Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Tìm hiểu di tích đình làng đỗ xá (xã ứng hòe huyện ninh giang tỉnh hải dương)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.37 MB, 90 trang )

Trờng đại học văn hoá h nội
KHOA BO TNG
---------***---------

Nguyễn Thị Ngọc Xoan

Tìm hiểu di tích đình lng Đỗ Xá
(XÃ ứng hoè - huyện Ninh Giang - tỉnh HảI Dơng)

Khoá luận tốt nghiệp
Ngnh bảo tng

Ngời hớng dẫn: Ths. Phạm Thu Hằng

H néi - 2010


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................... 1
2. Đối tượng nghiên cứu ............................................................................... 2
3. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................. 2
4. Mục đích nghiên cứu ................................................................................ 2
5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................ 3
6. Bố cục khóa luận ...................................................................................... 3
Chương 1. DI TÍCH ĐÌNH ĐỖ XÁ TRONG DIỄN TRÌNH LỊCH SỬ
1.1. Vài nét về vùng đất và con người nơi di tích tồn tại .......................... 5
1.1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên ............................................. 5
1.1.2. Dân cư ...................................................................................... 7
1.1.3. Truyền thống lịch sử - văn hóa ................................................ 9


1.2. Lịch sử đình làng Đỗ Xá ....................................................................... 11
1.2.1. Niên đại di tích đình làng Đỗ Xá .............................................. 11
1.2.2. Sự thay đổi qua các lần trùng tu .............................................. 13
1.2.3. Sự tích các vị thần được thờ ..................................................... 14
Chương 2. GIÁ TRỊ KIẾN TRÚC – NGHỆ THUẬT VÀ LỄ HỘI ĐÌNH
ĐỖ XÁ
2.1. Giá trị kiến trúc ..................................................................................... 18
2.1.1. Không gian cảnh quan ............................................................ 18
2.1.2. Bố cục mặt bằng tổng thể ......................................................... 19
2.1.3. Kết cấu kiến trúc ....................................................................... 20
2.1.3.1. Tiền tế……………………………………………...……20
2.1.3.2. Trung từ ………………………………………………24
2.1.3.3. H ậu cung ……………………………………………..26
2.2. Giá trị điêu khắc, trang trí……………………………………………29
2.2.1. Trang trí trên kiến trúc ……………………………………….29


2.2.2. Các di vật trong di tích ………………………………………. 33
2.3. Lễ hội đình làng Đỗ Xá ……………………………………………….38
2.3.1. Lịch lễ hội ……………………………………………………..38
2.3.2. Diễn trình lễ hội ………………………………………………39
2.3.3. Giá trị văn hóa của lễ hội ……………………………………..46
Chương 3. BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI TÍCH ĐÌNH ĐỖ XÁ
3.1. Hiện trạng di tích đình làng Đỗ Xá…………………………………...50
3.1.1. Kiến trúc, cảnh quan ………………………………………….50
3.1.1.1. Các kết cấu kiến trúc …………………………………50
3.1.1.2. Cảnh quan di tích ……………………………………..52
3.1.2. Di vật …………………………………………………………..53
3.1.3. Lễ hội ………………………………………………………….54
3.2. Bảo vệ di tích đình làng Đỗ Xá………………………………………. 55

3.2.1. Các văn bản pháp lý về bảo tồn di tích ……………………….55
3.2.1.1. Một số văn bản pháp lý mang tính chất quốc tế ……...55

3.2.1.2. Những văn bản bảo vệ di tích lịch sử - văn hố
của Việt Nam …...……………………………………………..57
3.2.2. Bảo vệ di tích đình làng Đỗ Xá ………………………………61
3.3. Bảo quản, tu sửa di tích đình làng Đỗ Xá …………………………... 62
3.4. Giữ gìn lễ hội đình làng Đỗ Xá ……………………………………… 66
3.5. Phát huy giá trị di tích đình làng Đỗ Xá…………………………….. 68
KẾT LUẬN ………………………………………………………………...71
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Di tích lịch sử văn hóa Việt Nam có sự hấp dẫn cao đối với du khách
trong và ngoài nước. Dáng vẻ của kiến trúc cổ kính khác xa với những kiến
trúc đương đại. “Những nét cong mềm mại của mái đình làng, mái chùa hịa
quyện với khơng gian cảnh quan thiên nhiên, tạo nên một tổng thể kiến trúc
hài hòa tác động mạnh mẽ đến người xem, giúp họ thu được và có những cảm
tưởng đầy đủ hơn, nhiều góc cạnh hơn về hình tượng”1. Cùng với đó, chúng ta
cịn có một kho tàng nghệ thuật về chạm khắc rất quý, nằm rải rác ở các Đình,
Đền, Chùa hiện cịn tồn tại trên đất nước Việt Nam. Đó là những tác phẩm
được chạm trổ công phu, duyên dáng phản ánh tư duy của người Việt và ước
vọng về một cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Những giá trị văn hóa quý báu đó
cần phải được gìn giữ và phát huy đến mai sau.
Huyện Ninh Giang (tỉnh Hải Dương) là một vùng đất còn bảo lưu nhiều
di tích và những sinh hoạt văn hóa truyền thống, mang đặc trưng của cư dân
sống ven sông, với nền thương nghiệp phát triển khá sớm. Một số di tích ở

đây đã trở nên nổi tiếng khắp trong vùng và cả nước, có sức ảnh hưởng sâu
sắc đến đời sống tinh thần của nhân dân như: Chùa Chông (xã Hưng Long),
đền Tranh (xã Tranh Xuyên), đình Trịnh Xuyên (xã Nghĩa An)… Hàng năm,
Các di tích ở Ninh Giang thu hút đông đảo nhân dân khắp mọi miền đất nước
đến lễ bái và tham quan. Trong hành trình về thăm các di tích trên địa bàn
huyện Ninh Giang, khơng thể khơng nhắc tới các di tích kiến trúc – nghệ
thuật đẹp nổi tiếng, đã được xếp hạng cấp Quốc gia như: đình làng Đỗ Xá,
đình Mai Xá, đình Cúc Bồ, đình Bồ Dương, chùa Đơng Cao hay đình Trịnh
Xun… Các di tích này đã và đang tạo ra sức hút du lịch của địa phương.

1
Trịnh Thị Minh Đức (chủ biên) Phạm Thị Thu Hương (2007), Bảo tồn di tích lịch sử văn hóa, Nxb. Đại học
Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, tr. 188.


Trong các di tích lịch sử - văn hóa của huyện Ninh Giang, di tích đình
làng Đỗ Xá là một trong những di tích kiến trúc – nghệ thuật đẹp nổi tiếng
trong vùng, mang phong cách nghệ thuật triều Nguyễn – đã được xếp hạng là
di tích Kiến trúc – Nghệ thuật cấp Quốc gia năm 1999 theo Quyết định số
05/1999 QĐ/VHTT ngày 24/01/1999. Trải qua quá trình tồn tại, chịu sự tác
động của môi trường tự nhiên và môi trường xã hội, di tích đình làng Đỗ Xá
đang có nguy cơ bị xuống cấp nghiêm trọng.
Hiện nay, chưa có cơng trình nghiên cứu mang tính chất hệ thống về
đình làng Đỗ Xá. Là sinh viên Khoa Bảo tàng, tôi mong muốn được vận dụng
vào thực tiễn những kiến thức đã tích lũy được, nghiên cứu, tìm hiểu đầy đủ
hơn giá trị vật thể và giá trị phi vật thể của đình làng Đỗ Xá; góp một phần
nhỏ cùng địa phương bảo vệ một di sản văn hóa trong hệ thống di sản văn hóa
nước nhà. Do đó, tơi quyết định chọn đề tài “Tìm hiểu di tích đình làng Đỗ
Xá” làm khóa luận tốt nghiệp năm thứ tư.
2. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là di tích đình làng Đỗ Xá (xã
Ứng Hịe – huyện Ninh Giang – tỉnh Hải Dương).
3. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của khóa luận được triển khai trên hai phương diện:
+ Về thời gian: Nghiên cứu di tích đình làng Đỗ Xá từ khi di tích được
khởi dựng và tồn tại cho tới hiện nay.
+ Về không gian: Nghiên cứu di tích trong bối cảnh vùng đất và con
người nơi di tích tồn tại.
4. Mục đích nghiên cứu
- Tìm hiểu lịch sử vùng đất, con người nơi di tích đình làng Đỗ Xá tồn
tại, làm cơ sở cho việc nghiên cứu di tích.
- Tìm hiểu lịch sử hình thành và q trình tồn tại của di tích đình làng
Đỗ Xá từ khi khởi dựng cho đến nay.


- Nghiên cứu giá trị kiến trúc – nghệ thuật, lễ hội, di vật đình làng Đỗ Xá.
- Từ thực trạng tồn tại của di tích đình làng Đỗ Xá hiện nay, khóa luận
đề xuất một số giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị di tích đình làng Đỗ Xá.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Vận dụng phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin:
Duy vật biện chứng và Duy vật lịch sử.
- Phương pháp nghiên cứu: Bảo tồn di tích - lịch sử văn hố, Khoa học
Lịch sử, Bảo tàng học, Địa lý, Dân tộc học, Du lịch học, Xã hội học, Tâm lý
học, Ngôn ngữ học.
- Các phương pháp khác: Quan sát, điều tra thống kê, nghiên cứu tài liệu.
6. Bố cục khóa luận
Ngồi phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phần phụ lục, bố
cục bài viết gồm 3 chương. Cụ thể như sau:

 Chương 1. Di tích đình làng Đỗ Xá trong diễn trình lịch sử

Chương này tập trung giới thiệu khái quát về lịch sử vùng đất, điều
kiện tự nhiên – dân cư – đặc điểm kinh tế, văn hóa truyền thống nơi di tích
tồn tại. Đồng thời nghiên cứu, tìm hiểu tư liệu để bước đầu xác định niên đại
tương đối và quá trình tồn tại của di tích trong diễn trình lịch sử.

 Chương 2. Giá trị kiến trúc – nghệ thuật và lễ hội đình làng Đỗ Xá
Đây là chương chính của khóa luận. Chương này, tập trung nghiên cứu,
khảo tả kiến trúc, các di vật tiêu biểu có giá trị lịch sử, mỹ thuật đang được
lưu giữ trong di tích và nghiên cứu lễ hội đình làng Đỗ Xá.

 Chương 3. Bảo tồn và phát huy giá trị di tích đình làng Đỗ Xá
Xuất phát từ thực trạng di tích đình làng Đỗ Xá, bước đầu đề xuất một
số giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy giá trị di tích đình làng Đỗ Xá trong
bối cảnh hiện nay.
Để hồn thành bài khóa luận này, em đã nhận được sự hướng dẫn và
chỉ bảo tận tình của Ths. Phạm Thu Hằng. Em xin xin gửi tới cô lời cảm ơn
sâu sắc. Nhân đây, em xin cảm ơn Sở Văn hóa – Thể thao và Du lịch tỉnh Hải


Dương, Thư viện tỉnh Hải Dương, Bảo tàng tỉnh Hải Dương, UBND xã Ứng
Hịe, Ban quản lý di tích đình làng Đỗ Xá đã tạo điều kiện giúp đỡ em về mặt
tư liệu trong q trình thực hiện khóa luận. Em xin gửi lời cảm ơn các thầy, cơ,
gia đình, bạn bè đã động viên em trong suốt quá trình thực hiện khóa luận này.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng, song vì thời gian có hạn và cịn ít kinh
nghiệm nghiên cứu, chắc chắn khóa luận khơng tránh khỏi khiếm khuyết. Em
mong nhận được sự góp ý của thầy cô giáo và các bạn đồng nghiệp.
Em xin chân thành cảm ơn!


Chương 1

DI TÍCH ĐÌNH ĐỖ XÁ TRONG DIỄN TRÌNH LỊCH SỬ
1.1. Vài nét về vùng đất và con người nơi di tích tồn tại
1.1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
* Vị trí địa lý
Thơn Đỗ Xá thuộc xã Ứng Hịe (huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương):
phía Đơng giáp xã Nghĩa An (thuộc huyện Ninh Giang), phía Tây giáp xã
Quảng Nghiệp (thuộc huyện Tứ Kỳ), phía Nam giáp xã Vạn Phúc và Ninh
Hịa, phía Bắc giáp đường tỉnh lộ 17 và xã Quyết Thắng).
Xã Ứng Hịe có vị trí thuận tiện về giao thơng đường thủy, cũng như
đường bộ. Từ trung tâm thành phố Hải Dương theo đường 17 (hướng nam), đi
qua Gia Lộc về đến Ứng Hòe, thơn Đọ nằm ngay sát đường 17, phía bên phải.
Tồn tuyến đường dài khoảng 15 km, được rải nhựa bằng phẳng, rộng rãi, phù
hợp với mọi phương tiện giao thông phổ biến như: ơ tơ, xe máy, xe đạp…
Ngồi ra, từ thành phố Hải Dương đi dọc theo đường 191 qua huyện lị Tứ Kỳ
và đến xã Ứng Hòe; tổng số chiều dài khoảng 20 km.
Về giao thông thủy, một nhánh của sông Hồng bắt nguồn từ huyện
Đường An (nay thuộc huyện Bình Giang chảy xuống phía Đơng Nam qua hai
huyện Gia Lộc và huyện Tứ Kỳ giao với xã Tân Hương và Nghĩa An, nhân
dân thường gọi là Sông Ràm). Hợp lưu của nhánh sông này cách xã Ứng Hòe
khoảng 1 km nên đây là vùng đất thuận lợi cho giao thông đường thủy với các
vùng lân cận; (huyện Đường An thời thuộc Hán thuộc quận Giao Chỉ, sau đổi
là Giao Châu. Khoảng niên hiệu Hội Xương (841-846) đời Đường thứ sử
Giao Châu là Vũ Hồn định cư ở thôn Mộ Trạch đặt tên huyện là Đường An,
thời Lý - Trần thuộc châu Thượng Hồng, thời Thuộc Minh vẫn thuộc châu
Thượng Hồng nhưng đặt thuộc phủ Lạng Giang. Đời Lê Thánh Tông đổi
thuộc châu Thượng Hồng xứ Hải Dương. Đầu đời Đồng Khánh kiêng chữ
đồng âm Đường (Ưng Đường - tiểu tự của vua Đồng Khánh), đổi là huyện


Năng An (hoặc Năng Yên). Sau đổi lệ kiêng húy chép là huyện Đường An

khơng đổi. Nay thuộc huyện Bình Giang - tỉnh Hải Dương2; Đây là một trong
những nhánh sông sâu và rộng, thuận lợi cho việc di chuyển của thuyền bè.
Hàng hóa được vận chuyển bằng đường sơng chủ yếu là: than, đá, cát…
Dọc hành trình du khách có thể ghé thăm khu di tích đền thờ và lăng
mộ Nguyễn Chế Nghĩa – danh tướng nổi tiếng thời Trần tại thị trấn Gia Lộc,
đình Trịnh Xuyên – một cơng trình kiến trúc nghệ thuật đẹp tại xã Nghĩa An
(Ninh Giang) đã được xếp hạng quốc gia năm 1992. Đây là những di tích tiêu
biểu về lịch sử - văn hóa của tỉnh Hải Dương, đã và đang thu hút nhiều lượt
khách đến tham quan, học tập nghiên cứu.
* Điều kiện tự nhiên
Theo tài liệu Ban văn hóa xã cung cấp, thôn Đỗ Xá từ xưa đã nằm bên
lưu vực một nhánh sông lớn của sông Hồng. Đất đai trũng, hàng năm nhân
dân chỉ cấy được một vụ lúa, việc đi lại phần lớn bằng thuyền. Thời kỳ chưa
có đê, vào mùa hè, nước lũ dâng lên ngập cả một vùng rộng lớn, nhân dân
thơn Đỗ Xá nói riêng và các vùng lân cận phải chịu cảnh “sống chung với lũ”.
Sau quá trình sinh sống, người dân đã biết làm thủy lợi, đắp đê ngăn lũ. Đến
nay, người dân thơn Đỗ Xá đã khơng cịn phải chịu cảnh lũ lụt nữa.
Điều kiện tự nhiên ở Ứng Hịe nói riêng và huyện Ninh Giang nói
chung khá thuận lợi cho việc phát triển nơng nghiệp. Trên địa bàn xã có nhiều
con sông và nhánh sông lớn chảy qua, không những cung cấp nước tưới và
phù sa cho đất đai mà còn có giá trị về mặt giao thơng vận tải đường thủy.
Ngồi ra, so với địa hình của tỉnh Hải Dương, đây lại là một trong những
vùng trũng, địa hình bằng phẳng, đất đai màu mỡ, thuận lợi cho canh tác lúa
nước và trồng những cây hoa màu như: ngô, khoai, đậu tương, dưa hấu…
Hiện nay, nghề nghiệp chính của nhân dân Ứng Hịe vẫn là làm nơng nghiệp.
2

Tơ Tầu Tĩnh (1886 - 1887), Thần Hải Dương kính tuân lời phê biên về bản đồ tiến trình –

Quyển thượng, Quốc sử quán triều Nguyễn thời Đồng Khánh, Hải Dương.



Thôn Đỗ Xá nằm gần nhánh của sông Hồng (đoạn chảy qua Ninh
Giang nhân dân vẫn quen gọi là sông Ràm). Nhưng dịng sơng chảy hiền hịa,
lại mang ít phù sa nên đất đai khu vực ven sơng khơng có hiện tượng hình
thành bãi bồi như ở ven sơng Hồng. Đất canh tác chính chủ yếu là thâm canh,
dân làng cũng không phải chịu cảnh dịch chuyển do hiện tượng lở và bồi mà
các con sông lớn gây ra.
1.1.2. Dân cư
Thơn Đỗ Xá nói riêng và xã Ứng Hịe nói chung là một vùng đất được
hình thành khá sớm, lại được thiên nhiên ưu đãi, thuận tiện về giao thông
thủy, bộ. Một vùng đất “nhất cận thị, nhị cận giang” cho nên xã Ứng Hòe từ
lâu đã trở thành một khu dân cư đông đúc. Trải qua thời gian cùng với sự phát
triển của dân số, hiện nay toàn xã có 1312 hộ dân cư với 6030 khẩu.
Xã Ứng Hịe có tổng diện tích là 414 ha, trong đó thổ canh là 258 ha và
thổ cư 166 ha. Trước ngày hịa bình lập lại (1954), một trong hai thơn của xã
là thơn Cơng giáo tồn tịng, trong đó là thơn Đồng Vạn. Tại đây hiện nay cịn
một nhà thờ Cơng giáo có quy mơ lớn, đã từng một thời là nhà thờ xứ. Thơn
Đồng Vạn có 162 ha, 738 khẩu trong đó có 62 hộ với 283 khẩu là giáo dân.
* Đời sống kinh tế:
Đỗ Xá được thiên nhiên ưu đãi là có vị trí thuận tiện cả về giao thơng
đường thủy và đường bộ, vì thế ở đây thương nghiệp phát triển khá sớm,
nhưng vẫn chủ yếu là các hộ gia đình bn bán nhỏ với những sản phẩm thủ
công, lương thực thực phẩm và hàng gia dụng.
Thôn Đỗ Xá từ xưa đã có chợ, tên nơm gọi là chợ Đọ, chợ họp tất cả
các ngày trong tháng. Chợ Đọ xưa họp ngay bên trái Đình, cùng với Đình tạo
thành một trung tâm sinh hoạt văn hoá và giao lưu kinh tế của các địa phương
trong vùng. Hiện nay, chợ được chuyển ra cạnh đường 17 để tiện cho việc vận
chuyển hàng hoá. Tuy vậy, chợ vẫn được gọi bằng tên quen thuộc: chợ Đọ,
còn nơi chợ họp trước đây nay là sân Đình với hai cây gạo cổ thụ quanh năm



toả bóng mát. Cứ đến tháng Tư hàng năm, hai cây gạo ra hoa nhuộm đỏ rực
cả một khoảng trời.
Dưới chế độ phong kiến, nhân dân thôn Đỗ Xá sống trong cảnh nghèo
khổ, hàng năm bị lũ lụt đe dọa. Sau khi thực dân Pháp xâm lược (1858), đời
sống nhân dân ta vô cùng cực khổ. Nhân dân Đỗ Xá cũng sống trong tình
trạng đói khổ gần như kéo dài triền miên. Mãi đến khi hịa bình được lập lại ở
miền Bắc (1954), với bản chất cần cù, chịu khó, ngồi việc trồng trọt chăn
ni, người dân Đỗ Xá cịn phát triển thêm nghề phụ như: dệt vải, buôn bán
nhỏ… nên đời sống kinh tế của người dân Đỗ Xá “thay da đổi thịt” từng
ngày. Góp phần vào thành cơng đó, khơng thể khơng kể đến nghề dệt vải vừa
phục vụ gia đình vừa mang lại thu nhập kinh tế.
Theo những tư liệu còn lưu giữ được, dưới thời phong kiến, thơn Đỗ
Xá, xã Ứng Hịe, đàn bà có nghề dệt vải, đàn ơng làm nghề bn bè. Có thời
kỳ 100% số hộ trong thơn có khung dệt, nhiều gia đình có tới hai, ba khung.
Trong đình cịn lưu giữ được một đôi câu đối do “Công nghệ dệt vải bản xã
cung tiến, 1943”. Đầu những năm 80, dệt vải bằng máy phát triển nên nghề
dệt vải thủ công của Đỗ Xá cũng dần dần mất đi.
Từ những năm 1980 trở lại đây, thơn Đỗ Xá cịn phát triển thêm nghề
thêu ren. Thêu theo những mẫu đặt hàng sẵn của các cơ sở chuyên cung cấp
hàng thêu ren cho thị trường trong nước và nước ngồi. Cơng việc này thu hút
nhiều lao động nữ trong thôn, vừa tận dụng thời gian nghỉ ngơi của nông vụ,
vừa mang lại thu nhập cho gia đình.


1.1.3. Truyền thống lịch sử - văn hóa
* Vài nét về lịch sử thôn Đỗ Xá
Thôn Đỗ Xá xa xưa là trang Đỗ Xá. Thời Lê là xã Đỗ Xá tổng Đông
Cao, huyện Vĩnh Lại, phủ Hạ Hồng, trấn Hải Dương. Thời Nguyễn là xã Đỗ

Xá, huyện Vĩnh Lại, phủ Ninh Giang, tỉnh Hải Dương. Năm 1947, xã Đỗ Xá
hợp nhất với một số thôn của xã Quyết Thắng và xã Ninh Hòa lấy tên là xã
Ứng Hòe. Sau cải cách ruộng đất năm 1956, Quyết Thắng và Ninh Hòa tách
ra thành hai xã riêng – Còn lại xã Ứng Hòe lấy nguyên tên cũ cho đến nay. Xã
Ứng Hòe hiện nay có hai thơn là Đỗ Xá và Đồng Vạn.
Trong cuộc kháng chiến cứu nước, thanh niên Đỗ Xá nói riêng và xã
Ứng Hịe nói chung đã hăng hái lên đường nhập ngũ bảo vệ Tổ quốc. Góp
phần viết lên những trang sử hào hùng của dân tộc, toả sáng những tấm gương
anh hùng, khơng ít những người con của q hương Ứng Hịe đã ngã xuống vì
độc lập tự do của Tổ quốc, khơng ít những người phải bỏ lại một phần máu
thịt của mình lại chiến trường. Công lao của họ đời đời được ghi nhận.
Sau khi đất nước được giải phóng, cũng như bao miền quê khác, nhân
dân Đỗ Xá thi đua lao động sản xuất khắc phục hậu quả chiến tranh. Đến nay
thôn Đỗ Xá có trên 1000 hộ dân với khoảng hơn 5000 nhân khẩu. Đời sống
vật chất của người dân cũng được cải thiện đáng kể.
* Đời sống văn hóa
Nêu cao đạo lý uống nước nhớ nguồn, trong mỗi gia đình Việt Nam
thường có bàn thờ tổ tiên, nhằm giáo dục con cháu chi nhớ công ơn của
những thế hệ trước. Đỗ Xá cũng khơng ngoại lệ, hầu hết các gia đình trong
thơn đều có một bàn thờ gia tiên được đặt ở vị trí trang trọng nhất, sạch sẽ
nhất trong nhà và coi đó là nơi linh thiêng, bất khả xâm phạm.
Thơn Đỗ Xá xưa có nhiều di tích cổ kính: Ngồi một ngơi đình, hai
ngơi miếu cổ và một ngơi chùa, thơn cịn có “Ngũ kiều cửu tỉnh” (5 cầu đá và
9 giếng cổ). Nhưng hiện nay, ngồi ngơi đình làng Đỗ Xá và Chùa, hầu hết


các di tích kể trên đã khơng cịn nữa, thậm chí nơi tương truyền là có cầu đá
và giếng đá cũng đã bị vùi lấp, hiện cũng khơng cịn vết tích gì.
Trong những di tích đó, hiện nay chỉ cịn đình làng Đỗ Xá là vẫn bảo
lưu được dáng vẻ cổ kính xưa. Đình làng Đỗ Xá hay cịn có tên nơm là Đình

Đọ. Từ khi khởi dựng đến nay, tên đình được gọi theo tên vùng đất nơi di tích
tồn tại. Lễ hội đình làng Đỗ Xá diễn ra một năm hai lần, chính hội là ngày 10
tháng 3 Âm lịch (tương truyền là ngày hóa của ba vị thành hoàng làng). Ngoài
ra, ngày 10 tháng 11 âm lịch (ngày sinh của ba vị thành hoàng), dân làng cũng
tổ chức lễ hội. Qua lễ hội cũng là dịp người ta nghỉ ngơi, gặp gỡ nhau sau
những ngày lao động mệt nhọc. Đó cũng là ngày mà những người con xa xứ
về thăm lại gia đình, quê hương, tham dự hội làng.
Chùa Đỗ Xá tuy khơng cịn giữ được nét cổ kính như xưa, nhưng hiện vẫn là
nơi sinh hoạt cộng đồng đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng của nhân dân địa phương.
Ngược dòng lịch sử, căn cứ vào tên gọi của thôn Đỗ Xá và gia phả của
một số dịng họ được biết khởi ngun của cư dân thơn Đỗ Xá là hai dòng họ
lớn: họ Đỗ và họ Nguyễn. Hiện nay, hai dòng họ này chiếm đại bộ phận dân
số trong thơn.
Ngồi ra, các dịng họ lớn ở thơn Đỗ Xá cịn duy trì việc giỗ họ hàng
năm, đến ngày giỗ họ, con cháu xa gần về tề tựu đông đủ, cùng nhau “ôn cố
tri tân”. Tiêu biểu như: họ Nguyễn, họ Đỗ, họ Hoàng… Đây cũng là một nét
đẹp văn hố gắn liền với đời sống tín ngưỡng của cư dân Đỗ Xá nhằm ôn lại
truyền thống của gia tộc, giáo dục con cháu xây dựng đời sống mới không xa
rời những giá trị tốt đẹp của dân tộc.
Thôn Đỗ Xá cũng giống như các địa phương khác, rất coi trọng việc
giáo dục và đẩy mạnh các hoạt động khuyến học. Tỷ lệ học sinh đỗ Trung học
Phổ thơng, Đại học, Cao đẳng hệ chính quy ngày càng đông và luôn đứng đầu
phong trào học tập trong xã. Theo số liệu thống kê năm 2009 của Ban văn hóa
xã, tỷ lệ đỗ vào các trường Trung học Phổ thông là 43%, Đại học là 18%, Cao
đẳng là 26% trong tổng số học sinh toàn xã.


Phát huy truyền thống lao động, sáng tạo của cha ông, Đảng bộ và nhân
dân xã Ứng Hòe đã không ngừng phấn phấn đấu xây dựng quê hương ngày
càng giàu đẹp. Ngay từ năm 1967, Hợp tác xã Đại Xuân đã đạt năng suất lúa

7,6 tấn/ha, cao nhất miền Bắc. Năm 1965, xã đã có điện sinh hoạt và sản xuất.
Trong hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, hàng trăm thanh niên trong xã
đã lên đường tòng quân. Trong số đó có 148 đồng chí đã hi sinh cho Tổ quốc;
8 bà mẹ trong xã được phong tặng danh hiệu cao quý Bà mẹ Việt Nam anh
hùng; Đảng bộ xã luôn giữ danh hiệu “Đảng bộ trong sạch vững mạnh”.
Qua khảo sát tín ngưỡng - văn hóa cổ truyền làng Đỗ Xá cho thấy nơi
đây còn bảo lưu được nhiều sinh hoạt văn hóa mang tính cổ xưa của cư dân
lâu đời làm nơng nghiệp. Lễ hội cịn tồn tại đã góp phần tạo nên tính cố kết
cộng đồng thường thấy ở những làng quê Việt Nam. Tuy rằng một số nghi
thức, nghi lễ trong các lễ hội đã không được bảo lưu. Mặt khác, những đề tài
trang trí trên các cơng trình kiến trúc cịn lại đến ngày nay cũng phần nào nói
lên ước vọng của người xưa về một cuộc sống tươi đẹp, mn lồi sinh sơi,
ấm no, hạnh phúc. Ngồi ra, đây cịn thể hiện tài năng khéo léo của người nghệ
nhân dân gian, những con người đã biến những khung cảnh sinh hoạt đời thường
thành nghệ thuật, biến những thớ gỗ khô cằn thành “mảnh đất” tạo hình.
1.2. Lịch sử đình làng Đỗ Xá
1.2.1. Niên đại di tích đình làng Đỗ Xá
Ngơi đình cổ đã bị phá hủy, những tư liệu như sắc phong, thần tích
(bản gốc) cũng khơng cịn. Tại đây, chưa tiến hành khai quật khảo cổ học, nên
khó xác định niên đại khởi dựng của di tích. Tuy vậy, trong thần tích (bản
sao) có ghi lại “Ngày lành tháng 8 mùa thu hồng triều Vĩnh Hiệu thứ 6
(1740) phụng viết”, có thể đốn định ngơi đình đã được xây dựng trước thời
điểm này (đầu thế kỷ XVIII). Theo cuốn thần tích của ba vị thành hồng làng
có ghi chép lại ba vị đều là tướng giỏi của Lê Lợi, cho phép đặt giả thuyết
ngơi đình này tiền thân là ngơi miếu và có lịch sử từ thế kỷ XV. Mặt khác,
theo di ngôn của các cụ già trong làng thì trước đây ba vị được thờ ở ba nơi


khác nhau. Một vị ở gần đê sông Rầm, một vị ở “Vườn hồng cửa sĩ” (tương
truyền đó là địa điểm có hai ngơi miếu cổ), nhưng khơng thấy nhắc tới nơi thờ

vị cịn lại. Phải chăng vị trí ngơi miếu cịn lại chính là ngơi Đình hiện nay? Có
thể sau q trình tồn tại, ngơi miếu dần thay thế chức năng của ngơi đình và
trở thành đình làng Đỗ Xá hiện nay. Sự thay thế chức năng này có nhân tố
“hợp lý” bởi đình và miếu thường có mối quan hệ chặt chẽ, “Đình là nơi thờ
vọng, miếu là nơi quỷ thần bằng y”. Tuy rằng, những dấu tích vật chất của
ngơi đình hiện tại khơng cho thấy điều đó.
Căn cứ vào những tư liệu Hán nơm cịn lưu giữ được và trang trí kiến
trúc có thể kết luận: tịa đình làng Đỗ Xá hiện nay được xây dựng vào thời
Nguyễn. Trên thượng lương tịa Tiền tế có dịng chữ Hán ghi niên đại: “Đại
Nam Thành Thái thập niên Mậu Tuất ? nguyệt sóc nhật ” nghĩa là: “Ngày
mồng 01 tháng ? năm Mậu Tuất Đại Nam niên hiệu Thành Thái năm thứ
mười (1898)”. Trải qua quá trình tồn tại, Trung từ và Hậu cung đã bị phá hủy
nên khơng cịn giữ được dáng vẻ cổ kính khi xưa. Đặc biệt, tịa Trung từ đã bị
phá hủy hồn tồn vào năm 1965 – 1966.
Tịa Trung từ hiện nay có lịch sử rất đặc biệt. Trung từ trước đây gồm
05 gian, được làm song song với Tiền tế. Vào năm 1965 – 1966, huyện Ninh
Giang đã mua và dỡ đình giữa để lấy nguyên vật liệu xây dựng hệ thống điếm
canh đê sông Luộc. Năm 1997, UBND xã đã cho chuyển một căn nhà lim cũ,
nguyên là nhà của một gia đình địa chủ trong làng được làm vào năm 1944
vào thay vị trí của Trung từ. Hiện nay, trên thượng lương tòa Trung từ vẫn
còn ghi: “Bảo Đại Giáp Thân niên xuân tam nguyệt thập lục nhật kiên trụ
thượng lương đại cát ” nghĩa là: Ngày 16 tháng 3 mùa xuân năm Giáp Thân
(1944), niên hiệu Bảo Đại dựng trụ thượng lương đại tốt đẹp.
1.2.2. Sự thay đổi qua các lần trùng tu
Lần trùng tu thứ nhất đình làng Đỗ Xá diễn ra vào năm 1939. Trong lần
trùng tu này người ta đã thay một số cột và đảo ngói tịa Tiền tế. Trên xà đai,
gian giữa tịa Tiền tế có ghi rõ: “Bảo Đại Kỷ Mão niên quý thu nguyệt trùng


tu” nghĩa là: trùng tu vào tháng 9 mùa thu năm Kỷ Mão niên hiệu Bảo Đại

(1939). Từ đó đến nay hầu hết là những lần tiểu tu do nhân dân trong thơn
góp cơng góp sức với tinh thần “hỏng đâu sửa đấy”.
Ngồi các hạng mục trên, trước đây đình làng Đỗ Xá còn hai dãy giải
vũ tả hữu mỗi bên 5 gian. Vào năm 1947, sau khi giành chính quyền, lực
lượng vũ trang đã dỡ chia cho nông dân trong xã. Vị trí hai nhà giải vũ trước
giờ được thay thế bằng hai dãy tường bao.
Trong kháng chiến chống Pháp 1946 – 1954, nhiều hầm hào bí mật đã
được đào trong Hậu cung đình. Bộ đội chủ lực của huyện Ninh Giang đã nhiều lần
đến đóng và trú ẩn tại đây. Dấu tích của hầm bí mật xưa đã khơng cịn.
Năm 1946, Đình là nơi nhân dân trong xã tiến hành bầu cử quốc hội
khóa I – Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Từ năm 1966 – 1969 và 1972 – 1973, Tiền tế của đình làng Đỗ Xá
được sử dụng làm hội trường phân hiệu II – Trường Nguyễn Ái Quốc Trung
ương. Năm 1967, đồng chí Lê Duẩn lúc đó là Bí thư thứ nhất của Đảng đã về
thăm và nói chuyện với nhân dân địa phương tại đình làng.
Năm 1974, Tiền tế đình làng Đỗ Xá được sử dụng làm hội trường của xã.
Năm 1997, Ủy Ban nhân dân xã Ứng Hòe đã huy động nhân dân tồn
xã đài thọ cho cơng trình trùng tu đình làng Đỗ Xá. Trên câu đầu ở gian giữa
tòa Trung từ còn ghi lại: “Việt Nam Đinh Sửu quý thu hoàng đạo nhật” nghĩa
là: Tu sửa ngày hoàng đạo tháng 9 năm Đinh Sửu (1997). Trong lần trùng tu
này có sửa sang tường bao quanh và đảo ngói và tơn thêm nền tịa Hậu cung,
sửa chữa một số mảng chạm ở tòa Tiền tế.
Đầu những năm 2000, do chính sách đổi mới của Đảng về tự do tín
ngưỡng, nhận thức của các cấp chính quyền nhất là cơ sở có phần hợp lý hơn.
Do đó, ngơi đình sau một thời gian dài khơng sử dụng đúng mục đích đã được
khơi phục lại chức năng vốn có. Những hạng mục bị hư hỏng được từng bước
trùng tu lại. Ban quản lý di tích được thành lập để duy trì mọi họat động của
di tích.



Từ đó đến nay, đình làng Đỗ Xá đã chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử của
nhân dân thôn Đỗ Xá nói riêng và chính quyền nhân dân xã Ứng Hịe nói chung.
1.2.3. Sự tích các vị thần được thờ
Căn cứ vào những truyền thuyết lưu truyền trong nhân dân địa phương,
và những tư liệu Hán nôm, nhất là thần tích hiện lưu giữ tại đình cho thấy:
Đình làng Đỗ Xá được xây dựng để thờ 3 anh em là Nguyễn Tơn, Nguyễn
Lâu và Nguyễn Lãng đã có cơng giúp Lê Lợi trong cuộc khởi nghĩa chống
giặc Minh thế kỷ XV. Năm 1407, giặc Minh sang xâm lược nước ta, tội ác
của chúng chất cao như núi. Nhân dân ta không chịu cảnh nước mất nhà tan
đã vùng lên đấu tranh. Ở vùng Lam Sơn (Thanh Hóa) có người anh hùng Lê Lợi,
chiêu mộ nhân sĩ hào kiệt, luyện tập nghĩa quân cùng nhau đánh giặc giữ nước.
Trong thần tích ba vị thành hồng làng đình làng Đỗ Xá có viết: Truyện
kể rằng ở Thái Bình có một người tướng tài tên là Nguyễn Chuyên, vợ là Đào
Thị Lợi, gia truyền Đào Thị là dòng dõi trâm anh. Hai vợ chồng tu nhân tích
đức nhưng cao tuổi mà vẫn chưa có con trai. Một đêm cuối tháng ba, Đào Thị
Lợi nằm mộng thấy một cụ già mũ áo chỉnh tề, diện mạo khác thường, đi từ
phía Bắc tới, tay cầm một cành đào có ba quả đưa cho Đào Thị Lợi. Đào Thị
Lợi cầm lấy liền ăn và bỗng choàng tỉnh dậy. Bà mang chuyện vừa mộng nói
với chồng. Ơng nói “đó nhất định là điềm lành”. Sau đó quả nhiên bà mang
thai đủ tháng sinh ra ba người con trai “thiên tư kỳ dị, diện mạo khác
thường”. Ông biết là thần nhân xuất thế, liền đặt tên cho người con cả là
Nguyễn Tôn, con thứ hai là Nguyễn Lâu và người con thứ ba là Nguyễn
Lãng. Ba người lớn lên diện mạo khơi ngơ. Năm lên bẩy tuổi thì cho đi học.
Năm 13 tuổi cả ba ông đều tinh thông kinh sử, võ nghệ cao cường, tài năng
nổi trội, thi đấu thao trường hàng trăm người không địch nổi. Năm 20 tuổi,
cha mẹ đột ngột qua đời, ba ông thương xót than phiền, khóc lóc thảm thiết.
Rồi chọn nơi đất tốt an táng cha mẹ, để tang đủ ba năm.
Tương truyền rằng, lúc bấy giờ có một gia đình sinh được người con
trai là Lê Lợi (sinh tướng có mây lành phủ trên mái nhà, ba ngày không tán,



tay trái có bẩy điểm đen là người có tài). Đời Trần có Hồ Q Ly ngơng
cuồng bạo ngược, nhân lúc hồng tử Trần Thái Bình lánh ở Bắc quốc xin trở
về nước. Minh Thành Tổ để lại thư, Hồ Q Ly đã sửa thành đón tiếp Trần
Thiên Bình (một hồng tử khác) về nước. Q Ly bày mưu đón Thiên Bình ở
Bình Kiều. Việc bị lộ, Minh Thành Tổ cử bọn Liễu Thăng, Mộc Thạch, Chu
Năng, Hoàng Phúc đem quân đến nước Nam hỏi tội Hồ Quý Ly rằng: cha con
ngươi dám chống lại chiếu của đại quốc? Hồ Hán Thương thấy vậy ba lần
mang sính lễ đến gặp anh em Lê Lợi. Lê Lợi khơng nhận sính lễ, rồi khởi
nghĩa Lam Sơn, trước tiên tiêu trừ giặc Hồ, chém quân Bắc quốc.
Lúc này, hịch truyền đến các quận huyện để chọn người tài trí, văn võ
tồn tài. Bấy giờ có vơ số bậc anh tài, trong đó có Nguyễn Trãi là người tài
năng xuất chúng…Được tin ba ông văn võ toàn tài, Lê Lợi vời đến vấn kiến,
ứng đối cao minh, thế sự rõ ràng. Vua biết ba ông có tài thao lược sẽ làm lên
nghiệp lớn, bèn cử ba ông chỉ huy quân sĩ, mang quân đến tuần hành, phịng
bị bất trắc. Và phong cho ba ơng:
Nguyễn Tôn làm Đô chỉ huy sứ đương lộ thượng tướng quân.
Nguyễn Lâu làm Tả đô đài đại tướng quân.
Nguyễn Lãng làm hữu Đô đài thái bảo tướng quân.
Ba ông bái lĩnh năm vạn quân thủy, bộ; kiệu mã ba nghìn; khí giới,
lương thực, cờ xế chiêng chống đầy đủ, thẳng đường đi một đêm về đến Hồng
Châu (nay là Hải Dương); rồi tiến binh tiếp đến Hạ Hồng phủ nay là huyện
Ninh Giang. Tới địa đầu huyện thuộc địa phận Đỗ Xá Trang. Thấy Đỗ Xá
cảnh đẹp sơn thủy hữu tình, ba ơng bèn truyền lệnh cho binh sĩ và nhân dân
dựng trại, đóng đồn để ứng phó với giặc phương Bắc. Thu nhập thêm 10 binh
sĩ làm gia thần. Sáng hơm sau thì nhận được lệnh tiến qn trận. Trận đánh ác
liệt, giặc phương Bắc đại bại, ba ông giành thắng lợi lớn, thu nhiều khí giới,
lương thực.
Vua mở tiệc lớn khao thưởng tướng sĩ, cấp cho ba ông hưởng thực ấp ở
huyện Vĩnh Lại. Từ đó, quốc an hưởng lạc, khai hóa ruộng đồng, nhân dân



sung túc phồn vinh. Nhớ lại ngày nào nhận phúc chỉ ở khu Đỗ, trang Đỗ Xá.
Ba ông mở yến tiệc mời phụ lão nhân dân bản trang đến yến ẩm, phụ lão nhân
dân khu Đỗ tâu rằng “khu thần từ khi ba công thiết lập đồn sở, nhân dân đều
yên vui, ngày ngày sinh nhai, dần dần trở nên giàu sang phú quý. Để ghi nhớ
công ơn, nhân đây nay xin làm đồn sở, ngày sau làm nơi thờ tự”. Ba ơng bằng
lịng nói “Khu các ngươi có hậu với anh em ta, coi trọng mệnh với anh em ta,
ngàn năm hương hỏa, muôn đời hưởng tế lễ ở trang các ngươi”. Ba ơng lại
ban cho hồng kim 10 hốt để ngày sau mua ruộng đất phục vụ cho việc thờ tự.
Xong việc, bỗng nhiên trời nổi phong ba có đám mây ba màu tía, đỏ,
hồng như dải lụa từ trên trời bay xuống đồn ải, ba ông “thượng khứ tịng vân”
khơng thấy trở về (Hơm đó là ngày 10 tháng 3 nhân dân gọi là ngày hóa. Sau
này cứ vào ngày 10/3 cấm vui chơi ca hát, còn cấm dùng các màu đỏ, tím,
hồng). Nhân dân thấy vậy tâu về triều. Vua Lê Thái Tổ (Lê lợi) sai sứ về cắt
ruộng xây dựng miếu thờ cúng và phong thượng đẳng thần.
- Nhất phong Minh Tôn Đại Vương
- Nhất phong Khổng Lâu Đại Vương
- Nhất phong Tăng Lãng Đại Vương
Để nhớ công lao của ba ông, hàng năm vào ngày 11/11 (âm lịch) nhân
dân mở hội tế lễ 10 ngày để kỷ niệm ngày sinh và ngày 10/3 (âm lịch) mở hội
kỷ niệm ngày mất. Trong lễ hội ngoài tế lễ còn tổ chức hát chèo, múa rối
nước và thi pháo đất. Riêng tục kiêng không dùng ba màu đỏ, tím, hồng trong
lễ hội thì đã được hủy bỏ.
Tóm lại, Đỗ Xá là một mảnh đất thuần nông, tồn tại và phát triển đến
ngày nay đã trở thành nơi cư dân đông đúc. Đặc điểm kinh tế - xã hội mang
nhiều nét đặc trưng của làng quê vùng đồng bằng Bắc Bộ. Trải qua quá trình
tồn tại, nhiều hình thức sinh hoạt văn hóa truyền thống của cư dân Đỗ Xá đã
bị mai một. Tuy nhiên, lễ hội đình làng Đỗ Xá vẫn được bảo lưu và ngày càng
được cộng đồng gìn giữ và phát huy gía trị. Trong lễ hội đình làng Đỗ Xá có

trị chơi pháo đất hằng năm thu hút đông đảo nhân dân tới tham gia. Đây là


một trong những trị chơi dân gian ít gặp ở các địa phương khác trên cả nước.
Đình làng Đỗ Xá là nơi thờ ba anh em họ Nguyễn đồng sinh ngày 11/11 Âm
lịch (thế kỷ XV) và có cơng giúp Lê Lợi đánh giặc ngoại sâm. Qua những dấu
tích vật chất của ngơi Đình ta có thể khẳng định niên đại của di tích đình làng
Đỗ Xá hiện nay được dựng vào thời Nguyễn (TK XIX). Đình làng Đỗ Xá
khơng chỉ gắn liền với tên tuổi ba vị thành hoàng làng được dân làng tơn kính
mà cịn gắn liền với nhiều sự kiện lịch sử của địa phương.


Chương 2
GIÁ TRỊ KIẾN TRÚC – NGHỆ THUẬT VÀ LỄ HỘI ĐÌNH ĐỖ XÁ
2.1. Giá trị kiến trúc
2.1.1. Khơng gian cảnh quan
Người Việt từ xa xưa đã rất coi trọng phong thủy trong việc xây cất, từ
nhà ở cho đến các cơng trình tơn giáo tín ngưỡng… Người ta cho rằng một
thế đất tốt vừa tận dụng được những lợi thế của thiên nhiên để mang lại nhiều
may mắn trong cơng việc và cuộc sống.
Đình làng Đỗ Xá tọa lạc trên một khu đất cao ráo, bằng phẳng ở trung
tâm của thôn Đỗ Xá. Theo các cụ già trong thôn kể lại thì thế đất của ngơi
đình trước đây khá đẹp: phía trước có ba ao (Tiền tam thai), phía sau có hai
gị đất cao làm hậu chẩm (gối sau), phía xa xa ngồi cánh đồng phía Tây và
phía Bắc có ngũ kiều (năm cầu đá), nằm rải rác xung quanh làng có cửu tỉnh
(chín giếng cổ). Hiện nay do dân cư ngày một đông, đất đai ngày càng thu
hẹp, nên địa thế ngơi đình cũng có nhiều biến đổi, co hẹp lại. Nhưng nhìn
chung ngơi đình làng Đỗ Xá vẫn là một ngơi đình có địa thế và kiến trúc đẹp.
Toạ lạc trên mảnh đất bằng phẳng, rộng rãi, đình làng Đỗ Xá là nơi
sinh hoạt văn hố tín ngưỡng lâu đời của nhân dân địa phương. Di tích được

xây dựng theo hướng Nam. Theo kinh Dịch, phương Nam tượng trưng cho
màu đỏ, màu của sự sống, mọi vật đều sinh sôi phát triển. Theo kinh nghiệm
của dân gian, hướng Nam được coi là hướng đẹp của kiến trúc; ngôi nhà quay
theo hướng này sẽ mát mẻ vào mùa hè, ấm áp vào mùa đơng.
Phía trước, bên trái của đình làng Đỗ Xá cịn có ao rộng (một trong ba
ao cổ cịn sót lại, từ xa xưa trước cửa đình có ba ao lớn), đây cũng là yếu tố
phong thủy của đình. Theo quan niệm của dân gian thì đây chính là yếu tố tụ
thủy, tụ phúc trong phong thủy của đình làng.
Trước năm 1945, nhân dân trong làng vẫn gánh nước ao đình về ăn.
Xung quanh ao là bờ đất, cạnh đình có cầu ao gồm nhiều bậc, được làm bằng


đá tảng xanh, chắc chắn, để nhân dân trong thôn rửa sạch bụi trần trước khi
vào đình dâng lễ. Nhưng gần đây, người ta đã xây bờ kè gạch xung quanh ao,
và cho đấu thầu để thả cá. Hằng năm, mỗi dịp có những ngày lễ, ngày kỷ
niệm của xã người ta thường tổ chức múa rối nước tại đây
Bên phải ngơi đình là một sân kho lát gạch, phía trước có hai cây gạo
cổ thụ cành lá xum xuê đã có trên 100 năm tuổi.
Khu kiến trúc chính của đình làng Đỗ Xá gồm có các cơng trình như:
Tiền tế, Trung từ, Ống muống và Hậu cung. Trung từ và hậu cung đình làng
Đỗ Xá được nối với nhau bằng một Ống muống. Kiến trúc ngơi đình theo
kiểu “Tiền chữ Nhất, hậu chữ Công” ( ).
2.1.2. Bố cục mặt bằng tổng thể
Đình làng Đỗ Xá được xây dựng trên khu đất rộng, bằng phẳng. Khu
kiến trúc chính của đình có quy mơ lớn, một tổng thể kiến trúc theo kiểu “tiền
chữ Nhất, hậu chữ Cơng” ( ) gồm: tồ Tiền tế, Trung từ, Ống muống và Hậu
cung. Khối kiến trúc đồ sộ này được xây trên thửa đất cao hơn mặt sân 0,2m
(trước đây, thửa đất này cao hơn hẳn xung quanh. Nhưng do những năm gần
đây, nhân dân trong thơn làm lại con đường trước mặt đình và lát gạch ở sân
đình, họ đã tơn thêm nền cho sân và đường nên hiện nay, khu đất này chỉ cao

hơn xung quanh khoảng 0.2m), xung quanh bó vỉa. Xung quanh di tích là
những cây cổ thụ toả bóng mát suốt 4 mùa.
Bố cục mặt bằng được bố trí như sau: Ngoài cùng là Tiền tế nằm sát
mặt đường liên thơn (khác với những ngơi đình khác, đình làng Đỗ Xá khơng
có Nghi mơn). Trước mặt là vườn đình, bên phải là sân đình, bên trái là ao
đình. Phía sau Tiền tế là sân gạch được gọi là sân lọng, hai bên từ đây dọc về
phía sau là tường bao quanh di tích. Đi hết sân gạch, tới tịa Trung từ và Hậu
cung, Trung từ được nối liền với Hậu cung bằng Ống muống. Sau cùng là
vườn đình và ao nhỏ cũng thuộc đất đình.
2.1.3. Kết cấu kiến trúc


Đình làng Đỗ Xá xưa kia là một cơng trình kiến trúc có quy mơ lớn,
gồm Tiền tế, Trung từ,Ống muống, Hậu cung và Giải vũ. Đình làng Đỗ Xá
ngay từ xưa đã khơng có Nghi mơn (điều này có nét tương đồng với đình Mai
Xá, thơn Mai Xá, xã Hiệp Lực – cách thôn Đỗ Xá khoảng 12 km, thẳng theo
trục đường 17). Trải qua quá trình tồn tại hai nhà Giải vũ đã khơng cịn. Kết
cấu kiến trúc Đình làng Đỗ Xá hiện tại như sau:
2.1.3.1. Tiền tế
Tiền tế là một nếp nhà 3 gian 2 chái, mái lợp ngói vẩy hến, nền lát gạch
Bát Tràng. Tiền tế được làm theo kiểu dáng chồng diêm, 2 tầng 8 mái, kiểu
dáng kiến trúc này vừa làm cho phần mái thêm thanh thốt bởi 8 đao góc,
đồng thời làm tăng thêm độ cao và thống mát cho ngơi đình. Có ý kiến giải
mã kiến trúc này như sau: 2 tầng là lưỡng nghi, 4 phía là tứ tượng, 8 mái là
bát quái. Những con số này hàm nghĩa cầu sinh sôi, giá trị tinh thần của cư
dân nông nghiệp.
Chiều cao của tòa nhà Tiền tế là 13,8 m, rộng 8,8m, với hệ thống cột
lim được làm theo kiểu “thượng thu hạ thách”: cột cái đường kính 0,8m, tảng
kê chân cột đá được làm theo kiểu âm dương (dưới vuông, trên tròn) bốn cạnh
mỗi chiều 0,78m. Điều đặc biệt là trên phần chân cột, cách chân tảng 0.1m, ở

tất cả các cột trong tòa Tiền tế (trừ một số cột mới thay) đều có các lỗ mộng.
Điều này có thể kết luận Tiền tế Đỗ Xá xưa kia có sàn đình bằng gỗ theo kiểu
kết cấu Ván sàn (kiểu kết cấu ván sàn thường có ở những di tích có niên đại
sớm), nhưng khơng hiểu vì lý do gì đến nay sàn đình đã khơng cịn nữa. Thay
vào đó là nền lát gạch Bát Tràng.
Mái Tiền tế được lợp bằng hai loại ngói là ngói lợp và ngói lót. Ngói
lợp là loại ngói vẩy hến, ngói lót có hình chữ nhật. Ngói lót vừa có tác dụng
làm phẳng bề mặt khi lợp ngói phủ vừa có tác dụng làm tăng độ dày cho mái.
Hai mái chính gặp nhau ở bờ nóc. Hai đầu kìm của tầng mái trên được tạo
hình hai con Makara. Mái chính và mái hồi gặp nhau thành đường bờ dải gấp
khúc gọi là bờ dải và bờ guột. Ở chỗ giao giữa bờ guột và bờ dải (còn gọi là


khúc nguỷnh) của tầng mái trên được tạo hình hai con xơ đắp nổi. Trên bờ dải
có đơi lân trong tư thế nhìn tập trung vào đường thần đạo với ý nghĩa kiểm
soát tâm linh của kẻ hành hương. Một trong những nét gây nhiều sự chú ý
nhất của kiến trúc đình làng là phần mái đao. Cấu kiện gỗ quan trọng tạo độ
cong của mái đình là tàu mái. Đó là những tấm ván dày, nối khít nhau, chạy
viền theo suốt chiều dài của mái. Tàu mái đảm nhiệm chức năng của cây
hoành cuối cùng, đỡ toàn bộ trọng lực theo chiều nghiêng của mái ngói và
trực tiếp đỡ các viên ngói giọt gianh. Tàu mái có hai phần: là phần chạy suốt
nối các gian gọi là tàu gian, phần nằm ở đầu hồi được gọi là tàu hồi. Ở phần
góc đao hai tàu mái uốn cong dần lên, gặp nhau, khít mộng gọi là âu tàu. Lá
mái cũng là các tấm gỗ dài nhưng mỏng và nhỏ hơn tàu mái, đặt ngay sát tàu
mái. Để cố định tàu mái người ta phải dùng đến các then tàu. Các đầu đao đều được
đắp nổi hình đầu rồng cong vút, tạo ra vẻ thanh thốt, mềm mại cho mái đình.
Khoảng cách giữa hai tầng mái người ta xây một tường gạch, hai đầu là
hai trụ, trang trí biểu tượng chữ Vạn (

). Bờ nóc của mái dưới được đắp hình


lưỡng long chầu nhật. Đôi rồng này được đắp bằng xi măng, rồng mang
phong cách thế kỷ XIX.
Trước đây, xung quanh Tiền tế để thơng thống khơng xây tường, vào
các phiên chợ người dân họp chợ cả vào trong đình. Vì vậy, ngồi chức năng
tín ngưỡng, đình cịn là một bộ phận của chợ Đọ cổ. Trong cuộc chiến tranh
phá hoại lần thứ nhất và lần hai của giặc Mỹ, một phân hiệu của Trường
Nguyễn Ái Quốc Trung ương sơ tán về đây đã sử dụng Tiền tế làm hội
trường. Để đảm bảo an ninh người ta đã xây tường gạch xung quanh đình và
mở rất nhiều cửa, chỉ để phía sau chỗ nối với sân lọng và Trung từ là không
xây tường. Tiền tế được xây ba mặt tường gạch, sơn màu vàng và mở 3 cửa ra
vào (phía trước hai cửa và một cửa phía tây) kích thước cửa cao 2.1m x 1.5m,
bên cạnh đó là hệ thống các cửa sổ thơng gió (mỗi mặt có 2 cửa sổ) kích
thước 0.7m x 1.15m. Cánh cửa được làm theo kiểu “bức bàn”, để mộc khơng
trang trí.


Kết cấu tồ Tiền tế là 2 bộ vì dọc được làm theo kiểu vì “giá chiêng”.
Trên đỉnh là thượng lương bào vuông, đặt trên dép thượng lương và được đỡ
bởi một đấu hình thuyền. Đấu này đồng thời tỳ lực lên con rường dưới. Con
rường này có nhiệm vụ đỡ các cấu kiện kiến trúc trên, đồng thời vươn ra đỡ
lấy hai hoành đầu tiên qua hai đấu kê. Đấu kê được làm theo kiểu “đấu vng
thót đáy” được trang trí chạm khắc khá tỉ mỉ. Con rường này đặt trên hai cột
trốn. Phía ngồi cột trốn có những con rường cụt, một đầu ăn mộng vào cột
trốn, một đầu vươn ra đỡ các hoành thứ 2 và thứ 3. Hệ thống hồnh của tịa
nhà này được bào vng theo kiểu “Soi gờ kẻ chỉ”. Đầu rường được kê trên
một đấu vuông theo cách thức ở chân cột trốn. Khoá đầu hai cột trốn là quá
giang tạo thành một giá chiêng. Quá giang ăn mộng vào đầu cột cái hồn
thiện bộ vì nóc. Hiện tượng này chúng ta chỉ gặp ở những di tích có niên đại
muộn (thế kỷ XVIII trở về sau), còn ở các thế kỷ trước, xà nóc tỳ lực lên cột

cái thơng qua đấu kê chứ khơng ăn mộng trực tiếp vào thân cột (vì thế được
gọi bằng cái tên khác là câu đầu). Như vậy ta có thể nhận ra sự biến đổi trong
cách thức kiên kết các cấu kiện gỗ trong kiến trúc truyền thống. Dưới quá
giang có hai đầu dư chạm rồng. Đầu dư được chạm rồng tỷ mỷ, có kích thước
tương đối lớn.
Tiếp đến là bộ vì nách được làm theo kiểu “Cốn chồng rường”. Vì nách
là cách liên kết các cấu kiện gỗ theo phương vng góc của cột cái và cột
quân, tạo thành một tam giác vuông trong không gian mà cạnh huyền là mặt
mái bên dưới, cạnh dài là xà nách, cạnh ngắn là đoạn dài hơn của cột cái so
với cột quân. Vì nách gồm 5 con rường, 3 con rường trên cùng một đầu ăn
mộng trực tiếp vào cột cái, đầu còn lại vươn ra đỡ hoành. Con rường thứ 4 là
một con rường cụt (ở vị trí này nó cịn có tên là rường cánh). Dưới cùng là xà
nách ăn mộng trực tiếp từ cột cái sang cột quân. Hầu hết các vì nách đều được
phủ lên đó các văn trang trí cơng phu, tỷ mỷ. Các đề tài trang trí đa dạng,
nhưng chủ yếu là hình ảnh “trúc lão – trúc hóa rồng” hay “cá chép hóa


×