TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI
KHOA DI SẢN VĂN HĨA
--------***---------
KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP
TÌM HIỂU DI TÍCH ĐÌNH LÀNG CHÍ LINH
(XÃ NHÂN HUỆ, THỊ XÃ CHÍ LINH,
TỈNH HẢI DƯƠNG)
Giáo viên hướng dẫn
: Ths. Trần Đức Nguyên
Sinh viên thực hiện
: Nguyễn Văn Quyết
Lớp
:
HÀ NỘI - 2015
LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian nghiên cứu và làm việc nghiêm túc, được sự giúp đỡ,
chỉ bảo tận tình của các thầy cô giáo trong khoa Di sản văn hóa, em đã hồn
thiện bài khóa luận này.
Lời đầu tiên, em xin bày tỏ lòng biết ơn tới các thầy giáo, cơ giáo đã
tận tình giảng dạy, động viên và giúp đỡ em hồn thiện bài khóa luận này.
Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất tới ThS.
Trần Đức Nguyên - Người đã trực tiếp hướng dẫn khoa học, giúp đỡ và chỉ
bảo cho em từ khi xác định đề tài, xây dựng đề cương cho tới khi hồn thiện
bài khóa luận.
Qua đây, em cũng xin chân thành cảm ơn Phịng Văn hóa thị xã Chí
Linh, chính quyền xã Nhân Huệ, lãnh đạo lãng Chí Linh cùng các cụ cao niên
trong làng đã cung cấp tư liệu và tạo điều kiện thuận lợi để em tiếp cận, khảo
sát di tích đình làng Chí Linh.
Xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè đã động viên, giúp đỡ em hồn
thiện bài khóa luận này.
Là một sinh viên năm thứ tư, chưa có thời gian được tiếp xúc nhiều với
thực tế, kiến thức còn hạn chế, do vậy khóa luận khó tránh khỏi những thiếu
sót. Em kính mong nhận được sự đóng góp, chỉ bảo kiến thức của các thầy cô
giáo và bạn bè để bản khóa luận này được hồn thiện hơn nữa.
Một lần nữa em xin trân trọng cảm ơn !
Hà Nội, ngày 09 tháng 05 năm 2015
Tác giả khóa luận
Nguyễn Văn Quyết
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CHỮ VIẾT TẮT
CHỮ VIẾT ĐẦY ĐỦ
Cm
Cen ti met
GS
Giáo sư
Ha
Héc ta
Km
Ki lô mét
Km2
Ki lô mét vuông
M
Mét
Nxb
Nhà xuất bản
PGS
Phó giáo sư
PGS.TS
Phó giáo sư. Tiến sĩ
PL
Phụ lục
TK
Thế kỷ
TP
Thành phố
Tr.
Trang
TS
Tiến sĩ
UBND
Uỷ ban Nhân dân
VHTT
Văn hóa Thơng tin
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................ 1
2. Mục đích nghiên cứu ................................................................................... 2
3. Đối tượng nghiên cứu ................................................................................. 2
4. Phạm vi nghiên cứu .................................................................................... 2
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 2
6. Bố cục khóa luận ........................................................................................ 3
Chương 1: ĐÌNH CHÍ LINH TRONG DIỄN TRÌNH LỊCH SỬ .............. 4
1.1. Tổng quan về vùng đất nơi di tích tồn tại.............................................. 4
1.1.1. Vị trí địa lý và đặc điểm tự nhiên .................................................. 4
1.1.2. Lịch sử hình thành, quá trình tồn tại và phát triển làng Chí Linh ........ 6
1.1.3. Đặc điểm dân cư ........................................................................... 7
1.1.4. Đặc điểm kinh tế........................................................................... 8
1.1.5. Văn hóa truyền thống làng Chí Linh ........................................... 10
1.2. Lịch sử hình thành, quá trình tồn tại của di tích đình làng Chí Linh và
nhân vật được phụng thờ ........................................................................... 16
1.2.1. Lịch sử hình thành, quá trình tồn tại của di tích đình làng Chí Linh .... 16
1.2.2. Nhân vật được phụng thờ trong đình làng Chí Linh...................... 19
Chương 2: GIÁ TRỊ KIẾN TRÚC NGHỆ THUẬT VÀ LỄ HỘI ĐÌNH
CHÍ LINH................................................................................................... 21
2.1. Kiến trúc đình làng Chí Linh ............................................................. 21
2.1.1. Không gian cảnh quan ................................................................ 21
2.1.2. Bố cục mặt bằng tổng thể ........................................................... 26
2.1.3. Kết cấu kiến trúc ......................................................................... 27
2.1.4. Nghệ thuật trang trí trên kiến trúc ............................................... 33
2.2. Các di vật tiêu biểu trong di tích đình làng Chí Linh .................................. 41
2.2.1. Di vật bằng gỗ ............................................................................ 41
2.2.2. Di vật bằng giấy.......................................................................... 43
2.2.3. Di vật bằng vải ........................................................................... 44
2.2.4. Di vật bằng đồng ........................................................................ 45
2.2.5. Di vật bằng gốm sứ ..................................................................... 45
2.2.6. Di vật bằng đá............................................................................. 46
2.3. Lễ hội đình làng Chí Linh................................................................... 46
2.3.1. Thời gian và lịch lễ hội ............................................................... 47
2.3.2. Chuẩn bị lễ hội ........................................................................... 48
2.3.3. Diễn trình lễ hội .......................................................................... 50
Chương 3: BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI TÍCH ĐÌNH LÀNG
CHÍ LINH................................................................................................... 56
3.1. Thực trạng di tích, di vật và lễ hội ...................................................... 56
3.1.1. Thực trạng di tích, di vật ............................................................. 56
3.1.2. Thực trạng lễ hội......................................................................... 59
3.2. Giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị di tích đình làng Chí Linh ............... 60
3.2.1. Giải pháp bảo tồn di tích đình làng Chí Linh .............................. 60
3.2.2. Giải pháp phát huy di tích và lễ hội đình làng Chí Linh ngày nay ..... 69
KẾT LUẬN ................................................................................................. 76
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................ 78
PHỤ LỤC.................................................................................................... 80
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong tiềm thức của mỗi người dân Việt Nam, mỗi khi nói về làng q
ngơi đình làng đã trở nên quen thuộc và gần gũi, bởi đó là sự kết tinh trí tuệ,
cơng sức, sự thịnh vượng, là niềm kiêu hãnh của mỗi làng quê, nơi chứng
kiến các hoạt động lớn nhỏ của cả làng.
Đình làng trang trọng và thiêng liêng, đã có thời kỳ được xem là đại diện
biểu tượng của quyền lực làng xã. Trên thực tế đình làng lại là nơi tụ họp mọi
người trong sinh hoạt đời sống của cộng đồng. Đình làng trở thành một nơi
thân quen gần gũi, là cuộc sống của những người nông dân Việt Nam. Đình
làng xưa - nét đặc trưng tiêu biểu nhất của làng quê Việt Nam. Đình là nơi sinh
hoạt của người làng quê Việt Nam, nơi "cân bằng" phép tắc của cuộc sống cộng
đồng, nơi khai diễn những nét tài năng, tư duy của dân làng, nhất là về tín
ngưỡng, nơi để thờ thần Thành Hồng làng, người có cơng với dân, cứu nước,
giữ nước hoặc giúp dân nghề nghiệp sinh sống. Nhìn quanh đình làng, ta sẽ thấy
lịng tri ân, trọng nghĩa, trọng tài, “uống nước nhớ nguồn” của người Việt Nam.
Đã có một thời gian dài do khí hậu khắc nhiệt, do chiến tranh phá hoại
và những nguyên nhân khác khiến các di tích lịch sử văn hóa mà trong đó có
các ngơi đình làng đã bị hư hại, vấn đề bảo tồn di tích lịch sử văn hóa chưa
được đầu tư thích đáng, nhiều di tích đang trong tình trạng xuống cấp nghiêm
trọng, các lễ hội truyền thống đang dần bị mai một. Vì vậy bảo tồn di tích lịch
sử văn hóa được coi là nhiệm vụ có tính cấp thiết và quan trọng của Đảng và
Nhà nước ta hiện nay.
Đình Chí Linh là là một trong “Chí Linh Bát Cổ”, có nghệ thuật trang
trí trên kiến trúc độc đáo, có nhiều đóng góp trong đời sống văn hóa, tinh thần
của người dân địa phương. Giá trị của ngơi đình là vốn q vơ giá trong việc
phát huy truyền thống yêu nước, giữ gìn những tài sản do cha ông để lại và tự
hào về tài năng sáng tạo của nhân dân.
2
Là một người con của mảnh đất Chí Linh giàu truyền thống đấu tranh
cách mạng mang, cùng với những nhận thức về tầm trọng đối với việc bảo tồn
và phát huy di sản văn hóa của dân tộc qua những kiến thức đã học, em đã
chọn đề tài: “Tìm hiểu di tích đình làng Chí Linh (xã Nhân Huệ, thị xã Chí
Linh, tỉnh Hải Dương)” làm khóa luận tốt nghiệp chuyên ngành Bảo tàng
học, tại Khoa Di sản văn hóa, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội.
2. Mục đích nghiên cứu
- Tìm hiểu về vùng đất, con người nơi di tích đình Chí Linh tồn tại, làm
cơ sở cho việc nghiên cứu di tích.
- Từ những nguồn tư liệu có được, tìm hiểu quá trình hình thành, tồn tại
của đình Chí Linh từ khi xây dựng đến nay và xác định những giá trị của di
tích trên hai phương diện:
+ Giá trị văn hóa vật thể: kiến trúc, di vật
+ Giá trị văn hóa phi vật thể: lễ hội đình làng
- Nghiên cứu thực trạng của di tích, từ đó đề xuất một số giải pháp
nhằm bảo vệ và phát huy giá trị vốn có của di tích trong bối cảnh hiện nay.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của khóa luận là giá trị kiến trúc, nghệ thuật
và lễ hội của đình làng Chí Linh, xã Nhân Huệ, thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương.
4. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi khơng gian: Nghiên cứu di tích đình Chí Linh trong khơng gian
lịch sử, văn hóa của làng Chí Linh, xã Nhân Huệ, thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương.
- Phạm vi thời gian: Nghiên cứu di tích đình Chí Linh gắn liền với q
trình hình thành, tồn tại của di tích từ khi hình thành đến nay trong phạm vi
nguồn tư liệu có được.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Dựa trên quan điểm Chủ nghĩa Duy vật biện chứng và Chủ nghĩa Duy
vật lịch sử để nghiên cứu, xem xét đánh giá các nội dung của đề tài khóa luận
đặt ra.
3
- Sử dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành trong văn hoá như: Bảo
tàng học, Dân tộc học, Văn hoá học, Sử học, Mỹ thuật học, Văn hoá dân gian,
Xã hội học, Du lịch học...
- Sử dụng phương pháp khảo sát, điền dã: Quan sát, tham dự, mô tả, đo
vẽ, chụp ảnh, điều tra, phỏng vấn, phân tích, tổng hợp, so sánh...
6. Bố cục khóa luận
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,
khóa luận gồm có 3 chương:
Chương 1: Đình Chí Linh trong diễn trình lịch sử
Chương 2: Giá trị kiến trúc nghệ thuật và lễ hội đình làng Chí Linh
Chương 3: Bảo tồn và phát huy giá trị di tích đình làng Chí Linh
4
Chương 1
ĐÌNH CHÍ LINH TRONG DIỄN TRÌNH LỊCH SỬ
1.1. Tổng quan về vùng đất nơi di tích tồn tại
1.1.1. Vị trí địa lý và đặc điểm tự nhiên
* Vị trí địa lý
Thị xã Chí Linh nằm ở phía đơng bắc của tỉnh Hải Dương, cách thành
phố Hải Dương khoảng 40 km, vùng đất Chí Linh có địa lý đặc biệt quan
trọng, nằm trong vùng tam giác kinh tế Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh và
nằm ở nút mạch giao thơng quan trọng của tỉnh, có nhiều đường quốc lộ chạy
qua như: 18, 183 và Đường 37 là đường vành đai chiến lược Quốc gia từ
trung tâm thị xã đi tỉnh Bắc Giang.
Thị xã Chí Linh nằm giữa miền rừng núi phía đơng bắc Bắc Bộ và miền
đồng bằng châu thổ sơng Hồng; phía tây và phía bắc giáp với huyện Gia Bình,
Quế Võ (tỉnh Bắc Ninh), Yên Dũng, Lục Nam (tỉnh Bắc Giang); phía Đơng
giáp với huyện Đơng Triều (tỉnh Quảng Ninh); phía Nam giáp hai huyện Nam
Sách và huyện Kinh Mơn (tỉnh Hải Dương).
Thị xã Chí Linh hiện nay có 20 đơn vị hành chính, gồm 17 xã và 3 thị
trấn. Trong đó, xã Nhân Huệ là địa phương nơi di tích đình Chí Linh tồn tại.
Xã Nhân Huệ nằm ở phía Tây Nam của thị xã Chí Linh, tỉnh Hải
Dương; xã được bao bọc bởi 3 con sơng: Thái Bình, Kinh Thầy và sơng Đào
(sơng Cụt). Hiện nay xã có 3 làng: Chí Linh, Đáp Khê và Bạch Đằng được
chia làm năm cụm dân cư: Chí Linh 1, Chí Linh 2, Chí Linh 3, Đáp Khê và
Bạch Đằng. Phía Bắc giáp với xã Cổ Thành (ranh giới là con sơng Đào), phía
Đơng và Đơng – Nam giáp xã Nam Hưng và xã Hiệp Cát (huyện Nam Sách),
phía Tây và Tây – Nam giáp xã Cao Đức và xã An Thịnh (tỉnh Bắc Ninh).
Chí Linh là một trong ba làng của xã Nhân Huệ, nhìn trên tổng thể làng
gần như một hịn đảo nhỏ bởi ba phía đều được uốn lượn bởi những dịng
sơng nước chảy hiền hịa, cùng với hệ thống đê điều bao quanh ngơi làng như
những bức tường thành vững chắc khi có lũ lụt xảy ra.
5
Là địa phương có địa hình bằng phẳng và thấp, làng Chí Linh, xã Nhân
Huệ có nhiều loại hình giao thông, thuận lợi cho việc đi lại và giao lưu bn
bán. Đường giao thơng chính là đường liên xã qua trung tâm xã Cổ Thành và
đi thẳng theo đường này khoảng 4km sẽ tới quốc lộ 18 nối Hà Nội – Bắc Ninh
– Phả Lại – Quảng Ninh đây là tuyến giao thông huyết mạch đặc biệt quan
trọng của vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc. Đặc biệt xã Nhân Huệ có giao
thơng thủy cũng rất thuận tiện với hai con sơng Thái Bình và Kinh Thầy, từ
Nhân Huệ có thể xi theo hướng Hải Phịng ra biển, xã có bến phà Ninh Xá
– Hải Phòng – Hải Dương và bến phà Nhân Huệ - Lương Tài từ đây có thể
mở ra sự giao lưu, phát triển kinh tế cho vùng với những trung tâm kinh tế,
văn hóa khác.
Từ Hà Nội đi theo hướng Quốc Lộ 1A về qua Bắc Ninh, đến Quốc lộ
18 đi qua cầu Phả Lại, tới nhà máy Nhiệt điện Phả Lại (Thị trấn Phả Lại - thị
xã Chí Linh) sau đó đi tiếp khoảng 3km, rẽ vào đoạn đường liên xã đi khoảng
4 km qua xã Cổ Thành tới trung tâm làng Chí Linh khách tham quan sẽ nhìn
thấy một ngơi đình cổ kính với 4 mái xòe rộng và 4 đầu đao vươn lên cong
vút, với hệ thống đê bao gọn lấy di tích.
* Đặc điểm tự nhiên
+ Về đất đai, địa hình: Vấn đề cơ cấu cây trồng và công tác thủy lợi
luôn là mối quan tâm hàng đầu của xã Nhân Huệ. Diện tích tự nhiên của xã là
554,22 ha, trong đó diện tích đất hành chính là 514,50 ha; 39,72 ha là diện
tích đất xen canh, tổng diện tích đất nơng nghiệp là 213,23 ha, diện tích đất
phi nơng nghiệp là 301,7 ha. Giống như nhiều xã khác trong thị xã Chí Linh,
Nhân Huệ thuộc vùng đất trung du, địa hình bằng phẳng và thấp và phân chia
làm 2 khu vực rõ ràng với danh giới là một con đê chạy ngang qua UBND xã
Nhân Huệ, từ làng Đáp Khê trở lên thì người dân chủ yếu trồng lúa nước.
Phía cịn lại làng Chí Linh do lượng phù sa sơng cổ bồi đắp lớn, đất đai màu
mỡ nên người dân ở đây quanh năm trồng cây hoa màu như ngô, khoai, đậu
6
đỗ và các loại rau củ... ngoài ra người dân cịn có thể thâm canh tăng vụ để
tăng năng suất và sản lượng.
+ Về hệ thống thủy văn: Hệ thống sơng lớn, phía trên thượng nguồn bắt
nguồn từ Sơng Lục Nam, sông Cả cuộn chảy qua cầu Phả Lại, qua địa bàn xã
Nhân Huệ gọi là sơng Thái Bình uốn lượn vịng qua làng Chí Linh và chảy về
hướng sơng Kinh Thầy. Khu vực sơng ở đây cịn gọi là Lục đầu giang với sự
hội tụ của sáu con sông, Sông Thương, Sông Lục Nam, Sông Cả, Sông
Đuống, Sông Thái Bình và Sơng Kinh Thầy. Với hệ thống sơng này đã tạo
điều kiện cho nhân dân làng Chí Linh nói riêng và xã Nhân Huệ nói chung đi
lại bằng đường thủy một cách thuận tiện, bên cạnh đó cung cấp nguồn nước
dồi dào cho tưới tiêu để phát triển nông nghiệp và đồng thời người dân có thể
khai thác nguồn thủy sản tôm, cá phong phú từ hệ thống sông ngịi này.
1.1.2. Lịch sử hình thành, q trình tồn tại và phát triển làng Chí Linh
Theo các nguồn tư liệu còn lại đến ngày nay như các văn bia, ngọc phả,
sắc phong cịn lại ở các đình, chùa, tộc phả, gia phả của các dòng họ ở năm
làng cho biết: cách đây hơn 1.000 năm đã có con người về đây sinh cơ lập
nghiệp. Trải qua bao thăng trầm, biến cố người dân ở đây bền bỉ kiên cường,
dũng cảm chống thiên tai, địch họa, không ngừng xây dựng, bảo vệ và phát
triển quê hương thành xóm làng trù phú như ngày nay. Như vậy để thấy rằng
từ khi con người xuất hiện tại vùng đất này cũng chưa có một tài liệu nào ghi
rõ ràng, hơn 1.000 năm nơi đây đã ghi đậm bao dấu ấn của nếp sống, phong
tục, văn hóa, tín ngưỡng... của người dân xã Nhân Huệ và nhân dân làng Chí
Linh cũng nằm trong dịng chảy của lịch sử hình thành lên mảnh đất truyền
thống của cha ơng này.
Làng Chí Linh xưa có tên là Ba Gia trang thuộc đất Bàng Châu thời
Trần, thời Lê Sơ thuộc huyện Phượng Nhỡn. Đến thời Lê Trung Hưng là xã
Chí Linh thuộc tổng Cổ Châu, huyện Chí Linh, phủ Nam Sách, trấn Hải Dương.
Trước Cách mạng tháng Tám 1945, xã Nhân Huệ thuộc tổng Cổ Châu.
Cổ Châu là tổng lớn nhất huyện Chí Linh gồm 12 làng với 2.000 nhân khẩu,
7
6.000 mẫu ruộng. Tháng 3/1946 tổng Cổ Châu chia thành hai xã: Nhân Huệ
và Cổ Thành (Nhân Huệ là tên của một danh tướng nhà Trần là Nhân Huệ
Vương Trần Khánh Dư hiện đang được thờ tại đền Gốm của xã Cổ Thành).
Khi mới thành lập, xã Nhân Huệ gồm 6 làng: Chí Linh, Đáp Khê, Ninh
Giàng, Cổ Châu, Lý Dương, Tu Ninh. Cịn xã Cổ Thành cũng có 6 làng là:
Nam Gián Đơng, Nam Gián Đồi, Thơng Lộc, Phao Tân, Phao Sơn, Thạch Thủy.
Năm 1958, một bộ phận ngư dân thôn Đông Giàng, xã Thượng Đạt,
huyện Nam Sách đến khu vực Lục Đầu Giang để đánh bắt cá xin nhập vào xã
Nhân Huệ. Đến năm 1960, khu dân cư ở đây thành lập hợp tác xã ngư nghiệp
Bạch Đằng (làng Bạch Đằng). Như vậy từ năm 1960 xã Nhân Huệ có 7 làng.
Năm 1980, Nhà nước khởi cơng xây dựng Nhà máy nhiệt điện Phả Lại
vì vậy nhân dân ở thị trấn Phả Lại hầu hết chuyển về thị trấn Sao Đỏ, một số
làng của xã Cổ Thành cũng được cắt về thị trấn Phả Lại. Còn lại các làng:
Ninh Giàng, Cổ Châu, Lý Dương, Tu Ninh thuộc xã Nhân Huệ lại nhập vào
xã Cổ Thành. Từ đó xã Nhân Huệ chỉ còn 3 làng tồn tại đến ngày nay.
Như vậy với quá trình hình thành và phát triển của xã Nhân Huệ mà
trong đó có làng Chí Linh cũng nằm trong sự phát triển đó, trải qua bao thăng
trầm của lịch sử, trong những năm kháng chiến nhân dân đã phải hứng chịu
những đợt truy quét, những trận đánh bom thảm khốc mà Đế quốc thực dân
gây ra, cùng với đó là những lần phân chia, thay đổi về địa giới hành chính.
Nhưng đến nay nhân dân trong làng vẫn giữ gìn truyền thống lịch sử vẻ vang,
truyền thống văn hóa tốt đẹp của cha ơng để lại, biết trân trọng những giá trị
cổ xưa. Trong bối cảnh cơng nghiệp hóa hiện đại hóa người dân làng Chí
Linh vươn mình trong cơng cuộc đổi mới và phấn đấu trở thành làng văn hóa
trong thời đại mới.
1.1.3. Đặc điểm dân cư
Có thể nói, đặc điểm cư dân nơi đây gắn liền với quá trình hình thành
của xã Nhân Huệ. Cư dân ở làng Chí Linh đã có mặt ở vùng đất này từ rất
sớm hơn 1.000 năm trải qua các thời kỳ lịch sử khác nhau, cho đến nay, toàn
8
xã Nhân Huệ có 1.178 hộ; 4.178 nhân khẩu; trong đó nam: 2.128 khẩu; nữ:
2.050 khẩu. Độ tuổi trên 14 tuổi là: 3.650 khẩu, độ tuổi dưới 14 tuổi là: 528
khẩu; có 72 hộ, 278 khẩu theo đạo thiên chúa giáo. Trong đó làng Chí Linh
chiếm tỉ lệ dân số cao nhất trong ba làng.
Làng Chí Linh có tổng số trên 10 dịng họ đó là: Nguyễn Văn, Nguyễn,
Bùi, Phan, Ngơ,Trần, Hồng, Phạm, Đỗ, Lương,... Trải qua q trình lịch sử,
dù các dòng họ đến sinh sống vào những thời điểm khác nhau, nhưng các thế
hệ cư dân làng Chí Linh có truyền thống đồn kết, thương u nhau “Lá lành
đùm lá rách” để sinh sống và tồn tại. Họ cùng nhau làm ăn, cùng uống chung
nguồn nước, cùng thờ thành hoàng làng và cùng nhau chung vui hội hè đình
đám. Những nét đẹp văn hóa đó đã góp phần làm nên thuần phong mỹ tục độc
đáo của cư dân làng Chí Linh.
1.1.4. Đặc điểm kinh tế
1.1.4.1. Kinh tế nơng nghiệp
Trước năm 1945 tổng Cổ Châu chỉ có 2.000 nhân khẩu, nhưng có tới
5.000 mẫu ruộng đất (kể cả đất đồi), tính bình qn mỗi khẩu được trên 2,5
mẫu, một diện tích khơng nhỏ. Nhưng ruộng đất chủ yếu tập trung trong tay
bọn địa chủ cường hào (chiếm ¾), có tên chiếm tới vài trăm mẫu ruộng lập ấp
như: Nguyễn Văn Hùng; Nguyễn Văn Tường; cha, con Nguyễn Văn Tá...
Ngoài ra bọn hào lý địa phương còn đặt ra các loại ruộng đất, để chiếm đọat
ruộng đất của người nghèo như: ruộng để đám, ruộng thánh đường, ruộng kèn
trống v.v... Do vậy, 90% nơng dân khơng có ruộng hoặc ít có ruộng để cày cấy.
Trước đây, người dân làng Chí Linh chủ yếu làm nghề nông nghiệp nên
đời sống rất bấp bênh. Đặc biệt từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, đời
sống nhân dân trong làng gặp rất nhiều khó khăn, nguyên nhân là do cuộc
kháng chiến chống Nhật và chống Pháp, nơng nghiệp mất mùa, đói kém và
trong bối cảnh cả nước phải dồn sức người, lương thực cho chiến tranh với
phương châm hậu phương vì tiền tuyến, nhưng nhân dân vẫn ln đồn kết
hăng hái lao động để phục vụ kháng chiến.
9
Hiện nay, nền nơng nghiệp của địa phương có nhiều cải tiến tích cực
hơn, với điều kiện tự nhiên ưu đãi, đất màu và lượng phù sa cổ ven sông bồi
đắp lớn từ lâu đời nên người dân canh tác một năm được nhiều vụ (nơi khác
thường là 02 vụ). Riêng làng Chí Linh, người dân chủ yếu trồng hoa màu là
chính mà ít trồng lúa vì tuy ở gần sông nước nhưng đây là vùng đất thấp, lại
bao quanh bởi các bờ đê nên khó cho việc lấy nước thủ cơng. Loại đất ở đây
rất thích hợp cho việc trồng hoa màu như ngô, khoai, các loại rau củ như: su
hào, bắp cải, đỗ, cà rốt... theo Thống kê báo cáo kế hoạch phát triển Kinh tế Xã hội 6 tháng đầu năm 2014, phương hướng nhiệm vụ 6 tháng cuối năm
2014 của xã Nhân Huệ: Diện tích lúa Chiêm xuân 79,94 Ha năng xuất đạt 50
tạ/ha ước đạt 3 tỷ 494 triệu đồng; diện tích ngơ 45,35 Ha, năng xuất 48 tạ/Ha
ước đạt 1 tỷ 306 triệu đồng; diện tích cây rau mầu các loại 23 Ha ước đạt 2 tỷ
227 triệu đồng. Từ những báo cáo số liệu trên đây cho thấy kinh tế nông
nghiệp của xã Nhân Huệ và làng Chí Linh rất phát triển, đóng góp một phần
khơng nhỏ vào sự phát triển chung nền kinh tế của tồn thị xã Chí Linh.
Về chăn ni: Nhân dân trong xã chủ yếu là chăn nuôi gia cầm như gà,
vịt, ngan và các loại gia súc như trâu, bị, lợn từ đó cung cấp một sản lượng
thịt và con giống rất lớn, không chỉ cho nhân dân địa phương mà còn cho cư
dân nhiều vùng lân cận. Một số hộ trong làng xây dựng trang trại trồng cây
thả cá kết hợp với chăn nuôi gia cầm, lợn lái, lợn thịt cho thu hoạch khá cao
từ mơ hình VAC.
1.1.4.2. Về kinh tế tiểu thủ công nghiệp
Hiện nay, trên địa bàn xã có trên 11 hộ làm nghề máy tuốt lúa; khoảng
14 hộ làm xay xát; đánh bắt hải sản có trên 75 lao động, hàn xì... các ngành
nghề này cũng đem lại thu nhập khá cao cho người làm. Cho tới thời điểm này,
tình hình kinh tế xã hội ở làng Chí Linh đã ổn định trên tất cả các lĩnh vực, đời
sống nhân dân được đẩy mạnh và nâng cao. Nhiều gia đình trong làng đã thốt
khỏi hộ nghèo; cận nghèo, mua sắm được các trang thiết bị cần thiết trong gia
đình như tivi, tủ lạnh, máy giặt, máy vi tính, thậm chí có những hộ đã có ơ tơ
10
riêng… Cơ sở hạ tầng, nhà ở đã ngày càng được nâng cấp, những ngôi nhà
tầng được xây mới, khép kín bên trong có những trang thiết bị hiện đại, mặt
bằng chung của làng phát triển rất đồng đều.
1.1.4.3. Một số loại hình kinh tế khác
Làng Chí Linh có đội ngũ lao động dồi dào, ngoài bộ phận lao động ở
lại q hương tham gia sản xuất nơng nghiệp thì trong làng cịn có một đội
ngũ lao động đi xuất khẩu lao động sang các nước như: Hàn Quốc, Nhật Bản,
Trung Quốc, Malaysia, Đài Loan... Do đi xuất khẩu lao động ở nước ngồi,
nên nhiều gia đình ở làng Chí Linh đã chuyển sang kinh doanh bán hàng tạp
hóa, vật liệu xây dựng... Từ điều kiện dư giả nhiều hộ dân đã đầu tư kiến thiết
cơ sở hạ tầng cho quê hương như: đổ đường bê tông, xây trường mầm non,
nhà văn hóa, cung tiến, cơng đức vào các đình, chùa... Bằng nỗ lực của mình,
những người dân xã Nhân Huệ và đặc biệt nhân dân làng Chí Linh đã xây
dựng lên bộ mặt nông thôn ngày nay thêm nhiều khởi sắc, theo Thống kê báo
cáo kế hoạch phát triển Kinh tế - Xã hội 6 tháng đầu năm 2014, phương
hướng nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2014 chỉ tính riêng bộ phận lao động tại
nước ngoài 6 tháng đầu năm 2014 đã thu về tổng ước đạt 12 tỷ 280 triệu
đồng, từ đó làm tăng kinh tế từng hộ gia đình và phát triển chung cho diện
mạo nền kinh tế tồn xã.
1.1.5. Văn hóa truyền thống làng Chí Linh
1.1.5.1. Phong tục tập quán
* Cưới xin
Ở làng Chí Linh cũng như phong tục một số địa phương khác trong thị
xã, hôn nhân và cưới xin là việc không chỉ của riêng cá nhân mà là của cả gia
đình và dịng họ. Người con trai đến tuổi lấy vợ, không chỉ nhằm duy trì nịi
giống, thờ phụng tổ tiên, ni dưỡng cha mẹ khi già yếu, mà nhiều khi còn là
tăng sức lao động để phát triển kinh tế và uy thế về sự lớn mạnh của dịng họ
mình trong mối quan hệ với các dịng họ khác. Hơn nhân bắt buộc khơng cịn
nữa, khơng cịn quan niệm cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy, mà thanh niên trong
11
làng tự do lựa chọn tìm hiểu người bạn đời của mình. Khi đơi lứa đã tìm hiểu
chín muồi, người con trai thưa chuyện với cha mẹ mình để chuẩn bị lễ vật
sang nhà gái xin cưới. Tục lệ thách cưới, nộp cheo ngày nay khơng cịn tồn tại
và lễ cưới được tổ chức đơn giản hơn, nhưng lễ cưới ở đây vẫn có những quy
định theo phong tục truyền thống xưa như: lễ dạm ngõ, ăn hỏi, lễ cưới, lễ lại
mặt. Người dân nơi đây quan niệm, sau lễ cưới của đơi nam nữ, hai gia đình
từ chỗ là quan hệ xã hội đã trở nên gắn bó mật thiết với nhau, cộng thêm tính
cộng đồng làng xã (thường lấy vợ - chồng trong làng) vì thế càng tăng thêm
tình cảm gắn bó của những người dân làng Chí Linh.
* Tang ma
Nếu cưới xin là việc vui đánh dấu sự trưởng thành của đời người, thì
tang ma lại là việc buồn kết thúc chu trình của một đời người. Việc tổ chức
đám tang với sự chứng kiến của cộng đồng, dân làng. Đám tang được tổ chức
có mặt đơng đủ nội ngoại, xóm làng, khu phố, bằng các nghi thức và sự phân
công chặt chẽ theo tục lệ cổ truyền của làng. Tổ chức đám tang thường có các
nghi thức sau: Khi người thân sắp qua đời, gia chủ gọi con cháu ruột thịt đến
nhìn mặt lần cuối và nghe những lời dặn dị sau cùng (nếu có thể) của người
sắp qua đời. Sau đó người nhà cử một số người chăm sóc, đun nước lá thơm
tắm rửa, gội đầu, chải tóc, chờ đến lúc tắt thở rồi thay quần áo mới. Một số anh
em ruột thịt túc trực bên người quá cố suốt đêm. Sau đó chờ con cháu, người
thân ở xa về đông đủ mới tiếp tục liệm, nhập quan, phát tang. Con cháu, anh
em đội khăn tang theo thứ bậc và tỏ lòng thương tiếc người mất. Đồng thời, đặt
di ảnh, hương đèn, hoa quả để con cháu, họ tộc gần xa, thân bằng cố hữu phúng
viếng. Con trai trưởng, con dâu trưởng cùng một số anh em trong nhà đứng đáp
lễ, ghi chép phúng viếng.
Lễ phúng viếng tuỳ theo mối quan hệ giữa người đi phúng viếng với
người q cố. Trường hợp gia đình thơng gia thường có thẻ nhang, tiền viếng;
đồn thể có vịng hoa, bức chướng, tiền viếng. Đội trống, kèn thờ liên tục phát
ra những âm thanh tiếc thương người quá cố đến lúc hết người phúng viếng thì
12
nghỉ. Việc đưa tang ở làng Chí Linh gọi là đưa ra đồng, mọi việc đều được tổ
chức phân công chu đáo, thứ bậc rõ ràng. Đưa tang bằng hình thức đi bộ, linh
cữu người chết được để trong xe đẩy (trước đây phải khiêng linh cữu), trên
đường đưa tang có rắc vàng thoi bằng giấy, tiền âm từ nhà gia chủ ra đến
huyệt để người chết nhớ đường về nhà mình. Trước khi hạ huyệt một người
thân có rắc gạo và muối xuống huyệt, hành động này được lý giải là để tránh
ma đói ma khát... Sau khi chơn cất xong người nhà vẫn phải thắp hương cúng
cơm người đã khuất 49 ngày, sau ngày 49 thì có thể cúng cơm vào ngày rằm,
mồng một. Qua 3 năm (có trường hợp 5 năm) người thân đào và bốc mộ đưa
cốt của người đã mất về tắm bằng nước thơm (quế, hồi...), sau đó đưa di cốt
vào tiểu và xây mộ lát gạch khang trang và cố định phần mộ vĩnh viễn. Ở làng
Chí Linh cũng đã có gia đình đưa người mất đi hỏa thiêu, nhưng trường hợp
này rất ít, chủ yếu vẫn là hình thức thổ táng.
Qua nghi lễ của đám tang ở làng Chí Linh cho thấy, phong tục ở đây cũng
tương đối giống với những địa phương trong vùng và một số nơi khác, với
những quan niệm âm sao dương vậy, và lịng thành kính biết ơn, tôn trọng, thể
hiện chữ “Hiếu” với ông bà cha mẹ, những người đã khuất đó là một truyền
thống quý báu của nhân dân làng Chí Linh cũng như Dân tộc Việt Nam.
1.1.5.2. Một số di tích khác trong vùng
* Chùa Quang Phúc
Cơng trình kiến trúc này nằm sát phía bên trái đình Chí Linh, cả hai di
tích chùa và đình có chung khn viên. Những tư liệu về thời điểm khởi dựng
của ngôi chùa không được ghi rõ. Theo lời kể của các cụ cao niên trong làng:
từ khi sinh ra và lớn lên đã có chùa này, trước kia chùa tọa lạc bên bờ sông
cách UBND xã Nhân Huệ (ngày nay) vài trăm mét. Năm 1954 do nước lũ
khiến con sông bị nở và làm chùa bị sụp đổ, trước tình hình đó chính quyền
và các cụ cao niên trong làng đã họp bàn, quyết định bán các tấm gỗ làm chùa
cho dân làng Phù Lãng (nay là Quế Võ – Bắc Ninh) với khoảng 40 vạn tiền
thời đó, cịn lại tượng phật thì mang về vị trí chùa như ngày nay để thờ phụng,
13
bên trái đình Chí Linh. Sau thời gian đó chùa liên tiếp được sửa sang và đưa
thêm tượng vào thờ, đã có nhiều lần tượng được di chuyển lên đình (vì chùa
bị ngập nước) sau đó lại chuyển xuống chùa. Hiện nay chùa Quang Phúc
được làm theo kiểu hiện đại với kết cấu gạch, vữa, kết cấu mái đơn giản.
* Chùa Chí Linh (Phúc Quang Tự)
Chùa hiện nay tọa lạc bên bờ sơng Kinh Thầy cách đình Chí Linh
khoảng 500m đi theo hướng đường đê vào làng, người dân thường gọi là chùa
cũ Chí Linh, bởi trước đây chùa là căn cứ của quân du kích cách mạng gắn
với làng Chí Linh. Lịch sử tồn tại của ngơi chùa cũng khơng cịn có tài liệu
nào ghi rõ và trong kháng chiến đã bị phá hủy. Đến nay, theo thực tế khảo sát
tại di tích chùa được tơn tạo lại khá khang trang với kết cấu một tòa nhà ba
gian, bên trong chùa tại ban tam bảo bố trí hệ thống tượng thờ có các lớp
tượng: hàng thứ nhất bục cao nhất của thượng điện đặt 3 pho Tam thế, hàng
thứ hai đặt bộ tượng Di đà Tam tôn, hàng thứ ba là bộ tượng Thích ca thuyết
pháp, hàng thứ tư là tượng Ngọc Hoàng, bên cạnh đặt Tứ vị Thiên vương, hàng
thứ năm đặt tịa Thích ca Cửu long. Chùa mới được khánh thành và phục vụ
nhu cầu tâm linh của người dân địa phương.
* Đền Gốm (Đền Trình)
Ngồi các di tích trên, cách làng Chí Linh khoảng 2km đi theo đường
liên xã tới địa bàn xã Cổ Thành hiện vẫn lưu giữ được một ngơi Đền Gốm cổ
kính có giá trị. Đền Gốm là nơi thờ tự Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư, ơng
là người huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Sử sách cịn ghi chép ơng là vị
tướng tài ba, dũng trí, mưu lược góp cơng lớn vào ba lần chống giặc Nguyên
Mông thời Trần. Cuối đời ông về sống tại Thái Ấp bên Trần Xá – nơi giao
thông thủy phát triển nhân dân địa phương sản xuất và bn bán đồ gốm. Ơng
thường động viên nhân dân tích cực sản xuất nên kinh tế địa phương phát đạt.
Do vậy tên làng Linh Giàng cịn có tên gọi là làng Gốm. Sau khi Nhân Huệ
Vương mất, để ghi nhận công lao của ông, nhân dân địa phương đã xây dựng
đền thờ tại đầu làng Gốm bên bờ sông Kinh Thầy lấy tên là “Nhân Huệ Vương Từ”.
14
Trải qua những thăng trầm của lịch sử, làng Gốm cũng như ngơi đền có
nhiều thay đổi. Tương truyền vào thời Hậu Lê (TK 17 – 18) đền Gốm được
xây dựng theo kiểu chữ “Đinh” với tòa tiền tế 5 gian và hậu cung. Nhưng qua
thời gian và chiến tranh ngơi đền đã bị sụp đổ hồn tồn.
Vào khoảng những năm 1933 – 1934, trước khung cảnh hoang tàn, tiêu
điều của ngôi đền, ông Nhang Ký – một thương gia giàu có đã tâm đức trùng
tu lại tồn bộ ngơi đền theo như kiến trúc ban đầu. Riêng nhà tiền tế trước 5
gian thì được mở rộng thêm 2 gian đầu hồi để làm miếu cô. Đây là lần trùng
tu lớn nhất từ sau khi xây dựng.
Năm 1952, quân Pháp đã giật mìn phá ngơi đền, cướp đi nhiều cổ vật
q. Hiện tại ngơi đền chỉ cịn lại Hậu cung là dấu tích kiến trúc cũ và 4 pho
tượng thờ chính gồm: Thân mẫu Trần Khánh Dư, Nhân Huệ Vương Trần
Khánh Dư và hai công chúa thời Trần Nhân Tông bằng đồng. Những phần
đơn nguyên kiến trúc còn lại do nhân dân địa phương vận động, công đức, tu
bổ tôn tạo di tích từ năm 1990 đến nay.
Lễ hội đền Gốm diễn ra từ ngày 13 đến ngày 21 tháng 8 âm lịch thu hút
người dân địa phương và du khách từ nhiều địa phương khác tới tham quan và
tham dự lễ hội. Đền Gốm đã được Bộ Văn hóa và Thơng tin (nay là Bộ Văn
hóa Thể thao và Du lịch) xếp hạng di tích Quốc gia ngày 5/2/1994.
* Nhà thờ họ
Dịng họ là tập hợp những gia đình có chung nguồn gốc về huyết thống, là
một trong những yếu tố quan trọng để cấu thành một ngôi làng. Thông thường ở
một ngôi làng được cấu thành bởi nhiều dịng họ khác nhau. Hiện nay, làng Chí
Linh có tổng số trên 10 dòng họ, tuy nhiên hệ thống nhà thờ họ cịn ít, hoặc
do những dịng họ ít người nên chưa có đủ điều kiện để lập nhà thờ họ. Trước
đây, trong làng dịng họ Bùi cũng đã có nhà thờ họ, nhưng do trong kháng
chiến đã bị phá hủy. Hiện nay một chi họ Bùi đang khôi phục lại nhà thờ họ
này, và trong tương lai sẽ có thêm những nhà thờ họ mới nhằm đáp ứng nhu
cầu tâm linh, sinh hoạt văn hóa của những gia đình có cùng huyết thống. Là
nơi để con cháu nhớ về cội nguồn, gốc rễ của tổ tiên mình.
15
1.1.5.3. Lễ hội và các ngày lễ khác
* Lễ hội đình làng Chí Linh: Theo “Thần tích bi ký” vua Lý Thái Tông
đã từng xuống chiếu lệnh cho dân làng Ba Gia (làng Chí Linh ngày nay) có
trách nhiệm xây miếu và phối thờ hành lễ hành năm vào những ngày giỗ hậu
của tam vị thành hoàng. Trải qua các triều đại sau, việc tế lễ tại đình Chí Linh
vẫn được các quan địa phương lưu tâm và duy trì. Theo các cụ cao niên ở địa
phương cho biết những quy định về lễ nghi tiến cúng hội hè như sau: Lễ hội
đình làng Chí linh diễn ra vào ngày mùng 10 tháng 3 âm lịch hàng năm, lễ hội
diễn ra trong 03 ngày, trong đó ngày mùng 10 là chính hội. Trong lễ hội có lễ
tế thành hồng làng được chú trọng nhất, ngồi ra trong lễ hội cịn có các hình
thức diễn xướng dân gian khác: hát quan họ và các trò chơi dân gian như:
bơi chải, chọi gà, bóng chuyền, vật võ...(Chi tiết sẽ giới thiệu ở mục 2.3
của chương 2).
Ngồi ngày lễ hội chính vào ngày 10 tháng 11 âm lịch là ngày sinh của
Nhị Công (Phạm Cường, Phạm Uy) thì dân làng cũng tổ chức cúng tế, nhưng
nay các cụ cao niên đã gộp vào ngày rằm (15 tháng 11) để cúng tế.
1.1.5.4. Truyền thống khoa bảng
Người dân làng Chí Linh từ lâu đã có truyền thống hiếu học và truyền
thống ấy vẫn luôn được tiếp bước đến ngày nay. Xưa tổng Cổ Châu là một
trong năm địa danh của tỉnh Hải Dương có người đỗ tiến sỹ cao qua các thời
Lê Sơ, nhà Mạc và Lê Trung Hưng có tới 14 vị đỗ tiến sỹ. Trong đó làng
Chí Linh cũng đóng góp những nhân tài là Phạm Khải, người làng Chí Linh,
đỗ Đệ nhị giáp tiến sỹ xuất thân (Hồng Giáp) khoa Bính Thìn, niên hiệu
Quang Bảo thứ 2, làm quan Hiến Sát Sử (triều nhà Mạc), ngồi ra thơn cịn
có nhiều thầy đồ, thầy nho hay chữ không ra làm quan mà mở trường dạy
học tại quê cho con cháu và những người dân trong làng.
Trong lịch sử, tuy đời sống vật chất cịn nhiều khó khăn nhưng đã có
một số người học hành thành đạt đem lại niềm tự hào cho vùng đất này và
trở thành những tấm gương sáng về tri thức cho các thế hệ trẻ noi theo. Do
16
có truyền thống hiếu học nên các thế hệ con cháu hiện nay vẫn ln ý thức
gìn giữ và phát huy tinh thần truyền thống đó. Bởi lẽ việc học hành đối với
mỗi người dân làng Chí Linh khơng chỉ là trách nhiệm với bản thân mà còn
là bổn phận làm rạng danh cho gia đình, dịng họ và cả xóm làng. Hiện nay
làng Chí Linh cũng đã thành lập quỹ hiếu học, hàng năm thường tổ chức gặp
mặt vinh danh và trao phần thưởng cho các con em quê hương học hành đỗ đạt
nhằm khích lệ, động viên, giữ gìn, phát huy truyền thống học hành của quê hương.
1.2. Lịch sử hình thành, quá trình tồn tại của di tích đình làng Chí
Linh và nhân vật được phụng thờ
1.2.1. Lịch sử hình thành, quá trình tồn tại của di tích đình làng Chí Linh
1.2.1.1. Lịch sử hình thành
Đối với lịch sử hình thành các ngơi đình ở Việt Nam nói chung, hiện nay
được giới thiệu khá đầy đủ và chi tiết trong cuốn Đình Việt Nam của tác giả
Hà Văn Tấn, Nguyễn Văn Cự và trên thực tế nước ta vẫn cịn tồn tại những
ngơi đình thế kỷ XVI, XVII, XVIII, XIX.
Về chức năng hành chính, đình là chỗ để họp bàn các “việc làng”, để xử
kiện, phạt vạ, ăn khao… theo những quy ước của làng, từ những cuộc họp của
bô lão trong làng, trong họ tộc, chuyện làm lễ lên lão, phạt vạ con gái không
chồng mà chửa… cho đến những việc đại sự như đón sắc phong của vua ban,
hội đình, tất cả đều được diễn ra ở sân đình và theo lệ làng. Về chức năng tơn
giáo, đình là nơi thờ thần của làng, được gọi là “Thần Thành hồng làng”. Về
chức năng văn hóa, đình là nơi biểu diễn các kịch hát, như chèo hay hát cửa
đình, nơi tiến hành các lễ hội, các trị chơi… Các chức năng trên khơng bao
giờ tách bạch mà ln đan xen hịa quyện với nhau. Ngơi đình là biểu tượng
cho cộng đồng làng xã Việt Nam, là một yếu tố hữu hình của văn hóa làng
Việt Nam. Ở các làng xã trong xã hội cũ, việc tôn thờ thành hoàng làng là
việc quan trọng của cả làng xã. Chính vì vậy, ban đầu thần được thờ ở những
ngơi đình nhỏ, ít được người dân chú trọng, trải qua thời gian, việc thờ thần
đã được nhân dân coi trọng và chính người dân đã tạo ra một hệ thống kiến
17
trúc, trang trí phù hợp với chức năng, đặc trưng của các hoạt động tín ngưỡng
tơn giáo này.
Đối với trường hợp đình làng Chí Linh, đây là cơng trình kiến trúc tín
ngưỡng và nằm trong dịng chảy lịch sử phát triển của đình làng Việt Nam.
Lý lịch di tích đình Chí Linh có viết về lịch sử xây dựng đình như sau:
Nhân dân làng Chí Linh đã xây dựng từ năm Hồng Đức nguyên
niên. Trước đây đình làm theo kiểu chữ “Đinh” quay về hướng Tây,
miếu thờ vọng lập ở bên trái hồ Đơng, hồ Tây phía trước và bên
phải đều thuộc đất Chí Linh. Đến triều Nguyễn, đình được xây
thêm 5 gian tiền tế, vì vậy kiến trúc đình kết cấu theo kiểu tiền chữ
“Nhất” hậu chữ “Đinh” [14, tr. 3].
Trong cuốn sách Hải Dương di tích và danh thắng, tập 1, trong số 97 di
tích được giới thiệu, phần lịch sử đình Chí Linh được giới thiệu như sau:
Đình Chí Linh được xây dựng vào khoảng thời Hậu Lê (TK18),
được trùng tu và tôn tạo vào thời Nguyễn qua các năm 1848, 1856,
1859, 1867, 1911. Kiến trúc ban đầu theo kiểu chữ “Đinh” gồm 5
gian Đại bái và 3 gian Hậu cung xây theo hướng tây. Đến năm Khải
Định nguyên niên (1916) nhân dân tiếp tục xây thêm 5 gian tiền tế
và hai giải vũ đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của nhân dân trong những
ngày lễ hội. Tấm thượng lương tại tòa tiền tế còn ghi rõ “Hoàng
triều Khải Định nguyên niên quý xuân lương nguyệt nhất thần kiên
trụ thượng lương đại cát hưng vượng” tức là: ngày lành tháng tốt,
mùa xuân năm Khải Định nguyên niên dựng thượng lương thịnh
vượng [16, tr.195].
Mặt khác, tại đình làng Chí Linh cịn lưu giữ được 7 đạo sắc phong do
triều đình nhà Nguyễn phong tặng cho vị thần được thờ tại đây có niên đại từ
thời Thành Thái đến Khải Định. Đây cũng là một căn cứ quan trọng trong
việc xác định niên đại tương đối của ngơi đình này.
18
Qua khảo sát thực tế tại di tích, do trải qua thời gian do tác động của
thiên nhiên và chiến tranh tàn phá, cùng với nhiều lần tu sửa lớn, hiện nay dấu
vết kiến trúc của đình Chí Linh mang đậm phong cách thời Nguyễn thế kỷ XIX.
1.2.1.2. Quá trình tồn tại và phát triển
Tồn tại cho đến ngày nay, đình Chí Linh đã trải qua nhiều biến động
của lịch sử như chiến tranh, sự tác động vô thức của người dân và sự khắc
nghiệt của thời tiết, tự nhiên. Trong q trình tồn tại và phát triển đó, đình Chí
Linh đã được trùng tu, sửa chữa mở rộng về mặt quy mô. Căn cứ vào hệ
thống bia ký, sắc phong, các triều đại cịn lại di tích thì ngơi đình đã trải qua
nhiều lần tu sửa tơn tạo:
- Tự Đức nguyên niên (1848)
- Tự Đức thứ 9 ngày lành tháng tốt vụ đông (1856)
- Tự Đức thứ 12 tháng 4 năm Mậu Thìn (1856)
- Duy Tân thứ 5 (1911)
Cuối cùng là năm Khải Định nguyên niên (1916) nhân dân địa phương
cùng phát tâm cơng đức đóng góp nhân tài vật lực trùng tu ngơi đình và xây
tịa tiền tế 5 gian.
Từ năm 1990 đến nay, việc tu sửa nhỏ trong di tích được chính quyền
và nhân dân địa phương tiến hành khi xảy ra dấu hiệu xuống cấp, như hệ
thống cửa ở tòa tiền tế và một số đồ thờ.
Như vậy, đình làng Chí Linh cịn lưu giữ được nhiều dấu khá nhiều giá
trị về mặt kiến trúc cổ và nghệ thuật điêu khắc của cư dân. Trong suốt q
trình tồn tại, đình Chí Linh ln là một trung tâm văn hố, hành chính, tín
ngưỡng của cả làng, là nơi người dân hội họp bàn việc làng, việc nước, đồng
thời là nơi diễn ra sinh hoạt văn hoá cộng đồng của người dân với các hoạt
động văn hóa như múa, hát, tổ chức các buổi giao lưu văn hoá văn nghệ giữa
các đơn vị trong và ngoài làng/xã với nhau... Đồng thời, ngơi đình cịn là nơi
thờ cúng thành hoàng, nơi diễn ra các lễ hội (với nghi thức, nghi lễ nhằm tưởng
nhớ tới công lao to lớn của các vị thần) đối với dân làng Chí Linh.
19
1.2.2. Nhân vật được phụng thờ trong đình làng Chí Linh
Xét về chức năng tơn giáo, ngơi đình là nơi thờ thần của cả làng, thường
là một vị nhưng cũng có khi là nhiều vị được gọi là Thành hồng làng.
Theo GS. Đào Duy Anh: “Thành hoàng là một biểu hiện của lịch sử,
phong tục, đạo đức, pháp lệ cùng hy vọng chung của cả làng, lại cũng là thứ
quyền uy siêu việt, một mặt liên lạc siêu hình, khiến cho làng xã thành một
đồn thể có tổ chức và hệ thống” [1, tr. 207].
Hay theo tác giả Nguyễn Duy Hinh: “Thành hoàng làng người Việt là
một vị thần được dân thờ, sau đó mới được vua phong chức tước với chức
danh thành hoàng” [17, tr. 61].
Căn cứ vào sắc phong, thần phả lưu giữ tại đình làng và câu chuyện
truyền thuyết lưu truyền ở làng cho biết, đình Chí Linh thờ ba vị thần, có cơng
đánh giặc giữ nước. Qua tấm bia “Thần tích bi ký” được soạn năm Tự Đức
thứ 20 (1867) thì nhân vật được thờ là:
- Cao Sơn Quốc Trạng Đại Vương (thường gọi là thánh Cả)
- Đương Cảnh Thành Hoàng Quảng Bác Đại Vương (tức Phạm Cường)
- Đương Cảnh Thành Hoàng Hùng Duệ Đại Vương (tức Phạm Uy)
Thần tích cho biết: Vào thời Hùng Vương thứ 18 có người họ Cao tên
Hiển thuộc dịng họ của Tản Viên quốc vương thứ hai. Vị thần này gốc gác
Sơn Thần, tinh thông văn võ thường gọi là Cao Sơn đại vương. Thần Cao Sơn
cùng với người em họ là Q Minh, đã từng có cơng giúp vua Hùng đánh
thắng quân Thục tại Sóc Sơn. Sau khi đánh thắng giặc hai anh, em tự hóa và
ngự ở hai bên của dãy núi Ba Vì.
Sau đó, nhiều lần hai vị đã hiển linh và giúp nhân dân đánh giặc. Tới
thời Lý thần Cao Sơn từng có cơng “âm phù” cho vua Lý Thái Tông đánh
giặc, giữ nước, mở mang bờ cõi. Thuở ấy có lũ giặc Chiêm Thành khởi loạn
biên thùy phía Nam. Vua Lý Thái Tơng xuống chiếu truyền lệnh kêu gọi
người tài đức giúp nước. Cao Hiển hóa thân là là một tướng tài của triều đình
cầm quân đi đến địa phận làng Ba Gia (làng Chí Linh) phủ Nam Sách, trấn
20
Hải Dương. Tại làng có hai anh, em sinh đơi có tên là Phạm Cường, Phạm Uy
là con trai ruột của vợ chồng Phạm Chân và Đào Thị Quý. Đến năm 15 tuổi,
hai anh em đã có tài năng xuất chúng, văn võ kiện toàn.
Được biết hai anh em họ Phạm là người tài đức, Cao Hiển liền chiêu
mộ và cho xung vào bộ tướng cùng binh phù đánh trận bến Động (Bình Than,
Lục Đầu). Khi Cao Hiển và hai anh, em họ Phạm dàn trận, cờ rợp đất, chiêng
trống vang trời, giặc dã đại bại và tháo chạy.
Thắng trận, Cao Hiển cùng Phạm Cường và Phạm Uy hồi cung tại Ba
Gia trang, mở tiệc khao quân sĩ, sau khi yến tiệc no say Cao Hiển về cung Đệ
nhất tự “hóa”, hai anh em họ Phạm “hóa” tại bản địa Ba Gia trang ngày 10/2
âm lịch. Để ghi nhận công lao của các vị thần, vua Lý Thái Tông xuống chiếu
chúc hành tang lễ và truyền cho dân lập miếu riêng để phụng thờ.
Nhìn chung, với sự phụng thờ ba vị thành hồng của làng Chí Linh gắn
liền với lớp tín ngưỡng thờ nhân vật đã được lịch sử hóa là có cơng với dân
với nước, bởi vùng đất này trong lịch sử đã từng là nơi diễn ra nhiều trận
chiến quyết liệt của dân tộc ta chống lại kẻ thù xâm lược phương Bắc. Gạt bỏ
đi những yếu tố dân gian đó có thể thấy được mong ước, của con người nói
chung và cư dân nơng nghiệp làng Chí Linh nói riêng, họ ln mong muốn
được hịa bình, ấm no trong cuộc sống và lao động.
Chí Linh là một ngơi làng cổ được hình thành từ sớm, trải qua thời gian
làng có sự biến đổi về mặt hành chính và diện mạo, song trong quá trình sinh
sống người dân nơi đây đã sáng tạo ra các giá trị lịch sử, văn hóa truyền
thống, mà đặc trưng nhất đó chính là ngơi đình của làng Chí Linh gắn liền với
sự tích về Tam vị Thành hồng. Ngơi đình và ba vị Thành hoàng làng đã cố
kết cộng đồng của cư dân nơi đây thành một đơn vị “làng” trong xã hội Việt
Nam từ nhiều thế kỷ nay.