TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HĨA HÀ NỘI
KHOA BẢO TÀNG
*********
PHẠM CHÍ THIỆN
TÌM HIỂU DI TÍCH ĐÌNH LÀNG LƯƠNG XÁ
(Xã Lam Điền - Huyện Chương Mỹ - Hà Nội)
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
NGHÀNH BẢO TÀNG HỌC
Người hướng dẫn:
PGS.TS.Trịnh Thị Minh Đức
HÀ NỘI - 2011
2
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện đề tài của mình, em đã tham khảo các nguồn tài
liệu như: Giáo trình, tư liệu lịch sử, các bài viết chuyên khảo, các tư liệu dân
gian…Tuy nhiên phần lớn các nguồn tư liệu trong khóa luận này là kết quả khảo
sát thực tế tại cơ sở dưới sự hướng dẫn tận tình của giảng viên hướng dẫn - PGSTS Trịnh Thị Minh Đức và những cộng tác viên đã không quản ngại khó khăn
giúp đỡ cho việc nghiên cứu đề tài. Qua khóa luận này, cho phép em gửi lời cảm
ơn chân thành tới Ban chủ nhiệm khoa Bảo tàng đã tạo điều kiện cho em thực
hiện đề tài. Đồng thời, cho em gửi lời cảm ơn tới ban quản lý di tích Đình Lương
Xá, Ủy ban nhân dân xã Lam Điền đã nhiệt tình giúp đỡ em thực hiện đề tài.
Với ý nghĩa, giá trị của di tích, khơng chỉ về mặt lịch sử, mà nó cịn có nhiều
giá trị khác. Tuy nhiên trong phạm vi thời gian và bước đầu làm nghiên cứu khoa
học, bài viết cũng không tránh khỏi những khiếm khuyết nhất định. Kính mong
sự góp ý của các thầy cô, các nhà nghiên cứu và các bạn sinh viên để khóa luận
của em được hồn thiện hơn nữa.
Em xin chân thành cảm ơn !
Phạm Chí Thiện
3
MỤC LỤC
Mục lục ...................................................................................................................... 2
Lời Mở Đầu ............................................................................................................... 4
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................ 4
2. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................. 6
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...................................................................... 6
4. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................... 7
5. Bố cục khóa luận ................................................................................................ 7
Chương 1: Làng Lương Xá và Đình làng Lương Xá ............................................ 8
1.1.Vài nét tổng quan về làng Lương Xá: .............................................................. 8
1.1.1.Vị trí địa lý - đặc điểm tự nhiên. ....................................................................... 8
1.1.2.Dân cư và đời sống kinh tế của dân cư ............................................................. 9
1.1.3.Văn hóa truyền thống làng Lương Xá ........................................................ ….14
1.2.Lịch sử xây dựng và q trình tồn tại của di tích Đình làng Lương Xá ......... 39
1.3.Đình làng Lương Xá trong hệ thống các di tích thờ các vị vua triều Lý ....... 41
1.4.Sự tích nhân vật được thờ…………………………………………………...47
Chương 2: Giá trị kiến trúc, di vật và lễ hội đình làng Lương Xá .................... 54
2.1.Giá trị kiến trúc đình làng Lương Xá .......................................................... 54
2.1.1.Không gian cảnh quan và bố cục mặt bằng tổng thể...................................... 55
2.1.2.Kết cấu kiến trúc đình làng Lương Xá. ........................................................... 60
2.2.Nghệ thuật chạm khắc trên kiến trúc đình làng Lương Xá ......................... 70
2.3.Hệ thống di vật ở đình….................................................................................78
2.3.1.Di vật bằng đá. ................................................................................................ 78
2.3.2.Di vật bằng chất liệu giấy .. ............................................................................ 80
2.3.3.Di vật bằng đồng ............................................................................................. 82
2.3.4.Di vật bằng gỗ ................................................................................................ 82
2.3.5.Di vật bằng vải ................................................................................................ 87
2.4.Lễ hội đình làng Lương Xá………………………………………………….89
2.4.1.Cơng việc chuẩn bị cho lễ hội ......................................................................... 91
2.4.2.Diễn trình lễ hội .............................................................................................. 92
2.4.3.Lễ hội đình làng Lương Xá trong mối liên quan với các di tích cùng thờ…105
2.4.4.Các ngày lễ kỉ niệm khác trong năm……………………………………….111
Chương 3: Bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị di tích đình Lương Xá ......... 114
4
3.1.Giá trị tiêu biểu của đình làng Lương Xá ................................................... 114
3.2.Hiện trạng về di tích, di vật đình làng Lương Xá……….......……………..116
3.2.1.Hiện trạng di tích. ......................................................................................... 116
3.2.2.Hiện trạng các di vật tại đình Lương Xá. ..................................................... 120
3.3.Giải pháp bảo tồn cho di tích. ....................................................................... 122
3.3.1.Giải pháp bảo quản đối với di tích đình làng Lương Xá. ............................. 122
3.3.2.Giải pháp tu bổ di tích đình làng Lương Xá. ............................................. ...125
3.3.3.Tơn tạo di tích đình làng Lương Xá. ............................................................. 126
3.3.4.Tăng cường trong cơng tác quản lý di tích………………………………...128
3.4.Hiện trạng lễ hội đình làng Lương Xá và biện pháp bảo tồn lễ hội………..128
3.5.Phát huy giá trị di tích đình làng Lương Xá. ................................................ 130
Kết Luận................................................................................................................ 132
Tài Liệu Tham Khảo ..................................................................................................
Phụ lục……………………………………………………………………………….
5
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1.Nói đến văn hóa cổ truyền Việt Nam, người ta khơng thể khơng nói đến
ngơi Ðình làng. Đình làng - một mảnh hồn q, một nét đẹp của xóm làng Việt
Nam, từ lâu đã in vào tâm khảm mỗi con người và toả sáng trong những áng
thơ văn:
Hơm qua tát nước đầu đình
Để qn chiếc áo trên cành hoa sen
Đã từ rất lâu rồi, khi nói đến văn hố làng - nét văn hố của nông thôn Việt
Nam, chúng ta liên tưởng ngay tới những hình ảnh rất đặc trưng, làm nên biểu
tượng của làng q. Đó là những hình ảnh của "cây đa, bến nước, sân đình, bụi
tre, vườn cây, ao cá...".
Đình làng là một di tích trong loại hình di tích văn hóa Việt Nam. Những
phát hiện nghiên cứu trong nhiều năm trở lại đây đã tìm thấy các ngơi đình có
niên đại sớm. Hiện nay, ngơi đình có niên đại sớm nhất được phát hiện là đình
Thụy Phiêu (Xã Thụy An - Huyện Ba Vì - TP. Hà Nội), được xây dựng vào đầu
thế kỷ XVI năm 1531. Tiếp theo sự phát triển của kiến trúc đình làng là các
ngơi đình được xây dựng vào thế kỷ: XVII, XVIII, XIX với quy mô lớn hơn
hơn trước. Tiêu biểu là các ngôi đình như: đình Chu Quyến, đình Thổ Hà, đình
Đình Bảng,… Đình làng là một nét đẹp và đặc trưng của văn hóa nơng thơn.
Đình làng là hình ảnh thân quen, gắn bó với tâm hồn của mọi người dân Việt, là
nơi chứng kiến những sinh hoạt, lề thói và mọi đổi thay trong đời sống xã hội
của làng quê Việt Nam qua bao thế kỷ. Cái Đình trang trọng và thiêng liêng, nó
gần như đại diện, là biểu tượng của quyền lực làng xã. Nhưng Đình làng lại là
6
nơi tụ họp mọi người trong mọi sinh hoạt chung, vốn rất cần cho cuộc sống
nơng thơn cần có sự nương tựa, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau.
1.2. Chiêm ngưỡng vẻ đẹp của những dấu tích xưa, khơng ít người tỏ ý lo lắng
cho sự mai một của một nét đẹp văn hóa nơi các làng quê Việt. Như nhà văn
Nguyên Ngọc đã bày tỏ trong cuộc triển lãm ảnh “Đình làng Việt - sự đa dạng”
diễn ra tại bảo tàng Dân tộc học (Hà Nội): “Đình vẫn là nơi diễn ra lễ hội,
nhưng khơng cịn giữ được khơng khí xưa; đình vẫn là nơi thờ tự, nhưng nghi
thức cúng tế đã thay đổi; còn chức năng làm trung tâm hành chính của những
mái đình thì dường như khơng cịn nữa. Triển lãm này là sự báo động cho khả
năng có thể mất đi của những giá trị văn hóa truyền thống”.
1.3. Đình làng Lương xá là một ngơi đình độc đáo, sự độc đáo của ngơi đình
chính lả ở các vị thành hồng được thờ trong đình. Đó là tám vị vua nhà Lý (Lý
bát đế), điểm đặc sắc nhất của ngơi đình chính là ở những vị thành hồng này.
Bởi lẽ, nếu như ở các ngơi đình khác, các vị thành hoàng thường là những vị
thần, tổ nghề hay là những người có cơng với làng thì ở đây ta bắt gặp thành
hoàng là những vị vua nhà Lý. Một điều đáng chú ý nữa, là đây không phải quê
hương của các vị vua đó. Vậy tại sao dân làng lại thờ cúng họ? Nhân dịp kỉ
niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, với khóa luận này, tơi mong sẽ được góp
một phần nhỏ bé vào việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
1.4. Hơn thế nữa, để góp phần kỉ niệm đại lễ 1000 năm Thăng Long - Hà Nội,
để ghi nhớ công ơn của vương triều nhà Lý - Vương triều đã có cơng trong việc
dời đơ ra kinh thành Thăng Long, đặt nền móng cho sự phát triển của kinh đô
trong các giai đoạn sau. Nên tôi quyết định chọn Đình làng Lương Xá - thơn
Lương Xá - xã Lam Điền - huyện Chương Mỹ - thành phố Hà Nội - một ngơi
Đình cổ kính làm đề tài cho khóa luận tốt nghiệp của mình. Hy vọng rằng,
những kết quả nghiên cứu khóa luận tốt nghiệp chuyên nghành Bảo tồn - Bảo
7
tàng của tơi sẽ đóng góp ít nhiều vào việc bảo tồn và phát huy giá trị của di tích
đình làng Lương Xá nói riêng và việc bảo tồn di tích lịch sử văn hóa của thành
phố Hà Nội nói chung.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu giá trị văn hóa, nghệ thuật của di tích đình làng Lương Xá, trên cơ
sở khảo sát thực trạng và tình trạng kỹ thuật của đình làng Lương Xá hiện nay.
Bước đầu đưa ra các giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị của di tích đình làng
Lương Xá trong đời sống văn hóa của cộng đồng cư dân.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu vài nét tổng quan về làng Lương Xá - Không gian văn hóa nơi di
tích tồn tại.
- Căn cứ vào các tài liệu biên chép và các nguồn tư liệu tại di tích xác định niên
đại xây dựng đình và những lần trùng tu, sửa chữa.
- Giới thiệu về Thành hoàng làng của đình Lương Xá.
- Nghiên cứu giá trị kiến trúc, di vật, lễ hội tại đình làng Lương Xá.
- Khảo sát thực trạng, tình trạng kỹ thuật của di tích để đưa ra giải pháp bảo
tồn và phát huy giá trị di tích đình làng Lương Xá.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu là di tích Đình Lương Xá - thơn Lương Xá - xã Lam
Điền, huyện Chương Mỹ - thành phố Hà Nội và mở rộng đến các di tích thờ các
vị vua triều Lý để tìm hiểu mở rộng và so sánh.
- Phạm vi vấn đề nghiên cứu: nghiên cứu khái quát tồn cảnh di tích Đình làng
Lương Xá trong khơng gian, thời gian, lịch sử, văn hóa, xã hội của xã Lam Điền.
- Phạm vi không gian: xã Lam Điền - Huyện Chương Mỹ - Hà Nội và xã Đình
Bảng (Bắc Ninh).
8
- Phạm vi thời gian:
+ Đối với các giá trị văn hóa vật thể: Nghiên cứu từ khi di tích hình thành tới
nay.
+
Đối với các giá trị văn hóa phi vật thể: Nghiên cứu lễ hội đình làng Lương xá
nay, so sánh với trước kia để thấy được sự biến đổi.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Khóa luận sử dụng phương pháp nghiên cứu liên nghành: Bảo tàng học, dân
tộc học, mỹ thuật học, lịch sử, xã hội học.
- Phương pháp khảo sát điền dã tại di tích và sử dụng các kỹ năng: Quan sát,
miêu tả, đo vẽ, chụp ảnh, phỏng vấn, trao đổi, thống kê.
-
Khóa luận sử dụng phương pháp nghiên cứu so sánh để tìm ra những nét
chung và riêng trong các di tích cùng thờ của các vua thời Lý.
5. Bố cục khóa luận
Ngồi phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, khóa luận có kết cấu 3
chương.
Chương 1: Làng Lương Xá và Đình làng Lương Xá.
Chương 2: Giá trị kiến trúc, di vật và lễ hội đình làng Lương Xá.
Chương 3: Bảo tồn, tơn tạo và phát huy giá trị di tích đình làng Lương Xá.
9
Chương 1
Làng Lương Xá và Đình làng Lương Xá
1.1.Vài nét tổng quan về làng Lương Xá
1.1.1.Vị trí địa lý - đặc điểm tự nhiên
Xã Lam Điền có diện tích tự nhiên 802 ha, dân số 9500 người (Số liệu
tính đến 31 - 12 - 2003, do Đảng Bộ xã Lam Điền cung cấp). Theo sách Đại
Nam nhất thống chí thì Lam Điền ngày nay là đất của 5 xã: Lam Điền, Ứng
Hòa, Đại Từ, Duyên Ứng, Lương Xá, chia làm 28 xóm, có một xóm ở bên kia
sơng Đáy giáp thôn Cao Bộ (xã Cao Viên, Thanh Oai) gọi là xóm Chùa Cát, 3
xóm giáp xã Đại Yên gọi là xóm Phe Năm (có thời gian gọi là Đường Thơn).
Khi thực dân Pháp đặt ách cai trị ở nước ta, chính quyền thực dân đã xóa bỏ địa
giới hành chính cấp trấn, phủ và lập ra tỉnh, huyện, giữ nguyên cấp tổng, xã.
Lương Xá là một ngôi làng nhỏ nằm bên bờ sông Đáy thuộc xã Lam
Điền, huyện Chương Mỹ, Hà Nội. Trong lịch sử, đất Chương Mỹ thời kỳ đầu
dựng nước thuộc quận Giao Chỉ, vào thời Lý, Trần thuộc châu Quốc Oai, sau là
lộ Quốc Oai và lộ Ứng Thiên. Thời Lê thế kỷ 15, Chương Mỹ là một phần của
huyện Chương Đức, phủ Ứng Thiên, đạo Sơn Nam.
Lương Xá là một địa danh cổ, hợp với 8 tổng, xã khác gồm: Chúc Sơn,
Quảng Bị, Bài Trượng, Văn La, Hoàng Xá, Viên Nội, Bột Xuyên và Tuy Lai
tạo nên huyện Chương Đức ở thời Lê. Đến năm Đồng Khánh thứ 3 (1888)
huyện Chương Mỹ được thành lập từ các tổng của huyện Chương Đức ( tỉnh Hà
Nội) và Mỹ Lương (tỉnh Sơn Tây), Lương Xá là địa danh hành chính cấp xã
của huyện Chương Đức xưa, sau là Chương Mỹ. Đến năm 1904, thực dân Pháp
chia huyện Chương Mỹ làm 12 tổng, 81 xã. Tổng Lương xá có 8 xã là: Lương
Xá, Ứng Hòa, Hương Lang, Đại Từ, Lam Sơn, Duyên Ứng, Tân An, Thụy
10
Dương. Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, đơn vị tổng, phủ bị bãi bỏ,
Lương Xá thuộc xã Lam Điền, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Đông.
Năm 1965, Hà Đông - Sơn Tây hợp nhất thành Hà Tây, lúc đó làng
Lương Xá - xã Lam Điền thuộc tỉnh Hà Tây.
Năm 1976, Hà Tây - Hịa Bình hợp nhất thành Hà Sơn Bình, lúc đó xã
Lam Điền thuộc tỉnh Hà Sơn Bình.
Năm 1991, tại kỳ họp thứ 9, quốc hội khóa VIII đã quyết định tách tỉnh
Hà Sơn Bình thành hai tỉnh Hà Tây và Hịa Bình, huyện Chương Mỹ trở lại
thuộc tỉnh Hà Tây và xã Lam Điền thuộc địa phận tỉnh Hà Tây.
Năm 2008, Quốc hội đã tán thành Nghị quyết của Ủy ban nhân dân thành
phố Hà Nội về việc sát nhập tồn bộ địa giới hành chính Hà Tây với Hà Nội, từ
đó Chương Mỹ trở thành một huyện ngoại thành của Thủ đơ.
Về địa giới hành chính thơn Lương Xá, phía Đơng giáp sơng Đáy và thơn
Đại Từ, phía Tây giáp xã Hợp Đồng, phía Nam giáp thơn Bài Trượng thuộc xã
Hồng Diệu, phía Bắc giáp thơn Duyên Ứng.
Thôn Lương Xá nằm dọc theo hai bên bờ sông Đáy, từ quận Hà Đông
theo Quốc lộ 6 đi qua địa giới các xã Ngọc Sơn, Thụy Hương, đến ngã ba dốc
Ninh rẽ trái men theo hữu ngạn đê sông Đáy đi về ngã ba Thá khoảng 6 km,
qua đường liên xã Lam Điền, Thụy Hương, Hoàng Diệu. Từ đây đi tiếp qua
trung tâm xã Lam Điền chừng 1 km là đến thôn Lương Xá.
1.1.2. Dân cư và đời sống kinh tế của dân cư
* Dân cư
Bằng các tư liệu hiện có như: “Đại Nam nhất thống chí” - Xuất bản năm
1971, “Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX” - Xuất bản năm 1981, “Lịch sử
cách mạng Đảng Bộ và nhân dân xã Lam Điền” - Xuất bản tháng 8 năm
2004,…đã cho ta biết làng Lương Xá xưa kia là dải đất hoang, đầm lầy, nằm
11
dọc con sơng Bồ Đề. Tổ tiên là các dịng họ lớn như họ: Đặng, Lê, Nguyễn từ
các vùng lân cận là: Lam Điền, Ứng Hòa, Đại Từ, Duyên Ứng, đã đến đây khai
phá đất đai, sinh cơ lập nghiệp lấy tên là làng Mạc Xá, sau đổi là xã Lương Xá tổng Lương Xá - phủ Ứng Thiên - huyện Chương Đức - tỉnh Hà Đơng vì
“Tương truyền trước đây họ Đặng bắt đầu xây dựng cơ ngơi ở làng Mạc Xá huyện Chương Đức vì tránh họ Mạc mà đổi là Lương Xá” - Trích đánh giá về
dịng họ Đặng trong bài tựa của Duy doãn phủ thị trung Đại học sĩ Ngơ Thì
Nhậm viết. Hiện nay xã Lương Xá được đổi thành làng Lương Xá - xã Lam
Điền - huyện Chương Mỹ - Hà Nội.
Với dân số hiện nay là 2.510 khẩu tương đương 520 hộ gia đình, làng
Lương Xá có một nguồn nhân lực trẻ, dồi dào, có thể khai thác tốt để phát triển
kinh tế nông nghiệp.
Theo lời các cụ cao niên trong làng, trong tổng số 12 dịng họ của làng,
thì có 9 dịng họ lớn có nhiều người đỗ đạt, có nhiều đóng góp cho sự phát triển
của làng. Đó là các dịng họ: Đặng (lớn nhất), Nguyễn (Văn), Lê, Trịnh,
Nguyễn (Đắc), Hoàng, Nguyễn (Đình), Nguyễn (Viết), Nguyễn (Hữu). Trong
đó, chỉ có họ Đặng có nhà thờ họ và tổ chức giỗ tổ thường niên mỗi năm một
lần. Họ Đặng là dòng họ lâu đời nhất ở làng Lương Xá, người dân của dòng họ
này về làng Lương Xá lập nghiệp sớm nhất và nay là dịng họ có số lượng
người đơng nhất trong làng với hơn 300 khẩu. Dòng họ Nguyễn tuy là dòng họ
đến Lương xá muộn nhất nhưng lại là dòng họ được coi là phát đạt nhất trong
làng. Sau này cùng với quá trình khai phá đất đai trong vùng, dòng họ Nguyễn
đã tách ra làm 5 chi họ.
Hiện nay, với sự phát triển của đất nước, đời sống của người dân làng
Lương Xá cũng đã khác trước, tốt hơn nhưng các dòng họ trong làng vẫn sống
12
quây quần bên nhau trong một cộng đồng truyền thống, ổn định, cùng nhau
phát triển, với tình làng nghĩa xóm sâu đậm và sức sống mãnh liệt.
* Đời sống kinh tế của dân cư
o Nơng nghiệp
Với tổng diện tích đất tự nhiên là 2.120.000 m2 , trong đó có 1.390.000
m2 là đất nông nghiệp trồng lúa, một số cây hoa màu và rau thương phẩm.
Đất đai xã Lam Điền thuộc đồng bằng châu thổ sông Hồng, nằm trong
vùng đất cuối kế tiếp giữa đồng bằng và miền núi Hịa Bình. Do kiến tạo của tự
nhiên, ruộng đất ở xã Lam Điền chia thành hai vùng rõ rệt. Một vùng, do trải
qua nhiều năm phù sa sông Đáy bồi đắp tạo thành những bãi bồi lớn phía ngồi
đê, thuận lợi cho phát triển cây công nghiệp và rau màu. Một vùng là đất trũng
hình lịng chảo sản xuất nơng nghiệp chủ yếu là cây lúa nhưng việc trồng lúa ở
đây cũng gặp khơng ít khó khăn.
Thơn Lương Xá nằm ở trên cả hai vùng địa hình này. Vùng bãi bồi phía
ngồi đê gần 400 mẫu, do được phù sa sông Đáy bồi đắp nên đất đai khá màu
mỡ. Người dân chủ yếu trồng rau màu như: ngô, khoai, sắn,… và các loại cây
cơng nghiệp như: mía, dâu tằm,… cung cấp một nguồn nguyên liệu đồi dào cho
các nhà máy. Nghề trồng dâu nuôi tằm là một nghề mới được Đảng bộ nhân
dân xã Lam Điền đưa vào sản xuất thử nhằm mục đích tăng thêm thu nhập,
cũng như xóa đói giảm nghèo cho người dân trong vùng. Sản phẩm làm ra chủ
yếu là vải thô cung cấp nguyên liệu cho các nhà máy dệt. Hảng năm các chuyến
xe từ các nhà máy dệt ở Trung Ương như: Tập đoàn dệt may Việt Nam
(Vinatex), cơng ty TNHH dệt may Hồng Dũng,…đã về đây để thu mua
nguyên liệu cho người dân.
Vùng đất phía trong đê có diện tích gần 900 mẫu, vùng đất này sản xuất
chủ yếu là cây lúa. Tuy nhiên vì đây là vùng đất trũng, đất đai bị ngập úng do
13
mùa mưa, nước lũ, nước sông Đáy chảy dồn về. Vì vậy, việc cấy trồng lúa cịn
gặp khơng ít khó khăn.
Dưới thời thực dân phong kiến, đồng ruộng không được cải tạo, hệ thống
thủy lợi hầu như khơng có, sản xuất phụ thuộc vào thiên nhiên. Cảnh chiêm
khê, mùa thối năm nào cũng xảy ra. Một số xứ đồng cao cũng chỉ cấy được vụ
mùa. Diện tích đồng trũng, lầy thụt chỉ cấy được vụ chiêm. Nhưng đến nay, do
được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, việc áp dụng khoa học công nghệ
vào sản xuất nông nghiệp đã được thực hiện nên đời sống dân cư đã khá hơn
trước, năng suất nơng nghiệp cũng tăng cao.
Ngồi ra, thơn Lương Xá cịn có mấy chục mẫu ao, hồ, đầm trước kia bỏ
hoang cỏ mọc, bèo tây phủ kín, nhưng nay đã được xã chia lại cho từng hộ để
tiến hành nuôi thủy sản tăng thêm thu nhập cho người dân. Hiện nay, ngành
thủy sản đã ổn định được diện tích ni và đang tiếp tục lập các dự án chuyển
đổi cơ cấu ở một số vùng trũng thành mô hình một lúa, một cá, bước đầu mang
lại hiệu quả kinh tế cao, chiếm 48% giá trị trong nông nghiệp.
o Tiểu thủ công nghiệp
Nằm dọc đê sông Đáy từ Ninh Sơn đi Ba Thá dài 16 km, xã Lam Điền có
vị trí khá thuận lợi trong việc giao lưu kinh tế - văn hóa với các vùng và đơ thị
lớn. Việc trao đổi hàng hóa - nơng phẩm cũng như sự đi lại của nhân dân dễ
dàng bằng đường bộ và đường thủy. Các tuyến giao thông trọng yếu trên địa
bàn huyện: Đường đê Đáy, đường 21B Chúc Sơn - Ba Thá, quốc lộ 6A như một
vòng cung bao bọc Lam Điền và một số xã khác.
Với những thuận lợi đó, đến nay song song với phát triển nơng nghiệp,
thơn Lương Xá cịn có một số ngành nghề tiểu thủ công nghiệp được phát triển
thêm như: nghề mộc, mây tre đan, và các dịch vụ khác được phát huy.
14
Làng Lương Xá tuy không phải là nơi nổi tiếng với các sản phẩm mây
tren đan nhưng bằng bàn tay khéo léo cũng như được sự giúp đỡ của Đảng bộ
xã, một số hộ đã mạnh dạn đầu tư xây dựng nhà xưởng, thuê nhân công để phát
triển nghề vừa tạo việc làm thêm cho người dân trong vùng, tranh thủ thời gian
nông nhàn vừa giúp cải thiện đời sống nhân dân trong vùng. Làng Lương Xá
hiện nay có khoảng 100 hộ làm mây tre đan với các sản phẩm là: giỏ, rổ, lẵng
hoa, chóa đèn, bàn, ghế,…Nhìn chung các sản phẩm thủ công mỹ nghệ này chủ
yếu được tiêu thụ trong phạm vi của làng và các vùng lân cận như: xã Hợp
Đồng, xã Hồng Diệu, thơn Đại Từ,…Trong thời gian tới, Đảng bộ xã Lam
Điền sẽ tiếp tục tìm hiểu kinh nghiệm của các làng nghề mây tre đan nổi tiếng
trong cả nước để làm phong phú thêm mẫu mã sản phẩm, giúp cho sản phẩm
mây tre đan Lương Xá có thể cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế.
Bên cạnh nghề làm mây tre đan thủ cơng, làng Lương Xá cịn phát triển
thêm nghề mộc. Hiện nay, làng Lương Xá có hơn 20 hộ làm nghề mộc với các
sản phẩm chủ yếu là: giường, tủ, bàn, ghế, sập,….hầu hết được tiêu thụ trong
phạm vi của làng, so với nghề mây tren đan thì nghề mộc được phát triển với
quy mô nhỏ lẻ và phân tán hơn. Trong thời gian tới, Đảng bộ xã Lam Điền sẽ
xem xét và lên kế hoạch để tập hợp các hộ này lại, mở rộng quy mô sản xuất,
tạo thêm nhiều việc làm cũng như nâng cao kinh tế cho người dân. Tính đến
năm 2008, theo số liệu do Đảng bộ xã Lam Điền cung cấp thì doanh thu từ
hàng thủ công đạt 4,5 tỷ đồng/năm.
Được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước cùng sự nỗ lực của người dân
xã Lam Điền nói chung và thơn Lương Xá nói riêng, nên đời sống của người
dân thơn Lương Xá nhìn chung là ổn định. Theo số liệu của Ủy ban nhân dân
xã Lam Điền năm 2008, thôn Lương Xá đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế
15
khoảng 14%, trong thơn khơng có nhà tranh tre dột nát, khơng có hộ đói, tỷ lệ
hộ nghèo khoảng 6,2%, bình qn thu nhập đầu người là 8.200.000 đ/năm.
1.1.3.Văn hóa truyền thống làng Lương Xá
Truyền thống khoa bảng
Lam Điền nói chung và Lương Xá nói riêng cịn tự hào là nơi sinh ra,
ni dưỡng nhiều nhân tài, đóng góp xứng đáng vào lịch sử dân tộc. Theo lời
các cụ cao niên trong làng và cuốn “Lịch sử cách mạng Đảng bộ và nhân dân xã
Lam Điền” cung cấp cho chúng ta biết thì Lam Điền là nơi có truyền học hành
khoa bảng với 18 quận công và nhiều người đỗ tiến sĩ trong đó: Bùi Hiện (thơn
Lam Điền) đỗ Đệ Tam Giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Nhâm Tuất, niên hiệu
Đại Bảo 3 (1442) đời Lê Thái Tông, được cử đi sứ nhà Minh (1426) làm quan
đến chức Thị Lang.
Bùi Phúc (thôn Lam Điền) đỗ Đệ Nhị Giáp tiến sĩ xuất thân khoa Mậu
Thìn (1448) đời Lê Nhân Tông. Làm quan đến chức Quốc sử Viện đồng tu sử.
Hồng (Trần) Nghĩa Phú (1480-?) ngun qn thơn Lương Xá sau chuyển ra
thôn Đa Sĩ (xã Kiến Hưng – Hà Đông) đỗ Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ nhất
danh (Trạng Nguyên) khoa Tân Mùi (1511) đời Lê Tương Dực, làm quan Tham
tri chính sự kiêm đơ ngự sử.
Hồng Du (1512-?) ngun qn thơn Lương Xá, đỗ Hồng Giáp khoa
Nhâm Thìn (1532) đời Mạc Đăng Doanh, làm quan tới chức Binh bộ Thị Lang.
Hoàng Tế Mỹ (?-?) nguyên quán thôn Lương Xá đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ
xuất thân khoa Mậu Tuất (1538) đời Mạc Đăng Doanh làm quan tới chức Thừa
chính Sứ. Cấn Văn Nhạ (1566 - ?), người thôn Lương Xá đỗ đệ tam giáp đồng
Tiến sĩ xuất thân khoa Giáp Thìn (1604) đời Lê Kính Tông.
16
Trần Khắc Minh (1453 - ?) nguyên quán thôn Lương Xá đỗ đệ tam giáp
đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Giáp Thìn (1484) đời Lê Thánh Tơng làm quan tới
chức Lễ bộ thượng thư kiêm Đông các đại học sĩ, tức Lương nhân hầu.
Và đặc biệt là Đặng Đình Tướng (1649-1735) người thôn Lương Xá đỗ
Đệ Tam Giáp đồng tiến sĩ khoa Canh Tuất (1670) đời Lê Huyền Tông. Từng
giữ nhiều chức vụ quan trọng trong triều đình nhà Lê: Đại Tư Mã, Chưởng Phủ
Sử, Đại Tư Đồ tước ứng quận cơng. Ngồi ra cịn có nhiều vị danh sĩ đỗ đạt
khác mà trong khuôn khổ bài viết hạn hẹp khơng thể nêu hết.
Ở Lương Xá, có 2 dịng họ lớn có nhiều người đỗ đạt làm quan, đó là họ
Đặng và họ Hồng. Trong đó, họ Đặng thời phong kiến có nhiều người làm
quan to trong triều. Thời vua Lê chúa Trịnh, họ Đặng có tới 18 quận cơng 12 bà
chúa ở trong cung làm vinh hiển cho quê hương. Đến thế hệ thứ 9 dịng họ
Đặng có một vị danh tướng là Đặng Tiến Đông - chức Đại đô đốc (đô đốc
Long) tước Đông Lĩnh Hầu, chi giáp nhất thống lĩnh 2 đạo quân Vũ Thắng Thiên Hương bên cạnh vua Quang Trung làm nên chiến thắng Đống Đa lịch sử.
Làng Lương Xá ngày nay, trước chùa Thủy Lâm cịn tấm bia đá Tơng
Đức thế tự bi khắc ngày 16/6 âm lịch năm 1797 và văn bia do Phan Huy Ích
soạn, Ngơ Thì Nhậm sửa chữa đều là người cùng thời với Đặng Tiến Đông.
Ở từ đường họ Đặng hiện còn một số di vật lịch sử thời Đặng Tiến Đông,
với đôi câu đối khá rõ nét ca ngợi một dịng họ nổi tiếng:
“Cự Mạc, phù Lê cơng tại hoàng gia, danh tại sử.
Quang tiền dụ hậu, sinh vi lương tướng, tử vi thần”.
Tạm dịch là: “Chống Mạc, giúp Lê cơng vào hàng thân tộc vua, danh cịn
chép trong sử. Sáng trước, để điều tốt đẹp về sau, sinh làm tướng giỏi, chết hóa
thần”.
17
Người dân Lam Điền luôn tự hào về một miền quê văn hiến sớm có
những người con trung hiếu làm rạng rỡ non sơng. Nhân dân Lam Điền nói
chung và làng Lương Xá nói riêng sẽ chung sức, đồng lịng xây dựng quê
hương ngày càng giàu đẹp, văn minh hơn nữa để xứng đáng với các bậc tiên
hiền đi trước, tiến lên sánh ngang với các địa phương khác trong cả nước.
Việc lập thờ Đặng Tiến Đông ở làng Lương Xá và ở các di tích khác có
liên quan
Đặc biệt với những đóng góp lớn lao cho nước cho dân, Đại đô đốc Đông Lĩnh Hầu Đặng Tiến Đông không chỉ được thờ ở phủ thờ họ Đặng mà
Ngài còn được nhân dân dựng tượng và thờ tại chùa Trăm gian - xã Tiên
Phương - huyện Chương Mỹ - Hà Nội.
“Quảng Nghiêm Tự” là tên chữ của ngôi chùa trên núi Sở thuộc thôn
Tiên Lữ, xã Tiên Phương, huyện Chương Mỹ. Chùa có quy mơ lớn thuộc loại
“trăm gian”. Vì thế chùa có tên gọi thơng dụng là chùa trăm gian. Núi Sở là con
ngựa, cạnh đó có núi So là con hổ, các gị đồi xung quanh có các tên là con
Mộc, con Hỏa, con Long…Tất cả đã tạo cảnh quan văn hóa hội xuân chơi núi,
chơi hang. Chùa dàn trải trên quả đồi, hướng nam, song cổng mở đầu là hướng
Đông Nam để giáp đường đi tiện cho du khách thăm chùa. Cổng chùa được xây
dựng hai trụ lớn tạo một lối đi ở giữa, hai bên là hai tường nối với hai trụ nhỏ,
như vậy mang tính chất nghi mơn là cổng của đền - đình. Qua cổng là một sân
gạch có hai dãy hành lang ở hai bên. Cuối sân là con đường lên chùa mấy lần
đổi hướng chữ chi và cũng nâng dần độ cao. Cuối đường gạch, rẽ phải lên nhà
bia kỷ niệm, rẽ trái đến tam quan kiêm gác chuông.
Tam quan nằm trên trục tâm của khu Tam bảo, song hơi xoay lệch về
phía Tây một chút. Phía dưới Tam quan là nhà Giá Ngự để ngày lễ rước kiệu
18
Thánh ra đây cùng nhân dân xem các trò vui tổ chức ở hồ bán nguyệt dưới chân
núi gợi khúc song cong tụ phúc.
Gác chuông chùa trăm gian là một trong số ít gác chng cổ nhất hiện
cịn, có nhiều hình chạm rồng ở xen lẫn mây lửa thuộc cuối thế kỷ XVII sang
đầu thế kỷ XVIII. Đây là kiến trúc mặt nằng vuông, hai tầng tám mái với nhiều
đao cong uốn hắt lên khiến cơng trình như một bong sen khổng lồ thanh quý.
Từ Tam quan - Gác chuông đi theo trục tâm qua khoảng sân hẹp khoảng
7m, vượt 27 bậc đá lên sân cửa chùa dàn ngang rất hẹp. Giữa sân kê chiếc sập
đá có đặt một bát hương. Lại leo thêm 7 bậc đá nữa lên thềm chùa, hoặc rẽ ra
đầu sân bên trái rồi theo đường dọc hành lang để vào sân trong của chùa rồi lên
khu Tam bảo từ phía sau nhà Hậu Đường.
Khu trung tâm của chùa là một tổng thể kiến trúc đông đặc trong đó các
tịa Tiền đường, Thiêu hương và Thượng điện kết hợp với nhau thành một nội
thất thống nhất theo chữ cơng, lại có hành lang dài ở hai bên ăn thơng với Tiền
đường ở phía trước và Hậu đường ở phía sau, bao lại thành một kiến trúc đóng
có hình chữ quốc. Ngồi ra, khoảng sân sau Thượng điện trước Hậu đường
dựng tịa Phương đình treo cả trống và khánh. Bên cạnh đó cịn có vườn tháp
mộ sư và 4 miếu tứ trấn ở 4 góc đồi.
Chùa Trăm gian ngồi thờ Phật cịn thờ đức thánh Bối. Đức Thánh Bối
tên tục là Nguyễn Bình An đã tu luyện ở đây thành Thánh với chức danh Bồ tát
bình đẳng hành nghĩa, khi sống có tài đi mấy bước về quê Bối Khê lấy cà muối
và nấu niêu cơm mà cả trăm thợ dựng chùa ăn khơng hết, khi hóa rồi còn làm
mưa máu đuổi giặc Minh. Tương truyền năm 95 tuổi, ngày rằm tháng chạp,
nhân dân lễ Phật thành đạo. Ngài vào khám ngồi nhập tịch. Đến mồng 4 tết dân
ngửi thấy mùi thơm mới mở khám xem, từ đấy thành ngày hội chùa hàng năm.
19
Ngồi ra, chùa Trăm gian cịn phối thờ Đơ đốc Đặng Tiến Đông - Một vị
quan võ thời Tây Sơn. Theo gia phả dịng họ Đặng ở Lương Xá có ghi rằng:
Năm Giáp Dần (1794), Đô đốc Đặng Tiến Đông lúc đó đã cáo quan về nghỉ tại
q hương. Ơng cúng 8 mẫu ruộng, 400 quan tiền và tu tạo lại chùa Trăm gian
(Quảng Nghiêm Tự) ở xã Tiên Lữ nay là thôn Tiên Lữ xã Tiên Phương - huyện
Chương Mỹ. Nơi đây, tổ phụ của ơng đã có nhiều cơng đức tu tạo, để ghi nhớ
cơng đức đó, người dân trong vùng đã cùng nhau góp tiền tạc tượng chân dung
của ơng thờ ở chùa ngay khi cịn sống. Tương truyền, bức tượng giống đến mức
khi rước vào chùa người xem không phân biệt được kiệu người hay kiệu tượng.
Với việc được thờ ở hai nơi trong cùng huyện Chương Mỹ đã chứng tỏ
cho chúng ta thấy sự ảnh hưởng cũng như công lao to lớn mà vị Đô đốc họ
Đặng đã đóng góp cho nhân dân trong vùng. Ơng khơng chỉ cịn là một nhân
vật lịch sử đơn thuần nữa mà đã trở thành một vị thần trong lịng người dân
Chương Mỹ nói riêng và nhân dân nói chung.
Tơn giáo, tín ngưỡng
Với truyền thống văn hóa của mình, xã Lam Điền nói chung và làng
Lương Xá nói riêng cũng có đình, đền, chùa, nhà thờ…biểu thị sức sống mãnh
liệt của cộng đồng làng xã Việt Nam, tinh thần tơn trọng, thờ phụng tổ tiên
người có cơng với nước, đồng thời thể hiện trí óc thơng minh, bàn tay khéo léo
của người dân địa phương trong quá trình xây dựng các cơng trình phục vụ sinh
hoạt tơn giáo, tín ngưỡng trong vùng.
Tơn giáo
o Phật giáo
Trước khi có đạo công giáo được truyền bá vào Lương Xá và trở thành
một bộ phận của tơn giáo trong làng, thì đại bộ phận cộng đồng dân cư thôn
Lương Xá đều theo đạo phật nên ở nơi đây ta có thể tìm thấy cơng trình kiến
20
trúc phật giáo là chùa Thủy Lâm. Nhưng từ thế kỷ XV cho đến cuối thế kỷ
XIX, khi Nho giáo phát triển và nhất là đạo Công giáo xâm nhập vào cộng
đồng dân cư ở đây thì đạo phật khơng cịn chiếm được vị trí như trước nữa.
Hiện nay, trong thơn có khoảng 30 hộ với hơn 120 người theo đạo phật và chịu
ảnh hưởng của tư tưởng phật giáo. Với sự hiện diện của các tôn giáo khác, đạo
phật khơng cịn là tơn giáo phổ biến nhất ở Lương Xá nữa nhưng cùng với thời
gian đạo phật vẫn luôn sống trong tâm thức của người dân làng Lương Xá và
trở thành một bộ phận không thể thiếu trong tổng thể bức tranh tôn giáo đa sắc
trong vùng.
Ngôi chùa Thủy Lâm với tư cách là ngôi chùa duy nhất trong thôn, minh
chứng cho sự tồn tại của Phật giáo tại nơi đây đã trở thành một trung tâm sinh
hoạt tôn giáo, là nơi để mọi người đến cầu cúng những điều an lành, hạnh phúc
cho cuộc sống, là nơi để họ có thể trút bỏ những phiền não, bộn bề của trần tục
để đến với không gian tĩnh lặng, yên bình, thư thái của Phật pháp.
o Nho giáo
Sự đề cao việc học, tôn vinh người thầy, coi trọng bậc hiền tài đã tạo nên
một truyền thống giáo dục hàng nghìn năm ở Việt Nam. Xuyên suốt hàng thế
kỷ nay, thậm chí cả những bà mẹ nghèo nhất cũng mơ ước con mình sau này sẽ
thi đỗ cử nhân, tiến sĩ.
Vào cuối thế kỷ thứ ba trước công nguyên, khi xâm lược Việt Nam,
người Phương Bắc đã du nhập vào đây chữ hán và Khổng giáo. Tuy nhiên trong
suốt 1000 năm Bắc thuộc này, họ chỉ dạy chữ Hán cho người Việt ở mức đủ để
trở thành những thuộc hạ thừa hành mẫn cán mà thôi. Năm 938 sau công
nguyên, dưới sự lãnh đạo của Ngô Quyền, người Việt Nam đánh đuổi quân xâm
lược phương Bắc ra khỏi bờ cõi nước Nam. Tuy nhiên, sau đó các triều đại
21
Đinh, Lê non trẻ vẫn phải đánh dẹp thù trong giặc ngồi nên khơng có nhiều
thời gian dành cho việc khuyến học.
Bước ngoặt trong nền giáo dục Việt Nam diễn ra khi vua Lý Thái Tổ lên
ngôi năm 1010 và quyết định dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long. Đến năm 1070,
vua Lý Thánh Tông cho xây dựng Văn Miếu để tôn vinh Khổng Tử cùng các
môn đệ của Ngài. Đến năm 1076, vua Lý Nhân Tông lập Quốc Tử Giám,
trường đại học đầu tiên ở Việt Nam để đào tạo các quan lại cho chính quyền.
Lúc đầu, Quốc Tử Giám chỉ tuyển con trai các gia đình hồng tộc và công
khanh, đại phu. Về sau, con trai thường dân, nếu có tài năng cũng có thể được
sung vào trường. Quốc Tử Giám tiếp tục đào tạo tiến sĩ cho đến năm 1802, khi
vua Gia Long dời đô về Phú Xuân (Huế).
Hòa cùng với dòng chảy phát triển Nho giáo ở Việt Nam, thôn Lương Xá
cũng rất tự hào là nơi nuôi dưỡng và sản sinh ra những người con ưu tú giúp ích
cho nước, cho dân. Văn hóa nho giáo đã ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống văn
hóa cư dân nơi đây từ thế kỷ XV. Nho giáo đã ảnh hưởng ngay trong từng nét
sinh hoạt, thờ cúng của nhân dân nơi đây. Ngay cạnh ngơi đình làng Lương Xá
là một ngôi nhà 5 gian 2 chái, trước kia đó là Văn chỉ của tổng Lương Xá được
người dân xây dựng để thờ Khổng tử và các bậc tiên hiền đi trước của làng.
Xưa kia, trước mỗi lần nhân dân tổ chức lễ hội tại đình làng, các bài văn tế đều
được các nhà nho hay chữ trong làng viết tại văn chỉ này. Sự xuất hiện của văn
chỉ và truyền thống khoa bảng tại Lương Xá đã cho ta thấy đây là một vùng đất
“Địa linh nhân kiệt” hiếu học, giàu truyền thống lịch sử, việc giữ gìn và phát
huy những truyền thống đó là trách nhiệm và cũng là niềm tự hào của thế hệ
mai sau tại Lương Xá.
22
o Đạo Công giáo
Từ những tư liệu thực tế và cung cấp của người dân theo đạo cho biết, từ
cuối thế kỷ XIX, đạo Công giáo đã xâm nhập vào đất Lam Điền, trở thành nhu
cầu sinh hoạt của một bộ phận dân cư các thơn Lam Điền, Ứng Hịa, Dun
Ứng, Lương Xá. Xã Lam Điền có 5 thơn thì 4 thơn có người theo đạo Cơng giáo.
Người theo đạo công giáo và những người theo đạo phật ở xen kẽ với nhau. Mỗi
thơn đều có nhà thờ để các tín đồ thực hành nghi lễ, riêng xã Lam Điền có 2 nhà
thờ: nhà thờ Lương Xá xây dựng năm 1937, nhà xứ Lam Điền xây dựng năm
1940. Những công trình kiến trúc này đã mang đến một nét văn hóa mới, làm
phong phú thêm đời sống văn hóa tinh thần cho người dân Lam Điền.
Hiện nay, thôn Lương Xá có hơn 50 hộ với hơn 200 người theo đạo. Từ
khi đạo Công giáo được du nhập vào vùng đất Lương Xá tới nay, đã tạo ra tính
đa dạng văn hóa tơn giáo ở một làng q, tuy nhiên trên thực tế đạo Cơng giáo
có ảnh hưởng đến văn hố Việt Nam và ngược lại văn hoá nước ta cũng ảnh
hưởng đến tơn giáo này. Chính q trình tương tác hai chiều này vừa làm phong
phú văn hoá dân tộc vừa làm biến đổi, “Việt hố” đạo Cơng giáo theo đường
hướng “ Sống Phúc âm giữa lòng dân tộc” của Giáo hội Công giáo Việt Nam là
kết quả của sự tương tác đó. Yêu nước là truyền thống của người Việt Nam và là
sợi chỉ đỏ xuyên suốt văn hóa Việt. Trước khi cách mạng tháng Tám thành công,
dưới thời thực dân Pháp, chúng thường lợi dụng tự do tín ngưỡng của nhân dân
để gây chia rẽ lương giáo. Chúng cịn kích động gây mâu thuẫn để chia rẽ đồng
bào theo đạo Thiên chúa với những người theo đạo phật dẫn đến nhiều cuộc xô
xát, tranh giành đất đai, quyền lợi cục bộ, phá hoại truyền thống “lá lành đùm lá
rách” yêu thương giúp đỡ lẫn nhau vốn là bàn chất tốt đẹp của người dân Lương
Xá. Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công đã thổi bùng lên ngọn lửa yêu
23
nước, tinh thần dân tộc của người Công giáo. Trong rừng người diễu hành qua
quảng trường ngày 2 - 9 - 1945 có cả đồn các linh mục, chủng sinh và giáo dân
thôn Lương Xá. Đến nay, khi chiến tranh đã qua đi, đất nước được yên bình, nhờ
sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đời sống của cộng đồng giáo dân đã từng
bước được cải thiện phát triển cùng với sự đi lên của nước Nhà, nhiều hộ đã
vươn lên thốt nghèo nhờ làm kinh tế theo mơ hình VAC, Đảng bộ xã cùng các
tổ chức trong thơn như: Hội phụ nữ, hội cựu chiến binh,..đều ra sức giúp đỡ các
hộ giáo dân cịn khó khăn bằng nhiều phương thức như: cho vay với lãi suất
thấp, hỗ trợ về giống và kỹ thuật cây trồng,…. Với tôn chỉ “Đồng hành cùng dân
tộc” nên nhiều năm qua đồng bào theo đạo Cơng giáo thơn Lương Xá ln tích
cực tham gia vào các vấn đề xã hội như: Vấn đề học hành ở vùng giáo, ngăn
chặn các tệ nạn như cờ bạc, ma tuý, kêu gọi giáo dân tham gia bầu cử, chấp hành
luật giao thơng hay qun góp ủng hộ các nạn nhân bị thiên tai…
Tóm lại, nhờ gắn bó với văn hố dân tộc, nên đạo cơng giáo ở Lương xá
khơng chỉ cịn là một bộ phận tơn giáo tách bạch trong vùng nữa mà đã cùng với
các tôn giáo khác nhập thế để trở thành một tổng hịa văn hóa tơn giáo địa
phương, làm phong phú thêm đời sống văn hóa tinh thần của người dân.
o Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, phong tục thờ cúng tổ tiên hay còn được gọi
khái quát là Đạo Ông Bà là tục lệ thờ cúng những người đã chết. Tín ngưỡng
này tồn tại trong đời sống của nhiều dân tộc Đông Nam Á và đặc biệt phát triển
trong văn hóa Việt và văn hóa Trung Hoa. Đối với người Việt, nó gần như trở
thành một thứ tơn giáo; khơng gia đình nào khơng có bàn thờ tổ tiên trong nhà,
đó là sự bày tỏ lịng thành kính, biết ơn của con cháu đối với tổ tiên, ông bà,
24
cha mẹ, đồng thời cũng thể hiện lòng biết ơn của lớp người sau đối với công
sức của lớp người trước.
Trong tâm thức của người dân Việt nói chung, cho rằng “vạn vật hữu
linh”, người chết chỉ là chết về phàn xác cịn phần hồn thì vẫn cịn tồn tại và
thường hiện về với con cháu. Bởi vậy, trong các gia đình đều có bàn thờ tổ tiên,
được đặt ở nơi cao nhất, trang trọng nhất trong nhà. Họ tin rằng linh hồn của tổ
tiên, ông, bà, cha, mẹ luôn dõi theo mọi hoạt động của con cháu, che chở, phù
hộ cho con cháu. Vào ngày giỗ ông bà, tổ tiên, con cháu của các dòng họ trong
làng đều tụ tập về từ đường dịng họ mình để giỗ tổ, đó là một truyền thống tốt
đẹp cần phải gìn giữ.
Đặc biệt trong làng Lương Xá có những dịng họ lớn có truyền thống
khoa bảng mà tiêu biểu là dịng họ Đặng nên ngồi việc trong mỗi gia đình đều
có bàn thờ tổ tiên thì con cháu dịng họ Đặng đã xây dựng phủ thờ họ Đặng làm
nơi sinh hoạt văn hóa tâm linh khơng những chỉ cho con cháu của họ mà cịn để
ghi nhớ cơng ơn của những bậc tiên hiền có cơng với làng, với nước.
Khái niệm “ Hội nhập văn hoá” (Inculturation) đã được Giáo hội dùng vào
những năm 70 của thế kỷ trước. Nội dung của nó là “Nhập thể Phúc âm vào nền
văn hố bản xứ và cũng là việc dẫn nhập các nền văn hố đó vào đời sống giáo
hội”. Và với tinh thần hội nhập văn hố đã có từ rất sớm đó, cộng đồng giáo dân
ở Lương Xá không những không lãng qn những nét văn hóa truyền thống mà
họ cịn biết khéo léo kết hợp những nét văn hóa bản địa với những nét văn hóa
mới để biến đạo Cơng giáo được truyền bá vào Việt Nam trở thành đạo Công
giáo Việt Nam. Giờ đây, ta bắt gặp hình ảnh trong mỗi gia đình người Cơng giáo
ở Lương Xá đều có một bàn thờ tổ tiên đặt cạnh bàn thờ chúa, đó là hình ảnh của
sự hịa quyện giữa tơn giáo và tín ngưỡng dân gian. Họ khơng chỉ thắp hương
trước di ảnh người q cố mà có nơi cịn ghi cả những ước nguyện ra giấy và đốt
25
đi trước bàn thờ nữa. Đối với những dòng họ lớn mỗi năm khi đến ngày giỗ của
tổ tiên, dù đang ở nơi đâu trên đất nước họ cũng tìm về với quê hương để quây
quần bên những người thân cùng tưởng nhớ tới công lao của tổ tiên đối với dịng
họ mình. Những hình ảnh các nhà sư ngồi cạnh các linh mục, giám mục trong
các buổi mit tinh hay đồng bào các tôn giáo cùng chung nhau xây nhà thờ, dâng
hương trước bàn thờ Phật là minh chứng sinh động cho tình đồn kết các tơn
giáo ở Việt Nam.
o Tín ngưỡng thờ thành hồng làng
Đây là một tín ngưỡng cơ bản và phổ biến giữ vai trò quan trọng trong
đời sống văn hóa tâm linh của người Việt.
Trong phạm vi gia đình, người Việt thờ tổ tiên và vài vị thần như Táo
công, Thổ công, thần Tài...; ở phạm vi làng xã, người Việt thờ Thành hoàng
làng. Thành hoàng làng là danh từ chung để chỉ vị thần được thờ trong một làng
xã Việt Nam. Giống như Táo công và Thổ công từ phương diện tâm linh, quan
niệm Thành hoàng cai quản và quyết định họa phúc của một làng và thường
được thờ ở đình làng. Do vậy hầu hết ở mỗi làng quê hay phố nghề (nơi thị
thành) đều lập đình (hoặc đền, miếu) thờ vị Thành hồng của làng hay phường
hội. Thành hồng là người có công với dân, với nước, lập làng, dựng ấp hay
sáng lập nên một nghề (ông tổ của nghề).
Những nguồn tư liệu đi trước cho biết, tục thờ thành hoàng hay thần
hoàng ở nước ta là do ảnh hưởng từ văn hóa Trung Hoa truyền sang từ thời
Đường. Tuy nhiên theo Phan Kế Bính thì trước đó nhân dân ta cũng đã có
những tín ngưỡng dân gian rồi. Sau khi tục thờ Thành hoàng du nhập vào làng
xã Việt Nam đã nhanh chóng bám rễ vào trong tâm thức người nơng dân Việt,
trở nên hết sức đa dạng, thể hiện truyền thống “uống nước nhớ nguồn”. Tơn thờ
Thành hồng làng chính là một nhu cầu tâm linh, người dân thờ Thành hoàng