1
Trờng đại học văn hoá H Nội
Khoa bảo tng
*******
Nguyễn Thị gấm
Tìm hiểu di tích đình lng NgÃi Cầu
(XÃ An Khánh - Huyện Hoi Đức - TP. H Nội)
Khoá luận tốt nghiệp
Ngnh bảo tng
Ngời hớng dẫn: Ths. Phạm Thu Hằng
H Nội - 2010
2
Lời cảm ơn
Với tình cảm chân thành, tơi xin được bày tỏ lịng biết ơn tới các thầy
giáo, cơ giáo khoa Bảo tàng - Trường Đại học Văn hoá Hà Nội đã tận tình
giảng dạy, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tơi trong suốt q trình học tập,
nghiên cứu và hồn thành khố luận.
Tơi xin chân thành cảm ơn Uỷ ban nhân dân xã An Khánh, Ban quản lý
di tích thơn Ngãi Cầu, các cụ cao niên trong làng Ngãi Cầu đã tạo điều kiện
thuận lợi cho tôi khảo sát, tiếp cận di tích đình làng Ngãi Cầu.
Xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè đã động viên, giúp đỡ tơi hồn
thành khố luận này.
Đặc biệt, tơi xin dành lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất tới Ths.
Phạm Thu Hằng - người đã trực tiếp hướng dẫn khoa học, giúp đỡ và chỉ bảo
cho tôi từ khi xác định đề tài, xây dựng đề cương cho tới khi hồn thiện Khố
luận.
Là một sinh viên năm thứ tư chưa được tiếp xúc nhiều với thực tế, kiến
thức cịn hạn chế, thời gian có hạn, khố luận khó tránh khỏi những thiếu sót.
Kính mong được sự đóng góp, chỉ bảo của các thầy cô giáo và bạn bè.
Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 6 năm 2010
Sinh viên
Nguyễn Thị Gấm
3
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Đối tượng nghiên cứu.................................................................................... 2
3. Phạm vi nghiên cứu ....................................................................................... 2
4. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 2
5. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 3
6. Bố cục của khoá luận .................................................................................... 3
CHƯƠNG 1: ĐÌNH LÀNG NGÃI CẦU TRONG DIỄN TRÌNH LỊCH SỬ .....8
1.1. Khái quát về thôn Ngãi Cầu, xã An Khánh, huyện Hồi Đức, thành phố
Hà Nội ............................................................................................................... 8
1.1.1. Vị trí địa lý và tên gọi ............................................................................. 8
1.1.2. Dân cư ................................................................................................... 10
1.1.3. Kinh tế ................................................................................................... 11
1.1.4. Văn hóa – xã hội ................................................................................... 12
1.2. Niên đại và quá trình tồn tại của đình làng Ngãi Cầu .............................. 22
1.3. Các vị thần được thờ trong di tích............................................................ 25
CHƯƠNG 2: GIÁ TRỊ KIẾN TRÚC NGHỆ THUẬT VÀ LỄ H ỘI ĐÌNH
LÀNG NGÃI CẦU .........................................................................................................28
2.1. Giá trị kiến trúc ........................................................................................ 28
2.1.1. Không gian cảnh quan........................................................................... 28
2.1.2. Bố cục mặt bằng tổng thể ...................................................................... 31
2.1.3. Kết cấu kiến trúc ................................................................................... 32
2.2. Giá trị nghệ thuật ...................................................................................... 44
2.2.1. Trang trí trên kiến trúc .......................................................................... 44
2.2.2. Các di vật trong di tích .......................................................................... 48
4
2.2.2.1. Các di vật bằng giấy ........................................................................... 48
2.2.2.2. Các di vật bằng đá .............................................................................. 49
2.2.2.3. Các di vật bằng gỗ .............................................................................. 50
2.3. Lễ hội đình làng Ngãi Cầu ....................................................................... 56
2.3.1. Lịch lễ hội ............................................................................................. 57
2.3.2. Chuẩn bị lễ hội ...................................................................................... 58
2.3.3. Diễn trình lễ hội .................................................................................... 60
2.3.4. Giá trị văn hoá của lễ hội ...................................................................... 66
CHƯƠNG 3: BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI TÍCH ĐÌNH LÀNG
NGÃI CẦU .......................................................................................................................71
3.1. Thực trạng của di tích, di vật và việc tổ chức lễ hội ở đình làng Ngãi Cầu....... 71
3.1.1. Thực trạng của di tích ........................................................................... 71
3.1.2. Thực trạng của di vật............................................................................. 75
3.1.3. Thực trạng tổ chức lễ hội ...................................................................... 76
3.2. Vấn đề bảo tồn, tơn tạo di tích đình làng Ngãi Cầu ................................. 77
3.2.1. Một số khái niệm và văn bản về bảo vệ di sản văn hóa. ....................... 77
3.2.2. Giải pháp bảo quản di tích .................................................................... 81
3.2.3. Giải pháp tu bổ di tích ........................................................................... 83
3.2.4. Tơn tạo di tích đình làng Ngãi Cầu ....................................................... 85
3.3. Giải pháp bảo tồn lễ hội đình làng Ngãi Cầu ........................................... 86
3.4. Khai thác, phát huy giá trị di tích đình làng Ngãi Cầu ............................ 89
KẾT LUẬN ......................................................................................................................91
TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………90
PHỤ LỤC
5
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Mỗi di tích lịch sử - văn hoá là một viên ngọc quý được tạo tác từ bàn
tay khéo léo của người nghệ sĩ dân gian, là quá trình kết tinh tài năng, trí lực
sáng tạo để trở thành bằng chứng trung thực, cụ thể về lịch sử và bản sắc văn
hoá của dân tộc. Di tích là di sản q giá khơng chỉ của địa phương mà còn là
tài sản của dân tộc, nhân loại. Đó cịn là “bảo tàng sống” lưu giữ những giá trị
nghệ thuật về kiến trúc, điêu khắc trang trí và cả phong tục cổ truyền, tín
ngưỡng dân gian của người xưa.
Trong hệ thống các di tích lịch sử văn hố, đình làng là một loại di tích
quen thuộc và gần gũi đối với mỗi người dân Việt Nam. Có thể nói, đình làng
đóng vai trị quan trọng trong đời sống tinh thần của người Việt. Trong đó,
đình làng Ngãi Cầu được coi là một trong những di tích danh thắng tiêu biểu
của thủ đơ Hà Nội. Tuy nhiên, cho tới nay vẫn chưa có một cơng trình nào
nghiên cứu tiếp cận một cách có hệ thống về di tích này, chủ yếu là các bài
viết, bài giới thiệu nhỏ lẻ về giá trị kiến trúc cũng như về lễ hội ở đình làng
Ngãi Cầu.
Thơng qua việc tìm hiểu nghiên cứu về đình làng Ngãi Cầu và các ngơi
đình trong kiến trúc cổ truyền của người Việt, chúng ta sẽ hiểu thêm về ý
nghĩa, vai trị của đình làng từ xa xưa. Đồng thời, ta cũng thấy được giá trị về
nhiều mặt khác như kiến trúc, điêu khắc, khảo cổ, lịch sử,...
Là một sinh viên được đào tạo trong lĩnh vực Bảo tồn - Bảo tàng, tôi
hiểu rõ tầm quan trọng, ý nghĩa của việc nghiên cứu, bảo tồn và phát huy giá
trị của di sản văn hoá dân tộc. Hơn nữa, tôi mong muốn thông qua việc tìm
hiểu di tích đình làng Ngãi Cầu để vận dụng những kiến thức chuyên ngành
đã tích luỹ được vào thực tiễn, tập dượt khả năng nghiên cứu, viết bài.
6
Tơi mong muốn với kết quả nghiên cứu của mình về đình làng Ngãi
Cầu sẽ góp phần bổ sung tư liệu cho việc sưu tầm và nghiên cứu các di tích
nói riêng và các di sản văn hố nói chung ở một ngôi làng cổ của Hà Tây cũ,
Hà Nội mở rộng ngày nay. Hy vọng đây sẽ là một đóng góp nhỏ bé để hướng
tới kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội.
Với những lý do trên, tôi quyết định chọn đề tài “ Tìm hiểu di tích đình
làng Ngãi Cầu ” làm Khố luận tốt nghiệp Đại học ngành Bảo tồn – Bảo tàng.
2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Khố luận là di tích đình làng Ngãi Cầu
thuộc thơn Ngãi Cầu, xã An Khánh, huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội.
3. Phạm vi nghiên cứu
- Về thời gian: Nghiên cứu di tích đình làng Ngãi Cầu gắn liền với quá
trình hình thành, tồn tại của di tích từ khi khởi dựng cho đến nay.
- Về khơng gian: Nghiên cứu di tích đình làng Ngãi Cầu trong khơng
gian lịch sử - văn hố của vùng đất nơi di tích tồn tại.
4. Mục đích nghiên cứu
- Tìm hiểu về vùng đất, con người nơi di tích đình làng Ngãi Cầu tồn
tại, làm cơ sở cho việc nghiên cứu di tích.
- Tìm hiểu q trình hình thành, tồn tại của di tích đình làng Ngãi Cầu
từ khi khởi dựng cho đến nay.
- Nghiên cứu các giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể của di tích đình
làng Ngãi Cầu (kiến trúc, điêu khắc, lễ hội,..).
- Nghiên cứu thực trạng tồn tại của di tích đình làng Ngãi Cầu. Từ đó
đề xuất các phương án khả thi để bảo tồn, phát huy giá trị vốn có của di tích
đình làng Ngãi Cầu trong bối cảnh hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
7
- Phương pháp luận khoa học của Chủ nghĩa Mác – Lênin: Duy vật lịch
sử và Duy vật biện chứng.
- Phương pháp khoa học được sử dụng để tiến hành nghiên cứu: Bảo
tàng học, Bảo tồn di tích lịch sử - văn hóa, Khoa học Lịch sử, Mỹ thuật học,
Khảo cổ học, Dân tộc học, Xã hội học…
- Các phương pháp khác: Thống kê, so sánh, phân tích, nghiên cứu tài
liệu, điền dã,…
6. Bố cục của Khố luận
Ngồi phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phần phụ lục, bố
cục bài viết gồm 3 chương. Cụ thể như sau:
Chương 1: Đình làng Ngãi Cầu trong diễn trình lịch sử
Chương 2: Giá trị kiến trúc nghệ thuật và lễ hội đình làng Ngãi Cầu
Chương 3: Bảo tồn và phát huy giá trị di tích đình làng Ngãi Cầu.
8
Chương 1
ĐÌNH LÀNG NGÃI CẦU TRONG DIỄN TRÌNH LỊCH SỬ
1.1. Khái quát về thôn Ngãi Cầu, xã An Khánh, huyện Hồi Đức, thành
phố Hà Nội
1.1.1. Vị trí địa lý và tên gọi
Làng Ngãi Cầu là một vùng đất cổ nằm giữa hai con sơng lớn là sơng
Đáy ở phía Tây và sơng Nhuệ ở phía Đơng, nay thuộc xã An Khánh, huyện
Hoài Đức, thành phố Hà Nội, cách trung tâm quận Hà Đông khoảng 7 km.
Làng Ngãi Cầu nằm ở phía Nam của xã An Khánh; phía Đơng giáp xã Tây
Mỗ, huyện Từ Liêm; phía Tây giáp hai xã An Thượng và Song Phương,
huyện Hồi Đức; phía Bắc giáp xã Lại Yên, Vân Canh; phía Nam giáp
phường Dương Nội, quận Hà Đông và xã Đông La, xã La Phù của huyện
Hồi Đức. Đình làng Ngãi Cầu nằm ngay sát tỉnh lộ 72. Với vị trí địa lý như
vậy sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho du khách đến tham quan di tích.
“Ngãi Cầu có tên nơm là Cầu Ngái, từ thời Lê trở về trước cũng gọi là
Nghĩa Kiều (hay Ngãi Kiều), Nghĩa Kiều có ý để chỉ một chiếc cầu (âm Hán
viết là Kiều) có tình có nghĩa (hay có ngãi, âm Việt cổ), cịn Ngải Cầu như
hiện nay nghĩa hoàn toàn khác, với nghĩa cầu được cái tốt đẹp may mắn…Từ
giữa thế kỷ XIX về trước Ngãi Cầu là lỵ sở của huyện Từ Liêm, phủ Hoài
Đức, lỵ sở này bị bãi bỏ từ năm 1831, khi vua Minh Mạng đặt các tỉnh, đem
huyện Từ Liêm cho phủ Hồi Đức kiêm lý. Ngược dịng lịch sử, đất An Khánh
hiện nay hay Ngãi Cầu là trung tâm của tổng Yên Lũng, nơi đây vào cuối
năm 1426 khi kéo đại quân ra bao vây Đông Quan, Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã
chọn đặt đại bản doanh của cuộc tổng khởi nghĩa; mà sử cũ chỉ chép rằng
ngày 10 – 10 – năm Bính Ngọ (1426) Lê Lợi đến Lũng Giang đóng dinh, các
tướng đón mừng. Lũng Giang là tên của sơng Đáy đoạn chảy qua tổng Yên
9
Lũng” 1. Năm 1902, tỉnh Hà Nội chuyển về đóng ở làng Cầu Đơ nên gọi là
tỉnh Cầu Đơ; đến năm 1904 đổi thành tỉnh Hà Đông. Như vậy, trước năm
1915, Ngãi Cầu thuộc tổng Yên Lũng, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông.
Tháng 11- 1947 xã Ngãi Cầu thuộc xã An Thượng (hợp nhất của tổng
Yên Lũng và tổng Thượng Ốc).
Giữa năm 1956 thôn Ngãi Cầu thuộc xã An Khánh, tỉnh Hà Đông.
Năm 1965 hợp nhất hai tỉnh Hà Đông và Sơn Tây thành một đơn vị hành
chính lấy tên là tỉnh Hà Tây. Lúc này, thôn Ngãi Cầu thuộc xã An Khánh, tỉnh
Hà Tây.
Năm 1976 thôn Ngãi Cầu thuộc tỉnh Hà Sơn Bình.
Năm 1979 thơn Ngãi Cầu thuộc thành phố Hà Nội.
Năm 1991 tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa VIII quyết định chia tỉnh Hà
Sơn Bình thành hai đơn vị hành chính là tỉnh Hà Tây và tỉnh Hịa Bình. Lúc
này thơn Ngãi Cầu thuộc xã An Khánh, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây.
Năm 2008, tỉnh Hà Tây sáp nhập vào thành phố Hà Nội. Thôn Ngãi Cầu
thuộc xã An Khánh, huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội.
Trải qua quá trình biến đổi phức tạp về địa giới hành chính như vậy ngày
nay làng chính thức mang tên làng Ngãi Cầu thuộc xã An Khánh, huyện Hoài
Đức, thành phố Hà Nội.
Ngãi Cầu là cửa ngõ phía Tây đi vào quận Hà Đông. Con đường 72
xuyên qua địa bàn làng Ngãi Cầu đã nối với đê sông Đáy và địa bàn Sơn Tây
trở thành tuyến giao thông huyết mạch quân sự - kinh tế. Ngoài ra, tuyến
đường sắt từ ga Ba La chạy theo vành đai Hà Nội lên n Bái – Lào Cai đã
chạy qua phía Đơng xã An Khánh và con đường cao tốc Láng – Hịa Lạc từ
Hà Nội xun qua địa bàn phía Bắc xã An Khánh. Hệ thống đường giao thông
1
Bùi Thiết (1985), Làng xã ngoại thành Hà Nội, Nxb. Hà Nội, tr. 17.
10
liên tỉnh, liên huyện, liên xã đã tạo cho cuộc sống người dân nơi đây có nhiều
đổi thay.
Vùng đất An Khánh còn là kết quả bồi tụ phù sa qua hàng ngàn năm gắn
liền với nền văn minh sông Hồng nên sớm được cư dân Đại Việt đến dựng
xây làng xóm để sinh cơ lập nghiệp.
1.1.2. Dân cư
Vào thời điểm cuối năm 1956, tồn xã An Khánh có 4744 người thì “đến
ngày 19/03/2006 tồn xã có 3622 hộ với 14225 người, trong đó riêng thơn
Ngãi Cầu có 1288 hộ, 5076 người” 2. Hiện nay, làng Ngãi Cầu có khoảng
1.700 hộ gia đình với trên 6.000 người ( số liệu do ông Phó Đức Hợp - Chủ
tịch Mặt trận Tổ quốc, Chủ tịch Hội cựu chiến binh xã An Khánh và các cụ
cao niên trong làng Ngãi Cầu cung cấp).
Từ xưa tới nay, cư dân làng Ngãi Cầu chia thành 8 giáp được thể hiện
trong bản Hương ước cổ và qua 8 khám thờ của 8 giáp ở hai bên đầu hồi của
tồ Đại đình. Tứ giáp đằng Đơng gồm có: giáp Đơng Nhất. giáp Đơng Nhì,
giáp Trung Nhất, giáp Trung Nhì. Tứ giáp đằng Tây gồm có: giáp Tây Nhất,
giáp Tây Nhì, giáp Cầu Thất, giáp Cầu Bát. Các giáp được phân chia thứ bậc
rõ ràng căn cứ vào thời điểm sinh sống ở làng. Giáp Đông Nhất đứng đầu tứ
giáp đằng Đông. Đứng đầu tứ giáp đằng Tây là giáp Tây Nhất nhưng giáp này
vẫn đứng sau bốn giáp đằng Đơng. Mỗi giáp bao gồm một hoặc nhiều dịng
họ.
Như: Giáp Trung Nhất gồm có một dịng họ Nguyễn Tiến.
Giáp Tây Nhất gồm có các dịng họ: Bùi, Phó, Nguyễn Đức.
Dân cư trong làng chủ yếu thuộc các dòng họ lớn như: Nguyễn Huy, Chu
Danh, Đỗ Đồng, Nguyễn Hữu, Phó Hữu, Nguyễn Đăng, Nguyễn Tiến,
Ban Chấp hành Đảng bộ xã An Khánh (2008), Lịch sử Cách mạng của Đảng bộ và nhân
dân xã An Khánh (1930 – 2006), Hà Nội, tr. 339.
2
11
Nguyễn Viết, Mai Danh, Bùi, Phó, Nguyễn Đức, Đỗ Đình,…Hầu hết các
dịng họ đều có nhà thờ họ để duy trì việc thờ phụng, giỗ chạp, cúng lễ hàng
năm. Trong đó phải kể đến nhà thờ họ Chu, nhà thờ họ Phó là những nhà thờ
họ cổ cịn lưu giữ được cho tới ngày nay.
Để giữ nghiêm lệ làng phép nước, ngày 9 tháng 5 năm Tự Đức thứ 17
(6/6/1864), bản Hương ước của làng được ra đời gồm 10 khoản (Khốn lệ).
Mặc dù làng Ngãi Cầu có nhiều dịng họ cùng sinh sống nhưng các dịng
họ đều sống đồn kết, gắn bó, yêu thương, giúp đỡ nhau cùng xây dựng quê
hương ngày càng giàu đẹp.
1.1.3. Kinh tế
Vùng đất An Khánh nói chung, làng Ngãi Cầu nói riêng “thuộc nền Văn
minh sơng Hồng, từ xưa ln có thế mạnh về phát triển nông nghiệp bao gồm
cả trồng trọt và chăn nuôi. Thời xưa, ruộng đất ở tổng Yên Lũng cũng được
liệt vào hạng bờ xôi - ruộng mật, không chỉ đảm bảo đời sống nhân dân ở
làng xã mà còn cung cấp nhiều sản vật quý cho kinh thành Thăng Long. Kinh
tế nông nghiệp là nguồn sống chủ yếu của nhân dân An Khánh. Nghề phụ ở
đây thực sự không phát triển…” 3. Tuy nhiên, cuộc sống của người dân xã An
Khánh cịn có nhiều biến đổi khi có con đường tỉnh lộ 72 xuyên qua địa bàn
làng Ngãi Cầu đã nối với đê sông Đáy và địa bàn Sơn Tây, được coi là con
đường chủ đạo để mở mang giao thông, mở mang ngành nghề sản xuất chủ
yếu là sản xuất tiểu thủ cơng nghiệp. Các cơ quan xí nghiệp về An Khánh xây
dựng cơ sở vật chất, làm kinh tế: Xí nghiệp gạch Hữu Hưng, Viện Khoa học
kỹ thuật Nơng nghiệp Việt Nam, Xí nghiệp thức ăn chăn nuôi gia súc, Viện
Ban Chấp hành Đảng bộ xã An Khánh (2008), Lịch sử Cách mạng của Đảng bộ và nhân
dân xã An Khánh (1930 – 2006), Hà Nội, tr.20.
3
12
Hóa học Qn sự, cụm cơng nghiệp vừa và nhỏ ở An Khánh đã làm tăng vị
thế của vùng đất và sự chuyển hóa cơ cấu kinh tế của An Khánh.
Theo “Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ kinh tế xã hội năm 2009,
phương hướng nhiệm vụ năm 2010” ngày 15/12/2009 của UBND xã An
Khánh: “Tổng giá trị sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương
nghiệp, dịch vụ ước đạt 125,7 tỷ đồng. Trong đó:
+ Nơng nghiệp: 21,0 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 16,7%
+ Tiểu thủ công nghiệp: 45,7 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 36,3%
+ Thương nghiệp, dịch vụ: 58,9 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 47%
+ Thu nhập bình quân đầu người đạt 8,4 triệu đồng/ năm”
Tổng diện tích gieo trồng: 340,8 ha. Năng suất lúa bình qn đạt 102
tạ/ha.
Trong chăn ni: Đàn lợn có 2.521 con, đàn trâu bị có 190 con, đàn gia
cầm có 16.477 con.
Ngồi ra, xã còn tổ chức tiêm phòng cúm gia cầm hai đợt được 21.886
con, tổng vệ sinh đường làng ngõ xóm 3 đợt, phun thuốc sát trùng 5 đợt. Hợp
tác xã Ngãi Cầu đã chủ động tưới tiêu phục vụ đủ nước cho sản xuất và tiêu
úng kịp thời,… Ngoài những hộ làm nơng nghiệp, nhân dân cịn phát triển các
nghề khác như dịch vụ kinh doanh: tạp hóa, đồ điện tử, đồ gia dụng, lương
thực thực phẩm,…; xay xát lương thực, chăn nuôi, sửa chữa điện tử, nghề
mộc, nghề nhiếp ảnh,… Nhờ vậy, mỗi năm thu ngân sách tăng đáng kể, đời
sống nhân dân được ổn định.
1.1.4. Văn hóa – xã hội
Nhân dân An Khánh có lịng u nước nồng nàn, ham học, cần cù, chịu
khó, giản dị, đồn kết giúp đỡ nhau trong cuộc sống và lao động sản xuất.
Trong các cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm, nhân dân tổng Yên Lũng đã
có nhiều đóng góp để bảo vệ độc lập dân tộc, nhất là cuộc kháng chiến chống
13
quân Nguyên Mông ở triều Trần và chống giặc Minh khi đạo quân của Lê Lợi
- Nguyễn Trãi lấy vùng Lũng Giang làm đại bản doanh để bao vây, tiến đánh
quân giặc ở thành Đông Quan. Nhiều thanh niên trai tráng tổng Yên Lũng đã
ra nhập đạo quân của Lê Lợi góp phần vào sự nghiệp đánh đuổi giặc Minh ra
khỏi bờ cõi. Nhân dân tổng n Lũng cịn đóng góp nhiều lương thực, thực
phẩm cho đạo quân đánh giặc. Vùng đất An Khánh cịn là nơi hiếu học, có
những người học rộng tài cao, đỗ đạt trên quan trường thời phong kiến… Sự
phát triển làng xã ở An Khánh gắn với việc khai phá đất hoang trồng lúa
nước, xây dựng đình chùa, thể hiện bề dày truyền thống lịch sử văn hóa của
nhân dân tổng Yên Lũng.
* Phong tục tập quán:
+ Việc cưới: Cũng như nhiều làng quê khác ở vùng đồng bằng Bắc Bộ,
người dân làng Ngãi Cầu coi việc hôn nhân là việc hệ trọng của đời người.
Nếu như trước kia quan niệm tuổi có thể xây dựng gia đình “gái thập tam (13
tuổi), nam thập lục (16 tuổi)” thì ngày nay độ tuổi có thay đổi con gái từ 18
tuổi trở lên, con trai từ 20 tuổi trở lên. Người ta thường tránh tuổi 1, 3, 6, 8
(tuổi kim lâu) khi dựng vợ, gả chồng cho con cái.
Ngày nay, thanh niên trong làng được tự do tìm hiểu người bạn đời của
mình, khơng cịn tục thách cưới, nộp cheo hay ép duyên. Lễ cưới được tổ
chức theo nghi thức mới, đơn giản, tiết kiệm mà không kém phần long trọng.
Tuy nhiên, lễ cưới diễn ra cũng phải trải qua các nghi lễ truyền thống trong
tục cưới hỏi của người dân vùng đồng bằng Bắc Bộ như: Lễ chạm ngõ (hay lễ
dạm ngõ), lễ ăn hỏi, lễ cưới.
+Việc tang: Việc hiếu ở làng Ngãi Cầu đã có nhiều thay đổi những hủ
tục lạc hậu như cúng “tống thần” (khi trong gia đình hoặc dịng họ có từ hai
người chết trở lên trong một năm hay còn gọi là trùng tang, họ tin rằng việc
14
làm đó sẽ xua đuổi được tà ma, quỷ quái), để người chết trong nhà nhiều
ngày, hay kèn trống linh đình…đã được bãi bỏ.
Ngày nay, trong đám tang của làng Ngãi Cầu vẫn còn tục lệ: con trai của
người chết đội mũ rơm và chống gậy; những người có “bụi” khơng được vào
đình tế, lễ, trong năm đó khơng được đến dự đám cưới, đi chúc tết các gia
đình khác. Nếu người nhà làm cơng việc gì trong đình như chủ tế hay thủ từ
thì phải xin thơi.
+ Nhà ở: Việc làm nhà là việc hệ trọng của đời người, người xưa quan
niệm ba việc lớn của người đàn ông là “tậu trâu, lấy vợ, làm nhà”. Vì vậy, khi
làm nhà người dân quan niệm rất khắt khe về tuổi, vị trí, hướng nhà, ngày giờ
khởi cơng và khánh thành…
Ngày nay do điều kiện kinh tế phát triển, hầu hết nhưng ngôi nhà trong
làng đều được xây bằng vôi vữa, lợp ngói ta, những gia đình có điều kiện kinh
tế khá giả thì thường xây nhà mái bằng, nhà hai tầng hoặc ba, bốn tầng. Dù đó
là nhà cấp bốn hay nhà tầng thì việc chọn ngày giờ làm lễ động thổ và khánh
thành cũng được gia chủ xem xét rất kĩ lưỡng.
+Việc mặc: Người dân làng Ngãi Cầu cũng như nhân dân nhiều vùng
trong cả nước luôn quan niệm: “Ăn lấy chắc, mặc lấy bền”, việc ăn cốt no
bụng, việc mặc cốt ở sự bền lâu. Trước kia, người dân chủ yếu mặc loại vải
thô, dày, nhuộm củ nâu hoặc nhuộm bùn vừa bền lại vừa phù hợp với cơng
việc nhà nơng. Ngày nay, việc mặc có nhiều lựa chọn hơn do có nhiều mẫu
vải ra đời vừa đẹp vừa phù hợp với thời tiết lại vừa rẻ.
+Việc ăn: Trước kia, đời sống nhân dân còn khổ cực phải ăn cơm độn
sắn, ngô, khoai là chủ yếu. Thức ăn chủ yếu là cây rau tự trồng được theo
mùa vụ hoặc tôm cá tự kiếm được. Cùng với sự phát triển của kinh tế, chất
lượng bữa ăn hàng ngày của người dân được cải thiện rõ rệt, các loại thức ăn
cũng phong phú hơn, đủ chất hơn.
15
Tục ăn cá: Đặc biệt, để tưởng nhớ cụ hậu thần, người đã cung tiến đất
đai cho đình vào ngày 20 tháng 12 âm lịch các cụ Hạ4 đánh cá về đình làm lễ
ăn cá mời các cụ từ 51 tuổi trở lên. Theo lời kể của các cụ cao niên trong
làng: Sở dĩ lại làm lễ ăn cá vào một ngày trong năm vì số đất mà cụ Hậu cung
tiến cho đình chủ yếu là ao cá. Chính vì vậy, dân làng tổ chức ăn cá để tưởng
nhớ tới cụ. Sau Cách mạng tháng Tám để mừng ngày Quốc khánh lễ ăn cá
chuyển sang ngày 02 tháng 09 dương lịch hàng năm. Đó là một tục lệ độc đáo
thể hiện sự tri ân của người dân làng Ngãi Cầu mà đến nay truyền thống đó
vẫn được duy trì.
* Đời sống văn hố tâm linh:
Người dân làng Ngãi Cầu có đời sống văn hoá tâm linh khá phong phú
đa dạng với đầy đủ các loại hình kiến trúc dân gian truyền thống của người
Việt như: Đình, chùa, quán, miếu, nhà thờ họ, văn chỉ gắn liền với tôn giáo và
các tín ngưỡng như: tín ngưỡng thờ thành hồng làng, thờ tổ tiên, tín ngưỡng
thờ mẫu…
+ Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên:
Trong tâm thức của người Việt nói chung và người dân làng Ngãi Cầu
nói riêng thì con người ln gồm hai phần đó là thể xác và linh hồn. Khi
người ta chết đi chỉ mất về thể xác, còn linh hồn thì vẫn quanh quẩn với con
cháu. Để bày tỏ sự tưởng nhớ, lịng thành kính, biết ơn của con cháu đối với
người đã khuất, người ta thường lập ban thờ ở trên cao, ngang gian chính
giữa. Họ tin rằng làm như vậy tổ tiên nhà mình sẽ ln che chở, phù hộ cho
con cháu. Vào các ngày Sóc vọng như mồng một, ngày rằm, lễ tiết, hiếu, hỷ
trong nhà có việc lớn hay con cháu đi xa, về gần…đều thắp hương thỉnh cầu
tổ tiên, ông bà, cha mẹ về chứng kiến. Tất cả những đồ ăn ngon nhất, tinh
Cụ Hạ là những người 49 tuổi, theo lệ làng năm đó phải có cơi trầu mang ra đình lễ và
xin làm giúp việc trong các dịp lễ tiết, lễ hội hay khi làng có cơng việc tổ chức tại đình
4
16
khiết và đẹp mắt như hoa quả đầu mùa, cơm gạo mới…bao giờ cũng được đặt
lên ban thờ thắp hương trước sau đó con cháu mới được ăn.
+ Tín ngưỡng thở thành hoàng:
Thành hoàng là một phạm trù thần linh bảo hộ thành trì của phong kiến
Trung Hoa, được du nhập vào nước ta từ thời nhà Đường và tiếp tục được duy
trì phát triển trong các triều đại phong kiến Việt Nam. Nơng thơn Việt Nam
xưa khơng có thành trì nhưng vẫn có miếu thành hồng. Đó là thành hoàng
làng. Theo tác giả Nguyễn Duy Hinh: “Thành hoàng làng người Việt là một
vị thần được dân thờ, sau đó mới được vua phong chức tước với chức danh
thành hoàng” 5.
Trong tín ngưỡng dân dã của người Việt, thờ cúng thành hồng làng là
một tín ngưỡng cơ bản và phổ biến, giữ vai trị quan trọng trong đời sống văn
hố tâm linh của cộng đồng. Tín ngưỡng này được thể hiện qua sự hiện diện
của ngơi đình làng. Đình làng Ngãi Cầu thờ năm vị thần tên gọi là ông Cả,
ông Hai, ông Ba, ông Tư và Thánh Bà Út (nữ thần đức bản thổ), sống vào
thời Hùng Duệ Vương. Cũng giống như nhiều làng quê khác của người Việt,
nhân dân làng Ngãi Cầu xưa kia và ngày nay thờ thần để tưởng nhớ công lao
của thần với dân với nước và cầu mong thần phù hộ cho dân làng bình an,
mưa thuận gió hịa, mùa màng tốt tươi. Thờ thành hồng làng là một phong
tục tốt đẹp khơng chỉ thoả mãn nhu cầu về mặt tâm linh của người dân làng
Ngãi Cầu mà nó cịn là biểu hiện sinh động về truyền thống đạo lý “uống
nước nhớ nguồn” của dân tộc.
Đình làng Ngãi Cầu cho đến nay đã trải qua hơn 300 năm tồn tại, nhưng
vẫn bảo lưu được những giá trị văn hoá đặc sắc về lịch sử, văn hố, kiến trúc,
điêu khắc của ngơi đình làng Việt cổ.
Nguyễn Duy Hinh ( 1996 ), Tín ngưỡng thành hồng Việt Nam, Nxb. Khoa học – Xã hội,
tr.61.
5
17
+ Phật giáo: Hầu hết người dân làng Ngãi Cầu đều theo đạo Phật, vì vậy
khơng thấy sự có mặt của nhà thờ đạo cơng giáo.
+ Nho giáo: Văn hố Nho giáo đã có ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống
văn hoá của cư dân nơi dây từ rất lâu đời. Theo lời kể của các cụ cao niên thì
trước kia làng Ngãi Cầu có một văn chỉ. Sau này vào những năm 60 – 70 kiến
trúc văn chỉ đã bị phá. Gần đây dân làng đã khôi phục lại văn chỉ và các hoạt
động tế lễ tại đây.
* Các di tích lịch sử văn hố:
Hàng nghìn năm lao động cần cù, các thế hệ người Ngãi Cầu ăn dụm để
dành, dựng lên trên mảnh đất làng quê mình một hệ thống đình – chùa – quán
- miếu – văn chỉ, vốn là đặc trưng vật chất của văn hoá làng xã.
+ Chùa Ngãi Cầu có tên chữ là “Phổ Quang tự” là ngôi chùa tổng ở trong
vùng.Chùa Ngãi Cầu toạ lạc trên một gò đất cao, rộng ở ven làng. Di tích
được xây dựng theo hướng Nam. Chùa Ngãi Cầu có quy mơ kiến trúc lớn với
nhiều nếp nhà tạo thành. Quy hoạch tổng thể của di tích gồm khu chùa chính,
hai dãy hành lang song song, nối nhà Tiền đường với nhà Hậu ở phía sau,
cuối cùng là khu nhà Tổ nằm ở sau dãy hành lang bên phải. Các bộ phận kiến
trúc của chùa được xây dựng kế tiếp nhau. Chùa chính là kiến trúc hình chữ
“Cơng” gồm : Tiền đường, Thiêu hương và Thượng điện. Các nếp nhà nằm
sát nhau và được khép kín bởi hệ thống tường bao quanh đã làm cho không
gian của Tam bảo thêm rộng lớn.
+ Sát bên phải nhà “ Tứ ân” của chùa là quán Ngãi Cầu. Theo Thần phả
của đình làng Ngãi Cầu, quán là nơi ra đời của bốn vị thành hoàng, là nơi diễn
ra các nghi lễ của tín ngưỡng thờ thành hồng làng. Qn Ngãi Cầu có kiến
trúc đơn giản, mặt trước là hai trụ biểu cao, trên cùng có hai con nghê hướng
mặt vào nhau, các ơ lồng đèn trang trí “tứ linh”. Nối hai cột này là tường
lửng, trên có hình cuốn thư, hai bên cột là hai tường thấp, mặt trước các bức
18
tường đắp nổi hai long mã phi trên sóng nước, mặt sau đắp hai con hổ quay
mặt vào trong quán. Sau dãy tường này là khu kiến trúc chính gồm hai bệ
gạch cao dùng cho việc tế lễ mỗi khi làng vào hội. Bao quanh hai bệ gạch là
ba bức tường qy khoảng 1,8m, trên tường có đơi rồng nổi hướng về cửa
quán. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, chùa, quán Ngãi Cầu là
cơ sở hoạt động cách mạng của Đảng bộ và nhân dân địa phương. Di tích là
nơi cất giấu tài liệu, hội họp… và ni giấu cán bộ. Nhiều căn hầm bí mật đã
được đào dưới nơi toạ lạc của các vị thánh hiền, nơi tọa lạc của tượng Hộ
pháp, ở phía đơng Tam bảo, vườn chùa…đã được các nhà tu hành và những
tượng Phật từ bi ấp ủ, che chở, được nhân dân hết lòng giúp đỡ ủng hộ kháng
chiến.
+ Mộ Thánh Mẫu nằm trên khu gị cao, cách đình 200m về phía Tây
Nam. Cách ngôi mộ hơn 3m là khu mộ gạch thời Hán được phát hiện cách
đây không lâu. Phần mộ hiện cịn là một nấm đất cao 40cm, kích thước mỗi
bề 2,5m x 1,4m. Bao quanh khu mộ là những bức tường hoa cao 0.8m, phía
Nam mở cổng vào, đầu Bắc ngôi mộ xây miếu nhỏ đặt tấm bia ghi tên người
được thờ.
Đảng bộ và chính quyền địa phương tơn trọng tự do tín ngưỡng, giữ gìn
bản sắc văn hóa riêng của làng xã do vậy đã tạo mọi điều kiện cho nhân dân
tu bổ đình, chùa và thực hiện các sinh hoạt tơn giáo tín ngưỡng, tâm linh.
Người dân nơi đây trọng lễ nghĩa, sùng bái thánh thần vì vậy hàng năm vào
dịp đầu xuân, ngày mồng một hay ngày rằm, các ngày lễ khác trong năm,
người dân đều tổ chức tế lễ một cách thành tâm. Theo quyết định số 1570
VH/QĐ ngày 5/9/1989 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa cơng nhận đình - chùa
Ngãi Cầu là “di tích kiến trúc nghệ thuật”.
19
Hàng năm làng tổ chức hội lễ tri ân công đức của các vị thần. Đại đám
diễn ra từ ngày mồng 8 đến ngày mồng 10 tháng giêng âm lịch ( được tổ chức
5 năm 1 lần). Ngoài lễ hội làng cịn có các buổi tế lễ khác ở đình:
Tháng 1: Lễ sóc - Lễ khai quang (ngày 15)
Tháng 2: Tế hóa nhật mao huyết (ngày 12)
Tháng 3: Lễ cáo yết, lễ phù tửu (mồng 7)
Lễ ngày sinh tứ vị (mồng 8)
Tháng 4: Tế kỳ yên (mồng 1)
Tháng 5: Tết Đoan ngọ ( mồng 5)
Giỗ cụ hậu thần ( mồng 6)
Tháng 7: Lễ trung nguyên (ngày 15)
Tháng 8: Tế trung thu khánh hạ (ngày 15)
Tháng 9: Lễ vua Thần Nông, lễ cơm mới (mồng 1)
Tháng 10: Tế xôi mới (mồng 10)
Tháng 12: Tế chạp giữa đông (mồng 2)
Lễ tất niên (tối 30 ).
* Truyền thống hiếu học:
Dưới thời phong kiến, vùng đất An Khánh đã có nhiều người học rộng
tài cao, đỗ đạt trên quan trường. Ơng Bùi Dỗn Đốc sinh năm 1510 thi đậu
Bảng nhãn khoa Ất Mùi (1535) niên hiệu Đại Chính thứ 6 đời Mạc Đăng
Doanh. Ơng làm quan đến Thị thư ở Viện Hàn lâm. Ông là người thơng minh
tài trí, thuở nhỏ nổi tiếng là thần đồng. Ngồi ra, cịn có ơng Hồng Thiện
sinh năm 1443 khi ông 33 tuổi thi đỗ Tiến sĩ khoa Ất Mùi (1475) niên hiệu
Hồng Đức thứ 6 đời Lê Thánh Tơng. Ơng được bổ nhiệm làm quan đến chức
Hình Bộ Thượng thư. Tên tuổi của ông được ghi ở Văn Miếu Quốc Tử Giám
(Hà Nội). “Ông Nguyễn Gia Phan còn gọi là Nguyễn Thuyên, tự là Thế Lịch,
hiệu Dưỡng Hiền sinh năm 1729. Năm Cảnh Hưng thứ 36 (1775) đời Lê, ông
20
thi đỗ Tiến được bổ làm Thị thư ở Viện Hàn lâm, sau đó là Hữu Thị Lang Bộ
Binh, Bồi tụng, Đông các Đại học sỹ. Khi nhà Lê mất, ông cùng với các sỹ
phu Bắc Hà như Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích giúp nghĩa quân Tây Sơn và
làm quan đến chức Thượng thư Bộ Lại. Ơng cịn giỏi về thơ văn và nghề
thuốc, nhất là Nhi khoa. Hiện trong kho sách Hán Nơm cịn giữ được một số
tác phẩm của ông: Tiểu nhi khoa, Thai sản điều lý phương pháp, Hộ nhi
phương pháp tổng lục. Thơ văn của ông còn lại một số bài chép trong sách:
An Lũng tham tri Nguyễn tướng cơng niên phả, trong đó có 8 bài thơ Nôm
làm ở kinh thành Huế khi ông làm quan dưới triều Tây Sơn” 6.
Những năm gần đây, các gia đình trong làng đã có ý thức quan tâm đầu
tư về giáo dục cho con em. Năm 2008- 2009, tồn xã có 59 em thi đỗ vào các
trường đại học thì Ngãi Cầu có 18 em; 76 em thi đỗ vào các trường cao đẳng
thì Ngãi Cầu có 27 em. Hoạt động của hội đồng giáo dục xã chưa được
thường xun, hiện có 3/5 thơn tổ chức được quỹ khuyến học. Cơ sở hạ tầng
ngày càng được nâng cao.
* Truyền thống đấu tranh cách mạng:
Tiếp nối truyền thống yêu nước của quê hương, với bản lĩnh kiên trung,
người dân nơi đây sớm hoà chung cùng phong trào cả nước đứng lên trong
hai cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc. Trong hai cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược nhân dân xã An Khánh vừa kháng
chiến vừa kiến quốc. Giặc đến là đánh, giặc đi lại sản xuất, góp phần cùng
nhân dân cả nước đánh thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. “Đặc
biệt là 9 năm kháng chiến chống Pháp, kẻ địch tìm mọi thủ đoạn để đánh phá
phong trào nhất là ở thôn Ngãi Cầu. Sự đánh phá ác liệt của giặc làm cho
Ban Chấp hành Đảng bộ xã An Khánh (2008), Lịch sử Cách mạng của Đảng bộ và nhân
dân xã An Khánh (1930 – 2006), An Khánh, tr.23.
6
21
phong trào kháng chiến của xã bị tổn thất nặng nề. Có thời gian, có làng ở
An Khánh là cơ sở trắng. Nhưng Ngãi Cầu vẫn là một cơ sở vững vàng điển
hình ở trong xã. Cán bộ, đảng viên vẫn trụ vững ở Ngãi Cầu để gây dựng cơ
sở, lãnh đạo nhân dân tham gia kháng chiến.” 7. Trong sự nghiệp chống đế
quốc Mỹ xâm lược, với tinh thần “tất cả vì miền Nam ruột thịt”, “từ năm
1965 đến năm 1975, An Khánh thực hiện 36 đợt tuyển quân, đưa tiễn 2450
người vào quân đội, thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến. Kết thúc
cuộc kháng chiến chống Mỹ, tồn xã có 222 liệt sỹ hy sinh trên các chiến
trường và 113 thương binh…Khi có chiến tranh phá hoại, nhân dân các thôn
giành 20 ha đất để xây dựng trận địa pháo, 22 ha đất xây dựng trận địa ra đa
tên lửa phịng khơng bảo vệ thủ đơ. Tồn xã huy động 80.000 ngày công xây
dựng trận địa, 3.000 cây tre, gỗ xây dựng hầm cho bộ đội, 1.400 hộ dành một
phần nhà cửa cho bộ đội và các cơ quan, xí nghiệp của Trung ương, nhân
dân Hà Nội về sơ tán” 8. Trong chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở miền
Bắc, An Khánh cũng bị máy bay giặc Mỹ ném bom bắn phá. Quân dân An
Khánh vừa phục vụ chiến đấu vừa phối hợp cùng các đơn vị bộ đội bắn trả
máy bay giặc Mỹ góp phần cùng nhân dân cả nước đánh thắng đế quốc Mỹ,
giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Trong hai cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và bảo vệ Tổ quốc tồn xã có 301 liệt sỹ và 23
Bà mẹ Việt Nam Anh hùng. Riêng làng Ngãi Cầu có 118 liệt sỹ, 11 Bà mẹ
Việt Nam Anh hùng.
Nhờ những thành tích đã đạt được, ngày 26/04/2002 Chủ tịch nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký quyết định số 232 - QĐ/CTN phong tặng
Ban Chấp hành Đảng bộ xã An Khánh (2008), Lịch sử Cách mạng của Đảng bộ và nhân
dân xã An Khánh (1930 – 2006), Hà Nội, tr. 344.
8
Ban Chấp hành Đảng bộ xã An Khánh (2008), Lịch sử Cách mạng của Đảng bộ và nhân
dân xã An Khánh (1930 – 2006), Hà Nội, tr. 320.
7
22
danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân” cho lực lượng vũ trang
nhân dân xã An Khánh thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
* Các hoạt động văn hố – xã hội khác:
Cơng tác văn hóa, y tế, thể dục thể thao liên tục phát triển và ngày càng
đi vào chiều sâu. Năm 2009, Trạm Y tế xã An Khánh đã khám và chữa bệnh
cho 14.800 lượt người trong tồn xã.
Hoạt động văn hóa thơng tin, truyền thanh đã tập trung tuyên truyền chủ
trương, chính sách pháp luật của Đảng, Nhà nước, các ngày lễ của dân tộc,
tuyên truyền gương người tốt, việc tốt, nhiệm vụ chính trị và kinh tế của xã.
Trong năm 2009, đài Truyền thanh xã đã phát thanh được 57 tin, 13 bài về
hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội của xã. Đài Truyền thanh được trang bị đầy
đủ phương tiện thông tin đã có lịch tiếp sóng đài huyện – đài thành phố để
đưa tin tức thời sự phục vụ cho công tác lãnh đạo chỉ đạo nhiệm vụ của xã.
Năm 2009, xã An Khánh đã duyệt được 2.245 gia đình văn hóa, đạt 50%. Các
chính sách xã hội được quan tâm, chăm lo đến các gia đình chính sách, hộ
nghèo, người già cả không nơi nương tựa, vận động nhân dân, tổ chức, cá
nhân đóng góp vào quỹ đền ơn đáp nghĩa được 59,8 triệu đồng…Ngày
27/7/2009 - kỷ niệm 62 năm ngày thương binh liệt sỹ, xã trích quỹ đền ơn đáp
nghĩa mua quà cho các đối tượng chính sách 43,5 triệu đồng.
Tuy nhiên, trong q trình đơ thị hóa xã An Khánh nói chung, làng Ngãi
Cầu nói riêng cũng đang phải đối mặt với nhiều khó khăn thách thức. Một bộ
phận thanh niên sống buông thả, cờ bạc, trộm cắp, lừa đảo, sử dụng chất ma
túy, gây mất trật tự trị an… Nhưng với sự quan tâm của Đảng bộ, chính
quyền và tồn dân các tệ nạn xã hội đã giảm dần.
1.2. Niên đại và quá trình tồn tại của đình làng Ngãi Cầu
Mỗi di tích là nơi kết tinh tài hoa ước vọng của người nghệ sỹ dân gian,
là niềm tự hào của nhân dân địa phương nơi di tích đó tồn tại. Đình làng Ngãi
23
Cầu cũng là một di tích như vậy! Đình được dựng theo hướng Nam, nhìn ra
đường 72. Theo lời kể của ông Bùi Công Mão (Trưởng Ban Tu lễ), trước kia
đình nhỏ nằm ở trong làng sau được chuyển ra vị trí như hiện nay. Đình nằm
ngay bên đường nên rất thuận tiện cho khách tham quan.
Cùng với những thăng trầm của lịch sử, yếu tố thời gian đã làm hư hại,
bào mịn các di tích nói chung và đình làng Ngãi Cầu nói riêng. Ngơi đình đã
trải qua nhiều lần trùng tu, những cứ liệu còn lại minh chứng một cách chính
xác niên đại khởi dựng của di tích cịn rất ít. Tuy nhiên cũng có một số cứ liệu
để xác định niên đại khởi dựng của đình Ngãi Cầu như sau:
Hiện tại, đình làng Ngãi Cầu cịn lưu giữ được 5 tấm bia đá cổ ghi
nhận phân cấp ruộng đất cơng, trong đó tấm bia “ Đình tạo lập thạch ký” (Bia
đá tạo dựng ở đình) được dựng năm Canh Tuất niên hiệu Cảnh Trị thứ 8
(1670).
Trong bản giới thiệu di tích đình làng Ngãi Cầu được đặt tại đình do Sở
Văn hố, Thể thao và Du lịch Hà Nội lập có viết: “Đình được tạo dựng ở thế
kỷ XVII năm Canh Tuất niên hiệu Cảnh Trị (1670) thời Lê Huyền Tơng (tức
Lê Duy Vũ). Đình được liệt vào loại di tích kiến trúc nghệ thuật mang đậm
màu sắc từ thời Lê đến thời Nguyễn và là di tích danh thắng của thủ đơ Hà
Nội (Tập san “Người Hà Nội” - Số kỷ niệm 35 năm giải phóng thủ đơ)…Ngơi
đình tính đến nay đã được trên 300 tuổi và đã qua 4 lần trùng tu:
- Năm Tân Sửu 1841 (Thời Triệu Trị)
- Năm Tân Dậu 1861 (Thời Tự Đức)
- Năm Bính Tuất 1886 (Thời Đồng Khánh)
- Năm Tân Tỵ 2001 (niên hiệu CHXHCN Việt Nam năm thứ 56 )”.
Tổng hợp các nguồn tư liệu, cùng một số dấu vết kiến trúc như: Khám
thờ lửng dạng chuôi vồ, đầu hồi tồ Đại đình được bưng kín bởi hệ thống ván
gỗ và một số di vật trong đình: Các sắc phong thần, hai bộ kiệu song loan
24
(kiệu mui luyện), 5 tấm bia đá cổ… Như vậy, qua các cứ liệu lịch sử và các di
vật còn lưu giữ tại đình, bước đầu, ta có thể đốn định đình làng Ngãi Cầu
mang phong cách khoảng cuối thế kỷ XVII.
Đình làng Ngãi Cầu đã trải qua nhiều lần trùng tu, tu sửa. Hiện nay
những giấy tờ hay văn bản ghi chép về q trình tu bổ, tơn tạo di tích đình
làng Ngãi Cầu khơng được tìm thấy. Tuy nhiên trên xà của tồ Phương đình
có dịng chữ “ trùng tu năm Giáp Ngọ 1894 – Giáp Dần 1974 – tháng 8 năm
2001” và trên cột cái gian bên trái tồ Đại đình viết “đình trùng tu năm Bính
Dần 1926; đảo lại tồn bộ ngói đình năm Tân Tỵ 2001; cửa võng tám giáp
trùng tu năm Canh Thìn 2000” đều được viết bằng sơn màu đỏ. Theo lời kể
của các cụ cao niên trong làng, gần đây nhất là lần trùng tu năm 2001 đã tiến
hành đảo ngói chống dột, thay một số ô cửa bức bàn bị mối mọt, lát nền, sơn
son thếp vàng hệ thống cột, đầu dư, cốn,…Tháng 4 năm 2010, Ban quản lý di
tích tổ chức đảo ngói chống dột ở mái trước tịa Đại đình.
Trải qua sự biến thiên của lịch sử, đình làng Ngãi Cầu vẫn còn khá
nguyên vẹn, vững chắc, bảo lưu được nghệ thuật chạm khắc cũng như nhiều
di vật có giá trị.
Điều đặc biệt, đình cịn có 8 khám thờ của bát giáp thờ các cụ tổ của 12
dòng họ rất trang trọng uy nghi. “Thể hiện một quấn thể thứ tự các dòng họ từ
xa xưa đã cùng chung sống vào một thời điểm và đã được sắp xếp thứ tự rõ
ràng. Đây là một nét độc đáo thuộc dạng đình ở Đồng bằng Bắc Bộ, nét đẹp
trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng của người Việt cổ từ xa xưa” 9.
Đình làng Ngãi Cầu là một kiến trúc mang hai chức năng chính: Trung
tâm tín ngưỡng thờ thành hồng và là trung tâm sinh hoạt văn hóa cộng đồng.
9
Nguyễn Văn Hùng (1989), Hồ sơ cụm di tích kiến trúc - nghệ thuật Ngãi Cầu, Sở Văn
hố Thơng tin Hà Nội, Hà Nội.
25
Ngày 5 tháng 9 năm 1989, đình làng Ngãi Cầu chính thức được Bộ Văn
hóa cơng nhận là di tích kiến trúc - nghệ thuật. Đây là một bằng chứng khẳng
định giá trị lịch sử văn hóa của ngơi đình và là cơ sở pháp lý vững chắc để
bảo tồn các giá trị của di tích.
1.3. Các vị thần được thờ trong di tích
Các nguồn tư liệu thành văn cùng hồi ức dân gian đều khẳng định sự có
mặt của năm vị thành hồng tại đình làng Ngãi Cầu. Do các vị thành hoàng
sống trong các giai đoạn lịch sử q xa xưa nên sự tích cịn lại về họ mang
đậm tính hoang đường, rất gần với những mơtip thần thoại liên quan đến buổi
đầu của lịch sử dân tộc.
Vị thần đầu tiên được thờ ở đình làng là một nữ thần có từ khi lập làng.
Ghi nhận về nhân vật này, thần phả cho biết, trước khi hóa, bốn vị đại vương
thời Hùng Duệ Vương đã dặn dò dân làng rằng: sau này có lập đền thờ, phải
thờ cùng nữ thần bản thổ. Qua đó, có thể thấy được rằng “vị thần đầu tiên của
đình thuộc về hệ thống nữ thần tối cổ liên quan đến chế độ Mẫu hệ trong xã
hội nguyên thủy”10.
Bốn vị nam thần ở đình làng được ghi lại đầy đủ trong trí nhớ của nhân
dân địa phương và cuốn Thần phả do quan Hàn Lâm viện Đơng các Đại học
sỹ Nguyễn Bính soạn vào mùa xuân năm Hồng Phúc thứ 2 (1573). Trên cơ sở
cuốn Thần phả và truyền thuyết dân gian, có thể tóm tắt sự tích của các vị
nam thần như sau:
Vào cuối thời Hùng Vương, tại hương Lộ Trạch, huyện Đường An, phủ
Thượng Hồng, đạo Hải Dương có người con gái mộ đạo là Vũ Thị Huệ. Năm
20 tuổi, nghe tin động Hương Tích là một thắng cảnh lớn do Quan Âm Bồ Tát
và hai đệ tử tin cậy là Kim Đồng, Ngọc Nữ đang trụ trì nên bà đã bỏ quê đến
Nguyễn Văn Hùng (1989), Hồ sơ cụm di tích kiến trúc - nghệ thuật Ngãi Cầu, Sở Văn
hố Thơng tin Hà Nội, Hà Nội.
10