1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI
KHOA DI SẢN VĂN HĨA
TRẦN VĂN THƠNG
TÌM HIỂU DI TÍCH ĐÌNH LÀNG THỌ CHUƠNG
(XÃ ĐẠO LÝ-HUYỆN LÝ NHÂN-TỈNH HÀ NAM)
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
NGÀNH BẢO TÀNG HỌC
Mã số: 52320205
Người hướng dẫn: PGS.TS TRỊNH THỊ MINH ĐỨC
HÀ NỘI-2012
2
Lời cảm ơn!
Em xin dành lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới Ban chủ nhiệm khoa,
các thầy cô giáo trong Khoa Bảo tàng trường Đại học Văn hoá Hà Nội đã tận
tình giảng dạy cho em trong 4 năm học tại trường. Xin chân thành cảm ơn
PGS.TS Trịnh Thị Minh Đức, người đã trực tiếp hướng dẫn khoa học và chỉ
bảo cho em những vấn đề trọng tâm của đề tài ngay từ khi xác định tên đề tài,
xây dựng đề cương tới lúc hồn thiện bài khố luận. Em xin cảm ơn sự giúp
của Ban Giám đốc, cán bộ viên chức Bảo tàng tỉnh Hà Nam đã tạo điều kiện,
giúp đỡ cho em có thời gian nghiên cứu, tiếp cận với nguồn tư liệu, sách báo
có liên quan tới đề tài. Xin cảm ơn sự giúp đỡ của chính quyền địa phương,
Ban quản lý di tích đình Thọ Chương đã tạo điều kiện, giúp đỡ em trong q
trình khảo sát, tiếp cận nghiên cứu di tích.
Là sinh viên năm thứ tư do chưa được tiếp xúc nhiều với thực tế, kiến thức
chuyên ngành còn hạn chế, thời gian nghiên cứu hạn hẹp chắc hẳn khoá luận
của em cịn có khiếm khuyết. Kính mong nhận được sự giúp đỡ, góp ý của
các thầy cơ giáo và bạn bè cho bài khố luận được hồn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Trần Văn Thông
MỤC LỤC
Trang
Lời cảm ơn
1
MỞ ĐẦU
2
1. Lý do chọn đề tài
2
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4
4. Phương pháp nghiên cứu
5
5. Bố cục của khố luận
5
Chương 1. LÀNG THỌ CHƯƠNG VÀ ĐÌNH LÀNG THỌ CHƯƠNG
6
1.1. Tổng quan về làng Thọ Chương
6
1.1.1. Vị trí địa lý – đặc điểm tự nhiên
6
1.1.2. Đời sống kinh tế của dân cư
8
1.1.3. Văn hóa truyền thống làng Thọ Chương
10
1.2. Lịch sử hình thành và quá trình tồn tại của
di tích Đình làng Thọ Chương
19
1.2.1. Sự tích nhân vật được thờ
19
1.2.2. Lịch sử hình thành đình làng Thọ Chương
22
1.2.3. Đình Thọ Chương trong hệ thống các di tích cùng thờ
Thành hoàng làng Vũ Lang Nữu
25
Chương 2. GIÁ TRỊ KIẾN TRÚC – NGHỆ THUẬT, LỄ HỘI
ĐÌNH LÀNG THỌ CHƯƠNG
30
2.1. Giá trị kiến trúc
30
2.1.1. Không gian cảnh quan
30
2.1.2. Bố cục mặt bằng tổng thể di tích
33
2.1.3. Kết cấu kiến trúc đình làng Thọ Chương
34
2.1.3.1. Kết cấu kiến trúc Nghi môn
34
2.1.3.2. Kết cấu kiến trúc tịa Đại đình
37
2.1.3.3. Kết cấu kiến trúc tòa Hậu cung
46
2.2. Giá trị nghệ thuật
2.2.1. Trang trí trên kiến trúc
48
48
2.2.1.1. Trang trí bên ngồi kiến trúc
49
2.2.1.2. Trang trí bên trong kiến trúc
51
2.2.2. Các di vật trong đình Thọ Chương
2.3. Lễ hội đình làng Thọ Chương
58
70
2.3.1. Lịch lễ hội
72
2.3.2. Chuẩn bị cho lễ hội
74
2.3.3. Diễn trình lễ hội
75
2.3.4. Kết thúc lễ hội
88
Chương 3. BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY DI TÍCH ĐÌNH LÀNG THỌ CHƯƠNG
90
3.1. Giá trị tiêu biểu của đình làng Thọ Chương
90
3.2. Hiện trạng di tích, di vật đình làng Thọ Chương
93
3.2.1. Hiện trạng di tích
93
3.2.2. Hiện trạng di vật
97
3.3. Vấn đề bảo vệ di tích
98
3.4. Giải pháp bảo tồn di tích đình Thọ Chương
99
3.4.1. Giải pháp bảo quản đối với di tích đình Thọ Chương
99
3.4.2. Giải pháp tu bổ di tích đình Thọ Chương
104
3.4.3. Tơn tạo di tích đình làng Thọ Chương
105
3.4.4. Tăng cường trong quản lý di tích
107
3.5. Khai thác, phát huy giá trị của di tích đình làng Thọ Chương
107
KẾT LUẬN
112
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
4
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Di tích lịch sử - văn hóa là nơi ghi dấu những truyền thống tốt đẹp từ
ngàn xưa để lại, là kết tinh tài năng, trí lực, sáng tạo, để chúng trở thành bằng
chứng xác thực về đặc trưng văn hóa của mỗi dân tộc. Nó là những tư liệu
lịch sử có sức thuyết phục đối với mọi người dân đất Việt, ở đó mang dấu ấn
của lịch sử, hơi thở của thời đại truyền lại cho mn đời sau. Những di tích
lịch sử đó cịn là “Bảo tàng sống” về kiến trúc, điêu khắc và những giá trị văn
hoá phi vật thể, nơi gìn giữ những phong tục, tập quán, di vật, cổ vật, bảo
vật… có giá trị, ghi dấu một thời kì lịch sử. Gìn giữ di tích lịch sử - văn hố
khơng chỉ đơn thuần là gìn giữ những thành quả vật chất của người xưa, mà
còn kế thừa và phát huy sáng tạo ra những giá trị văn hoá mới, phù hợp với xu
thế phát triển đất nước trong giai đoạn Cơng nghiệp hóa – Hiện đại hóa cùng
với giao lưu, hội nhập văn hóa trong khu vực và quốc tế.
Tìm hiểu về di tích lịch sử - văn hố là tìm về cội nguồn của dân tộc để
kế thừa và phát huy góp phần làm đẹp truyền thống văn hố, nó càng trở nên
có ý nghĩa hơn nếu chúng ta đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu, bóc tách từng lớp
văn hố chứa đựng trong đó để phần nào hiểu rõ hơn về cội nguồn văn hoá
của dân tộc để gìn giữ, bảo tồn những tinh hoa văn hố, truyền thống đạo đức,
thuần phong mỹ tục và lấy đó làm nền tảng xây dựng nền văn hoá Việt Nam
tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Tuy nhiên, trải qua bao nhiêu thế kỷ, với
những biến cố thăng trầm của lịch sử và xã hội đã khiến cho nhiều di tích lịch
sử - văn hố q giá bị huỷ hoại, di sản văn hóa trong cả nước bị thu hẹp và
xuống cấp nghiêm trọng, nhiều di tích bị đổ nát, di vật bị hư hại, mất cắp.
Trong quá trình hội nhập và phát triển kinh tế đất nước, chiến lược phát
triển văn hóa được nhà nước quan tâm. Hồ chung với xu thế đó các di tích
lịch sử - văn hố dần được phục hồi, tơn tạo và phát huy giá trị. Các di tích
lịch sử - văn hố đã và đang góp phần khơng nhỏ vào sự hồn thiện con
5
người, giúp con người vươn tới cuộc sống tốt đẹp hơn và hướng người ta trở
về với cội nguồn, ngược dịng lịch sử, trở về với q khứ, khơng lãng quên
quá khứ mà thêm trân trọng những thành quả vật chất và tinh thần của quá
khứ. Kế thừa, khai thác phát huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa phát triển du
lịch, qua đó bảo tồn bền vững những di sản văn hóa có giá trị.
Hiện nay cơng tác bảo tồn, trùng tu và khai thác giá trị văn hoá đã và
đang trở thành vấn đề cấp bách trong sự nghiệp xây dựng văn hoá ở nước ta.
Chúng ta ln phải có ý thức bảo vệ, gìn giữ cho hiện tại và tương lai, kế thừa
những tinh hoa, truyền thống tốt đẹp của tổ tiên, phù hợp với đường lối của
Đảng và Nhà nước để xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản
sắc dân tộc.
Đình làng là một loại di tích trong loại hình di tích văn hóa Việt Nam.
Ngơi đình là một nét đẹp và đặc trưng của văn hóa nơng thơn. Tự bao giờ
ngơi đình đã xuất hiện trong mỗi làng q Việt, trở thành hình ảnh đặc trưng
làm nên biểu tượng của làng q, đó là hình ảnh của cây đa, bến nước, sân
đình, lũy tre, vườn cây, ao cá, ruộng đồng… Ngơi đình là chốn linh thiêng thờ Thành hồng làng, vị thần được coi là bảo trợ cho cả cộng đồng làng.
Đình cịn là nơi tụ họp mọi người trong những sinh hoạt chung, xưa kia là cơ
sở của tổ chức chính quyền làng xã, nơi diễn ra những hoạt động văn hóa tín
ngưỡng tâm linh, địa điểm tổ chức lễ hội, trò chơi, diễn xướng dân gian.
Là sinh viên năm thứ tư chuyên ngành Bảo tàng, với niềm say mê nghề
nghiệp, hơn nữa, là một người con sinh ra trên quê hương Hà Nam, tự hào về
một miền q có nhiều di sản văn hóa giá trị, cịn lưu giữ được số lượng lớn
di tích lịch sử - văn hóa tiêu biểu. Hiểu rõ tầm quan trọng của việc bảo tồn các
di tích lịch sử - văn hố trên đất Hà Nam, cùng với nguyện vọng của bản thân,
em muốn đóng góp vào sự nghiệp bảo vệ di sản văn hố q báu đó. Qua đó
vận dụng những kiến thức chuyên ngành đã tích lũy được vào thực tiễn, vận
dụng và rèn luyện kĩ năng nghiên cứu, viết bài. Được sự đồng ý của lãnh đạo
6
khoa Bảo tàng và giảng viên hướng dẫn PGS TS Trịnh Thị Minh Đức, em đã
chọn đề tài: “Tìm hiểu di tích đình làng Thọ Chương”, xã Đạo Lý - huyện
Lý Nhân - tỉnh Hà Nam làm khoá luận tốt nghiệp Đại học ngành Bảo tàng.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Khố luận nhằm mục đích tìm hiểu các mặt giá trị về văn hóa vật thể và
phi vật thể của di tích đình làng Thọ Chương. Trên cơ sở khảo sát thực địa tại
di tích, tìm hiểu về thực trạng và tình trạng kỹ thuật để đề xuất giải pháp để
bảo tồn và phát huy giá trị của di tích.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu tổng quan về làng Thọ Chương - Không gian văn hóa nơi di
tích tồn tại.
- Giới thiệu về Thành hồng làng được thờ ở đình Thọ Chương.
- Căn cứ vào các nguồn tư liệu, tài liệu biên chép về di tích, phong cách mỹ
thuật bước đầu xác định niên đại xây dựng và những lần trùng tu, sửa chữa.
- Nghiên cứu giá trị kiến trúc, di vật, lễ hội tại đình làng Thọ Chương.
- Khảo sát thực trạng, tình trạng kỹ thuật của di tích để đưa ra giải pháp bảo
tồn và phát huy giá trị di tích đình làng Thọ Chương.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính là di tích đình làng Thọ Chương, thuộc xã
Đạo Lý - huyện Lý Nhân - tỉnh Hà Nam và mở rộng đến các di tích đình làng
Sàng, đình làng Lưu và đình Đồng Vũ cùng thờ Thành hồng Vũ Lang Nữu
để tìm hiểu so sánh.
- Phạm vi nghiên cứu:
* Về thời gian: Nghiên cứu di tích đình Thọ Chương gắn liền với q
trình hình thành, tồn tại của di tích từ khi khởi dựng đến nay. Với lễ hội, khóa
luận nghiên cứu lễ hội nay.
7
* Về khơng gian: Nghiên cứu di tích đình Thọ Chương trong khơng
gian lịch sử - văn hố của vùng đất nơi di tích tồn tại, thuộc xã Đạo Lý huyện Lý Nhân - tỉnh Hà Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Sử dụng các phương pháp nghiên cứu liên ngành: Bảo tàng học, bảo tồn
di tích, mỹ thuật học, sử học, văn hoá học...
- Sử dụng phương pháp khảo sát tại thực địa và vận dụng các kỹ năng
quan sát, tham dự, miêu tả, đo vẽ, chụp ảnh, trao đổi, thống kê, phỏng vấn, sử
dụng phương pháp thống kê, so sánh.
5. Bố cục của khố luận
Ngồi phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, khố luận
có kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1. Làng Thọ Chương và đình làng Thọ Chương
Chương 2. Giá trị kiến trúc - nghệ thuật, lễ hội đình Thọ Chương
Chương 3. Bảo tồn, tơn tạo và phát huy giá trị di tích đình làng Thọ Chương
8
Chương 1
LÀNG THỌ CHƯƠNG VÀ ĐÌNH LÀNG THỌ CHƯƠNG
1.1. Tổng quan về làng Thọ Chương
1.1.1.Vị trí địa lý - đặc điểm tự nhiên
Dưới thời nhà nước Văn Lang, Lý Nhân thuộc bộ Giao Chỉ, sau này
thuộc huyện Chu Diên, quận Vũ Bình, bộ Giao Chỉ. Thời Lý, Trần thuộc châu
Lỵ Nhân, lộ Đông Đô (nay thuộc Hà Nội). Thời Lê Sơ, năm Quang Thuận thứ
7(1466), Lê Thánh Tông chia nước ta làm 12 đạo Thừa Tuyên, Sơn Nam
Thượng. Đồng thời cho đổi tên châu Lỵ Nhân thành phủ Lỵ Nhân, thuộc đạo
Thừa Tuyên, Sơn Nam Thượng và đổi tên huyện Lý Nhân thành huyện Nam
Xương (đọc chệch là Nam Xang) cho khỏi trùng tên với phủ Lỵ Nhân.
Huyện Lị trước đây đặt ở Chi Long đến năm 1829 mới chuyển về Nga
Thượng, Nga Khê (là hai thôn nay thuộc xã Nguyên Lý).
Năm 1832, huyện Nam Xương và Bình Lục được tách khỏi Phủ Lỵ
Nhân để lập thành phủ Lý Nhân thuộc tỉnh Hà Nội. Ngày 21 tháng 3 năm
Thành Thái thứ II (1890) huyện Nam Xang cùng huyện Bình Lục, Thanh
Liêm lập thành phủ Liêm Bình, thuộc tỉnh Nam Định.
Cuối năm 1890, chính quyền thực dân Pháp phân chia lại các đơn vị
hành chính, bỏ cấp phủ thành lập các tỉnh mới thì phủ Lý Nhân được tách
khỏi tỉnh Hà Nội và sát nhập thêm mấy tổng của Nam Định thành lập tỉnh Hà
Nam (20-10-1890). Huyện Nam Xang tách khỏi Nam Định nhập lại tỉnh Hà
Nam. Ngày 31-3-1923, huyện Nam Xang được lấy lại tên cũ là Lý Nhân.
Xã Đạo Lý ngày nay là một trong 23 xã, thị trấn của huyện Lý Nhân,
tỉnh Hà Nam, bao gồm nhiều làng cổ xưa được hình thành từ rất sớm theo quá
trình biển lùi.
9
Theo truyền thuyết ở địa phương còn lưu truyền, theo gia phả của một
số dòng họ, thần phả, sắc phong của các triều đại phong kiến còn lưu giữ
được tại các đình, dịng họ cho biết từ thời các vua Hùng dựng nước Văn
Lang, cư dân từ miền thượng du xuôi theo các triền sông đã về khai phá, mở
mang làng xóm và lập nghiệp ở đất này. Xưa kia vùng Vũ Xá, Thọ Ích là
vùng đất trũng, thuộc hạ lưu sông Hồng, vào mùa mưa nước sông tràn vào các
vùng đưa phù sa bồi đắp tạo thành ao, hồ, ngịi, lạch và bồi đắp nên địa hình
cao thấp hình thành những cánh đồng trũng phù sa màu mỡ.
Theo Thần tích xã Vũ Xá vào thời Hùng Vương thứ 10, Thọ Chương
đã là một địa danh hội tụ các yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân hòa: Cư dân sống
thành dải thế rồng lượn, như hình rắn cuốn. Bên ngồi bãi có đầm nước bao
quanh, phía sau nước chảy, phía trước hội tụ lững lờ ôm lấy “Tinh phong tứ
diệu” (tức mặt trăng, mặt trời và tinh tú) cùng phù trợ. Mạch ao phía sau theo
hướng khơn cấn tọa Q Đinh (tức hướng Tây Nam, Đông Bắc).
Là vùng đất trù phú, nơi đất lành chim đậu, nhân dân nhiều nơi đã đến
vùng này lập nghiệp hình thành lên xóm làng. Trong đó có cụ Nguyễn Triều
Lộc đưa con cháu đến khai phá ở Đồng Vũ, cách ngày nay khoảng trên 800
năm. Các thôn Quan Nhân, Thọ Lão cũng tụ cư ngày càng đông vui. Thời
Hán, các làng, xã nằm trong địa dư hành chính của xã Đạo Lý ngày nay thuộc
huyện Chu Diên, quận Vũ Bình, bộ Giao Chỉ. Đến thời Trần thuộc châu Lị
Nhân, lộ Đông Đô. Đầu thời Lê thuộc phủ Lị Nhân. Năm 1466, nằm trong
Sơn Nam đạo thừa tuyên. Cuối thế kỉ XV thuộc Sơn Nam thượng lộ. Năm
1831 thuộc tỉnh Hà Nội. Từ ngày 20 tháng 10 năm 1890 thuộc tỉnh Hà Nam.
Dưới thời thực dân Pháp thống trị, các xã thuộc Đạo Lý nằm trong tổng
Vũ Điện và Ngu Nhuế. Bao gồm xã Thọ Ích (có các thơn Thọ Lão, Đồng Lâu,
Đồng Vũ, Quan Nhân); xã An Châu (hay còn đọc chệch là Yên Châu), tổng
Vũ Điện và xã Bảo Châu, xã Vũ Xá thuộc tổng Ngu Nhuế. Sau Cách Mạng
tháng 8 năm 1945, chính quyền cấp tổng bị xóa bỏ, huyện chủ trương xác lập
10
một xã nhỏ (dưới 50 nóc nhà), theo đó xã An Châu và Thọ Ích sát nhập thành
xã An Thọ; xã Bảo Châu với xã Vũ Xá thành xã Vũ Bảo.
Bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp quay trở lại xâm lược
nước ta, thực hiện chủ trương của Trung ương, của các tỉnh về việc củng cố
các đơn vị cơ sở, sát nhập các đơn vị hành chính. Ngày 16-01-1948, Ủy ban
kháng chiến hành chính huyện chỉ đạo sát nhập 86 xã nhỏ thành 20 xã để phù
hợp với yêu cầu của cuộc kháng chiến. Ngày 03-8-1948, Ủy ban kháng chiến
hành chính huyện ra quyết định sáp nhập xã An Thọ và Vũ Bảo thành một lấy
tên là xã Đạo Lý và ổn định cho đến ngày nay. Khi sáp nhập hai xã năm 1948,
dân số của xã Đạo Lý chỉ có 2700 người. Đến năm 2005 có 7450 người (theo
số liệu Lịch sử Đảng bộ xã Đạo Lý) được phân bố ở 8 đơn vị thơn xóm: thôn
Sàng, thôn Lưu, thôn An Châu, thôn Đồng Lâu, thôn Quan Nhân, thôn Thọ
Lão, thôn Thọ Chương, thôn Đồng Vũ.
Đạo Lý có tổng diện tích 525,79 ha, trong đó có 389,79ha canh tác,
42,50ha đất thổ cư, phần lớn đất canh tác thuộc vùng đồng chiêm trũng, còn
lại là đất bãi ven sông Hồng.
Thọ Chương là một ngôi làng nhỏ nằm ven đê sông Hồng thuộc xã
Đạo Lý, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Về địa giới hành chính thơn Thọ
Chương, phía Đơng giáp thơn Đồng Vũ và thơn Lưu, phía Tây giáp xã
Ngun, phía Nam giáp thơn Thọ Lão (Mái), phía Bắc giáp thơn Sàng.
1.1.2. Đời sống kinh tế của dân cư
Trải qua quá trình từ khi tạo lập làng xóm và phát triển từ gia đình đến
dịng họ, lớn dần thành phe giáp, để có làng xóm dân cư đông vui, trù phú như
bây giờ. Khi Lang Nữu cùng cha nuôi thắng trận trở về được Hùng Vương
ban bổng lộc miễn giảm sưu sai, tạp dịch cho dân xã Vũ Xá. Sau khi khảo sát
kỹ cảnh vật, địa thế, thấy hương Vũ Xá, tổng Ngu Nhuế hợp người, hợp cảnh,
bèn cho xây dựng cung thất, chọn làm nơi ở lâu dài. Ông chi cho dân 10 nén
11
vàng, xây cất hai cung Thượng khu, Hạ khu dạy dân khai hoang lập ấp, khai
phá ruộng vườn, trồng lúa, trồng dâu nuôi tằm.
Người dân nơi đây hiền lành chất phát, trung thực, giầu lịng vị tha, cư
xử có nghĩa có tình, giầu lịng nhân ái, cần cù lao động, đồn kết thương u
giúp đỡ lẫn nhau khi khó khăn hoạn nạn. Đời sống kinh tế của cư mới đây
gồm nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp.
* Nông nghiệp
Nghề sống chính của nhân dân là làm ruộng, đời sống chủ yếu dựa vào
sản xuất lúa, rau màu. Thọ Chương là một thôn nằm ven đê sông Hồng nên
được phù xa bồi đắp, đất đai màu mỡ phù hợp với thâm canh lúa nước, đan
xen trồng cây rau màu, cây ngắn ngày. Kĩ thuật canh tác trước đây chủ yếu là
nhìn trăng sao dự đoán thời tiết, hoặc theo con nước lên xuống, theo kinh
nghiệm dân gian để định ra thời vụ gieo trồng. Người dân nơi đây không quản
ngại gian lao vất vả luôn cần cù lao động. Hiện nay, do nhận thức tốt về ý
nghĩa của việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, đưa những giống lúa có tiềm
năng, năng suất cao về đồng ruộng và áp dụng khoa học kĩ thuật, việc chăm
bón phân và phun thuốc trừ sâu kịp thời nên đạt năng suất cao.Tổng lương
thực hàng năm đạt khoảng 400 – 420 tấn, bình quân đầu người 500kg/năm.
Hiện trong làng đang có trên 40 hộ chăn ni theo hướng cơng nghiệp nên có
thu nhập cao. Diện tích ao, đầm ni cá đạt sản lượng khoảng 40 tấn/năm với
tổng giá trị thu nhập khoảng 600 triệu đồng. Đời sống kinh tế của nhân dân
ngày càng được nâng cao với tổng thu nhập bình quân đầu người xấp xỉ 10
triệu/năm. Như vậy, việc phát triển nông nghiệp cải thiện được đời sống, có
khả năng đáp ứng cuộc sống của nhân dân.
*Thủ cơng nghiệp
Ngồi sản xuất nơng nghiệp, từ xa xưa địa phương nơi đây đã có nghề
đan gầu, đan cót và nghề mộc. Nhân dân cịn truyền miệng câu:
“Thọ Chương đan gầu
12
Đồng Lâu kéo sợi
Hai bên chờ đợi
Mồng tám, Mười hai”
Trong những tháng nơng nhàn, nghề đan cót đã trở thành nguồn thu
nhập chính của cư dân làng Thọ Chương. Sản phẩm cót thường được bán
bn ở nhiều nơi như Hải Phịng, Quảng Ninh, Hà Nội, Thái Ngun... Có thể
nói, nghề đan cót ở Thọ Chương đóng một vai trị tích cực cho phát triển kinh
tế của địa phương. Do vậy năm 2008, Thọ Chương vinh dự được Ủy ban nhân
dân tỉnh cấp bằng công nhận Làng nghề tuyền thống, tiểu thủ cơng nghiệp
tỉnh Hà Nam. Ngồi ra cịn có nhiều hộ làm dịch vụ vật tư nông nghiệp hay
xây dựng, có những hộ làm dịch vụ xay xát mang lại nguồn thu nhập cao, cải
thiện đời sống hòa nhập vào thời đại cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng thơn.
*Thương nghiệp
Trước kia cư dân trong làng thường phải lên Hòa Bình, Thái Ngun,
vào Thanh Hóa mua nứa đóng thành bè rồi theo sông Hồng đưa về quê tập kết
ở các bến ven sơng. Vì vậy mà trước đây ở Thọ Chương cịn có nghề bn bè,
một bộ phận dân cư đi buôn bè và sống theo các bến ven sông Hồng ở Hịa
Bình, Hà Nội, Hải Dương, Hải Phịng, Quảng Ninh, Thái Nguyên... người dân
trong làng tụ cư thành những xóm nhỏ mà dân làng thường gọi là “Bến”.
Với dân số hiện nay là 267 hộ, tương đương 946 hộ gia đình, làng Thọ
Chương có một nguồn nhân lực trẻ, dồi dào, có thể khai thác tốt để phát triển
kinh tế ở địa phương.
1.1.3.Văn hóa truyền thống làng Thọ Chương
* Truyền thống học hành
Người dân làng Thọ Chương luôn tự hào là nơi sinh ra, ni dưỡng
nhiều nhân tài, có nhiều đóng góp to lớn vào lịch sử dân tộc. Theo lời các cụ
cao niên trong làng thì Thọ Chương là nơi có truyền học hành với nhiều
người học hành cao, thi cử đỗ đạt và ra quan dưới các triều đại phong kiến.
13
Ơng tổ họ Phạm Ngọc hai đời làm Quận cơng thời nhà Lê, hiện nay ở
nhà thờ còn lưu giữ nhiều sắc phong của các triều đại phong kiến phong sắc,
có những đạo sắc thời Hậu Lê như đạo sắc phong ngày 17 tháng 3 niên hiệu
Vĩnh Tộ thứ 6(1624). Cụ được sắc tiến Phụ quốc, Thượng tướng quân đô chỉ
huy sứ, Nguyên súy thống nhất quốc chính….
Cụ tổ họ Nguyễn là cụ Nguyễn Quang Ngọc, cụ là vệ binh đội Hùng
tà từng theo Trịnh Quận công đánh giặc Tảo Đông Nam lập nhiều công lớn
được vua ban cho chức là Bách bộ hàm là phân lực tướng quân. Hiện sắc
phong cịn lưu giữ được ở nhà thờ họ có ghi ngày 22 tháng 2 niên hiệu Cảnh
Hưng thứ 12 (1791).
Là một địa phương giàu truyền thống, một vùng “địa linh nhân kiệt”,
hiếu học, giàu truyền thống lịch sử. Thế hệ những người dân Thọ Chương
luôn tự hào về một miền quê văn hiến, sớm có những người con trung hiếu
làm rạng rỡ non sông. Phát huy truyền thống quý giá đó nhân dân làng Thọ
Chương chung sức đồng lịng xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp, văn
minh hơn nữa để xứng đáng với các bậc tiên hiền đi trước, tiến lên sánh
ngang với các địa phương khác trong cả nước. Việc giữ gìn và phát huy
những truyền thống đó là trách nhiệm và cũng là niềm tự hào của thế hệ mai
sau ở Thọ Chương.
* Di tích lịch sử văn hóa
Làng Thọ Chương mang trong mình bản sắc của nền văn minh sơng
Hồng, vì vậy các cơng trình sinh hoạt văn hóa cộng đồng của làng Thọ
Chương rất đặc sắc, nó biểu thị sự gắn kết, hịa hợp của mỗi cá nhân trong
cộng đồng làng. Đó là tinh thần tơn trọng, thờ phụng tổ tiên, người có cơng
với nước,… đồng thời thể hiện trí óc thơng minh, bàn tay khéo léo của người
dân địa phương được thể hiện qua những cơng trình kiến trúc nghệ thuật.
Các cơng trình kiến trúc nghệ thuật của làng là những di sản văn hóa có
giá trị, chứa đựng bên trong đó là nét nghệ thuật độc đáo. Hiện nay, Thọ
14
Chương cịn lưu giữ được 1 ngơi đình có quy mô kiến trúc đồ sộ, phong cách
nghệ thuật độc đáo. Ngồi ra, làng cịn có 2 ngơi chùa và một số nhà thờ họ
lớn có giá trị về kiến trúc, nghệ thuật. Cùng với các giá trị văn hóa vật thể là
các giá trị văn hóa phi vật thể: Lễ hội truyền thống, trò chơi, diễn xướng dân
gian còn bảo lưu được…Tất cả đều đã trở thành những di sản quý giá, chứa
đựng nhiều thông tin giúp cho việc nghiên cứu, tìm hiểu, lịch sử, truyền thống
của cha ơng xưa trên mảnh đất quê hương.
+ Chùa Trương
Theo lời của các cụ cao niên trong làng kể lại. Xưa kia, ở bến nước ven
đê sông Hồng, nơi tiếp giáp với làng, có một pho tượng từ phía miền ngược,
xi dịng sơng Hồng trôi về. Tượng được tạc trong tư thế nằm, trên đỉnh đầu
có nhục kháo nhơ cao, tóc xoắn ốc, mắt khép hờ, mặt nhân từ… Khi đó, dân
làng đã nhiều lần đẩy pho tượng đi ra xa, nhưng mỗi lần đẩy đi pho tượng lại
trôi ngược trở lại. Dân làng thấy đó là điều lạ bèn làm lễ rước tượng và cho
xây dựng chùa thờ.
Chùa Trương có tên tự là “Cảnh Trương tự”. Theo lời các cụ kể lại
trước kia chùa được xây dựng từ rất sớm, có quy mô kiến trúc đồ sộ. Chùa
Trương hiện nay là ngôi chùa có quy mơ nhỏ, nằm cạnh con đường giao
thơng của làng, gần đình. Chùa làm theo kiểu hình chữ “cơng”, gồm 1 tịa
Tiền đường 3 gian 2 dĩ, nối tiếp là nhà cầu, tiếp đến là Thượng điện với 3 gian
nhà nằm dọc. Là một cơng trình có niên đại muộn, lại có quy mơ nhỏ nên kiến
trúc bên trong đơn giản. Kết cấu kiến trúc kiểu vì kèo, tường xây xung quanh
bít đốc, các cấu kiện kiến trúc ít được trang trí. Mái tiền đường lợp ngói di,
hai bên hồi xây giật cấp, trước mặt được bao kín bằng hệ thống các ơ cửa bức
bàn. Tịa tiền đường được xây dựng vào thời Nguyễn, niên hiệu Bảo Đại thứ
3(1927). Nhà cầu được xây dựng bằng gạch, trát vữa kiểu cuốn vòm.
Thượng điện cũng được xây dựng với thức kiến trúc như tòa tiền
đường, bên trong đặt tượng thờ Tam thế phật, tượng A di đà và Cửu long
15
Thích ca sơ sinh. Bên ngồi tiền đường có đặt bệ thờ tượng Đức ông và Đức
thánh hiền. Tượng với kích thước nhỏ nhưng có điêu khắc đẹp, sơn màu vàng
kim. Nối tiếp với tiền đường là dãy nhà 3 gian nằm ngang, 3 gian nhà này xây
dựng vào thời gian gần đây, dùng để thờ mẫu phục vụ cho nhu cầu tín ngưỡng
của dân trong làng.
Chùa quay hướng Nam, phía trước có 1 giếng trịn, quanh chùa có
nhiều cây cổ thụ tạo cho chùa không gian tĩnh mịch, linh thiêng nơi cửa Phật.
+ Chùa Đống
Cách đình khoảng 500m về phía Nam cịn có một ngơi chùa với tên chữ
là “Đống Phúc tự”. Chùa tọa lạc trên một khu đất cao nổi gồ lên như một gò
đống lớn nên dân làng thường gọi chùa với tên nôm của chùa là “ Đống”.
Chùa được xây dựng giữa cánh đồng, tách biệt với khu dân cư, xưa kia diện
tích đất của chùa rộng khoảng 3 mẫu. Chùa được xây dựng với quy mô bề thế
với nhiều gian. Ngày nay, các cụ cao niên trong làng vẫn nhắc lại câu nói về
quy mơ kiến trúc của chùa “Chùa Đống bách nhật dư gian” (chùa Đống rộng
trên một trăm gian). Tuy nhiên, do thời gian, lịch sự tồn tại lâu dài, lại chịu
ảnh hưởng của chiến tranh, thiên tai, khí hậu cùng với sự lấn chiếm của dân
làng nên diện tích của chùa bị thu hẹp rất nhiều. Chùa cịn lại là một cơng
trình kiến trúc có bố cục mặt bằng hình chữ đinh với 5 gian Tiền đường và 3
gian Hậu cung. Thức kiến trúc kiểu vì kèo q giang, mái lợp ngói di, hai bên
tường hồi bít đốc giật cấp. Chùa cịn lưu giữ được 23 pho tượng đẹp, gần như
đầy đủ các lớp tượng.
Trong những năm gần đây, chùa đã bị xuống cấp nghiêm trọng. Hệ
thống bộ khung kiến trúc bị mối mọt nên đã bị yếu khơng có khả năng chịu
lực có thể ảnh hưởng đến người và di vật bên trong. Vì vậy, chính quyền địa
phương đã đứng lên, qun góp dân làng cùng những tấm lịng hảo tâm công
đức của những người con xa quê hương. Chùa đã được cho tháo dỡ, di chuyển
toàn bộ tượng và hệ thống di vật để xây dựng một ngôi chùa mới trên nền đất
16
cũ. Năm 2011 cơng trình được bắt đầu khởi cơng xây dựng bằng chất liệu xi
măng cốt thép theo kiểu dáng kiến trúc cổ truyền. Tòa hậu cung được xây
dựng trước để đặt tượng thờ. Đến nay, các đơn nguyên kiến trúc đang được
tiến hành xây dựng. Chùa Đống hiện nay là một cơng trình kiến trúc đồ sộ, bề
thế với tịa tiền đường cao rộng, gian chính giữa chồng diêm 2 tầng, 8 mái
làm gác chng. Phía trước là một sân gạch rộng, 2 bên tiền đường đào 2
giếng trịn. Tồn bộ cảnh quan xung quanh chùa được trồng nhiều cây xanh,
khung cảnh trong khuôn viên chùa đẹp, hài hòa ăn nhập với thiên nhiên.
+ Nhà thờ họ
Làng Thọ Chương nằm ở trung tâm xã Đạo Lý. Trước kia làng có tên
gọi là thơn Hạ, xã Vũ Xá, tổng Ngu Nhuế. Ở Thọ Chương hiện đang có 18
dịng họ cùng chung sống đó là các dịng họ: Phạm, Nguyễn, Trương, Bùi,
Hồ, Lê, Vũ… Trong thời kì đất nước đổi mới, kinh tế phát triển, trong dòng
họ con cháu làm ăn khá giả, thành đạt. Nhiều dòng họ ở Thọ Chương cho
sửa sang hoặc xây mới những ngôi từ đường, hương khói thờ cúng tiên tổ. Ở
Thọ Chương có những nhà thờ lớn được xây dựng từ lâu đời thờ tổ tiên là
những người làm quan, có cơng phù vua giúp nước trong lịch sử dựng nước
và giữ nước của dân tộc và được các triều đại lịch sử tôn tặng sắc phong.
Những từ đường mới được xây dựng khang trang với chất liệu xi măng
cốt thép vững chắc. Bên cạnh đó cịn lưu giữ được những ngơi từ đường cổ
với thức kiến trúc độc đáo như nhà thờ họ Phạm Ngọc, họ Bùi, họ Trương...
Kiến trúc gỗ kiểu vì kèo quá giang, bộ khung chịu lực là những hàng chân cột
trịn chắc khỏe, xung quanh xây tường bít đốc, bên trong có trang trí các mảng
chạm trên các cấu kiện kiến trúc chủ yếu là đồ án trang trí rồng, hổ phù, vân
mây, sóng nước… tăng thêm nét cổ kính và uy nghi cho ngơi từ đường. Nhiều
từ đường cịn lưu giữ được nhiều đồ thờ đẹp có giá trị cao về lịch sử và nghệ
thuật như kiệu, khám, long ngai, bài vị, đạo sắc phong, đại tự, câu đối. Đặc
biệt trong một số từ đường ở Thọ Chương còn lưu giữ được những đồ thờ từ
17
lâu đời, có giá trị nghệ thuật cao, tiêu biểu là cỗ kiệu thờ công chúa Ngọc
Dung của nhà thờ họ Phạm Ngọc, cỗ kiệu long đình có đặt tượng thờ Ngọc
Dung công chúa. Cỗ kiệu được làm từ thời Hậu Lê, được gia công, công phu,
tỉ mỉ, các đồ án rồng, hoa lá các điệu đều được chạm nổi, chạm lộng, chạm
bong kênh độc đáo.
Trong các dòng họ con cháu ngày ngày hương hỏa thờ cúng tổ tiên.
Hàng năm, vào những ngày giỗ tổ, con cháu trong dòng họ công tác, làm ăn
sinh sống ở khắp mọi miền đất nước đều trở về từ đường của dịng họ mình,
tưởng nhớ tới ơn đức của các bậc tiên hiền đi trước.
* Truyền thống Cách mạng
Người dân Đạo Lý có truyền thống cần cù, sáng tạo trong lao động, có
tinh thần chiến đấu kiên cường, bất khuất trong đấu tranh chống giặc ngoại
xâm bảo vệ quê hương. Truyền thống đó được các thế hệ con cháu phát huy
trong suốt chặng đường lịch sử, lập nên nhiều chiến cơng hiển hách, góp phần
cùng dân tộc đánh bại quân xâm lược, bảo vệ quê hương, đất nước.
Thọ Chương là một thôn thuộc xã Đạo Lý, nơi sớm có phong trào cách
mạng. Cơ sở Đảng xã Thọ Ích được thành lập từ tháng 9 năm 1930. Chi bộ
đầu tiên của huyện Lý Nhân này còn hoạt động, phát triển mạnh sang các địa
phương trong xã và các nơi khác trong huyện như Dũng Kim, Mạc Thượng,
Thư Lâu… Đảng đã chủ trương thành lập các hội Ái hữu, Tương tế để quy tụ
lực lượng đấu tranh, hướng dẫn quần chúng tham gia vào hội Nông hội đỏ
làm nồng cốt cho phong trào. Các phong trào này đã lan sang Vũ Xá Thượng
và Hạ. Mái đình, ngôi chùa Thọ Chương là nơi quy tụ lực lượng, lợi dụng vào
việc quần chúng đến cúng lễ để tuyên truyền chính sách, vạch mặt bọn thực
dân phong kiến. Đến cuối năm 1931, các tổ chức quần chúng cách mạng ở Lý
Nhân có 68 cơ sở thì Vũ Xá (trong đó có Thọ Chương) là một cơ sở có nhiều
hoạt động tích cực, chĩa mũi nhọn vào chế độ thực dân, phong kiến, chống
sưu cao, thuế nặng, chống hủ tục phong kiến lạc hậu.
18
Từ năm 1950 đến năm 1953 địch chiếm đóng Hà Nam, nhiều lần càn
quét lập đồn bốt, củng cố phòng tuyến đê sông Hồng. Chúng đã bị quân dân
Lý Nhân, trong đó có quân dân Thọ Chương tham gia chống càn, phá bốt thu
được nhiều thắng lợi, nhất là chiến công thắng địch càn quét trận Ăng ti lốt,
đã tiêu diệt được hàng trăm tên giặc và thu nhiều vũ khí. Trận ngày mồng 3
tháng 1 năm 1953, địch kéo từ bốt Vũ Điện về thôn Đồng Vũ xã Đạo Lý cũng
bị du kích tiêu diệt hơn chục tên, thu trên 20 súng các loại. Thời kì này cán
bộ, du kích thơn Thọ Chương đã dùng ngơi đình là điểm hẹn nơi tập trung
canh gác, hội ý chống càn và bao vây các bốt giặc ở Cầu Không, Vũ Điện tiêu
diệt, tiêu hao một số sinh lực địch.
Đình Thọ Chương cịn là nơi tiễn đưa hàng trăm thanh niên tình nguyện
lên đường chiến đấu đánh Pháp, đánh Mỹ xâm lược góp phần cùng cả nước
kháng chiến giành độc lập tự do dân tộc.
Trong giai đoạn chống Mỹ cứu nước (1954 - 1975), dưới sự lãnh đạo
của chính quyền địa phương, nhân dân đã từng bước ổn định đời sống kinh tế,
văn hóa, xã hội, tiến hành cải cách ruộng đất, chuyển đổi cơ cấu kinh tế.
Người dân nơi đây không những cùng nhân dân cả nước tích cực xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc mà cịn đóng góp cả sức người vào cuộc đấu
tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước với hơn 20 liệt sĩ đã hi sinh
cho chiến trường miền Nam.
*Đời sống văn hóa - xã hội hiện nay
Thọ Chương là một làng nhỏ nằm ven đê sông Hồng, với 267 hộ dân,
gồm 946 nhân khẩu, là một làng q thuần nơng. Phía Đơng giáp thơn Đồng
Vũ và thơn Lưu, phía Tây tiếp giáp với địa phận xã Ngun Lý, phía Bắc giáp
thơn Sàng, phía Nam tiếp giáp với thôn Thọ Lão(Mái). Nơi đây, xưa kia là
vùng chiêm trũng “sống ngâm da, chết ngâm xương” quanh năm cấy một vụ
lúa, đời sống nhân dân khổ cực. Trước cách mạng tháng Tám, nạn đói năm Ất
Dậu đã cướp đi khơng ít sinh mạng của người dân trong làng.
19
Là vùng đất được phù sa sông Hồng bồi đắp, màu mỡ, phù hợp cho
trồng thâm canh cây lúa nước và xen canh cây hoa màu. Từ xa xưa, nhân dân
đã đổ mồ hôi khai thác triệt để đất đai để thâm canh lúa nước làm nguồn sống
chính. Nhưng do ruộng đất ít, lại chưa có hệ thống thủy lợi, cơng cụ sản xuất
cịn lạc hậu, nên người nơng dân ở đây phải làm nụng vất vả. Mỗi năm chỉ
cấy được một vụ, nguồn nước chủ yếu dựa vào nguồn nước mưa tự nhiên, hạn
hán thì phải tát nước từ những máng nước lớn dẫn vào ruộng. Ngoài vụ lúa
phải tận dụng trồng hoa màu như ngơ, khoai…Ngồi ra dân làng cịn có nghề
phụ là đan gầu, đan cót làm thêm vào những lúc nông nhàn.
Thời phong kiến đế quốc, nông dân nằm dưới ách cai trị của cường
hào, địa chủ, chịu cuộc sống bấp bênh, đói rét, bệnh dịch hoành hành. Nhà
cửa chủ yếu là nhà tranh, vách đất, một số nhà khá giả mới làm được nhà vách
gỗ, lợp ngói hoặc lợp lá.
Sau cách mạng tháng Tám, chính quyền về tay nhân dân. Hịa chung
với khơng khí của cả nước, thực hiện nhiều chủ trương, đường lối, chính sách
của Đảng và nhà nước. Đặc biệt là từ khi có chính sách khốn ruộng đất và
giao quyền sử dụng đất lâu dài cho nơng dân, thì việc sản xuất của nông dân
mới đạt hiệu quả khá rõ rệt. Nhiều người nơng dân cho rằng chỉ trong vịng 5
năm trở lại đây, tốc độ phát triển kinh tế, xã hội của làng bằng 40 đến 50 lần
trước kia. Ngoài ra cịn có nhiều hộ làm dịch vụ vật tư nơng nghiệp hay xây
dựng, có những hộ làm dịch vụ xay xát mang lại nguồn thu nhập cao, cải
thiện đời sống nhân dân.
Là một địa phương luôn đi đầu trong các phong trào, công tác phúc lợi
xã hội. Thọ Chương được UBND nhân dân tỉnh cấp nhiều bằng công nhân
như: danh hiệu Làng văn hóa, Làng nghề đan cót truyền thống, bằng khen 20
năm làng văn hóa tiêu biểu xuất sắc, 10 năm thực hiện tốt cuộc vận động toàn
dân đoàn kết xây dựng đời sống mới ở khu dân cư. Hiện nay, cơ sở hạ tầng
của thôn Thọ Chương gồm điện, đường, trường…và các cơng trình phúc lợi
20
rất khang trang. Hệ thống đường liên thơn, liên xóm được bê tơng hóa tới
từng hộ gia đình, hệ thống đèn chiếu sáng công cộng được lắp đặt ở các xóm.
100% hộ gia đình có nhà ngói, hoặc đổ mái bê tơng, nhiều hộ gia đình đã xây
được nhà cao tầng, tiện nghi hiện đại. Các gia đình trong làng đều có ít nhất
một phương tiện xe máy, ti vi… Thực hiện triệt để chủ chương xây dựng
nông thôn mới, theo tinh thần nhà nước và nhân dân cùng làm nên hầu như
đường làng ngõ xóm đều được mở rộng, đường kiên cố, phong quang, sạch
sẽ, đảm bảo giao thông phục vụ đời sống nhân dân và phát triển kinh tế.
Phong trào văn hóa – văn nghệ, thể dục thể thao và giữ vệ sinh môi
trường cũng luôn được duy trì đảm bảo nâng cao đời sống tinh thần, vật chất,
sức khỏe của nhân dân. Trong cơng tác giữ gìn an ninh, chính trị và trật tự an
tồn, xã hội. Đảng và chính quyền cùng các đồn thể chính trị xã hội thường
xuyên tuyên truyền, vận động nhân dân nói không với tệ nạn xã hội. Nhờ vậy,
cho đến nay trong làng khơng có ai mắc phải tệ nạn như nghiện ngập, cờ bạc,
trộm cắp… Thọ Chương là một thôn Xanh – sạch – đẹp.
Là một thơn có dân số lớn trong xã, trong thơn có rất nhiều dịng họ
lớn, chiếm phần nhiều hộ dân trong làng như dòng họ: Phạm, Nguyễn,
Trương, Đặng, Bùi, Hồ, Vũ, Lê… Trong thời kì đất nước đổi mới, kinh tế
phát triển con cháu làm ăn khá giả, thành đạt. Nhiều nhà thờ họ ở Thọ chương
được xây dựng, sửa chữa khang trang để thờ phụng. Những tộc họ gắn kết với
nhau, chia thành các chi nhỏ. Ngày giỗ, ngày thanh minh con cháu trong các
họ các chi dù đi làm ăn, công tác xa đều cùng về tề tựu tổ chức đi tảo mộ, lễ
đình làm cơm cúng tổ tiên.
Thọ Chương là địa phương có truyền thống văn hóa từ lâu đời. Hiện
nay ở Thọ Chương cịn gìn giữ được 1 ngơi đình và 2 ngơi chùa. Đây là
những di sản văn hóa có giá trị cao về kiến trúc- nghệ thuật và lịch sử đang
được dân làng gìn giữ, sửa chữa và xây dựng khang trang hơn.
21
Cùng với sự nghiệp chung của toàn dân tộc, đi theo Đảng, làm cách
mạng, chống Pháp, Mỹ, tất cả cho tiền tuyến “thóc khơng thiếu một cân, qn
khơng thiếu một người”. Thơn Thọ Chương có hàng trăm lượt người đi thanh
niên xung phong, đi dân công hỏa tuyến, bộ đội. Thôn Thọ Chương đã hi sinh
cho đất nước 32 liệt sỹ và rất nhiều thương, bệnh binh, 1 bà mẹ Việt Nam anh
hùng hi sinh cho đất nước 3 người con liệt sĩ. Hiện nay, trong thơn cũng có
một số cán bộ Đảng, sĩ quan quân đội từ cấp Tá trở lên.
Cơ cấu tổ chức cũng như những thơn, xóm khác ở xã Đạo Lý. Thôn
Thọ Chương cũng tổ chức cơ cấu quản lý thành các ban, hội. Dân làng sinh
sống và làm việc phải thực hiện theo hương ước mà làng đã đề ra. Hàng năm
có tổ chức hội làng, tổ chức đón giao thừa ở đình và tổ chức Mừng thọ cho
các cụ cao tuổi vào mồng 4 tết. Bên cạnh đó cịn tổ chức thăm hỏi, tặng quà
cho những gia đình thương binh, liệt sỹ.
Tất cả các cháu nhỏ đến tuổi đều được đi học. Trong những năm gần
đây thơn Thọ Chương có nhiều con em thi được vào các trường Đại học, Cao
đẳng, ra trường làm cán bộ Đảng, Nhà nước và kinh doanh thành đạt. Nhân
dân sống lành mạnh, tích cực lao động sản xuất, xây dựng quê hương. Thực
hiện nếp sống văn minh, gia đình văn hóa. Phong trào xây dựng gia đình văn
hóa được triển khai sâu rộng.
1.2.Lịch sử hình thành và quá trình tồn tại của di tích
Đình làng Thọ Chương
1.2.1. Sự tích nhân vật được thờ
*Cơng trạng của thần với cộng đồng dân cư làng Thọ Chương nói riêng
và các làng cùng thờ nói chung
Đình làng Thọ Chương thờ Thành hồng là Vũ Lang Nữu, tương truyền
ông là một danh tướng thời Hùng Vương có cơng trong việc giúp Vua Hùng
đánh giặc phương Bắc xâm lược, góp phần bảo vệ nền độc lập thái bình của
đất nước. Đối với quê hương Thọ Chương và nhân dân các làng cùng thờ
22
thành hồng Lang Nữu nói chung thì thần Lang Nữu có nhiều cơng lao với
dân, giúp dân diệt trừ bệnh dịch, được miễn trừ sưu sai, tạp dịch trong nhiều
năm, bảo vệ dân trong lúc loạn lạc, chiến tranh, truyền dạy cho dân ngành
nghề để phát triển nông nghiệp. Để tỏ lịng tơn kính biết ơn tới thần, sau này
dân làng Thọ Chương cùng với thôn Sàng, thôn Lưu và thơn Đồng Vũ xây
dựng đình thờ cúng và tơn thờ là Thành hồng của làng, qua lịch triều thần
được tơn tặng nhiều đạo sắc phong.
*Những tư liệu về vị thần
+Thần tích
Căn cứ theo Thần tích cịn lưu giữ được ở đình Thọ Chương, Thành
hồng Vũ Lang Nữu được lịch sử hóa thành một vị anh hùng văn hóa, tương
truyền vào thời Hùng Vương nhiều lần có cơng giúp Vua Hùng thứ 6 diệt giặc
thù, góp phần bảo vệ đất nước. “Theo Quốc triều Lễ bộ chính bản ghi về sự
tích Lang Lữu đại vương, một danh tướng thời Hùng Vương. Kể từ thời xa
xưa nước Nam, vào triều Hùng mở ra vận hội, Vua Hùng đặt tên nước là Văn
Lang, khi truyền đến đời thứ 6 là Huy Vương vẫn đóng đơ tại vùng sơng Bạch
Hạc Việt Trì”. Thần tích có ghi rõ về cha Lang Nữu là Vũ Sùng, quê ở sách
Lam Sơn, Châu Ái từ thủa thiếu niên lấy nghề thuốc làm kế sinh nhai. Ông
kết duyên cùng bà Lê Thị Ngọc người cùng làng làm vợ. Ông bà sống rất
nhân từ, lại làm nghề thuốc cứu dân, giúp đỡ những người khó khăn, đói khát.
Khiến nhân dân trong vùng ai ai cũng đều cảm phục, mến yêu tấm lịng đức
độ của ơng bà. Vào một hơm khi hai ơng bà đang nằm ngủ thì mơ thấy có một
tiên ơng đầu râu, tóc bạc tới mà bảo rằng: “Nhà khanh đức hậu tiếng vang
thấu tới Ngọc Hoàng, vậy nay ta cho một trẻ nhỏ làm con, sau này, đứa trẻ
này sẽ làm sáng sủa cửa nhà, tiếng tăm lừng lẫy thiên hạ”. Sau một thời gian
bà sinh Lang Nữu là một cậu bé có tư chất phi thường, ở tay trái có 3 cái lơng
dài hơn 1 tấc. Lang Nữu lớn nhanh lại học hành thông minh hiếm có. Khi ơng
Vũ Sùng qua đời, mẹ con Nữu đến ở đất Lị Nhân, đạo Sơn Nam, bán trầu
23
nước trước của huyện đường kiếm sống. Lang Nữu được quan huyện Trương
Tuấn nhận làm con nuôi, cho Nữu ăn học. Sau khi mẹ Nữu mất, Nữu cùng
cha nuôi cầm quân đi đánh lũ giặc bạo loạn trong nước ở Thái Nguyên, Tuyên
Quang, Tụ Long, Bảo Lạc, Thu Vật, Quỳnh Nhai, Lạng Sơn… Khi dẹp yên
quân giặc Lang Nữu được nhà Vua khen thưởng, miễn sưu sai và ban cho ông
thực ấp ở Vũ Xá, ông vui ở cùng dân, dạy dân trồng lúa, dấy việc lợi, trừ điều
hại. Sau một thời gian ông được nhà Vua mời về giúp việc nội trị trong triều,
cho nhận chức Thị tòng tham tán để tham gia bàn định việc nước. Sau đó ông
cầm quân đi đánh giặc, thắng trận trở về ông được Vua phong cho là Vũ gia
hầu giám sát đại tướng quân. Cho dân Vũ Xá được miễn trừ sư thuế tạp dịch
trong nhiều năm, ông trở về thực ấp của mình ở Vũ Xá. Được một thời gian
Vua lại phong cho ông chức Công bộ Tả thị lang.
Khi đã ngồi 70 tuổi, ơng dâng biểu cáo quan về q cũ ở sách Lam
Sơn. Đến ngày 20 tháng 8 năm Bính Ngọ tự nhiên khơng bệnh mà qua đời.
Được tin ông mất, nhân dân ở 2 quê vô cùng thương xót. Nhân dân châu Vũ
Xá chỉ chuẩn cho tu sửa 2 cung thất của ông làm nơi thờ phụng, hương khói
trở nên lệ thường mãi mãi.
Thần tích cịn lưu giữ ở đình có quy định rõ về những ngày tế lễ và lễ
vật dâng cúng Thành hoàng làng.
Cấm dùng tùy tiện chữ húy Lang, Nữu .
Quy định rõ ràng về ngày sinh 20 tháng giêng, lễ dùng lợn to, xôi trắng
và ca hát 5 ngày. Tức đến này 24 thì làm lễ mãn táng để lễ tạ. Ngày hóa 20
tháng 7, lễ dùng nhiều thịt gà, lợn đen rượu cúc…Lễ mừng ngày dựng hành
cung, ngày mồng 4 tháng 6, ngày kéo dài và tết lễ như lệ sinh nhật. Ngày
được phong sắc 20 tháng 9, lễ dùng trâu bò, bánh dày và ca hát 3 đêm ngày.
Ngày tốt tháng đầu mùa xuân năm Hồng Phúc năm đầu (1572). Quan
đại học sĩ điện Đơng Các Viện Hàn Lâm Nguyễn Bính vâng soạn.
24
Ngày tốt tháng giữa mùa thu, triều vua Vĩnh Hựu năm thứ 12 (1736).
Quan giám sát bách thần tri điện Hùng lĩnh thiếu khanh Nguyễn Hiền tuân
theo bản chính triều trước sao lại.
Ngày mồng 1 tháng 4 niên hiệu Tự Đức năm thứ 12 (1859). Các vị
chức sắc kì mục hương Lý xã Vũ Xá lĩnh được bản chính tại từ đường quan
Thượng thư họ Nguyễn xã Cao Xá huyện Bạch Hạc, phủ Vĩnh Tường, tỉnh
Sơn Tây, để tại đình Sàng thuộc thơn Thượng. Sau đó sao ra hai quyển trao
cho mỗi thôn một quyển đem về thờ tự để lưu chiểu sau này. Lý trưởng tên là
Phạm Văn Thi vâng mệnh [sao].
+Sắc phong
Hiện nay tại đình Thọ Chương cịn lưu giữ được 4 đạo sắc phong. Sắc
phong niên hiệu Tự Đức thứ 6(1853), Tự Đức thứ 33(1880) và đạo sắc niên
hiệu Đồng Khánh năm thứ 2(1887), Duy Tân thứ 8(1909),
Qua các triều đại được truy phong Thành hoàng Vũ Lang Nữu, Phổ đại,
Hán ngữ đại tướng quân linh ứng chi thần(vị thần linh thiêng của địa phương
có cơng giúp nước nổi bật là Thành hoàng Vũ Lang Nữu một vị tướng tài giỏi
chống giặc ở khắp nơi), theo nghi lễ đã được ban cấp sắc phong, cho phép thờ
cúng. Sắc cho thôn Hạ, xã Vũ Xá đang thờ cúng thần từ trước, cho mở rộng
việc thờ cúng và thờ thần như cũ.
Lang Nữu được nhân dân các làng Thọ Chương, Đồng Vũ, Sàng, Lưu
tơn thờ là Thành hồng làng, xây dựng đình để thờ phụng. Hàng năm hương
hỏa, tổ chức lễ hội, tế lễ và dâng lễ vật, tục hèm, tổ chức trò chơi, diễn xướng
dân gian kỉ niệm ngày sinh, ngày mất, ngày thần được phong sắc, dựng hành
cung. Lễ hội được tổ chức với quy mô lớn, thường là lễ hội liên làng, các làng
cùng thờ thần kết hợp với nhau tổ chức rước kiệu, tế lễ, tổ chức hội thi dân
gian làm lễ vật dâng cúng Thành hoàng.