cổ di chỉ Mán Bạc (Yên Thành, Yên Mô)
ở giai đoạn văn hoá đồ đồng từ cuối Phùng Nguyên đến đầu Đồng Đậu.
Vùng đất Ninh Bình là kinh đơ của Việt Nam thế kỷ X, mảnh đất gắn
với sự nghiệp của 6 vị vua thuộc ba triều đại Đinh - Lê – Lý với các dấu ấn
lịch sử: Thống nhất giang sơn, đánh Tống - dẹp Chiêm và phát tích q trình
định đơ ở Hà Nội. Do ở vào vị trí chiến lược ra Bắc vào Nam, vùng đất này đã
chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử oai hùng của dân tộc mà dấu tích lịch sử cịn
để lại trong các đình, chùa, đến, miếu, từng ngọn núi, con sơng.
10
Bên cạnh văn hoá của cư dân Việt cổ, Ninh Bình cịn có “văn hố mới”
của cư dân ven biển. Dấu ấn về biển tiến còn in đậm trên đất Ninh Bình.
Những địa danh cửa biển như: Phúc Thành, Đại An, Con Mèo Yên Mô, cửa
Càn, cửa biển Thần Phù cùng với các con đê lịch sử như đê Hồng Đức, đê
Hồng Lĩnh, đê Đường Quan, đê Hồng Ân, đê Hồng Trực, đê Văn Hải, đê
Bình Minh I, đê Bình Minh II... Cho đến nay vùng đất Ninh Bình vẫn tiến ra
biển mỗi năm gần 100 m. Ninh Bình là một tỉnh mở rộng khơng gian văn hố
Việt xuống biển Đơng, đón nhận các luồng dân cư, các yếu tố văn hoá từ Bắc
vào Nam, từ biển vào. Kinh tế biển đóng vai trị quan trọng nổi bật như nghề
đánh bắt cá biển, nuôi tôm sú, tôm rảo, nuôi cua... Nếp sống của cư dân lấn
biển mang tính chất động trong vùng văn hố mơi trường đất mở.
Nguyễn Trãi đã từng nhận xét về Ninh Bình rằng: “Đất thì đen, màu
mỡ, ruộng thì vào hạng thượng trung” là nói về giá trị địa lý và kinh tế. Với
Vân Bồng Nguyễn Tử Mẫn thì đánh giá một cách khái quát về con người
Ninh Bình như sau: “Kẻ sĩ chuộng khí tiết, dân quê thật thà chất phác, ưa cần
kiệm”. Còn nữ sĩ Hồ Xuân Hương chỉ qua bài thơ “Kẽm trống” đã viết về
vùng đất Ninh Bình: “Ở trong hang núi còn hơi hẹp, Ra khỏi đất non đã rộng
thùng”. Một yếu tố khác vơ cùng quan trọng góp phần khơng nhỏ làm nên
diện mạo đa dạng, phong phú của văn hố Ninh Bình, đó là sự lưu lại dấu ấn
văn hoá của các tao nhân văn hoá như Trương Hán Siêu, Trần Thái Tông, Lê
Thánh Tông, Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương, Tản Đà, Xuân Quỳnh. Họ đã tới
Ninh Bình để xếp gương, đề bút. Cảnh đẹp của sông núi, con người Ninh
Bình đã trở thành nguồn cảm hứng cho các thi nhân. Bằng chứng rõ nét chính
là trên núi Thuý vẫn còn rất nhiều những bài thơ được khắc trên núi đá do các
thi nhân để lại. Qua thời gian, những bài thơ ấy đã phai mờ bởi mưa gió, rêu
phong nhưng khơng phải vì thế mà nó mất đi giá trị của mình. Đây vẫn được
xem là những tác phẩm hay được đánh giá cao về văn hoá và nghệ thuật. Ví
11
dụ bài thơ: “Dục Thuý sơn” – Nguyễn Trãi. Nhân cách bác học và phẩm cách
văn hoá lớn của các danh nhân đó đã thấm đẫm vào tầng văn hố địa phương
được nhân dân tiếp thu, sáng tạo làm giàu thêm sắc thái văn hố Ninh Bình.
Vùng đất này cịn là quê hương của nhiều danh nhân đất Việt tiêu biểu như:
Đinh Bộ Lĩnh, Trương Hán Siêu, Lý Quốc Sư, Vũ Duy Thanh, Lương Văn
Tuỵ, Ninh Tốn, Nguyễn Bặc…
Cùng với các di tích lịch sử - văn hố, Ninh Bình là vùng đất phong
phú các lễ hội văn hóa đặc sắc như Lễ hội cố đô Hoa Lư, lễ hội chùa Bái
Đính, lễ hội đền Nguyễn Cơng Trứ, lễ hội đền Thái Vi... Các lễ hội khác: lễ
hội Yên Cư, hội thôn Tập Minh, lễ hội động Hoa Lư, đền Thánh Nguyễn, đền
Dâu, hội vật n Vệ... các cơng trình kiến trúc văn hóa như đền vua Đinh
Tiên Hồng, đền vua Lê, nhà thờ Phát Diệm, chùa Bái Đính, đền Thánh
Nguyễn, làng chèo Phúc Trì, Nam Dân, Thượng Kiệm, những trung tâm hát
chầu văn ở đền Dâu, phủ Đồi... nhiều làng nghề truyền thống như nghề điêu
khắc đá Ninh Vân - Hệ Dưỡng, Xuân Vũ, nghề mộc Phúc Lộc, nghề thêu ren
Văn Lâm, nghề chiếu cói ở Kim Sơn...
Qua một số nét sơ lược về tỉnh Ninh Bình, chúng ta có thể khẳng định
đây là vùng đất của những vị anh hùng dân tộc, là vùng đất của những người
dân giàu truyền thống yêu nước, đấu tranh bất khuất vì độc lập của dân tộc và
đây cũng là vùng đất được nhiều người biết đến bởi có nhiều danh lam thắng
cảnh.
Mỗi một vùng đất trong tỉnh Ninh Bình đều có những nét đẹp riêng
những đặc điểm riêng biệt không giống bất kỳ đâu, tất cả tạo cho Ninh Bình
một nét đẹp đa dạng. Nếu huyện Kim Sơn có nhà thờ đá Phát Diệm, Hoa Lư
với rừng quốc gia Cúc Phương, Gia Viễn có chùa Bái Đính – ngơi chùa lớn
nhất Đơng Nam Á…được người dân trong và ngồi nước biết đến. Khơng có
được những di tích, những danh lam lớn như các huyện khác nhưng Yên
12
Khánh vẫn mang trong mình một nét đẹp riêng với các làng nghề truyền
thống. Là một huyện tiềm năng phát triển kinh tế trong tương lai,
Yên Khánh là huyện đồng bằng được phù sa sơng Đáy bồi đắp, nằm ở
phía Đơng tỉnh Ninh Bình, nền kinh tế thế mạnh chủ yếu của huyện là nông
nghiệp. Yên Khánh cũng là một huyện có tài nguyên nhân lực lao động dồi
dào. Từ năm 2007, huyện Yên Khánh phát triển mạnh các khu công nghiệp
nằm ở xã Khánh Phú, Khánh An để thúc đẩy phát triển kinh tế. Thị trấn Yên
Ninh nằm trên quốc lộ 10, nối thành phố Ninh Bình và huyện Kim Sơn. Yên
Khánh nằm cạnh khu công nghiệp Ninh Phúc và cảng Ninh Phúc rất thuận lợi
giao lưu kinh tế nội tỉnh. Mặt khác, với vị trí thuận lợi như thế n Khánh
cịn có thể phát triển nơng nghiệp, dịch vụ tạo công ăn việc làm cho người dân
trong huyện.
Là một huyện không nổi bật về du lịch, kinh tế… nhưng nơi đây lại
mang cho mình một vẻ đẹp truyền thống văn hoá lâu đời, vốn là niềm tự hào
của mỗi người con đất Yên Khánh. Tính đến năm 2009, n Khánh có 12 di
tích lịch sử - văn hố được xếp hạng Quốc gia như: nhà thờ và mộ Vũ Duy
Thanh xã Khánh Hải, Đền Tam Thánh và chùa Yên Lữ, xã Khánh An, Đền
Triệu Việt Vương thuộc xã Khánh Phú, hai di tích này đã giúp Khánh Phú
được mọi người biết đến là vùng đất của truyền thống văn hố đa dạng.
Xã Khánh Phú chỉ có 2 thơn lớn là Yên Vệ và Hào Phú. Vào thời nhà
Nguyễn (1802 -1944) hai thôn này vốn là 2 xã: xã Yên Vệ và xã Hào Phú.
Đến năm 1945 thì 2 xã này hợp thành 1 xã gọi là Yên Vệ. Năm 1949 xã Yên
vệ lại hợp với xã Tân An (xã Khánh An ngày nay) và Khang Du (xã Khánh
Hoà ngày nay) thành xã Khánh Hoà. Đến năm 1956 Khánh Hoà lại tách thành
3 xã Khánh Hoà, Khánh Phú, Khánh An. Yên Vệ có tên là Khánh Phú từ đó 1.
Thôn Yên Vệ là thôn lớn nhất trong xã, nằm kế bên các thôn của xã Khánh
1
Sơ thảo lịch sử Đảng bộ xã Khánh Phú
13
An, Khánh Hoà, Ninh Phúc (huyện Hoa Lư). Cư dân trong thôn đông đúc
gồm 969 hộ với 4689 nhân khẩu. Dân chúng trong thơn khơng theo một dịng
tín ngưỡng nào, mà chỉ ngày rằm, ngày tết, đều dâng hương hoa tưởng niệm
chư Phật ở cõi Niết Bàn và các danh nhân lịch sử văn hố. Các thánh thần
theo tín ngưỡng dân gian.
Thôn Yên Vệ đông đúc trù phú và thịnh vượng. Thơn rộng lớn nên
được chia làm ba xóm nhỏ là: Hành Phúc, Quảng Trung và Trung Đồng. Cư
dân trong thôn chủ yếu sống bằng nghề nông nghiệp, một năm 2 vụ lúa xen kẽ
những vụ hoa màu ngắn ngày. Hoa màu chủ yếu trồng lạc, ngô, khoai lang và
trồng thêm rau vào vụ đông.
Con người nơi đây rất chất phác chịu khó lại khéo léo, tài hoa khơng
chỉ làm nghề nông giỏi mà trong những ngày nông nhàn người dân ở đây còn
làm thêm nghề đan lát mây, tre để tăng thêm thu nhập bởi thế mà trong vùng
mới truyền khẩu câu: “Nhất Vùng, nhì Vệ, thứ ba Nhuệ Đồng”. Câu nói trên
khơng chỉ nói lên sự giàu có về vật chất của vùng đất này mà còn thể hiện cả
sự giàu có trong truyền thống văn hố. Bởi cả 3 địa danh trên đều là những
nơi có nhiều người đỗ đạt văn chương, là những mảnh đất có truyền thống
văn vật. Khơng những thế n Vệ cịn là nơi tập trung nhiều cơng trình cơng
cộng lớn của xã như trụ sở UBND xã, HTX, trường học, nhà y tế, nhà văn
hoá, quần thể kiến trúc đền Thượng, chùa Phúc Long, chùa Phúc Hào, đền thờ
Lịch Lộ Đại vương, đền thờ Quan nghè Độ Thái Giám….
Theo tài liệu của Đảng bộ xã thì thơn Hào Phú được thành lập cách
ngày nay hơn 100 năm (giữa thế kỷ XX). Thôn Hào Phú dưới triều Minh
Mạng (1820 -1840) là xã Hào Phú, trước kia là một bãi bồi lớn hình trái bầu
trên sông Đáy, đất đai màu mỡ. Do điều kiện làm ăn, sinh sống dễ dàng, dân
xã Yên Vệ di chuyển xuống quai đê khai thác bãi bồi ven sông thành ruộng
cày cấy, xây dựng xóm làng (thực ra trước kia đã có đê rồi, đến thời kỳ này
14
chủ yếu chỉ bồi thêm). Hào Phú như đúng cái tên của nó từ một mảnh đất
hoang trở thành một thôn trù phú, giàu đẹp. Trải qua hơn 100 năm, mảnh đất
ấy sinh sôi và trở thành thôn Hào Phú như ngày nay. Thôn Hào Phú nằm sát
sông Đáy, cư dân ít hơn n Vệ chỉ có khoảng hơn 1000 người. Để gây cơ sở
truyền bá đạo Kitô thời Pháp thuộc cho xây dựng nhà thờ và cử linh mục về
cai quản. Vì vậy, thơn Hào Phú theo đạo tồn tòng. Tuy vậy, do gốc gác từ
Yên Vệ mà ra, cư dân là người trong các dòng họ ở Yên Vệ tuy là theo đạo
Thiên Chúa song Hào Phú vẫn có quan hệ gốc gác, họ mạc khăng khít với dân
Yên Vệ. Người Hào Phú vẫn nhớ những ngày giỗ Tổ, ngày rằm, ngày tết để
về xum họp với tổ tiên, anh em ở làng cũ Yên Vệ.
Năm 1954, theo lời xúi dục của thực dân Pháp mà trực tiếp là các cha
cố một số gia đình ở làng Hào Phú đã bỏ làng xóm vào Nam 1. Được Đảng bộ
chính quyền xã Khánh Phú vận động, giải thích số đông các hộ ở Hào Phú đã
ở lại cùng bà con làng xóm làm ăn sinh sống, xây dựng quê hương. Nhân dân
Khánh Phú khơng những có truyền thống đồn kết, cần cù trong lao động sản
xuất, dũng cảm khắc phục mọi khó khăn, xây dựng quê hương, đảm bảo cuộc
sống, mà cịn là địa phương có tiếng là đất văn vật.
Dưới các triều đại phong kiến từ thời Lê đã có nhiều người đỗ đạt đem
lại niềm vinh quang cho quê hương. Cụ nghè Lê Bá Du đỗ tiến sỹ dưới thời
Lê Vĩnh Thịnh thế kỷ XVI. Nhiều người đỗ cử nhân, tú tài như: Đinh Văn
Quỹ, Đinh Quang Huy, Đinh Lương Đăng…
Những năm 30 của thế kỷ XIX, xã Khánh Phú thuộc tổng Yên Vệ,
huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình, bao gồm 5 xã: Xã Yên Vệ, xã Yên Xuyên,
xã Phương Du, xã Hương Du và Trạo Hùng.
Trước cách mạng tháng Tám, Khánh Phú gồm 2 xã là xã Yên Vệ và xã
Hào Phú. Xã Yên Vệ (An Vệ) có vị trí quan trọng, có điều kiện và khả năng
1
Sơ thảo lịch sử Đảng bộ xã Khánh Phú, sđd
15
phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội nên được lấy theo tên của Tổng cũ. Như
bao tổng khác trong huyện, bộ máy quản lý và cai trị ở tổng có: Chánh tổng,
Phó tổng. Ở xã có: Lý trưởng, phó lý… xã có hội đồng hương hội gồm các vị
tộc biểu (người đứng đầu dòng tộc) và các chánh phó hội. Đây là bộ máy
quản lý trực tiếp nắm dân và giám sát mọi hoạt động của dân.
Là một xã đồng bằng, dân số đất đai vào loại bậc khá của huyện nhưng
về vị trí địa lý Khánh Phú ở vào vị trí xung yếu, nơi địa đầu phía Bắc huyện,
có đường giao thơng thuỷ bộ đi qua, là địa bàn quan trọng về mặt quân sự,
chính trị, xã hội. Dưới thời thuộc pháp, trong hai cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ, cũng như trong hồ bình xây dựng chủ
nghĩa xã hội thì Khánh Phú thực sự là một xã có vị trí và vai trò trọng yếu
trong huyện Yên Khánh.
Nhân dân Khánh Phú sống chủ yếu bằng nghề nông. Trước cách mạng
tháng 8/1945, tồn xã có 730 hộ với 3166 khẩu, trong đó có 116 hộ, 487
người theo đạo Thiên Chúa, chiếm 13,5% tổng số dân của xã, sống tập trung
ở thôn Hào Phú, ở đây xây dựng một nhà thờ xứ họ, có linh mục phụ trách
làm lễ, giảng đạo cho giáo dân. Mặc dù khác tôn giáo nhưng bà con Hào Phú
vẫn có quan hệ dịng họ thân thuộc với bà con ở thôn Yên Vệ, chủ yếu theo
đạo Phật. Mối quan hệ này đã có từ lâu và ln ln được giữ gìn, trân trọng.
Trước cách mạng Tháng 8 Khánh Phú có 1082 mẫu ruộng bao gồm 2
loại cơng điền và tư điền nhưng bị chính quyền phong kiến chiếm phần lớn số
ruộng đất, hàng trăm thứ thuế nặng nề đè lên đầu người nông dân. Năm 1944,
vụ chiêm thua, mất mùa bọn tay sai của giặc Nhật lại thu thóc, thu lạc nộp cho
Nhật, làm cho đời sống nhân dân đã đói khổ nay lại càng kiệt quệ hơn. Đời
sống vật chất gặp biết bao khó khăn thử thách như thế, đời sống tinh thần
cũng lại trở thành một gánh nặng thứ hai đè lên đầu lên cổ người dân Khánh
Phú. Chính quyền thực dân thi hành chính sách ngu dân nơ dịch về văn hố,
16
nên nhân dân ta nói chung, nhân dân Khánh Phú nói riêng đa số bị thất học.
Nạn cờ bạc, rượu chè, hút sách được tự do phát triển với mục đích nhằm thối
hố con người và tập trung đơng nhất là ở khu chợ Vệ. Chúng sát phạt lẫn
nhau làm nhiều người sống trong cảnh thân tàn, ma dại, nạn mê tín dị đoan
cũng thả sức tung hồnh. Đời sống người dân nơi đây cũng như bao làng quê
Việt Nam cùng thời ln trong cảnh điêu đứng, khơng bình n. Đây cũng là
những nguyên nhân chính đã đẩy cho mâu thuẫn của nhân dân lao động với
chế độ thực dân và chính quyền phong kiến lên cao và ngày càng gay gắt.
Hưởng ứng lời kêu gọi của mặt trận Việt Minh, nhân dân Khánh Phú đã vùng
lên đánh đổ chính quyền, giành quyền sống cho mình, dưới sự lãnh đạo của
cơ sở Việt Minh huyện Yên Khánh vào ngày 20/8/1945.
Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, nhân dân Khánh Phú bắt tay ngay
vào công cuộc khắc phục hậu quả chiến tranh cũng như những tàn dư tiêu cực
của chế độ phong kiến để lại. Đặc biệt là nhiệt tình hưởng ứng phong trào
“tích cực tham gia sản xuất, thực hành tiết kiệm” do chủ tịch Hồ Chí Minh đề
ra. Như vậy, trong một thời gian ngắn tất cả người dân xã Khánh Phú khơng
những diệt được giặc đói mà cịn diệt giặc dốt, nhiều lớp bình dân học vụ đã
được mở ra, thay vì chỉ có 3 lớp học sơ cấp dành cho bậc tiểu học trong cả xã
như trước Cách mạng tháng 8 thì giờ đã mở thêm 10 lớp học dành cho tất cả
mọi người dân trong xã. Nhưng đất nước độc lập khơng lâu thì thực dân Pháp
quay lại xâm lược nước ta một lần nữa. Khánh Phú cũng như bao thôn xã
khác, quyết tâm đứng lên kháng chiến cho cuộc chiến đấu trường kỳ, góp sức
người, sức của vì Tổ quốc quyết bảo vệ thành quả Cách mạng, lấy lại độc lập
cho dân tộc ta. Những người con của Khánh Phú lên đường để thực hiện
nhiệm vụ cao cả và thiêng liêng của đất nước với ý trí sắt đá, một sự quyết
tâm lớn đánh đuổi mọi bóng quân thù ra khỏi bờ cõi Việt. Có người mãi nằm
lại chiến trường, có người đã phải hy sinh một phần máu thịt của mình để đổi
17
lấy sự tự do cho dân tộc. Và sự hy sinh của họ khơng phải là vơ nghĩa, họ đã
góp phần làm giàu thêm truyền thống tốt đẹp của dân tộc và Tổ quốc mãi ghi
nhớ sự hi sinh đó.
Sau hiệp định Giơnevơ miền Bắc nước ta được giải phóng nhưng sau
đó đế quốc Mỹ đã lăm le và xâm chiếm miền Nam, Việt Nam. Một lần nữa
những bà mẹ, những người vợ lại tiễn chồng con lên đường. Đã có 485 thanh
niên, nam nữ của xã Khánh Phú lên đường nhập ngũ để tăng cường sức người
và cả sức của cho chiến trường miền Nam. Cùng với nhiệm vụ chi viện cho
miền Nam, Khánh Phú đã cùng nhân dân miền Bắc tích cực tăng gia sản xuất
và chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ. Sau chiến thắng Điện Biên
Phủ trên không năm 1972 đế quốc Mỹ buộc phải ký với ta hiệp định Paris về
chấm dứt chiến tranh lập lại hồ bình ở Việt Nam ngày 27/1/1973. Nhân dân
Khánh Phú cũng như bao làng quê khác lại tiếp tục bắt tay vào công cuộc hàn
gắn vết thương sau chiến tranh, xây dựng cuộc sống mới.
Trong khói lửa chiến tranh ác liệt Đảng bộ, nhân dân Khánh Phú luôn
luôn ở trong tư thế sẵn sàng, vững vàng tay súng, tay liềm, tay hái, giữ vững
và củng cổ hậu phương, góp phần chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam đánh
thắng đế quốc Mỹ và nguỵ quân, nguỵ quyền thống nhất đất nước.
Đảng bộ, quân dân Khánh Phú đã vinh dự được Đảng và Nhà nước
trao tặng: Huân chương chống Mỹ cứu nước hạng nhì, tập thể các đơn vị của
xã nhận 48 cờ thưởng và còn nhiều phần thưởng cao quý khác dành tặng cho
các cá nhân có cơng với cách mạng.
Trong giai đoạn hồ bình xây dựng quê hương với các thành tích nổi
bật xã Khánh Phú đã nhiều lần vinh dự được đón các cán bộ cao cấp về thăm
như: Tổng Bí thư Đảng Lê Duẩn đã về thăm Khánh Phú năm 1978, Uỷ viên
Bộ Chính trị Trung ương Đảng đồng chí Lê Đức Thọ về thăm Khánh Phú
18
ngày 19/7/1982, Khánh Phú cũng rất vinh dự khi được Đại tướng Võ Nguyên
Giáp về thăm năm 1993.
Những biến đổi lớn của đất nước của quê hương Ninh Bình trong thời
kỳ đổi mới, tạo cho Đảng bộ, nhân dân Khánh Phú thời cơ thuận lợi trong sản
xuất kinh doanh. Trong những năm gần đây, về kinh tế Khánh Phú đã đạt
được rất nhiều thành tựu đáng khích lệ chuyển từ hướng phát triển trọng tâm
nông nghiệp sang phát triển mạnh thủ công nghiệp, dịch vụ, tạo mọi điều kiện
cho các hộ gia đình và chủ doanh nghiệp tư nhân phát triển. Song song với
phát triển kinh tế Khánh Phú còn chú trọng đến xây dựng lối sống văn hoá
trong nhân dân và đặc biệt chú ý đến giữ gìn và phát huy giá trị của các di tích
lịch sử văn hoá, kiến trúc nghệ thuật, các lễ hội truyền thống có trên địa bàn
xã. Bởi vậy, trên đất Khánh Phú ngày nay cịn có những di tích mang phong
cách kiến trúc cổ như đền thờ Lịch Lộ Đại vương, chùa Phúc Hào, đền thờ
danh nhân Lê Bá Du, Quán Trung Đình, đặc biệt là di tích kiến trúc nghệ
thuật đền Thượng và chùa Phúc Long nằm ở thôn Yên Vệ. Vì vậy, vùng đất
này được các làng xã lân cận gọi là đất văn vật. Người dân Khánh Phú cũng
luôn tự hào về truyền thống lao động cần cù, sáng tạo, sống nhân ái, nghĩa
tình sâu nặng, tạo thành khối đồn kết tồn dân, tình làng nghĩa xóm ngày
càng được nâng cao, có giá trị giáo dục truyền thống và đạo đức sâu sắc.
1.2. Quá trình hình thành, tồn tại của cụm di tích
1.2.1 Niên đại xây dựng và quá trình tồn tại của cụm di tích
* Đền thượng
Theo các sắc phong của thời Lê Trung Hưng và thời Nguyễn. Ngồi ra,
đền cịn có tên gọi là đền Vật, bởi vì từ xưa tại đây hàng năm có hội thi đấu
vật vào ngày 4 tháng giêng, tục truyền môn thể thao này do Giác Hải, vị thần
được thờ ở đền khởi xướng và dạy cho nhân dân.
19
Qua khảo sát những đặc điểm điển hình về kiến trúc mỹ thuật thì đền
Thượng hiện nay mang nét kiến trúc mỹ thuật thời Nguyễn. Nhưng đền
Thượng được xây dựng cụ thể vào thời gian nào thì cho đến nay chưa thấy tài
liệu nào đề cập đến.
Theo hồ sơ di tích lưu giữ tại Bảo tàng Ninh Bình thì niên đại khởi
dựng của di tích là vào thời Lý, sau đời Vua Lý Nhân Tông. Bởi nhân vật
được thờ trong đền là người sống ở thời Lý, nơi thờ ông cũng là vùng đất
trước đây ông đã từng sống nhưng sau khi ơng hố thì người dân mới lập đền
thờ ơng. Bằng chứng đó là trên bia đá cịn lại ở đền ghi việc đúc chng lớn,
có đoạn ghi rằng: “Ở đền có lị hố1 ở đó, cho nên là nền móng, từ giữa đời
Trần về sau sự việc thay đổi càng nhanh chóng tứ khí khơng thể tìm lại.
Trước đây đền cịn có một quả chng nhỏ, đến năm Tân Dậu bàn bạc mới
đúc mới, ý muốn ấy đến năm thứ 13(2) đời vua Cảnh Thịnh (Năm Mậu Ngọ
1798) mới làm được, chng nặng 95 cân”. Qua đây thì ta biết được rằng nếu
có chng được đúc vào thời Tây Sơn thì chắc chắn đền phải có niên đại khởi
dựng cũng như q trình tồn tại từ trước đó. Mặt khác, trong bia cũng ghi
rằng trong đền có lị hố của Giác Hải thiền sư vậy rất có thể nên đại khởi
dựng của đền là vào thời Lý.
Do tác động của khí hậu, thiên tai lũ lụt và của cả xã hội mà đền bị hư
hỏng và qua nhiều lần tu bổ nên đền khơng cịn lưu giữ được dáng dấp phong
cách kiến trúc nghệ thuật như cũ. Thay vào đó là phong cách nghệ thuật kiến
trúc của các thời đại về sau. Hiện nay, theo khảo sát cụ thể từ các cấu kiện
kiến trúc, đền mang đậm dáng dấp của thời Nguyễn. Mặt khác, trong đền còn
lưu giữ 17 đạo sắc phong từ thời Lê Trung Hưng và Nguyễn.
1
2
Lị hố: ở chính tẩm của đền có một giếng mà tương truyền là “lị hố” của Giác Hải thiền sư.
Bia ghi lại luôn là năm Mậu Ngọ 1798 là năm thứ 6 niên hiệu Cảnh Thinh, niên hiệu này kéo dài có 9 năm.
20
Tóm lại, theo các tài liệu bia kí, sách báo và sắc phong thì đền Thượng
được xây dựng sau khi Giác Hải thiền sư hoá và nằm bên cạnh chùa Phúc
Long. Như vậy, theo phỏng đốn thì đền Thượng có thể được xây dựng sau
thời vua Lý Nhân Tông (1060 – 1127). Bởi hiện nay, trong đền cũng khơng
tìm được hiện vật hay tài liêu nào từ thời Lý mà chủ yếu là có từ thời Nguyễn.
Hiện nay, trên thượng lương của các toà cũng chỉ ghi việc tu sửa đền
vào những năm của triều Nguyễn (1802 -1944).
Lần tu sửa đền gần đây nhất là vào năm 1997, nhân dân trong xã đóng
góp tiền của, cơng sức để tơn tạo lại cảnh quan xung quanh đền Thượng và
chùa Phúc Long, xây dựng hệ thống tường bao.
Do khí hậu và thời gian tàn phá nên phần mái hiên bị xô lệch bởi vậy
nhân dân đã cho dựng một hệ thống hàng cột bằng gạch đá để đỡ lấy mái
hiên, thay các bẩy hiên gỗ bằng xi măng, xây lại đốc phía sau của tồ hậu
cung. Và từ năm đó đến nay chưa tu bổ lớn lần nào nữa, hàng năm nhà đền tổ
chức huy động nhân dân đến để tôn tạo lại mơi trường xung quanh.
* Chùa Phúc Long
Chùa có tên gọi là Phúc Long, bức đại tự lớn ở chính giữa đề ba chữ
“Phúc Long tự”. Chữ “Phúc” có nghĩa là phúc đức, chữ “Long” có nghĩa là
thêm nhiều, cả hai chữ “Phúc Long” đại thể có nghĩa là thêm nhiều phúc đức.
Di tích đền Thượng và chùa Phúc Long nằm cạnh nhau, qua các thời kỳ lịch
sử, tên gọi này khơng thay đổi.
Sách Đại Nam nhất thống chí có ghi thân mẫu Giác Hải thiên sư về tu
hành ở Yên Vệ 1. Vậy niên đại khởi dựng của chùa là vào thời Lý, thân mẫu
của Giác Hải về đây tu vì đây là quê hương của bà.
Trên thượng lương của chùa hiện nay ghi việc tu sửa chùa vào các năm
Minh Mệnh thứ 16 (1829), Khải Định thứ 4 (1919) và tấm bia ghi việc sử
1
Sách Đại Nam nhất thống chí, sách đã dẫn, trang 256
21
chùa vào năm Thành Thái (1889 – 1907). Trên bia ghi rõ ngày tiến hành tu
sửa chùa: “Hoàng triều Thành Thái vạn niên chi thập, cửa nguyệt chi cát” tức
là vào tháng 9 năm thứ 10 đời vua Thành Thái năm 1898. Bia ghi lại việc
“…Năm Bính Thân các bậc kỳ mục trong thôn cùng với nhà chùa hiệp lực
trùng tu, xê dịch hướng mong được tốt đẹp hơn. Trong thơn có bát khố thí
sinh là Phan Quảng Bảo lấy tháng 10 khởi cơng, tháng 12 hồn thành là cái
điềm tốt đẹp trong năm Mậu Tuất. Các bậc chức sắc trong thơn hướng về ta
nói rằng: Chùa ta cổ kính, đất cổ mà hướng mới, đã trải qua hơn chục năm,
gỗ dùng đã nhiều việc chẳng thành để ghi vào bia đá sau đó là việc cung kính
đĩa hương lễ bái phật”.
Có lẽ cũng bởi lần đổi hướng của chùa vào năm Thành Thái đó mà kiến
trúc nghệ thuật của chùa hiện nay mang đậm nét của thời Nguyễn. Các di vật
còn lại của chùa cũng chủ yếu là của thời Nguyễn.
Lần tu sửa gần đây nhất là vào tháng 5 -1994, nhân dân trong xã đóng
góp cơng của cùng chính quyền địa phương tơn tạo, tu sửa chùa và phủ, dựng
thêm hàng cột bên ngoài để đỡ mái hiên…Việc tu sửa đều theo chỉ dẫn của
cán bộ Bảo tàng tỉnh dựa trên nguyên tắc giữ nguyên yếu tố gốc của di tích.
Đền Thượng và chùa Phúc Long hiện nay đều khơng giữ được vẻ kiến
trúc khởi ngun hình thành, song nó vẫn cơ bản giữ lại được rất nhiều những
giá trị kiến trúc cổ truyền, nhũng giá trị về mỹ thuật tạo tác như thể hiện trên
kiến trúc, trên trang trí các đồ vật mà nhiều di tích khác khơng có được.
Theo dịng thời gian, trải qua biết bao biến động thăng trầm của lịch sử,
của làng xã, lại do ảnh hưởng lớn của khí hậu nhiệt đới gió mùa khắc nghiệt
nên chùa đã bị huỷ hoại nhiều, không giữ được nét xưa cũ từ ngày khởi dựng.
Cũng bởi vậy mà cụm di tích phải trải qua nhiều lần tu sửa. Để cho tới nay
còn lại nhiều dấu ấn đậm nét phong cách của thời Nguyễn. Trên kiến trúc còn
thể hiện những mảng chạm khắc tinh tế, uyển chuyển, những hiện vật với các
22
mơ típ hoa văn đa dạng phong phú có tính thẩm mỹ cao tạo nên nét đẹp
truyền thống và cổ kính cho di tích. Đồng thời, tại cụm di tích còn lưu giữ
được những di vật quý tạo thành một bộ sưu tập đa dạng về số lượng, chất
liệu, kiểu dáng như: Bia đá, bia có niên đại Thành Thái (1889 -1906), niên đại
Tự Đức (1848 – 1889) là nguồn tư liệu thành văn rất thuận lợi cho việc
nghiên cứu lịch sử làng xã và dân tộc rồi hệ thống tượng trịn trong chùa,
chng đồng, hệ thống hồnh phi, câu đối… tất cả những hiện vật, những
cơng trình kiến trúc đều góp phần minh chứng lịch sử phong tục tập quán của
vùng quê Khánh Phú tạo cho nó một nét riêng độc đáo.
1.2.2. Sự tích và mối liên hệ giữa các nhân vật được thờ.
1.2.2.1. Giác Hải thiền sư
Phật giáo được du nhập vào Việt Nam từ rất sớm từ đầu cơng ngun,
Phật giáo đã nhanh chóng hồ nhập được vào dịng chảy văn hố của người
Việt, đã ăn sâu bám rễ vào Việt Nam từ đó. Đến đời nhà Lý, nhà Trần, Phật
giáo phát triển cực thịnh, được coi là Quốc giáo, ảnh hưởng đến mọi mặt của
cuộc sống xã hội đương thời. Giáo lý nhà Phật được triều đình tơn trọng và
truyền bá rộng rãi trong quần chúng nhân dân. Các vị cao tăng không đơn
thuần chỉ là những nhà tu hành, truyền giảng Phật pháp mà còn được coi là
những nhà trí thức, nhà hoạt động văn hố đương thời, có những người giữ
chức vụ quan trọng trong triều đình, có vị là chủ trì Phật mơn nhưng vẫn được
nhà vua trọng dụng và tham vấn những điều quan trọng về quốc kế dân sinh.
Các vị cao tăng ấy được sử sách nhắc đến và lưu truyền rộng rãi trong quần
chúng nhân dân bằng những truyền thuyết huyền thoại li kì. Tiêu biểu là Từ
Đạo Hạnh, Dương Không Lộ, Nguyễn Minh Không và Giác Hải.
Theo các tài liệu, thư tịch của các triều đại phong kiến để lại và truyền
thuyết lưu truyền trong dân gian thì Giác Hải có tên thật là Nguyễn Quốc Y,