1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HOÁ HÀ NỘI
KHOA BẢO TÀNG
*********
NGUYỄN THỊ THÙY LIÊN
TÌM HIỂU DI TÍCH ĐÌNH LÀNG CĨT
(ĐÌNH HẠ N QUYẾT)
(PHƯỜNG N HỊA, QUẬN CẦU GIẤY, TP. HÀ NỘI)
KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP
NGÀNH BẢO TÀNG
Người hướng dẫn:
PGS. TS Trịnh Minh Đức
HÀ NỘI – 2010
2
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ...............................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................... 4
2. Mục đích nghiên cứu ............................................................................... 5
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .......................................................... 5
4. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................ 5
5. Kết quả nghiên cứu .................................................................................. 6
6. Bố cục khóa luận ...................................................................................... 6
CHƯƠNG 1: LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ QUÁ TRÌNH TỒNTẠI CỦA
ĐÌNH HẠ YÊN QUYẾT ...............................................................................................7
1.1. Tổng quan về khơng gian văn hóa nơi di tích tồn tại. ....................... 7
1.1.1. Lịch sử vùng đất. .............................................................................. 7
1.1.2 Đời sống dân cư. ............................................................................... 8
1.1.3 Truyền thống văn hóa...................................................................... 12
1.2. Lịch sử hình thành và quá trình tồn tại của di tích......................... 19
1.2.1 Truyền thuyết các nhân vật được thờ ở đình làng Cót.................... 19
1.2.2. Đình Hạ n Quyết qua các thời kỳ lịch sử ................................... 25
CHƯƠNG 2: GIÁ TRỊ KIẾN TRÚC, ĐIÊU KHẮC, LỄ HỘI ĐÌNH HẠ
YÊN QUYẾT....................................................................................................................29
2.1 Kiến trúc ............................................................................................... 29
2.1.1 Không gian cảnh quan và bố cục mặt bằng tổng thể của di tích .... 29
2.1.2. Các đơn ngun kiến trúc, nghệ thuật trang trí đình Hạ Yên Quyết
.................................................................................................................. 35
2.1.3 Hệ thống di vật ................................................................................ 45
2.2 Lễ hội đình làng Hạ Yên Quyết .......................................................... 54
2.2.1. Thời gian và khơng gian diễn ra lễ hội đình Hạ n Quyết .......... 54
2.2.2 Công việc tổ chức lễ hội .................................................................. 55
2.2.3. Nội dung chính của lễ hội .............................................................. 56
3
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO TỒN TÔN TẠO VÀ
PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI TÍCH ĐÌNH HẠ N QUYẾT .............................68
3.1 Thực trạng di tích đình Hạ n Quyết .............................................. 68
3.1.1 Thực trạng về kiến trúc. .................................................................. 68
3.1.2 Thực trạng về di vật ........................................................................ 69
3.1.3 Thực trạng lễ hội ............................................................................. 70
3.2. Giải pháp bảo tồn di tích đình làng Cót ........................................... 71
3.2.1 Giải pháp bảo tồn đối với di tích đình làng Cót. ............................ 71
3.2.2. Giải pháp trùng tu, tơn tạo đình làng Cót...................................... 73
3.3 Bảo quản các di vật trong di tích........................................................ 76
3.3.1 Di vật gỗ .......................................................................................... 76
3.3.2 Di vật kim loại ................................................................................. 77
3.3.3 Di vật vải ......................................................................................... 77
3.4 Giải pháp bảo tồn lễ hội đình làng Cót. ............................................. 77
3.5. Khai thác và phát huy giá trị di tích đình Hạ n Quyết ............... 78
3.5.1 Tổ chức tham quan tại di tích ......................................................... 78
3.5.2 Giới thiệu về di tích trên các phương tiện thơng tin đại chúng ...... 78
3.5.3 Viết sách, tờ gấp giới thiệu về di tích .............................................. 79
KẾT LUẬN ......................................................................................................................81
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..........................................................................................83
PHỤ LỤC
4
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Toàn thể dân tộc Việt Nam đang từng ngày chuẩn bị cho lễ kỷ niệm
trọng đại “1000 năm Thăng Long – Hà Nội” để tạo nên dấu ấn cho mảnh đất
nghìn năm văn hiến ấy, khơng thể khơng kể đến sự góp mặt của các di tích
lịch sử văn hóa, mà ẩn dưới dáng vẻ rêu phong cổ kính chính là một kho tàng
quý báu của cha ông để lại cho chúng ta về kiến trúc, điêu khắc, trang trí và
phong tục cổ truyền, tín ngưỡng. Những di tích lịch sử - văn hóa sẽ trở nên có
ý nghĩa nếu như mỗi chúng ta hiểu đựơc lớp văn hóa trong nó, và có cái nhìn
chân thực, rõ ràng hơn về cội nguồn văn hóa dân tộc, biết lựa chọn khai thác
cũng như bảo tồn và phát huy những tinh hoa, truyền thống đạo đức, thuần
phong mỹ tục lấy đó làm nền tảng xây dựng nền văn hiến nước ta vừa mang
nét văn hóa cổ truyền vừa mang nét văn hóa hiện đại.
Những năm gần đây, cùng với khơng khí đổi mới đất nước trên tất cả
các lĩnh vực từ kinh tế, chính trị, xã hội…Các di tích đang được phục hồi, tơn
tạo, các lễ hội được mở ra ngày thêm khởi sắc ở khắp các tỉnh, thành phố,
làng quê, đó là minh chứng sắc đáng nhất về vai trị của các di tích lịch sử văn
hóa, về mục đích nhân văn cao cả hoàn thiện con người, hoàn thiện cái chân thiện – mỹ trong mỗi con người khi đến di tích.
Thành phố Hà Nội nói chung và quận Cầu Giấy nói riêng có nhiều di
tích lịch sử văn hóa có giá trị, việc khai thác và phát huy giá trị còn tiềm ẩn
trong di tích là một nguồn lực phong phú, đa dạng nhằm phát triển kinh tế du
lịch, đặc biệt trong năm có đại lễ kỷ niệm 1000 năm chuẩn bị diễn ra.
Tuy nhiên, nếu như chúng ta chỉ khai thác và phát huy giá trị của những
di sản mà không chú trọng đến việc bảo quản và tu bổ, tôn tạo thì sẽ hủy hoại
tới di sản văn hóa của dân tộc, đã có một bộ phận các di tích lịch sử văn hóa
bị đe dọa, bị sử dụng sai mục đích, bị thu hẹp lại, bị xóa bỏ, bn bán trái
phép di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia…Thực tế cũng chứng minh rằng mất đi
5
một nhà máy ta cịn có thể xây dựng lại thậm chí to đẹp hơn, nhưng nếu
những di sản văn hóa khơng cịn thì sẽ khơng thể thay thế như cũ được.
Nhận thức được điều này và được sự đồng ý của khoa bảo tàng và
giảng viên hướng dẫn tôi chọn ngơi đình Hạ n Quyết (Đình Cót) – Làng
Cót – Phường Yên Hòa - Quận Cầu Giấy – TP. Hà Nội làm đề tài khóa luận
tốt nghiệp đại học nghành bảo tàng học.
Mặt khác, qua cơng trình nghiên cứu này để góp phần vào tiến trình
bảo tồn di sản văn hóa của dân tộc.
2. Mục đích nghiên cứu
Từ những tư liệu lịch sử xác định lịch sử ra đời và q trình tồn tại của
di tích đình làng Cót.
Nghiên cứu, khảo tả những giá trị của di tích qua kiến trúc, điêu khắc
và lễ hội.
Tìm hiểu thực trạng của di tích và đề xuất những giải pháp bảo tồn, tơn
tạo và phát huy giá trị của di tích trong giai đoạn hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của khóa luận là Đình làng Cót (đình Hạ
n Quyết).
Phạm vi nghiên cứu: là đặt di tích đình Hạ n Quyết (đình Cót) trong
khơng gian lịch sử, văn hóa làng Cót – phường n Hịa – quận Cầu Giấy –
TP. Hà Nội.
4. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận sử dụng các phương pháp nghiên cứu liên nghành: Bảo tàng
học, Mỹ thuật học, Sử học, dân tộc học, sử học, mỹ thuật học, văn hóa dân
gian…
6
Phương pháp khảo sát tại thực tế và vận dụng các kỹ năng: quan sát, đo
vẽ, chụp ảnh, miêu tả, phỏng vấn để thu thập nguồn tài liệu của di tích.
5. Kết quả nghiên cứu
Xác định niên đại của di tích Đình Hạ n Quyết và q trình tồn tại
của di tích trong lịch sử.
Bước đầu xác định rõ đặc trưng và giá trị cơ bản về kiến trúc, điêu khắc
và những giá trị văn hóa phi vật thể gắn với di tích.
Đề xuất những giải pháp về bảo tồn tơn tạo và phát huy tác dụng của di
tích trong giai đoạn hiện nay.
6. Bố cục khóa luận
Ngồi phần mở đầu và kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, khóa luận
có cấu trúc 3 chương:
Chương 1: Lịch sử hình thành và q trình tồn tại của di tích đình Hạ
Yên Quyết
Chương 2: Giá trị kiến trúc, nghệ thuật, lễ hội di tích đình Hạ n Quyết
Chương 3: Bảo tồn, tơn tạo và phát huy tác dụng của di tích đình Hạ Yên
Quyết
7
Chương 1
LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ QUÁ TRÌNH TỒN
TẠI CỦA ĐÌNH HẠ N QUYẾT
1.1. Tổng quan về khơng gian văn hóa nơi di tích tồn tại.
1.1.1. Lịch sử vùng đất.
Đình làng Cót ( đình Hạ n Quyết) thuộc phường n Hòa - quận
Cầu Giấy – thành phố Hà Nội, nằm ở phía tây cách trung tâm thành phố 6km.
Muốn tới thăm di tích du khách có thể đi theo nhiều ngả đường khác nhau,
nhưng theo trục đường thuận lợi nhất là:
Từ trung tâm bưu điện Bờ Hồ ra đường Tràng Thi - Nguyễn Thái học –
Kim Mã đến Cầu Giấy rẽ trái vào đường Láng đi khoảng 1km rẽ phải qua cầu
Cót - được xây từ thời Lý bắc qua sơng Tơ. Rẽ trái đường vào Ủy ban xã n
Hịa, đến gần Ủy ban xã thì rẽ phải đi vào làng khoảng 800m đến Đình làng
Cót (đình Hạ n Quyết).
Cầu Giấy là quận được thành lập theo nghị quyết 74 CP ngày 21/11/
1996 của chính phủ, nằm ở phía tây của thủ đơ. Với diện tích là 19,59km và
dân số là 210,608 người (năm 2009). Gồm có 8 phường là Dịch Vọng, Dịch
Vọng hậu, Mai Dịch, Nghĩa Đô, Nghĩa Tân, Quan Hoa, Trung Hịa, n Hịa.
Phía Bắc giáp quận Tây Hồ, Phía Đơng giáp quận Đống Đa – Ba Đình,
Phía Tây giáp quận Từ Liêm, Phía Nam giáp quận Thanh Xn.
n Hịa ngày nay thuộc quận Cầu Giấy, phía Bắc giáp phường Dịch
Vọng, trung tâm quận Cầu Giấy, phía Nam giáp phường Trung Hịa, phía tây
giáp Mễ Trì, Mỹ Đình, cịn phía Đơng giáp phường láng Thượng, quận Đống
Đa.
Thời Lê Sơ, n Hịa có tên xã n Quyết, tên nơm là Kẻ Cót, thuộc
huyện Từ Liêm, phủ Quốc Oai, Xứ Sơn Tây, khoảng đến đầu thế kỷ 16 tách
ra làm hai xã An Hòa – tên thường gọi là làng Giấy và Hạ Yên Quyết – tên
8
thường gọi là làng Cót và có tên chữ là Bạch Liên. Cuối thời Lê đầu thời
Nguyễn cả hai xã An Hòa và Hạ Yên Quyết đều thuộc Tổng Dịch Vọng,
huyện Từ Liêm, phủ Quốc Oai, Xứ Sơn Tây, đến năm Minh Mệnh thứ 12
(1831) đựơc cắt thuộc về phủ Hồi Đức, tỉnh Hà Đơng. Đến tháng 12 năm
1942 cả hai xã được cắt thuộc về Đại Lý đặc biệt Hà Nội (Đại Lý Hồn
Long). Trong thời kì Hà Nội bị giặc Pháp chiếm đóng, năm 1949 chính quyền
bí mật của ta gọi là liên xã Song Yên, đến đầu 1956 mới chính thức gọi là xã
n Hịa thuộc quận 6. Năm 1961 cắt nửa phố Cầu Giấy phía ngồi thuộc
quận Ba Đình cịn xã thuộc huyện Từ Liêm.
Ngày 22/11/1996 chính phủ ra nghị định số 74 – CP thành lập quận
Cầu Giấy trên cơ sở tồn bộ diện tích tự nhiên và nhân khẩu của các thị trấn
Cầu Giấy, Nghĩa Đô, Nghĩa Tân, Mai Dịch, và các xã Dịch Vọng, Yên Hòa,
Trung Hòa của huyện Từ Liêm. quận Cầu Giấy khi mới thành lập gồm có 7
phường: Quan Hoa, Nghĩa Đơ, Nghĩa Tân, Mai Dịch, Dịch Vọng, n Hịa,
Trung Hòa. Ngày 5 / 1 / 2005 Nghị định số 02/ 20005 ND – CP của chính phủ
quyết định thành lập phường Dịch Vọng Hậu thuộc quận Cầu Giấy trên cơ sở
điều chỉnh địa giới hành chính của phường Quan Hoa và phường Dịch Vọng.
Như vậy, làng Cót (thuộc phường n Hịa ngày nay) chiếm một vị trí
chiến lược quan trọng, nơi địa đầu cửa ngõ phía tây của thủ đô, nơi tiếp giáp
nội thành và ngoại thành từ rất lâu đời.
1.1.2 Đời sống dân cư.
Vùng đất ven thành Thăng Long từ hai vùng thượng nguồn sông Tô
đến sông Nhuệ vốn là vùng đất cổ. Ngày nay, các nhà khảo cổ học qua khảo
sát thực tế ở địa phương với những truyền thuyết dân gian, ca dao tục ngữ, tên
làng, xã cùng ngọc phả, thần tích, di tích lịch sử văn hóa, gia phả đã chứng
minh được chắc chắn hồi đầu cơng ngun cách đây trên 2000 năm, thì vùng
đất này đã có dân cư đến cư trú, khai phá lập làng xóm ven sơng Tơ.
9
Nằm ở vùng đất phía tây thành Thăng Long, Cầu Giấy là vùng đất có bề dày
lịch sử, là một trong những địa bàn cư tụ của cư dân Việt cổ, đã từng góp phần
làm nên nền văn minh sơng Hồng rực rỡ. Dù ở thời kỳ nào, Cầu Giấy cũng
ln gắn bó với đất kinh thành Thăng Long, là một phần của những con
đường thủy, đường bộ chính nối thành Thăng Long với mọi miền đất nước, do
vậy vùng đất này đóng một vai trị rất lớn trong phát triển kinh tế - quân sự
của thành Thăng Long xưa cũng như Hà Nội hiện nay.
Từ xa xưa, người dân Cầu Giấy đã rất giỏi trị thủy để phát triển nền
nông nghiệp lúa nước, bởi vậy, vùng này lấy nghề trồng cây lúa là chủ yếu,
cùng với trồng lúa các làng nghề trồng rau, trồng hoa cũng phát triển nổi tiếng
khắp kinh thành như hoa lơ (Dịch Vọng), hoa huệ, bắp cải (Mai Dịch), cốm
(làng Vòng - Dịch Vọng). Cùng với nghề nơng thì nghề thủ cơng truyền thống
cũng được phát triển. Cách đây trên 1000 năm thì Nghĩa Đơ đã phát triển
nghề dệt lĩnh, dệt lụa, làng Nghè vùng Nghĩa Đô cũng nổi tiếng làm giấy sắc
chỉ. Tuy nhiên, không chỉ phát triển về kinh tế, mà Cầu Giấy cịn là vùng đất
văn vật với “Mỗ, La, Canh, Cót tứ danh hương”,
“Đất Kẻ Giàn, quan Kẻ Vẽ”.
Thật vậy, Yên Hịa hay cịn có tên văn tự là Hạ An Quyết, là nằm trong
khu vực tụ cư của cư dân Việt cổ thời dựng nước, từ lâu đời đã gắn bó với
Thăng Long – Đơng Đơ – Hà Nội. Về tên làng Kẻ Cót là tên nơm rất cổ, có ý
kiến cho rằng có thể có từ đầu cơng ngun.
Căn cứ vào truyền thuyết và những di tích cịn xót lại ở trong xã thì
ngay từ thế kỷ 6 Lý Nam Đế (544 – 548) đã lập đồn lũy bên bờ sông Tô để
chống quân xâm lược nhà Lương, chứng tích xưa kia ở miếu Quan Hoa và
Miếu Xóm Hậu thờ hai công chúa con vua Lý Nam Đế là Vạn Phúc phu nhân
và Tứ nàng phu nhân.
Theo như cuốn “Bạch Liên khảo ký” do Huệ phủ Nguyễn Quang Địch,
người làng Hạ Yên Quyết viết bằng chữ Hán vào đời Minh Mệnh thứ 12
(1820 - 1840) thì dân làng Cót đến tụ cư từ thời nhà Đường đô hộ nước ta
10
(812 – 825), đầu tiên có năm họ lớn là Nguyễn, Hồng, Quản, Dỗn, Trần,
sau thêm các họ Phạm, Lê, Ngô. Qua những tư liệu kể trên minh chứng cách
đây trên 2000 năm trên đất n Hịa đã có cư dân đến sinh sống và vào thời
Lý, Trần đã thành làng xóm đơng đúc.
Trải qua hai nghìn năm dựng nước và giữ nước thì người dân ở làng
này khơng chỉ giỏi trị thủy để tạo ra những cánh đồng phì nhiêu mà còn tạo ra
những đặc sản nổi tiếng trong nước khơng đâu có được như:
“Cốm Làng Vịng, gạo tám Mễ Trì
Tương Bần, húng Láng cịn gì ngon hơn”.
Với đơi bàn tay khéo léo của mình người dân cịn sản xuất ra nhiều sản
phẩm thủ công cực kỳ tinh sảo như hàng mã, giấy quạt…mà xa xưa khi sơng
Tơ cịn rộng, có thuyền bè đi lại bn bán ở Thăng Long, thì ở đây đã có
thuyền đến mua giấy viết, giấy quạt mà sử cũ ghi là ngõ Tác Chỉ (làm giấy) ở
cầu Tây Dương, nơi có nghề làm giấy lâu đời trước cả vùng Bưởi.
Nằm trong cái nôi của nền nông nghiệp lúa nước ấy, xưa kia người dân
Hạ Yên Quyết cũng sống chính bằng nghề làm ruộng, cả làng lúc đó có tới cả
trăm mẫu ruộng cơng chia cho mỗi trai đinh hai sào, ruộng tư cũng có tới 300
mẫu, nhưng dân không thuần túy làm nông nghiệp mà còn kiêm thêm nghề
phụ như nhuộm giấy màu, làm vàng thoi, làm hàng quà như bánh cuốn, bánh
rán...Một số người bn bán và có tới 30 người kéo xe tay, phụ nữ làng này
rất chăm chỉ tháo vát, nên dân nơi đây thường lưu truyền câu “Đàn ông kẻ La,
đàn bà Kẻ Cót” để ca ngợi.
Làng Cót cũng có chợ họp ở đầu làng, xưa cũng xây mấy cái cầu ngói,
mỗi năm chỉ có một ngày chợ phiên chợ vào ngày 24 âm lịch, hàng ngày chỉ
bán rau, gạo, quà bánh…
Trong giai đoạn đổi mới của đất nước, đặc biệt là q trình cơng nghiệp
hóa - hiện đại hóa đất nước, sự mở rộng và phát triển của thủ đơ Hà Nội –
Trung tâm kinh tế - chính trị - văn hóa của cả nước thì việc đơ thị hóa đã tác
động đến các làng xã nói chung và làng Cót nói riêng, một bộ phận dân cư từ
11
nơi khác đã di cư đến mua đất, làm nhà và lập nghiệp tại đây, thành phần dân
cư đã có sự thay đổi, bên cạnh những người nông dân thời trước và những
người bn bán tự do thì cịn có một bộ phận những cán bộ công chức nhà
nước, sinh viên… Những yếu tố này cũng tác động mạnh đến nếp sống, nếp
nghĩ cũng như các sinh hoạt văn hóa của người dân nơi đây, có thể do ảnh
hưởng của nếp sống đô thị, của nền kinh tế thị trường và lối sống hiện đại từ
phương tây nên mối quan hệ làng xã khơng cịn được chặt chẽ như trước, tuy
nhiên đại bộ phận các gia đình vẫn giữ được những nét đẹp truyền thống của
Người Việt về mối quan hệ “ Tình làng, nghĩa xóm” “ tắt lửa tối đèn có nhau”
hay “ bán anh em xa mua láng giềng gần” giúp đỡ nhau trong cuộc sống.
Người dân làng Cót thân thiện chan hịa trong cuộc sống, chăm chỉ,
ham học hỏi, sáng tạo trong lao động sản xuất và anh hùng trong chiến đấu
bảo vệ tổ quốc, đó là những nhân tố cơ bản làm nên bản sắc văn hóa truyền
thống của mảnh đất này.
Ngày nay cùng tiến bước theo q trình phát triển cơng nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, kế thừa và phát huy truyền thống hào hùng của vùng
đất có bề dày lịch sử. Từ ngày thành lập đến nay Đảng bộ chính quyền và
nhân dân Cầu Giấy đã nêu cao tinh thần đòan kết vượt qua mọi khó khăn, xây
dựng quận khơng ngừng lớn mạnh về mọi mặt. Mười một năm - một chặng
đường ngắn so với chiều dài 1000 năm của Thăng Long – Hà Nội nhưng quận
đã có nhiều đổi thay. Từ một vùng đất ven nội của thủ đô, sản xuất nơng
nghiệp là chủ yếu, kinh tế cịn nghèo nàn, cơ sở hạ tầng yếu kém, giờ đây Cầu
Giấy là quận nội thành với cơ cấu hạ tầng đô thị ngày càng văn minh, hiện đại
kinh tế phát triển mạnh theo cơ cấu Dịch vụ - Công nghiệp – Nông nghiệp,
văn hóa xã hội có nhiều tiến bộ, đời sồng vật chất – tinh thần của nhân dân
được cải thiện rõ rệt. Điều này phản ánh rõ rệt vào lễ hội thông qua thành
phần tham gia, tinh thần lễ hội cũng như vai trị, vị trí của lễ hội trong tâm
thức của người dân nơi đây.
12
1.1.3 Truyền thống văn hóa.
Trải qua hàng ngàn năm lao động, giữ gìn và xây dựng đất nước, nhân
dân Cầu Giấy cần cù lao động và sáng tạo, đã tạo dựng nên những cơng trình
lớn về kinh tế, văn hóa …
Cầu Giấy là một vùng đất cổ, vết tích của cha ông để lại đã chứng minh
điều này, vào tháng 3 năm 1978 khi đào sông Tô Lịch ở địa phận làng Cót, đã
thấy di vật đó là cái quan tài bằng cả cây gỗ khoét rỗng, các nhà khảo cổ đốn
định ngơi mộ có từ đầu cơng ngun, nghĩa là ít nhất cách đây 2000 năm đã
có người đến đây ở. Từ thế kỷ thứ VI thì vua Lý Nam Đế đã về xây dựng đồn
lũy trên sông Tô để chống giặc Lương xâm lược.
Cầu Giấy còn là nơi lưu giữ nhiều di tích có giá trị, nhân dân nơi đây
luôn tự hào về mảnh đất văn hiến, giàu truyền thống và có những lễ hội đặc
sắc. Tại Nghĩa Đơ có đền thờ tướng qn Trần Cơng Ích và miếu thờ hai chị
em họ Lê có cơng giúp Vua Lê Đại Hành chống quân xâm lược nhà Tống
năm 981. Đình Bái Ân ( Nghĩa Đơ) là ngơi đình cổ duy nhất thờ ba vị thành
hoàng làng là Chiêu Ứng Vũ Đại Vương, Thuận Chính cơng chúa và Chiêu
Điều Đại Vương, Đình làng Nghè thờ tướng qn Trần Cơng Tích đã có cơng
chống qn xâm lược nhà Tống ( Thời vua Lê Đại Hành (980 – 1005 ). Chùa
Dụ Ân làng Bái Ân (Nghĩa Đô) là nơi tu hành và dạy học của tôn thất nhà Lý
Công Uẩn, tiêu biểu nhất trong số học trị của ơng là anh hùng dân tộc Lý
Thường Kiệt. Chùa Chúa Thánh ( Dịch Vọng) một thắng cảnh đẹp, gắn liền
với truyền thống và lịch sử của triều đại vua Lý Thánh Tông, Chùa Hà ( Dịch
Vọng) được xây dựng năm 1680. Năm Cảnh Thịnh thứ bảy (1799) được tu
sửa lại và đúc chuông. Đời Nguyễn nhân dân thôn Dịch Vọng trung phải dấu
quả chuông tránh việc vua quan nhà Nguyễn phá hủy quả chuông để trả thù
nhà Tây Sơn, tam bảo chùa Hà được xây dựng năm 1928 theo kiểu cung đình
Huế và quả chuông quý được treo tại đây. Chùa Hà là một trong những di tích
cách mạng thời kì tiền khởi nghĩa của đất Hà Thành...Trên đây, chỉ là một số
những di tích tiêu biểu trong số 64 di tích lịch sử, văn hóa, cách mạng của của
13
Cầu Giấy. Những di tích này là thành quả lao động, sáng tạo giữ gìn của bao
thế hệ người dân nơi đây.
Nhân dân vùng Cầu Giấy có truyền thống hiếu học, là một trong những
cái nôi văn hiến của đất kinh kỳ. Nhiều người học giỏi đỗ đạt cao, lớp đỗ đại
khoa có Hồng Qn Chi – Thái học sinh đời Trần (1393), Nguyễn Quang
Minh – thái học sinh đời Hồ (1400), đều ở làng Cót (n Hịa). Nguyễn Lan
đỗ tam giáp tiến sĩ đời Lê Thánh Tông, niên hiệu Hồng Đức thứ ba (1472).
Đoàn Nhân Thục đỗ đệ nhị giáp tiến sĩ đời Lê Hiển Tông niên hiệu Cảnh
Thắng thứ năm (1502) ở Nghĩa Đơ. Nguyễn Sần cịn gọi là Nguyễn Tiên
người làng Dịch Vọng Tiền đỗ Nhị Giáp Tiến Sĩ năm Thuận Bình Thứ sáu
(1554). Nguyễn Vịnh người làng An Phú (Nghĩa Đô) đỗ Đệ Tam Giáp tiến sĩ
đời vua Lê Hiển Tông niên hiệu Vĩnh Thọ thứ hai (1659). Nguyễn Đình Hồn
người làng Bái Ân đỗ Đệ Nhị Giáp Tiến Sĩ đời vua Lê Hy Tôn niên hiệu
Chính Hịa…Số người đỗ cử nhân, tú tài rất nhiều khơng kể hết được.
Ngồi ra, cịn có nhiều nhân tài nổi tiếng về thơ phú như nhà thơ
Nguyễn Khả Trạc ( Mai Dịch), Nguyễn Đình Hồn (Nghĩa Đơ), thời cận đại
có nhà viết kịch Hồng Thúc Hội (n Hịa), Nhà văn Tơ Hồi là người con
vùng đất Nghĩa Đơ – Ông là một nhà văn, nhà thơ lớn trong dòng văn học
cách mang Việt Nam và có lẽ nhắc đến Ông trong ký ức của mỗi chúng ta lại
trở về với thời thơ ấu với chú “ Dế Mèn Phiêu Lưu Ký”, với những cuộc
phiêu lưu đầy thú vị .
Nhân dân Cầu Giấy có truyền thống giàu lịng u nước, Qua những
thư tịch cổ, thần phả, gia phả, cho thấy cách đây hơn 2000 năm nhân dân
trong vùng đã đồng lịng nhất trí cùng tham gia khởi nghĩa Hai Bà Trưng. Đầu
thế kỉ VI khởi nghĩa Lý Bí chống quân xâm lược nhà Lương, Hoàng Quán
Chi đã tham gia khởi nghĩa dưới lá cờ của Lê Lơị và được phong làm tướng
giữ chức Đổng tri lực sĩ, cuối thế kỉ XIX, Cầu Giấy là căn cứ chống Pháp của
quân đội phái chủ chiến, và nghĩa quân Bắc Hà do Hoàng Kế Viêm và Tôn
Thất Thuyết chỉ huy, nhân dân đã tham gia giúp lương thực và chiến đấu, trận
14
chiến thắng tiêu biểu là chém tại trận hai sĩ quan Pháp là Phrang Gac–Ni–E
(21/12/1873) và Hăng–Ri–Vi–E (19/5/1883). Những năm đầu thế kỉ XX cùng
với các phong trào chống Pháp của đất Hà Thành, một số nhà nho đã mở
trường dạy học và truyền bá tư tưởng yêu nước tiến bộ, khơi dậy niềm tự hào
dân tộc, tiếp thu ánh sáng của Đảng và là bước chuyển cho các phong trào
cách mạng ở giao đoạn tiếp theo. Trong tiến trình lịch sử thời kỳ 1926 – 1945,
vùng Cầu Giấy với những con người có tinh thần cách mạng yêu nước nồng
nàn đã giúp cho Trung Ương Đảng, Xứ ủy, Thành ủy nắm chắc diễn biến tình
hình, lãnh đạo thành cơng cuộc khởi nghĩa cách mạng tháng 8 đánh dấu son
trong lịch sử hào hùng đưa đất nước ta bước sang một thời kỳ mới. Trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước cùng với thành phố nhân dân Cầu Giấy
bước vào thời kỳ vừa sản xuất vừa chiến đấu, hết lòng, hết sức chi viện cho
miền Nam ruột thịt.
Cũng giống như bao làng q khác, Làng Cót mang trong mình một
truyền thống văn hóa lâu đời với những di tích lịch sử văn hóa khá tiêu biểu
như Đình Hạ n Quyết, đây là di tích đã được bộ văn hóa thể thao và du lịch
xếp hạng di tích lịch sử văn hóa, trong làng cịn có ba miếu là nơi thờ chính
của năm vị thành hồng làng, đó là Miếu Cả ( Thờ Diêm La Đại Vương và
thánh bà bản thổ Hoàng Cung Chinh Thục Phu Nhân), Miếu Chợ ( Thờ Cao
Sơn Hiển Ứng Đại Vương), Miếu Chùa ( Thờ Mộc Đức Tinh Quân Đại
Vương và Tràng Hám Anh Linh Đại Tướng Quân), “Chùa Ngọc Quán theo
tấm bia còn lại ở chùa thì xưa kia chùa lợp lá, mới được xây gạch lợp ngói và
đúc chng năm Cảnh Thịnh thứ 8 (1800) đến thời Nguyễn sợ bị phá nên dân
làng phải đem quả chuông bỏ xuống giếng đặt ở gần chùa vì các nhà vua nhà
Nguyễn ra lệnh phá bỏ các di vật thời Tây Sơn. Năm 1946 giặc Pháp về đốt
chùa, đến năm 1950 mới làm lại, quả chuông cũ được lấy treo lên”.1
1
Đỗ Thỉnh (2000), địa chí ven thành Thăng Long, NXB Văn hóa thơng tin, Tr 41.
15
Vùng Cầu Giấy có 7 danh nhân và hai làng khoa bảng, thì n Hịa là
một trong hai làng đó, đã kế thừa và phát huy xuất sắc những truyền thống
vốn có của đất Cầu Giấy.
Thời Lý, n Hịa nằm trong trung tâm phật giáo lớn phía tây thành
Thăng Long, nhiều quý tộc, tôn thất của vương triều Lý đã xây dựng dinh thự
trong khu vực này như Sùng Diên Hầu, Diên Thành Hầu, năm 1789 khi đánh
tan 20 vạn quân Thanh xâm lược kinh thành Thăng Long, nghĩa quân Tây
Sơn đã tập kích tại đồn Yên Quyết để mở đường tiến vào chiến trận Đống Đa
lịch sử. Có thể nói n Hịa là vùng đất có lịch sử và truyền thống văn hóa lâu
đời, hiếu học và có nhiều người học giỏi đỗ đạt cao. Từ thời Trần đến thời
Nguyễn đã có 23 người đỗ tiến sĩ, trong đó 5 người đỗ nhất giáp, nhị giáp, 17
người đỗ tam giáp và một phó bảng, gần 60 người đỗ hương cống ( cử nhân),
và hàng trăm người đỗ sinh đồ, tú tài, hán học. Trong suốt quá trình tạo dựng
và phát triển phồn thịnh lâu dài của làng xã không thể khơng thể phủ nhận vai
trị của các dịng họ lớn sớm có trên mảnh đất này như: họ Nguyễn, họ Hồng,
họ Quản, họ Dỗn, họ Trần…là những dịng họ lớn với những người đỗ đạt
cao góp phần khơng nhỏ vào truyền thống một làng khoa bảng của đất Thăng
Long. Theo cuốn “ Từ Liêm đăng khoa lục”, do cử nhân Bùi Xuân Nghi
người làng Vân Canh viết năm Thành Thái thứ 7, (1896), thời làng Hạ Yên
Quyết có 9 tiến sĩ, 46 cử nhân và nhiều tú tài, trong sự học của làng có sự
đóng góp của họ Nguyễn lúc đó được xếp hàng đầu các họ của Yên Hòa, mà
cụ tổ họ là Nguyễn Như Uyên là người có tài đức nên cơng danh sự nghiệp
của ơng đạt tới tột đỉnh vinh hoa đó là chức Tham tụng lại bộ thượng thư
trưởng lục bộ sự, kiêm Quốc Tử Giám tế tửu, nhập thị kinh diên, hàm chánh
nhất phẩm khi về trí sĩ, Nguyễn Như Un được triều đình gia phong Thái
Bảo, Liêm Quận Công, năm Kỷ Hợi Hồng Đức thứ 5 (1479), triều đình cử
quân đi đánh Ai Lao, Bồn Man và Lô Qua, Nguyễn Như Uyên được cử làm
Hoành Quân chư danh ký lục, do vua Lý Thánh Tông ban sắc dụ “ Lại sắc
cho quan ký lực là Nguyễn Như Uyên, Nguyễn Căng rằng: “ Trên từ trướng
16
súng, dưới đến quân lính người nào chăm chỉ, được việc, hay lười biếng ngu
đần, kẻ nào dám nhút nhát hết thảy phải ghi chép rõ để tâu lên”. Cụ tổ đời thứ
hai là Nguyễn Xuân Nham đỗ đồng tam giáp, xuất thân khoa Kỷ Mùi niên
hiệu Cảnh Thống hai (1505) làm quan tới chức Hồnh bộ đơ cấp tự trung. Cụ
tổ đời thứ ba là Nguyễn Khiêm Quang, tự là Dương Hối, Thụy, là Lỗ Khê
Tiên sinh, thi đỗ giải nguyên khoa Quý Mùi năm Thống Nguyên 2 (1523)
được ban Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân làm quan chức Mậu Lâm Lang
phụng trí đại phu lang sơn sứ tán tri, thừa chánh sứ…Cụ tổ đời thứ 5 là
Nguyễn Nhật Tráng tên tự là Ninh Trai Thụy, là Trung đại vương đỗ hội
nguyên khoa Ất Mùi năm Quang Hưng thứ 12 (1589) thi đỗ nhị giáp chánh
tiến sĩ Thăng Long lại bộ cấp sử trung hậu phong kiết tiết tá công thần, đặc
tiến kim tử vinh lộc đại phu. Truyền thống hiếu học khoa bảng của họ Nguyễn
luôn được các thế hệ sau kế tục phát huy, chỉ riêng hai thời Lê Trung Hưng và
Nguyễn dịng họ có 31 đỗ cử nhân, tú tài, người thì xuất thân làm quan, người
thì mở lớp dạy học, ở cương vị nào thì con cháu họ Nguyễn cũng nêu cao
đức, tài tận tụy với công việc, giữ vững truyền thống văn hóa và đại nghĩa của
tổ tiên. Dịng họ được xếp thứ hai là dịng họ Hồng, theo cuốn “ Thế phả họ
Hoàng” do con cháu đời thứ 15 là Hoàng Thúc Hội đỗ cử nhân khoa Canh tý
và Hoàng Tất Đạt cử nhân huấn đạo huyện Hiệp Hòa ghi lại thì thủy tổ của họ
Hồng là Hồng Qn Chi làm quan Thượng thư đời Trần, sách “Đại Việt sử
ký toàn thư” dịch theo bản khắc năm Chính Hịa 18 (1697) (nhà xuất bản
khoa học xã hội xuất bản năm 1998) có ghi “ Quý Dậu Quang Thái thứ 6
(1393) – Minh Hồng Vũ năm thứ 26… tháng 2 thi thái học sinh cho đỗ 30
người là bọn Hoàng Quán Chi, Lê Vị Tẩu, Mai tú Phu, Đồng Thức...” căn cứ
nguồn cứ liệu khác đều cho rằng cụ Hoàng Quán Chi là người làng Hạ Yên
Quyết, huyện Từ Liêm nay thuộc phường Yên Hòa, quận Cầu Giấy, cụ đỗ
Thái học Sinh, đỗ đầu khoa thi năm Quý Dậu, đời vua Trần Thuận Tông niên
hiệu Quang Thái thứ 6 (1398) làm quan đến chức thượng thư thẩm hình viện,
khi mất được tặng lễ bộ thượng thư, sách “ Bạch Liên khảo ký” do Huệ Phủ
17
Nguyễn Quang Địch - nguời họ Nguyễn ở làng – Tri phủ Kiến An và phủ Hà
Trung, duới triều vua Minh Mệnh thứ 12 (1820 – 1840) có chép “ Cụ sinh ra
ứng với điểm sao trên trời, tương truyền thân mẫu cụ Hoàng Quán Chi sáng
sớm đi ghánh nước thấy có ngơi sao sa vào thùng nước bèn lấy vạt áo đậy lại
đem về để uống riêng một mình, sau có mang sinh ra Hồng Qn Chi ” lớn
lên Hồng Qn Chi rất thơng minh, văn chương của cụ “ trội hơn cả nước”
sách “ Từ Liêm đăng khoa lục” có ghi tiến sĩ của Từ Liêm xưa và cụ là người
đỗ đại khoa mở đầu của huyện cũng theo cuốn “ Thế phả họ Hồng” thì họ
Hồng có từ trước đời cụ Hoàng Quán Chi nhưng do năm tháng mai một,
khơng có căn cứ khảo rõ. Đời thứ hai cụ Hoàng Thanh Phong giữ chức đồng
chi lực sĩ triều Lê, đời thứ ba cụ Đoan Trung, húy Công Thanh làm chỉ huy sứ
triều Lê, đỗ tam trường từng làm tri huyện Duy Tiên, sau lại trúng tuyển làm
cẩm y vệ chỉ huy sứ. Đời thứ tư là cụ Trực Bình húy là Cơng Đạo, làm quan
chức Đề Khống ở sở doanh tạo trúc mộc triều Lê. Đời thứ năm là cụ Trực Tín
húy là Văn Tiến, được phong tặng tham chánh thời Mạc. Đời thứ sáu là cụ An
Nghĩa húy Bồi, tự Hoằng Nghị Lang triều Mạc, đỗ đệ tam giáp tiến sĩ, đồng
xuất thân năm Mậu Thìn, năm Sùng Khang thứ ba đời Mạc Mậu Hợp làm
chức thần võ tư lục sự, làm hiến sát sứ đạo Hưng Hóa sáu năm rồi Cơng khoa
đơ cấp sự trung, sau làm Thừa tuyên sứ đạo Hưng Hóa, Lại Thăng lễ bộ hữu
thị lang, làm Triều liệt đại phu lâm cục thuộc Chiêu văn Quán. Đời thứ bẩy
cụ Phúc Miên húy Miễn Thiều, tự Nhân Thọ, làm tri huyện thời Lê. Đời thứ
tám cụ Phúc Thực, húy là Nhân Đồng, làm thừa tự thời Lê. Đời thứ chín là cụ
Phúc Ân húy Lộc, tự là Nhân Hậu thi hương đỗ tam trường thời Lê…
Tính đến nay, dịng họ Hồng ở làng Cót đã phát triển đến đời thứ hai
mươi hai nối tiếp truyền thống cha ông vẫn tiếp tục phát triển phồn thịnh và
thành đạt làm rạng danh tên tuổi của một dòng họ lớn, một số tri thức thời cận
đại đều tập trung vào họ Hồng đó là Hồng Thúc Trâm (1902 – 1977) con
trai cụ Hoàng Thúc Hội - Người viết kịch bản đầu tiên cho vở tuồng “ Trưng
Vương lịch sử”, bút danh là Hoa Bằng hội viên hội nhà văn, hội sử học Việt
18
Nam, tác giả của nhiều cuốn sách “ Quang Trung anh hùng dân tộc”, “ Tư
Tưởng đại đồng trong cổ học Trung Hoa”… ơng được giải thưởng Hồ Chí
Minh và hiện nay tại quê hương ông đã đặt tên phố theo tên bút danh nhằm
ghi nhận công lao của ông đối với quê hương đất nước. Hoàng Thúc Tấn
(1912 – 1986) làm tham tấn rồi làm thư ký tòa đốc lý Hà Nội, tham gia sáng
lập tờ Thanh Nghị - Một tờ báo của trí thức Việt Nam những năm 1940. Ơng
là phụ thân của giáo sư Hồng Xn sáng – chuyên gia vật lý nguyên tử
thuộc trung tâm quốc gia nghiên cứu khoa học Pa ri và giáo sư tiến sĩ Hồng
xn Sính - nữ tiến sĩ tốn học, người sáng lập ra trường đại học dân lập
Thăng Long, nhà khoa học Hồng Sước. Tính đến nay dịng họ Hoàng vẫn
tiếp tục phát huy truyền thống của tổ tiên với nhiều người đỗ đạt : 22 người có
trình độ trên đại học trong đó có 10 tiến sĩ, 12 thạc sĩ, 186 cử nhân, 294 tú tài.
Sau đó là họ Quản được xếp thứ ba, dịng họ có nhiều đóng góp xây
dựng làng xóm với cụ Quản Huy Cảnh đỗ hương khoa làm quan thanh liêm,
có cơng với dân. Họ Doãn xếp thứ tư với bốn người đỗ đạt làm quan là Dõan
Tuấn Tài thi hội tam trường làm quan tri huyện, Doãn Trung Lương, Doãn Cư
Vị đỗ Hồng Lô Tư Hạp môn sứ.
Như vậy, trong số các làng khoa bảng của Thăng Long – Hà Nội thì
n Hịa là một làng thành đạt cả về đại khoa, trung khoa và tiểu khoa, sau
cách mạng tháng 8 – 1945 làng Yên Hòa vẫn phát huy được bề dày truyền
thống hiếu học, khoa bảng của mình một cách hiệu quả nhất và đóng góp tích
cực cho nền giáo dục của đất nước thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, n
Hịa ngày nay có hàng trăm người tốt nghiệp đại học, nhiều người đạt học
hàm học vị cao như tiến sĩ, giáo sư. Nhiều người nổi danh trong cả nước bởi
những đóng góp của họ với sự nghiệp phát triển khoa học, kỹ thuật, văn hóa,
giáo dục như giáo sư Hoàng Xuân Sáng - chuyên gia vật lý nguyên tử, giáo sư
tiến sĩ Hồng Xn Sính - nữ tiến sĩ tốn học.
Truyền thống hiếu học, khoa bảng của n Hịa ln trường tồn và gắn
kết với những di tích lịch sử của làng như đình, đền, nhà thờ họ - nơi lưu giữ
19
và phát huy những truyền thống văn hóa của làng, thông qua việc thờ phụng
các vị thần, các tổ của dòng họ thể hiện tấm lòng ngưỡng mộ tri ân của người
dân n Hịa với những người có cơng với đất nước với dân và tổ tiên.
Mang trong mình dịng máu lạc hồng, những người con của n Hịa
đã khơng quản những hy sinh, mất mát tham gia chiến đấu trong hai cuộc
kháng chiến trường kì chống thực dân Pháp và đế Quốc Mỹ xâm lược, có 14
liệt sỹ anh dũng hy sinh bảo vệ tổ quốc, hai bà mẹ Việt Nam anh hùng là
Nguyễn Thị Dật và Nguyễn Thị Bé, cùng nhiều những vị lão thành cách
mạng. Cũng chính trong cuộc kháng chiến chống Pháp đình Cót là nơi tụ họp
bí mật về tổ chức giành chính quyền từ tay giặc Nhật và là nơi ẩn nấp của các
cán bộ định hậu lúc đó về hoạt động trong nội thành. Miếu Chợ là nơi thường
xuyên tụ họp để dự các cuộc mít tinh, biểu tình, cũng như sáng ngày 02/ 09/
1945 tập hợp để đi cướp chính quyền ở Hà Nội, Miếu Cả là nơi họp hành học
tập bí mật của đoàn thanh niên cứu quốc. Miếu Chùa là trụ sở của đoàn thanh
niên cứu quốc và cũng là nơi huấn luyện quân sự của tự vệ chiến đấu và qn
du kích của làng Cót, từ trước cách mạng thành cơng cho đến ngày tồn quốc
kháng chiến.
Kế thừa và phát huy những truyền thống tốt đẹp đó dân làng Cót ngày
nay khơng ngừng phấn đấu vươn lên, khơng chỉ phát triển kinh tế nâng cao
đời sống, mà vẫn tiếp tục phát huy truyền thống khoa bảng với rất nhiều
người đỗ đạt cao, có học hàm học vị, đội ngũ trí thức làm việc trong các cơ
quan nhà nước như giáo viên, bác sỹ, kỹ sư…
1.2. Lịch sử hình thành và q trình tồn tại của di tích
1.2.1 Truyền thuyết các nhân vật được thờ ở đình làng Cót.
Với truyền thống tốt đẹp của dân tộc “Uống nước nhớ nguồn”, mỗi
người dân Việt Nam nói chung và cộng đồng làng xã nói riêng đều tưởng nhớ
đến cơng lao của những anh hùng hào kiệt trong sự nghiệp dựng nước và giữ
nước của dân tộc.
20
Đình Cót là nơi thờ năm vị thành hồng của làng, ngồi ra năm vị này
cịn được phụng thờ ở ba miếu trong làng đó là Miếu Chợ thờ thần Cao Sơn
Hiển Ứng Đại Vương, miếu chùa thờ Mộc Đức Tinh Quân Đại Vương, và
đức bản thổ Tràng Hám Anh Linh Đại Tướng Quân, miếu Cả thờ Diêm La
Anh Đoán Đại Vương và đức thánh bà bản thổ Hoàng Cung Trinh Thục Phu
Nhân.
Vị thần thành hoàng thứ nhất là Đức thánh Cao Sơn Hiển Ứng Đại
Vương. Các tư liệu địa phương cho biết khi năm vị tổ của năm dòng họ
Nguyễn, Hồng, Quản, Dỗn, Trần – là quan của triều đình - nguyên là người
Kim Liên về lập nên Bạch Liên Hoa Hương thì đã cho xây dựng Miếu chợ để
thờ vọng thần Cao Sơn là thành hoàng cũ của làng mình, và cũng tơn Người
làm thành hồng của Hương Bạch Liên từ bấy cho đến nay. Chính vì vậy, mà
dân làng Kim Liên và dân làng Cót có mối quan hệ khăng khít, gắn bó lâu
đời.
Trước đây trong Ngọc phả của đình Cót viết là Đệ Nhất Đơng Phương
chính miếu nhất vị tơn thần Đệ nhất thành hồng Nam Phương Hoàng Đế
Thánh Tổ Cao Sơn Hiển Linh Đại Vương Thượng Đẳng tối linh thần, Theo
đúng sắc phong của đình Kim Liên hiện còn.
Cao Sơn và em ruột là của ông là Quý Minh là nhân vật huyền thoại
thời Hùng Vương thứ 18, Cao Sơn cịn gọi là Sùng Cơng, Q Minh cịn gọi
là Hiển Cơng.
Theo truyền thuyết kể lại rằng, tại trang Thanh Un có hai vợ chồng
người nơng dân sống trong cảnh thanh bần, tu nhân tích đức nhưng hiếm con.
Một hơm người vợ nằm mơ thấy mình nuốt hai quả trứng, cảm động mà thụ
thai. Đến kỳ mãn nguyệt khai hoa sinh đựơc hai con trai đặt tên là Cao Sơn và
Quý Minh. Cả hai đều khôi ngơ tuấn tú, học một biết mười, lại có sức khỏe
tuyệt luân, sức địch muôn người tự đặt ra các môn võ nghệ, thường dùng tay
không bắt cọp như bắt lợn con vậy.
21
Một hôm Tản Viên đi săn thấy hai người đang tay khơng dồn cọp mà
đánh, Tản Viên đem lịng u mến hỏi chuyện rồi kết làm anh em.
Hùng Duệ vương ( Hùng Vương thứ 18) tuổi già sức yếu, không có con
trai, Bộ chúa Ai Lao Thục Phán sợ ngơi vua nước Văn Lang sẽ vào tay con rể
vua là Tản Viên sơn thánh liền cất quân đánh nước Văn Lang.
Vua giao cho Tản Viên chức tổng chỉ huy quân đội đánh Thục Ông
cùng Cao Sơn, Quý Minh chỉ huy các tướng dàn trận ở Mộc Châu đánh bại
quân Thục vừa ở châu Quỳnh Nhai kéo tới.
Hai năm sau Thục chúa lại chia quân làm 5 đạo tiến đánh Văn Lang,
vua Hùng lại triệu ba anh em Tản Viên Sơn Thánh chỉ huy các tướng đánh
Thục. Vua Hùng phong cho Tản Viên là tổng chỉ huy quân dân Văn Lang,
Cao Sơn là thống lĩnh tả bộ sơn thần, Quý Minh là thống lĩnh hữu bộ sơn
thần. Cao Sơn, Quý Minh về Trang Thanh Uyên chiêu mộ quân lính trang bị
vũ khí, quân lương. Cao Sơn dạy quân sĩ làm bánh dày, xơi nén làm lương đi
ăn đường, mổ lợn, lịng ăn ngay còn thịt ướp muối đem đi. Nhân dân cũng
làm bánh chưng, bánh dày xôi nén cho quân đội, nhưng quân đi vội nên quân
phải vừa chạy vừa nhặt bánh dân để lại bên đường.
Dưới quyền chỉ huy của Tản Viên Sơn Thánh, Cao Sơn, Quý Minh,
quân Hùng đã đánh nhiều trận lớn, song trận đầu ba ông dẫn các tướng sĩ đến
núi Sóc Sơn, các ơng cịn đang hội qn thì qn Thục đã bao vây tứ phía, các
ơng chưa kịp mặc giáp đóng n cương phải mở lối thốt ra ngồi. Nhưng từ
sau trận đấu này qn Hùng luôn thắng trận và đã đánh bại quân Thục. Song
có trận hai ơng đã giải vây cho Tản Viên đang bị vây khốn. Sơn Thánh còn
giao cho Cao Sơn trấn giữ đạo Kinh bắc, giao cho Quý Minh tuần hành đạo
Hải Dương.
Sau khi thắng trận Sóc Sơn kết thúc chiến tranh Hùng - Thục hai ông
trảy quân về dinh vào ngày 15 tháng 11 thì tự nhiên thấy trời đất chuyển
động, có một đám mây vàng như tấm lụa trên trời thả xuống hai ông cùng
theo đám mây bay lên trời.
22
Từ khi hóa, hai ơng hiển thánh cùng Tản Viên Sơn Thánh âm phù cho
các vua, các tướng đánh thắng giặc ngoại xâm để quốc thái dân an, phù hộ
cho mưa thuận gió hịa để mùa màng tươi tốt cây cối nảy lộc, đâm trồi.
Cao Sơn, Quý Minh cùng với Tản Viên Sơn Thánh trở thành ngôi vị tối
cao tương ứng với ba ngọn núi Ba Vì. Nhân dân tơn là “Tam vị Đức Thánh
Tản” trong văn tế gọi là “Tam vị quốc chúa thượng đẳng thần”. Bài vị của
Tản Viên đặt bên tả cao nhất sau đó đến bài vị của Cao Sơn rồi đến Quý Minh.
Cao Sơn còn có tên gọi khác là Nguyễn Hiển, vì có nhiều cơng trạng
nên Ngài được nhiều nơi tơn làm thành hồng. Thần đựơc thờ ở đình Kim
Liên - một trong tứ trấn thành Thăng Long. Ngồi ra, cịn có 72 nơi thờ ở
nguyên vùng Hà Nội và trên cả nước có trên 3000 nơi thờ.
Vị thần thành hoàng thứ hai là Đức Thánh Diêm La, theo thần phả hiện đang được lưu giữ ở trong đình Hạ n Quyết, có ghi chép lại rằng: Ngài
là Diêm La Anh Đoán đại vương, theo các cụ đời trước truyền lại “có lần làng
bị nạn dịch tả hồnh hành, trong làng có nhiều người chết. Vì thế, dân làng
bèn lập đàn gọi là Kỳ Yên kêu khấn Đức Diêm La Đại Vương để ngài phù hộ
cho dân làng được yên ổn”. Vì trong truyền thuyết dân gian Việt Nam thì nạn
dịch tả là do Diêm La phán ra để bắt người. Ngài (tức Diêm La) là một trong
chín chúa ở cửa điện dưới âm phủ.
Sau khi lễ Ngài xong làng khỏi dịch, nên dân làng bàn nhau xây dựng
ngôi miếu để thờ Ngài và dân làng được lễ bái cầu nguyện ngài thường xuyên.
Ngôi Miếu đó hiện nay dân làng vẫn phụng thờ lễ bái, theo ngọc phả
của đình Cót có hiệu là đệ nhị Nam Phương chính miếu, vì miếu làm sau miếu
thờ Cao Sơn và ở phía Nam của làng.
Khi tìm hiểu truyền thuyết về vị thành hoàng Đức Thánh Diêm La, có
một số ý kiến cho rằng: “Đức Thánh Diêm La ở đây là ám chỉ Lý Phật Tử
(bởi Lý Phật Tử có hiệu là Diêm La)”, cũng có ý kiến cho rằng “Đức Thánh
Diêm La mà Làng Cót đang thờ là vua Lê Hiển Tơng vì sinh thời hiệu của vua
là Diêm La”. Nhưng theo các cụ trong làng kể lại và truyền thuyết viết về
23
Ngài thì việc thờ thần Diêm La có liên quan trực tiếp đến việc xảy ra nạn dịch
ở làng, nên vị thần Diêm La mà làng Cót thờ ở đệ nhị Nam Phương chính
miếu là Thánh Diêm La – một trong chín người cai quản chín cửa dưới âm
phủ. Khơng có căn cứ là vua Lê Hiển Tơng và càng không thể là Lý Phật Tử.
Cụ Nguyễn Quốc Long – hội viên hội sử học Hà Nội và cũng là người con
của làng Cót cho rằng: “Lý Phật Tử là người phản quốc, mà không một làng
nào lại đi thờ kẻ phản quốc làm thành hồng của làng mình”.
Vị thành hồng thứ ba của làng đó là Đức Thánh Mộc - Đức Thần Tích.
Theo thần phả là Mộc Đức Tinh Quân Đại Vương, truyền thuyết về Người kể
rằng: cuối làng Cót bấy giờ có một cây gạo cổ thụ rất lớn và có một con hạc
trắng tối đến về ngủ trên ngọn cây, một thời gian không thấy con hạc về nữa
và cây gạo cũng bị chết, khi dân làng hạ bỏ cây gạo, chỉ có một cái hố đánh
gốc cây gạo mà không bao giờ bị hết nước, kể cả khi trời hạn hán. Thấy vậy,
dân làng bàn bạc để đào thành giếng lấy nước ăn của làng. Khi đào được lưng
chừng thì có một cây gỗ rất lớn ở dưới đất, các cụ đào để lấy cây gỗ lên nên
cái giếng mới to như hiện nay.
Khi đưa được cây gỗ lên rồi, khơng biết do trong gỗ có lân tinh hay sự
linh thiêng của cây gỗ thế nào mà cứ đêm là sáng rực cả khu vực để thân cây.
Nên dân làng làm sớ tâu lên nhà vua và được vua phong sắc cho là Mộc Đức
Tinh Quân Đại Vương và dân làng xây miếu để thờ, theo thần phả của làng là
Đệ Tam Tây Phương chính Miếu vì là miếu xây thứ ba và ở phía tây của làng.
Vị thành hoàng thứ tư là đức bản thổ Tràng – Hám Anh Linh Đại
Tướng Quân, đức bản thổ là người thuộc dịng họ Nguyễn – Phúc của làng
Cót chính họ tên của Ngài là Nguyễn Phúc Trường, Ngài sinh vào khoảng gần
cuối Cảnh Hưng, sinh thời Ngài có một có một sức khỏe phi thường, người
đời gọi là người nhà trời. Thời nhà Mạc phân chia ranh giới ruộng đất cho
từng làng xã, có quy định một cái cột mốc bằng đá dài một sải tay, đường
kính bằng cái cối giã cua, ai vác đến đâu thời ruộng làng được đến đó. Nhưng
24
Ngài không vác một cái mà xốc hai nách hai cái, nên Ngài đã chiếm cho làng
Cót 500 mẫu ruộng.
Thần phả về Ngài có ghi lại rằng: ngày 5 tháng 5 nhà chỉ có hai mẹ
con, sáng mẹ đưa thợ đi gặt 5 sào ruộng, dặn con ở nhà thổi cơm mang ra
đồng cho thợ ăn để gánh lúa, gặt xong 5 sào lúa cũng không thấy con mang
cơm ra, mẹ chạy về nhà vẫn thấy Ngài nằm phủ phục ở cái phản lễ ở trước
ban thờ ngủ, mẹ kêu la lên Ngài ngồi dậy hỏi mẹ gặt xong chưa, mẹ bảo gặt
xong rồi, Ngài bảo mẹ nấu cơm để con ra gánh lúa, Ngài đẵn hai cây tre để cả
cành khơng dóc một cây làm đầu địn gánh một cây chẻ đơi làm hai cái lạt bó
năm sào lúa, gánh lên đến đền gị Quan Tiên. Thì đúng lúc đó, Ngài thấy thiên
lơi cắm cờ vào đầu để đánh. Ngài đặt gánh lúa xuống và xin thiên lôi cho về
báo hiếu mẹ rồi ra xin chịu tội. Ngài gánh lúa về nhà lễ mẹ hai lễ và kể sự
việc rồi Ngài đi ra Gò Quan Tiên chịu tội - nơi lăng mộ của Ngài hiện nay.
Mẹ Ngài đi gọi họ hàng, khi mọi người ra đến nơi, thì mối đã đùn kín to bằng
cả ba gian nhà.
Lúc sinh thời, Người có chỉ huy một đội dân binh trong chiến đấu
chống giặc ngoại xâm, nên khi hiển thần Ngài được nhà vua phong sắc là
“Tràng – Hám – Anh Linh Đại Tướng Quân”.
Cũng theo truyền thuyết để lại sau khi Ngài đã hóa thân, dân làng làm
sớ tâu lên nhà vua, nhà vua sai bộ Lễ lập đàn cầu để phong sắc, ngay gần chỗ
bầy đàn con trâu đang ăn cỏ, một ơng trong số dự đàn lễ nói là “Ngài có phải
anh linh như vậy thời thử vật chết một con trâu cho ta xem”, người vừa nói
dứt lời thời con trâu lăn ra chết thật.
Ông ấy lại nguyện một câu nữa “Người anh linh hiển hách như vậy, có
thể cải tử hồn sinh được thời cho con trâu sống lại xem sao”, quả nhiên con
trâu đứng lên và tiếp tục gặm cỏ.
Ngài được thờ cùng với thần Mộc Đức ở Tây Phương miếu ở gần chùa
nên dân làng gọi là miếu Chùa, có một điều khơng giải thích được là mộ của
Ngài năm mươi năm nay được xây tới ba lần cứ được một thời gian là nứt
25
tung ra, lần đầu xây trịn đường kính khoảng 5m, một thời gian bị nứt, lần thứ
hai xây rộng ra khoảng hơn 1m được ít lâu sau lại nứt và lần thứ ba lại xây
rộng nữa và cũng vẫn bị nứt.
Vị thành hồng thứ năm của làng đó là: “Hồng Cung Trinh Thục Phu
Nhân”. Đức thánh bà là người dòng họ Dỗn của làng Cót, theo đời trước
truyền lại khi Người mới mười mấy tuổi chưa đến tuổi thành niên, bị một tên
cường hào định ép làm tì thiếp. Người sợ hãi trốn vào rừng tre ở rìa phía Nam
của làng, rồi hóa ở đấy - nơi phần mộ của Người hiện nay, rồi mộ thiên táng
khi người nhà đi tìm, thời mối đã đùn kín chỉ cịn hở một bàn chân. Hiện nay,
khu vực chỗ rìa phía Nam của làng vẫn gọi là xóm bãi tre.
Sau khi Người hóa thân, có sự linh ứng báo mộng nên dân làng làm sớ
tâu vua được nhà vua phong sắc là: Hoàng – Cung Chinh - Thục Phu Nhân.
Trong gia phả họ Dỗn cũng chép là: Hồng – Cung Chinh - Thục Phu Nhân,
do sự nhầm lẫn giữa chữ Cung với chữ Hậu ở chữ Hán, nên từ xưa cứ gọi là
mả vua. Theo sách phong thần của nhà vua thời phụ nữ chưa đến tuổi thành
niên chỉ được phong Hoàng Cung chỉ đến tuổi thành niên trở lên mới được
phong Công Chúa và từ 50 tuổi trở lên mới được phong Hoàng Hậu.
Đức Thánh Bà sinh thời vào khoảng đầu niên hiệu Cảnh Hưng.
Giỗ Người vào ngày 23 tháng 4 âm lịch.
Sau khi Người được nhà vua phong sắc, dân làng họp bàn nhất trí là thờ
chung ở cả Miếu Nam Phương nên miếu Nam Phương cịn có tên là Miếu Cả
là vì thế.
1.2.2. Đình Hạ Yên Quyết qua các thời kỳ lịch sử
Theo dòng chảy của lịch sử, sự ra đời tồn tại, lúc thịnh, lúc suy của
ngơi đình làng Cót ( đình Hạ n Quyết) chính là chiếc gương phản chiếu
phần nào hình ảnh quá khứ lịch sử của vùng đất và con người nơi đây.
Có lẽ, cũng chính di tích là loại hình di sản có khả năng lưu giữ được
các dấu vết từ xa xưa một cách toàn diện, trên tất cả các lĩnh vực như kinh tế,